Hãy thừa nhận đi, bạn ghét nghệ thuật đương đại!
Nghệ thuật đương đại ở đây được hiểu là loại hình nghệ thuật cách tân với những điểm kỳ dị, không tuân theo chuẩn mực thông thường. Từ lâu loại hình nghệ thuật này đã trở thành “mốt” trên thế giới và bây giờ là Việt Nam. Những bức tranh trừu tượng, nghệ thuật sắp đặt, rồi cả loại âm nhạc không theo một thang âm nào cả. Rất nhiều người tò mò nhưng không ai biết bao nhiêu người trong số đó thực sự hiểu hoặc thực sự thích. Nhà bình luận Spengler cho rằng ngay cả ở phương Tây, sự đam mê với kiểu nghệ thuật này cũng là một thứ “giả đò” màu mè.
Bạn quả quyết: “Tôi không biết nhiều về nghệ thuật. Nhưng tôi biết cái tôi thích”. Thực tế là bạn không biết. Bạn bị cuốn vào một sự ham thích giả điệu về cái được gọi là nghệ thuật mà trên thực tế đã làm bạn sởn da gà, và bạn đã sợ phải thừa nhận nó vì lo rằng bạn sẽ trở nên ngốc nghếch. Điều này đã diễn ra quá lâu đến nỗi bạn quên mất gu của chính bạn.
Bạn không đơn độc. Các bảo tàng đầy những khách viếng thăm ngắm nhìn các tác phẩm mà họ âm thầm ghét, và giá được trả cho các tác phẩm của nghệ thuật đương đại không ngừng tăng lên. Một trong những bức tranh kiểu nhỏ giọt của Jackson Pollock được bán năm ngoái với giá 140 triệu USD, một kết quả đáng kể cho một người say chưa bao giờ học vẽ và chỉ biết rắc màu vẽ lung tung trên toan.
Còn đối với người được coi là cha đẻ của thứ nghệ thuật trừu tượng, Wassily Kandinsky (1866-1944), tranh của ông được bán với giá cao nhất là 40 triệu USD. Kandinsky là bạn và người hợp tác với cha đẻ của nhạc trừu tượng, Arnold Schoenberg (1874-1951). Cả đôi được thế giới nhìn nhận là những người sáng tạo ra chủ nghĩa hiện đại.
Điều khác biệt nhất giữa hai cha đẻ của chủ nghĩa hiện đại này là: giá một tác phẩm khiêm tốn nhất của Kandinsky cũng lớn hơn số tiền mà hoàng gia trả cho buổi biểu diễn nhạc của Schoenberg. Dù chương trình biểu diễn đó là không phải bắt buộc đi nữa, các nhạc công luôn luôn chơi nhạc Schoenberg vào giữa buổi và không bao giờ vào cuối buổi, vì khán giả sẽ bỏ về khi nghe một thứ hỗn độn chói tai. Schoenberg chết trong nghèo đói năm 1951, vợ và ba con của ông hầu như chỉ sống lay lắt với tiền bản quyền từ những bản nhạc của ông. Gia đình ông vẫn nghèo trong khi con cháu của những họa sĩ hiện đại nổi tiếng lại rất giàu có.
Nghệ thuật đương đại mang tính tư tưởng và chính những người sáng tạo ra nó cũng thừa nhận điều này. Chính những nhà tư tưởng, mà chủ yếu là những nhà phê bình, đã tạo danh tiếng cho trường phái ấn tượng trừu tượng, nổi tiếng nhất chính là sự ủng hộ mà Clement Greenberg dành cho Jackson Pollock qua bài viết trên tờ The Partisan Review. Ông này cho rằng nghệ thuật đó không làm hài lòng người thưởng thức từ cái nhìn đầu tiên mà thách thức người thưởng thức phải nghĩ hoặc cân nhắc.
Nhưng tại sao những người hâm mộ nghệ thuật đương đại chỉ hạnh phúc khi tiếp thu những bức thông điệp mang tính tư tưởng của chủ nghĩa hiện đại khi dạo quanh các phòng triển lãm tranh, nhưng lại miễn cưỡng phải nghe bức thông điệp tương tự ở các phòng hòa nhạc?
Khi bạn nhìn một bức tranh trừu tượng, bạn có thể kiểm soát được thời gian. Bạn có thể thưởng thức lâu hoặc chóng, tặc lưỡi và cố gắng nói điều gì đó ra vẻ hiểu biết, và nếu bạn tự phụ một chút thì có thể trích dẫn một số câu nào đó về những nghệ sĩ này mà bạn đã đọc được trên mạng trước khi đến phòng triển lãm. Khi bạn nghe thứ âm nhạc không theo nhịp điệu, ví dụ như Schoenberg, bạn bị dính chặt vào cái ghế của bạn trong vòng 15 phút với cảm giác giống như ngồi hàng giờ trong chiếc ghế của nha sĩ. Bạn không thể chạy trốn. Bạn không chiêm ngưỡng sự trừu tượng từ một khoảng cách mà bạn thực sự sống trong đó.
Đó là lý do tại sao một số họa sĩ hiện đại kiếm được bộn tiền nhưng không một nhạc sĩ trừu tượng nào có thể kiếm sống từ âm nhạc của mình. Chỉ có nhạc sĩ thành Viên Alban Berg (1885-1935) có bản opera Wozeck trở nên một hiện tượng ở Châu Âu năm 1925, một thứ âm nhạc pha trộn giữa phong cách trừu tượng của Schoenberg với chủ nghĩa lãng mạn thông thường. Tiểu sử của ông nói rằng vở opera mang lại cho ông “một cuộc sống thoải mái”.
Sau nhiều thập kỷ ủng hộ một cách từ thiện cho âm nhạc trừu tượng (âm nhạc không theo nhịp điệu), các dàn nhạc giao hưởng đã từ bỏ việc tra tấn những thính giả bất đắc dĩ, và thay vào đó là tìm mua nhưng tác phẩm từ các nhà soạn nhạc có phong cách sáng tác dễ tiếp cận hơn. Theo một bản báo cáo trên tờ Wall Street Journal, việc trở lại với âm nhạc nhịp điệu truyền thống “diễn ra khi các dàn nhạc lớn phải đối mặt với tình trạng người nghe giảm. Số lượng người đến nghe các dàn nhạc giao hưởng trên khắp nước Mỹ đã giảm 13% xuống còn 27,7 triệu trong mùa 2003-2004 so với mùa 1999-2000, theo Liên đoàn nhạc giao hưởng Mỹ”.
Bức thông điệp về tư tưởng vẫn như vậy, nhưng các phòng tranh thì kín người, trong khi những phòng hòa nhạc thì vắng vẻ. Đó là bởi vì bạn có thể giữ một khoảng cách an toàn khi các bức tranh được treo trên tường, nhưng bạn không thể trốn khỏi nó khi nó chui vào tai bạn. Nói một cách khác, sự chán ngán bản năng của bạn đối với thứ âm nhạc trừu tượng phản ánh thực chất sự cảm nhận thông thường của bạn đối với nghệ thuật trừu tượng. Và rất đơn giản là bạn có thể kiềm chế những cảm nhận này tại các phòng tranh.
Tất nhiên cũng có những người thực sự ngưỡng mộ nghệ thuật trừu tượng. Nhà sưu tập nổi tiếng Charles Saatchi, người sở hữu một công ty quảng cáo, là một trong những ví dụ hiếm hoi về sự ngưỡng mộ đối với thứ nghệ thuật này. Khi Damien Hirst tổ chức buổi triển lãm đầu tiên của mình tại London Docklands, báo viết: “Saatchi đã đến buổi triển lãm trong chiếc Rolls-Royce màu xanh và đứng há mồm kinh ngạc trước tác phẩm sắp đặt “động vật” đầu tiên của Hirst, tác phẩm
Một nghìn năm là một cái cốc thủy tinh lớn chứa những con giòi và ruồi đang ăn một cái đầu bò đã bị thối rữa”. Cũng ông này đã mua tác phẩm đó.
Nhưng bạn không phải là người như vậy. Bạn chỉ giả vờ thích nghệ thuật đương đại bởi vì bạn muốn tỏ ra là mình sáng tạo. Nhưng trên thực tế, bạn không sáng tạo. Trong lịch sử nhân loại, chỉ có vài trăm người thực sự được coi là sáng tạo.
Trong suốt lịch sử của nghệ thuật và khoa học, bao nhiêu người được coi là không thể thiếu được, và lịch sử đã không như vậy nếu thiếu những đóng góp của họ. Có thể tranh luận rất nhiều điều xung quanh vấn đề này nhưng những cái tên được nêu ra là không nhiều. Châu Âu không tiến mấy khỏi định luật của Acsimet cho đến khi Isaac Newton và Gttfiried Leibniz sáng tạo ra toán học. Sau Kepler chỉ có Newton, và sau Newton chỉ có Albert Einstein thay đổi cơ bản quan điểm của chúng ta về sự vận động của các hành tinh.
Vậy có bao nhiêu nhà soạn nhạc đã tạo ra nền nhạc cổ điển phương Tây? Trong số hàng trăm nhà soạn nhạc được biểu diễn trên sân khấu hoặc tại nhà thờ ở thời Johann Sebastian Bach, ngày nay chúng ta chỉ còn nghe 1 số rất ít các tác phẩm của họ. Những nhạc sĩ của thế kỷ thứ 18 không phấn đấu để đạt tới thiên tài, mà chỉ mong muốn đạt tới một kỹ năng bền vững.
Để thỏa mãn tham vọng sáng tạo của các nghệ sĩ, thế kỷ 20 đã biến phát minh của thế giới nghệ sĩ thành một kiểu kinh doanh sản xuất hàng loạt. Thay vì những kỹ năng khiêm tốn của thời Bach, thế giới nghệ sĩ ngày nay chia nghệ thuật của mình thành các phong trào. Để được nhìn nhận đến trong thế kỷ 20, các nghệ sĩ phải sáng tạo ra phong cách riêng và ngôn ngữ riêng của mình. Các nhà phê bình coi thường những nghệ sĩ chỉ đơn giản là tái sản xuất các sản phẩm đã được định hình trong quá khứ, và ca ngợi những người sáng lập ra các trường phái: Ấn tượng, Lập thể, Nguyên sơ, Biểu hiện, Trừu tượng,… và rất nhiều thứ khác nữa.
Nếu không được thế kỷ giàu có này đỡ đầu, nghệ thuật đương đại đã không có cơ hội thành công. Hàng ngày, chúng ta đều đọc thấy tin về những bức tranh được bán ra với mức giá kỷ lục mới, như bức tranh của Jackson Pollock được bán cho gã khổng lồ về truyền thông David Geffen với giá 140 triệu USD. Những người rất giầu có thích thể hiện rằng họ là những thiên tài, và rằng kỹ năng hay sự may mắn của họ trong việc quảng bá âm nhạc có thể biến họ thành những trọng tài về gu thẩm mỹ. Những doanh nhân thành công thường rất thông minh, nhưng họ có xu hướng là những nhà bác học ngu ngốc với cái nhìn sắc bén về ngành công nghiệp tạo ra của cải nhưng lại không có ý niệm gì về những vấn đề nằm ngoài chuyên môn của họ. Bởi vì thế giới đua nhau ca tụng sự giàu có, những người giàu lại càng có xu hướng nghĩ rằng họ là những vị chúa nhỏ và dễ nhạy cảm hơn với niềm đam mê sáng tạo trong nghệ thuật.
Một thế hệ những nhà phê bình mới lại mọc ra phục vụ cho những niềm đam mê ngu ngốc này. Tại sao người ta đến bảo tàng để xem bức vẽ lung tung của Pollock mà lại không bao giờ nghe tác phẩm âm nhạc 12 quãng của Schoenberg? Nhạc trưởng Thomas Beecham đã từng có câu nói nổi tiếng rằng họ không thích nhạc đó, nhưng họ thích nghe cái cách mà nó vang lên. Trong trường hợp của Pollock, mọi người không thích tác phẩm của ông ta và cũng không thích cách mà nó được vẽ; cái mà mọi người thích là ý tưởng rằng họa sĩ với sự kiêu căng của mình có thể định hình lại thế giới theo cách riêng của ông ta.
Thomas Mann trong cuối tiểu thuyết
Doktor Faustus kể câu chuyện về một nhà soạn nhạc dựa trên cuộc đời của Schoenberg. Nhân vật chính của Mann không thể sáng tạo, trong sự giận dữ muốn trả thù của mình, ông ta đã tìm cách “phá hỏng” các tác phẩm của Ludwig van Beethoven, bằng cách viết những bản đả kích không theo nhạc điệu về những tác phẩm của Beethoven với hy vọng sẽ phá hủy khả năng thưởng thức bản gốc của người nghe.
Bằng cách áp đặt lên chúng ta những thứ xấu xí, các nghệ sĩ đương đại tin rằng họ sẽ xóa bỏ được khả năng thưởng thức cái đẹp của chúng ta. Tôi nghĩ, đó chính là lý do họ đặt xác động vật chết vào những cái bình thủy tinh lớn hoặc những thùng phoóc-môn và gọi đó là nghệ thuật.
http://bmktcn.com/index.php?option=com_content&task=view&id=769&Itemid=1
https://m.facebook.com/nt/screen/?params={"note_id":1346995735631839}&path=/notes/note/
Tại sao bạn lại giả đò thích nghệ thuật hiện đại
https://www.facebook.com/notes/972520636561902/?pnref=story