Cậu ta tên là Hào. Hào năm nay 13 tuổi, là con một cán bộ có cỡ trong ngành Ngoại giao Việt Nam. Hiện ông đang làm Tham tán tại Đại sứ quán Việt Nam tại Liên-xô. Do quan hệ công tác nên ông có quen biết với Tham tán Liên-xô Ma-ca-rop, có phần hơi thân một chút. Đầu năm nay, ông có dịp về Việt Nam nghỉ phép. Vì chỉ có một cậu con trai cưng, nên hầu như đi đâu, ông cũng cho Hào đi theo. Trong một lần như thế, Hào đã được cùng bố vào cơ quan Đại sứ quán Liên-xô thăm Tham tán Ma-ca-rop. Trong lúc bố và ông Tham tán nói chuyện thì Hào ngồi im, khép nép và lặng lẽ ăn kẹo. Nhưng có lẽ trong người nó đã có phẩm chất của một người lính trinh sát bẩm sinh. Những chiếc kẹo Tây có vị ngòn ngọt, chua chua của ông Tham tán cho nó, dầu là của hiếm cũng không làm át đi được tính cách lanh lợi của nó lúc này. Hào đã kín đáo quan sát được khá đầy đủ căn phòng làm việc của ông Tham tán. Dĩ nhiên, nó nhìn thấy con gà vàng.
Về nhà, Hào hỏi chuyện bố nhiều thứ, trong đó có con gà vàng. Bố cậu đã hào hứng kể cho con trai nghe về lai lịch con gà vàng. Trong một nhiệm kỳ công tác tại Nam Phi, ông Ma-ca-rop đã được một người bạn là thương gia Nam Phi tặng cho một món quà quý: một con gà vàng. Nó được làm từ gần 300gr vàng nguyên chất theo dáng của một chú gà con. Ông Ma-ca-rop rất quý món quà này. Khi nhận nhiệm vụ sang Việt Nam làm Tham tán thương mại, ông đã mang theo con gà vàng kỷ niệm. Hầu như tất cả bè bạn, và các cán bộ của Cơ quan Sứ quán Liên-xô đều biết đến con gà vàng của ngài Tham tán.
Sau đó ít lâu, bố Hào trở lại Liên-xô công tác. Vốn là một chú bé thông minh và hết sức tinh nghịch, Hào đã nảy ra ý định lấy cắp con gà vàng. Nó hình dung trong đầu và lập một kế hoạch có phần hoàn hảo tới mức ngay cả các cán bộ công an thực thụ cũng chưa chắc đã nghĩ ra.
Hào tìm cách thâm nhập trở lại cơ quan Sứ quán. Nó theo dõi và phát hiện ra một việc gần như qui luật. Cứ khoảng 7 giờ tối là có một chiếc xe Com-măng-ca đi từ đường Cát Linh xuyên tắt qua con đường đất phía bên phải sân vân động Hàng Đẫy, để ra góc đường giữa phố Hàng Cháo và Nguyễn Thái Học, rồi từ đó đi sang phố Trần Phú về cơ quan Sứ quán Liên-xô. Quãng đường vòng qua sân vận động Hàng Đẫy là đường đất, gập ghềnh có nhiều ổ voi. Tại góc ngoặt, chỗ cột đèn pha cao thế phía phố Phan Phù Tiên có một cái ổ lõm to. Khi đi qua đó, chiếc xe phải đi chậm, và đèn xe không rọi rõ được trong lòng hố. Cả đoạn đường này lại không hề có đèn đường. Buổi sáng hôm sau, vẫn chiếc xe đó từ cơ quan Sứ quán đi ra theo đường cũ vào lúc 5 giờ sáng. Lúc này trời hãy còn tối, và hầu như không có người qua lại trên đường.
Hào đã thận trọng quan sát và kiểm tra kỹ nhiều lần. Đoạn đường từ cái ổ voi to mà nó chọn đến cổng cơ quan Sứ quán chỉ dài hơn nửa cây số. Chiếc xe Com-măng-ca đi theo chiều ra hay vào thì lần nào cũng chỉ hết chưa đầy 10 phút. Đó chính là cơ sở để nó quyết định chọn kế hoạch đột nhập cơ quan Sứ quán Liên-xô.
Một buổi tối trời, Hào đã nằm sẵn trong lòng cái hố to ở góc ngoặt chỗ cột đèn pha cao áp đó. Nó chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi và bôi đất khắp người. Khi chiếc xe ô-tô chầm chậm đi qua hố, nó ôm bám vào gầm cầu xe và nằm treo như thế để theo xe vào cơ quan Sứ quán. Chiếc ô-tô vào cổng và đi vòng ra sau toà nhà chính rồi đỗ lại, để chủ nhân xuống xe. Sau đó người lái xe lùi xe vào khu ga-ra. Nhà để xe ô-tô của Sứ quán cũng chỉ là một dãy nhà thấp sát tường lợp phibro xi-măng và không có cửa. Người lái xe tắt máy, đóng cửa xe và ra về. Hào còn đợi một lúc, rồi nó mới buông mình rơi xuống nền nhà và nằm im tại đó.
Về đêm, khu cơ quan Sứ quán im lìm. Những người trực đêm chỉ ngồi trong phòng và không tổ chức đi tuần. Cửa sổ căn phòng làm việc của ông Tham tán thuộc mặt sau của toà nhà. Cả vùng sân sau của Sứ quán chỉ có hai ngọn đèn tròn mắc tít trên góc, sát mái tầng ba của toà nhà, hắt xuông đất một thứ ánh sáng mờ mờ vàng ệch và không soi sáng được cả sân. Trong sân có nhiều cây sà cừ to, tạo thành nhiều bóng khuất. Có một cây sà cừ vươn cành cao quá nóc nhà và chếch phía trên cửa sổ phòng làm việc của ông Tham tán. Toàn bộ sân được rải một lớp sỏi, những hòn cuội to như ngón chân cái. Khi bước chân qua, đám sỏi trượt vòng lạo xạo và không thể lưu lại dấu vết.
Đó là tất cả những gì Hào thu thập được trong một đêm quan sát. Mờ sáng, nó bám sẵn vào gầm cầu xe ô-tô và theo xe ra được bên ngoài. Khi tới cái ổ voi ngoài đường đất, Hào thả tay rơi xuống đất. Đợi chiếc xe ô-tô chạy khuất, nó mới lồm cồm bò dậy và về nhà. Mẹ nó bận đi làm ca nên cũng không hay biết gì.
Kế hoạch tiếp tục được thằng Hào hoàn thiện và ngấm ngầm chuẩn bị. Cũng vào một đêm tối trời, vụ lấy cắp con gà vàng chính thức bắt đầu. Hào mặc một chiếc quần đùi đen và một cái áo sẫm mầu. Vạt áo được cài vào cạp quần. Người vốn đã đen, nên nó chỉ lấy một chút đất bùn xoa thêm lên vài chỗ trên người là đã khó nhận ra nó trong bóng tối. Lần này nó đem theo một sợi dây thừng dài, một cái túi vải nhỏ, một đôi tất và một chiếc nan hoa xe đạp.
Chập tối, Hào nằm phục sẵn trong lòng hố. Lần này, nó dễ dàng bám vào được gầm xe, khi chiếc ô-tô Com-măng-ca chậm rãi lăn bánh qua. Vào đến cơ quan Sứ quán, nó lại lọt được vào khu ga-ra ô-tô và nằm im tại đó. Chừng quá nửa đêm, Hào chui ra khỏi nhà xe. Không gian bốn bề vẫn yên tĩnh. Hào khom người rón rén tiến lại cái cây sà cừ to thẳng với cửa sổ phòng làm việc của ông Tham tán. Nó lấy sợi dây thừng, buộc vào đó một viên sỏi to rồi ném vắt lên cành sà cừ ở tầm ngang cách đất chừng 4 mét. Sau đó nó túm lấy đầu dây có viên sỏi, so 2 đầu dây buộc lại rồi đu người leo lên cây sà cừ. Tại đây, Hào rút lại sợi dây thừng rồi trèo dần lên tận tít cành cao phía trên cửa sổ tầng 3, chỗ phòng làm việc của ông Tham tán. Từ chỗ đó, nó lại buộc sợi dây thừng vòng vào cành cây. Đầu kia, Hào buộc thắt quanh bụng rồi đu người theo sợi dây tụt xuống, lơ lửng đúng vị trí cửa sổ. Cứ treo người như thế, Hào xỏ tay vào chiếc tất rồi loay hoay dùng chiếc nan hoa xe đạp luồn vào cậy chốt cửa. Cũng phải nói thêm là thằng Hào tuy gầy, nhưng khoẻ, cơ bắp tốt, chứ bọn trẻ con ở vào tuổi nó, đã mấy ai có thể treo được mình trên sợi dây thừng suốt mấy chục phút như thế. Rồi thằng Hào cũng cậy được cái chốt và nhẹ nhàng kéo mở được cánh cửa chớp. Nó mừng rơn khi thấy hai cánh cửa kính mở toang, và con gà vàng vẫn đặt ở góc bàn ngay sát cửa sổ. Vẫn trong tư thế treo mình, Hào lắc người đu đưa vài nhịp để văng mình vào sâu trong cửa sổ, rồi nhoài tay vào túm lấy con gà vàng. Nó nhanh chóng cất con gà vào cái túi đeo ở cổ, lựa chốt khép lại hai cánh cửa chớp, rồi rút người trèo ngược lên cành cây. Nó bình tĩnh ngồi nghỉ ít phút trên cành cây cho lại sức, rồi theo đúng lối cũ tụt xuống đất. Sau khi lò dò lại gầm cái ô-tô, Hào buộc chặt lại mọi thứ rồi nằm nghỉ. Buổi sáng hôm sau, Hào lại bám gầm ô-tô và thoát được ra ngoài tại cái ổ voi ở con đường đất cạnh sân Hàng Đẫy, đúng y như cách nó đã làm trong lần trinh sát trước. Không một ai nhìn thấy nó. Cu cậu về nhà bình an vô sự.
Mọi dấu vết của cuộc đột nhập chỉ bao gồm hai cái vết lằn của sợi dây thừng buộc ở hai chỗ trên cây sà cừ, và vết thằng Hào bò trên một đoạn cành cây giữa hai chỗ buộc đó, nhưng chắc chỉ mờ mờ. Vì không một ai, kể cả các cán bộ an ninh Việt nam và Liên xô có thể suy đoán ra đối tượng và cách đột nhập, nên cũng chẳng ai đề xuất ra việc kiểm tra dấu vết trên cành cây ở tít cái chỗ trên cao ấy. Mọi việc kiểm tra thông thường như tìm dấu vết trong nhà, trên cửa sổ, trên tường, lấy dấu vân tay, hay tìm dấu vết tại ngay các gốc cây đều không có kết quả là điều dễ hiểu.
Không thể ngờ đến đối tượng của vụ trộm là một đứa trẻ dân thường như Hào, lại càng không thể ngờ đến diễn biến xảy ra như lời kể của nó, dù sự thật đã là hiển nhiên, vụ việc được yêu cầu dựng lại. Ngoài các cán bộ nghiệp vụ an ninh của cả ta và bạn, có đích thân Thứ trưởng Công an Tạ Đình Khai, cán bộ KGB Cu-do-nhet-xop và cả ngài Tham tán Ma-ca-rop cùng chứng kiến cảnh diễn lại của Hào. Theo yêu cầu của ông Cu-do-nhet-xop, cuộc trình diễn được thực hiện theo đúng các mốc thời gian như Hào đã trình bày. Tất cả những người có mặt đều vô cùng hồi hộp và phấn khích theo dõi các động tác của Hào. Nó đã thực hiện cuộc trình diễn một cách chính xác và hoàn hảo, cứ như nó sinh ra để làm việc đó vậy. Cảm giác cuối cùng của mọi người là vô cùng thán phục thằng bé Việt Nam 13 tuổi ấy.
Tất nhiên là thằng Hào có tội. Tội to nữa là đằng khác. Song, cảm phục tài năng của Hào và cũng vì nó mới là một thiếu niên, nên đã có nhiều sự tác động tích cực của nhiều người, từ nhiều phía đến số phận của nó. Hào được đưa vào trường Thiếu sinh quân. Cũng năm đó, Binh chủng Đặc công được thành lập, và Hào được chuyển tiếp về trường Đặc công.
Ba năm sau, khi mới 16 tuổi, Hào trở thành một chiến sĩ đặc công, và tình nguyện vào Nam chiến đấu.
Trong một đêm mưa tầm tã ở chốt Khe Đá dưới chân dãy núi Chư Giông Giàng giữa mùa mưa năm 1974, tôi đã được đại đội trưởng đặc công Phan Thế Hào kể cho nghe câu chuyện này. Đơn vị chúng tôi nhận bàn giao chốt thay cho đại đội đặc công của Hào. Các đơn vị đặc công thường chỉ đánh mật tập vào các sở chỉ huy hay căn cứ tập trung của địch trong những chiến dịch then chốt, giành chiến thắng nhanh. Nói chung, họ không cần phải chiếm giữ trận địa. Trường hợp cần giữ địa bàn lâu dài như vùng Khe Đá này, thì các đơn vị bộ binh phải tiếp quản. Quen nhau đã 3 ngày, và khi biết tôi là lính Hà Nội, lại trạc tuổi, nên đêm nay anh nằm cùng hầm và kể lại chuyện cho tôi. Tiếng anh kể đều đều và nhỏ, đôi lúc lẫn vào tiếng mưa rơi lộp bộp trên mặt tấm tăng căng che nóc cửa hầm. Thỉnh thoảng anh dừng kể, im lặng một chút như để nhớ cho rõ lại sự việc. Những lúc đó, tôi vẫn nằm lặng im, không ngắt lời và cố hình dung ra từng hành động của anh trong câu chuyện.
Kể xong, Hào ngồi dậy quấn một điếu thuốc rê và châm lửa hút. Hơi thuốc anh phả ra nồng nồng, nhưng cũng làm cho căn hầm ấm áp thêm trong đêm mưa lạnh. Bên ngoài căn hầm, mưa vẫn rơi nặng hạt. Thỉnh thoảng lại có đợt gió thổi ào ào, kéo nghiêng ngả những cây Bằng lăng lưa thưa trên chốt, hắt cả đám nước mưa ràn rạt lên nóc tăng. Chúng tôi cùng lặng im và nhớ về Hà Nội. Tôi nhìn cái vóc dáng nhỏ bé và rắn chắc của anh, hình dung ra cái lúc anh trèo cây và đu đưa người trước cửa sổ tầng 3 của Sứ quán Liên-xô. Tôi bảo:
- Cậu ghê thật đấy. Tớ chỉ nghe thôi mà cũng thấy hồi hộp và run hết cả người. Thế cậu định lấy con gà vàng để làm gì?
- Chơi thôi, nghịch ngợm trẻ con ấy mà.- Hào cười, giọng bình thản.
- Nhưng mà cậu cũng liều thật. Nhỡ mấy ông Tây trong Sứ quán mà canh gác hẳn hoi, tương cho cậu mấy phát đạn thì xong rồi còn gì.
- Đúng vậy, bây giờ nghĩ lại thấy cũng hơi liều mà dại. Chứ lúc đó chỉ thấy hăng hái thôi. -Hào thú nhận.
- Nhưng dầu sao cũng có cái hay. Tớ nghĩ, lúc đó mà cậu đã thế rồi thì bây giờ đánh nhau giỏi là phải. Bốn năm chiến đấu, lên đến đại đội trưởng rồi còn gì.
Hào im lặng một lúc, rồi bảo, có vẻ như lạc đề:
- Cũng chẳng giỏi giang gì đâu. Tớ nghĩ đặc công giỏi đánh mật tập, đánh điểm, nhưng ở kiềng, giữ chốt thì thua xa cánh bộ binh các cậu.
- Thế nên bọn mình mới phải ra thay chốt ngay cho các cậu.
Hào cười. Sao lúc ấy trông anh hiền thế.
Chúng tôi còn tán gẫu vơ vẩn nhiều chuyện khác nữa. Rồi hai thằng ôm nhau ngủ. Lính mà.
Sáng hôm sau, chúng tôi chia tay nhau. Đơn vị Hào chuyển địa bàn nhận nhiệm vụ khác, còn chúng tôi ở lại giữ chốt Khe Đá. Chúng tôi đã ở đó và đánh địch, giữ chốt đến cuối mùa mưa.
Tháng 3 năm 1975.Quân ta mở chiến dịch Tây Nguyên.Các đơn vị thuộc Quân đoàn 3, mặt trận Tây Nguyên tấn công đánh chiếm Thị xã Buôn Ma Thuột. Nằm trong đội hình của Đoàn Đặc công 198, đại đội của Hào đánh chiếm Phi trường Hoà Bình nằm ở phía Đông Thị xã. Trận đánh Phi trường của đặc công diễn ra thật gọn gẽ. Lúc 10 giờ sáng ngày 10/ 3/ 1975, khi các đơn vị bộ binh của Sư 316 và Trung đoàn 95B của ta còn đang giằng co đánh nhau với địch tại khu căn cứ của Sư 23 ngụy và khu kho Mai Hắc Đế, thì đại đội của Hào đã làm chủ Phi trường Hoà Bình. Xác bọn lính nguỵ và súng đạn của chúng ngổn ngang khắp trận địa. Cả đại đội của Hào được lệnh nằm lại chốt giữ Phi trường, sẵn sàng đánh quân phản kích. Không có đơn vị bộ binh nào của ta tiếp quản Phi trường, thay thế cho đơn vị của Hào.
Điều Hào nghi ngại và tâm sự với tôi vào cái đêm mưa năm trước ở chốt Khe Đá, thì nay đã xảy ra. Trong Phi trường Hoà Bình có khu hầm ngầm của địch mà trinh sát ta không biết. Buổi sáng, khi bị đặc công ta bất ngờ tấn công, một lực lượng lớn của đich đã nhanh chóng và bí mật rút xuống hầm ngầm. Lính đặc công quen mật tập, giỏi chiến thuật "Nở hoa trong lòng địch", đánh nhanh, thắng nhanh nhưng không thạo đánh chốt. Sau khi làm chủ trận địa, đơn vị đặc công được lệnh chốt giữ tại đó, sẵn sàng đánh đich phản kích để giữ vững Phi trường. Họ không có đủ người và cũng đã không tổ chức sục sạo khắp cả Phi trường, không phát hiện ra khu hầm ngầm. Trong ngày hôm đó, cả đại đội của Hào hầu như chỉ nghỉ ngơi lấy sức. Đến đêm, họ cũng chỉ tổ chức canh gác bình thường, mà hướng quan sát chủ yếu lại là phía bên ngoài. Tất cả hầu như vẫn trong trạng thái nghỉ ngơi, chờ sáng để đánh địch từ ngoài phản kích vào.
Không phải chờ đến hôm sau, mà ngay đêm đó, vào lúc 2 giờ sáng, bọn Nguỵ từ dưới khu hầm ngầm đã chui lên tổ chức phản kích. Chúng hoàn toàn nắm thế chủ động, bất ngờ xuất hiện ngay giữa đội hình đơn vị đặc công. Đại đội của Hào đã bị tổn thất nặng ngay từ đầu. Số chiến sĩ còn lại, mặc dù chiến đấu dũng cảm nhưng cũng không chống lại được bọn Nguỵ đông và có tổ chức tốt. Cả đại đội hy sinh gần hết, trong đó có đại đội trưởng Phan Thế Hào. Khi đó, Hào mới vừa tròn 21 tuổi.
Phải đến gần trưa hôm sau, các đơn vị bộ binh của trung đoàn 95B mới được điều đến đánh chiếm lại sân bay.
Trong chiến dịch Tây Nguyên, đơn vị chúng tôi chiến đấu ở chi khu quân sự Thuần Mẫn bên đường 14, cách thị xã Buôn Ma Thuột hơn 60 cây số về phía Bắc. Sau đó Sư đoàn chúng tôi qua Cheo-reo đánh cắt xuống đồng bằng Tuy Hoà. Chiến sự ở Buôn Ma Thuột, chúng tôi không biết được gì thêm ngoài thông báo: Thị xã đã được giải phóng.
Tin tức cuối cùng của Hào, tôi chỉ được biết sau khi miền Nam đã giải phóng. Từ khu Bình Dương, Sư đoàn chúng tôi trở lại Cao nguyên làm nhiệm vụ tiễu trừ Fulro vào tháng 8/ 1975. Tiểu đoàn chúng tôi đóng quân ngay tại Phi trường Hoà Bình. Tôi đã có dịp đi khắp trong Phi trường, được xem xét khu công sự và khu hầm ngầm của bọn Nguỵ. Lúc đó trên mặt đất và trong các hầm hào vẫn còn vương đầy các loại đạn đại liên, đạn cối cá nhân M79, rốc két M 72 và nhiều khí tài của địch. Tại đây, tôi đã được nghe kể lại cuộc chiến đấu của đơn vị đặc công trong một buổi học tập rút kinh nghiệm các trận đánh điển hình. Tôi đã lặng người trước tin Hào hy sinh. Tôi nghĩ, nếu như có bộ binh phối thuộc kịp thời, chắc Hào đã không chết.
Bây giờ, tôi vẫn có dịp đi qua phố Trần Phú của Thủ đô Hà Nội. Khu Sứ quán Liên-xô cũ, giờ là cơ quan Sứ quán Nga. Tôi không có điều kiện được vào trong đó để nhìn lại toà nhà cơ quan và cái cây sà cừ trong câu chuyện của Hào. Nhưng chắc là cái cây đó vẫn còn. Đôi khi tôi tự hỏi, trong những người đang ra vào cơ quan Sứ quán Nga kia, có mấy người biết được là nơi đó đã ghi dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của một người lính đặc công Việt nam tài giỏi.
Ngày 19/3 là ngày truyền thống của Bộ đội Đặc công. Tôi viết lại câu chuyện này, như một nén hương thắp cho hương hồn người đại đội trưởng đặc công Phan Thế Hào, mà cuộc đời và tên tuổi của anh đã lẫn vào trong cuộc đời của muôn vạn người lính ngã xuống trong chiến tranh.
Tháng 3 năm 2007
Vũ Công Chiến