Một bài luận khác so sánh 3 cây đại thụ của Tuan Phạm.
Trước hết, tôi xin bàn về vị trí của nhạc Phạm Duy trong âm nhạc Việt Nam. Nền tân nhạc Việt Nam thường được coi là "chính thức" khai sinh khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên đi khắp nước diễn thuyết và trình bày những ca khúc của ông vào năm 1938, tuy rằng nhiều nhạc sĩ đã bắt đầu viết ca khúc theo thang âm Âu châu vài năm trước đó nhưng chưa có cơ hội phổ biến. Vậy cứ cho rằng tân nhạc có một lịch sử khoảng 70 năm. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ba nhạc sĩ thường được coi là nổi bật nhất là Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.
Theo thiển ý, chỗ đứng của Văn Cao không vững vàng bên cạnh hai người kia. Tuy ông là người đa tài, tiềm năng của ông đã không được thể hiện xứng đáng vì những hoàn cảnh lịch sử, chính trị. Những tác phẩm của ông làm thời trẻ còn quá cổ điển, quá Âu tây (dù đã dùng ngũ cung Việt Nam trong bài Thiên Thai), chưa phát huy đến nơi đến chốn tính thẩm mỹ Việt Nam, chưa độc sáng và thoát ra khỏi cái khuôn mẫu "dĩ Âu vi trung". Lê Thương mới thực sự là nhạc sĩ đáng kể với những đóng góp vô cùng quan trọng và giàu tính dân tộc qua ba bản Hòn Vọng Phu.
Nhưng Lê Thương hơi kém về lượng. Trịnh Công Sơn mới thực là đối thủ của Phạm Duy về số lượng và tính cách độc sáng. Nếu Phạm Duy là người đã đem dân ca VN vào nhạc, thì Trịnh Công Sơn là người đã đem hồn thơ, và quan trọng hơn, đem những suy tư của người Việt trẻ đô thị, vào nhạc. Mỗi nhạc sĩ đã sản xuất trên dưới một ngàn tác phẩm.
Trong nghệ thuật, cũng như trong khoa học, số lượng không phải là điều quan trọng, mà quan trọng là sự đặc sắc và khai phá. Có những người có thể viết cả ngàn bài thơ, bản nhạc mà thế giới không biết họ là ai và cũng không cần biết, vì những thơ nhạc đó chỉ là rập theo khuôn mẫu của kẻ khác. Có những người (như Lê Thương trong tân nhạc hay Mendel trong khoa học) chỉ có vài ba bản nhạc hay một khám phá mà đủ để có chỗ đứng trong lịch sử. Nhưng những nghệ sĩ lớn thì thường là có số lượng đồ sộ, vì nghệ thuật là cả cuộc đời của họ và họ không thể ngừng sáng tác. Và do đó Trịnh Công Sơn và Phạm Duy là hai cột trụ của tân nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20.
Tính cách của hai nhạc sĩ này hoàn toàn khác nhau. Trong khi Trịnh Công Sơn tập trung vào một phong cách riêng, với những giai điệu dựa trên âm giai E minor đặc thù của chiếc tây ban cầm, kể lể suy tư suốt mấy trăm tác phẩm, thì Phạm Duy, trái lại, như một con bướm bay từ vườn này sang vườn khác. Trịnh Công Sơn tinh khiết, Phạm Duy xác thịt. Trịnh Công Sơn là mặt trăng, Phạm Duy là mặt trời. Trịnh Công Sơn trừu tượng, Phạm Duy cụ thể. Trịnh Công Sơn đơn điệu đơn sắc, Phạm Duy đa điệu đa sắc đến cùng cực. Trịnh Công Sơn có chỗ đứng vững chắc, Phạm Duy luôn luôn đi trong cuộc hành trình. Không có đề tài nào mà Phạm Duy không thí nghiệm, từ cái dơ dáy của Tục Ca tới cái hồn nhiên cuả Bé Ca và cái cao siêu của Đạo Ca, thuần khiết của Thiền Ca. Phạm Duy như một đứa trẻ năm tuổi, chạy chơi tung tăng trong vườn hoa của cuộc đời và của nghệ thuật, khi thì bắt bướm, khi thì vọc bùn, hoàn toàn không cần biết cha mẹ răn đe la mắng, cứ thích gì là làm nấy. Và may mắn cho chúng ta, một trong những cái Phạm Duy thích làm là... viết ca khúc!
Nhưng điều đáng buồn là, trong khi Trịnh Công Sơn được chính thức vinh danh, nhạc của ông được phê bình, bàn luận, in và phổ biến, thì nhạc Phạm Duy bị cấm đoán, không ai được nói tới trong nước. Dĩ nhiên, một số ca khúc Phạm Duy vẫn được hát trong các phòng trà, phòng khách. Nhưng khi sự lưu hành hoàn toàn dựa vào thị hiếu của công chúng như vậy, mà không có sự phê bình bàn luận chuyên nghiệp hổ trợ, thì không thể bảo đảm rằng những tác phẩm giàu nghệ thuật nhất, trong một sự nghiệp đồ sộ và đa dạng, có cơ hội được sống.
Trong mọi bộ môn nghệ thuật, thị hiếu của công chúng không bao giờ là thước đo của giá trị nghệ thuật. Những tác phẩm thực sự độc đáo và tầm cỡ thì lại thường khó làm quen, và cần sự bàn luận phê bình của những người có trình độ để khơi óc tò mò của công chúng và nhẹ nhàng dẫn dắt họ đi vào tác phẩm. Thử hỏi thời nay nếu chương trình trung học không dạy về truyện Kiều thì sau vài chục năm còn có ai cảm nhận nổi. Dĩ nhiên, khi mà công chúng đã được giới thiệu và tác phẩm bắt đầu trở thành quen thuộc, thì nó sẽ đi vào lòng người một cách sâu đậm và lâu dài hơn nhưng tác phẩm kém giá trị.
Cũng vậy, cái thành phần nhạc Phạm Duy hiện được lưu hành một cách tự phát và không chính thức chỉ là một phần nhỏ, vài chục bài tình ca, trong một sự nghiệp đồ sộ và đa dạng. Đó là những tác phẩm bắt tai nhất của Phạm Duy, đánh vào những cảm xúc thông thường của lòng người bằng những kỹ thuật căn bản. Những bản nhạc ngắn với cấu trúc ABA, âm giai trưởng hoặc thứ của Âu châu, trở về chủ âm thường xuyên để ve vuốt lỗ tai, lời lẽ ướt át, tuy không đến nỗi "sến" nhưng thường cũng chỉ ở mức độ cảm nhận trung bình của thanh niên thiếu nữ thành thị. Những tác phẩm đó, theo tôi, không cho một hình ảnh chính xác và đầy đủ về nghệ thuật của Phạm Duy.
Nói chuyện về Phạm Duy với một người trẻ ở miền Bắc, hay sinh ra ở miền Nam sau 1975, ta thường nghe những ý kiến như sau: "Có gì đâu, chỉ vài bài tình ca lỗi thời", "Tôi không thấy nhạc Phạm Duy hay ở chỗ nào" "Không làm tâm hồn tôi rung cảm gì cả", thậm chí "Nhạc Phạm Duy nghe thấy sến!". Hẳn những thính giả miền Nam và hải ngoại ái mộ Phạm Duy nghe vậy sẽ rất kinh ngạc, nhưng những người am hiểu một chút về sự cảm nhận âm nhạc và nghệ thuật nói chung thì không có gì ngạc nhiên với những phản ứng ấy, xuất phát từ sự thiếu quen thuộc của những người mới chỉ nghe vài bản tình ca Phạm Duy.
Sự cảm nhận âm nhạc, nói cho cùng, dựa vào sự quen tai: về phương diện âm thanh thì quen với cung cách giai điệu, thang âm, tiết tấu, tiến trình hòa âm, về ca từ thì quen với từ ngữ, hình ảnh. Trừ phi có học lý thuyết âm nhạc, là cái mà hầu hết thính giả Việt Nam không có điều kiện, còn thì sự quen tai là tất cả. Nghe đi nghe lại một số bản nhạc cho đến khi những đường nét giai điệu hằn vào trong óc như vết rãnh của bánh xe bò trên đường đá, nhất là khi đầu óc còn non nớt mềm dẻo và đá còn là đất, đó là tất cả sự đào tạo âm nhạc của hầu hết thính giả Việt Nam.
Trong cái khung cảnh âm thanh rất hạn chế đó thì yếu tố ca từ nổi lên chiếm phần quan trọng. Mà ca từ thì tùy thuộc rất nhiều vào thời đại, vào bối cảnh xã hội chính trị ... Do đó, khi nhạc của một nhạc sĩ bị cấm đoán trong ba mươi năm, qua một cuộc đổi đời về xã hội chính trị, sự cảm thụ tác phẩm của nhạc sĩ ấy trong một thế hệ mới sẽ không dễ. Tân nhạc Việt Nam, do đó, là một tập hợp của những phong trào, biến cố phù du. Bộ phận nào lỡ đánh rơi là mất, không tìm lại được nữa. Sự cấm đoán nhạc Phạm Duy trong 30 năm qua, một sự nghiệp làm gạch nối liên tục suốt từ những năm đầu của Tân nhạc cho đến bây giờ, do đó, là một vết thương trầm trọng của tân nhạc VN.
Một lý do nữa của sự phù du của tân nhạc Việt Nam là nó bị quá coi rẻ trong nền giáo dục âm nhạc. Trong khi nhạc cổ điển Tây Phương luôn luôn được coi là tuyệt đỉnh nghệ thuật, ở cả miền Nam và miền Bắc trước và sau thống nhất, và được giảng dạy trong các nhạc viện, và nhạc truyền thống dân tộc cũng được chú trọng (tuy nhiều khi "phát triển" sai cách và bị ép theo khuôn mẫu Tây phương), thì tân nhạc phổ thông hoàn toàn không được chú ý, kiểu như nhạc jazz bị giới nhạc hàn lâm Tây phương lơ là coi rẻ trong đầu thế kỷ 20. Vì sự lơ là đó mà hầu như không có một sự liên tục nào trong tân nhạc Việt, cứ mỗi thế hệ lại chạy theo những thời trang mới nhất nhập cảng từ ngoại quốc, như một đám bèo bọt trên sông đi từ vũng xoáy này sang vũng xoáy khác.