Chào cụ chủ, chào các cụ yêu thích MKT.
Cho phép em được nhiều lời băn khoăn như sau: Hiện nay, tại Việt Nam, em thấy đa phần các bạn trẻ đang làm, đang tìm việc làm về Marketing thì em thấy các bạn ấy mặc định là "Content" và chạy quảng cáo GG, FB, SEO... y hệt như nội dung cụ chủ đang nêu ra.
Em có băn khoăn rất chân thành là: Liệu đó có phải là Marketing hay không? Hay đó chỉ là 1 mảnh rất nhỏ của Marketing nhưng trong đó lại chiếm tỷ lệ quá lớn nguồn nhân lực của Việt Nam tham gia làm việc?
Theo quan điểm của cá nhân em, nếu em mà làm Marketing thì: marketing là phải nghiên cứu và phân tích thị trường, nghiên cứu và phân tích hành vi người tiêu dùng cùng với đó là các hoạt động thực tại và tương lại (nếu có) của công ty. Sau cùng là sẽ content, thực hiện các chiến dịch quảng cáo...
Có thể em là người hoài niệm và ưu tư, nhưng thực sự em lên các nhóm hội để tuyển người và đa phần là đọc được các CV của các bạn trẻ giới thiệu mình là MKT executive nhưng lại chỉ đơn thuần là note: "Content" và chạy quảng cáo GG, FB, SEO... làm em thấy buồn lắm. Em có thể khẳng định luôn nếu nguồn nhân lực của VN từ 22-26 tuổi mà cứ tập trung vào bề nổi của MKT như thế thì sợ rằng khả năng cạnh tranh của chúng ta sẽ bị yếu đi.
Thực sự Việt Nam mình cần một thế hệ trẻ giỏi, sâu và đam mê. Có thế 5,7 năm nữa mới bắt kịp được trend tăng trưởng bền vững và thu nhập cao như team Công nghệ, CNTT hiện tại (team mà 5-7 năm trước đang lo sợ thất nghiệp).
Cái marketing hồi em được học ở đại học (mặc dù em học kỹ thuật), thì nó là 4P. Nó bắt đầu từ khi bắt đầu xây dựng sản phẩm/dịch vụ cơ cụ ạ. Có thể khái niệm Marketing đó lạc hậu với thời đại GenZ này rồi nhưng em vẫn copy paste nhé:
Marketing mix hay còn gọi là
Marketing hỗn hợp chỉ tập hợp các công cụ tiếp thị được doanh nghiệp sử dụng để đạt được mục tiêu tiếp thị trên thị trường. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1953 bởi
Neil Borden, là chủ tịch của hiệp hội Marketing Hoa Kỳ lấy ý tưởng công thức thêm một bước nữa và đặt ra thuật ngữ Marketing hỗn hợp. Một nhà tiếp thị nổi tiếng, E. Jerome McCarthy, đề nghị phân loại theo 4P năm 1960, mà nay đã được sử dụng rộng rãi. Khái niệm 4P được giải thích phần lớn trong sách giáo khoa về marketing và trong các lớp học.
Marketing mix vốn được phân loại theo mô hình 4P gồm có: Product (sản phẩm), Price (giá cả), Place (phân phối), Promotion (xúc tiến) được sử dụng trong hoạt động Marketing hàng hóa. Theo thời gian, mô hình này được phát triển thành 7Ps theo sự phức tạp và cải tiến của marketing hiện đại. Các chuyên gia marketing đã đưa ra 3P bổ sung khác là Process (quy trình), People (con người), và Physical Evidence (bằng chứng vật lý) tăng cường sức mạnh cho hoạt động Marketing khi sản phẩm không còn dừng lại ở hàng hóa hữu hình mà còn là những dịch vụ vô hình.
Ngoài ra thì định nghĩa marketing mix khác cũng rất đơn giản, nó chỉ việc bạn đặt chính xác sản phẩm vào đúng chỗ, đúng thời điểm và có mức giá phù hợp. Lý thuyết là như vậy nhưng làm thế nào để có thể áp dụng vào thực tiễn là điều vô cùng khó khăn. Về cơ bản thì mô hình
marketing mix bao gồm gồm 4 thành phần với sản phẩm hữu hình và 7 thành tố cho sản phẩm vô hình, và thuyết 4Cs. Nói cách khác các thành phần của marketing mix bao gồm 3 mô hình đó là: 4P, 7P và 4C.
Vai trò của marketing mix
Nhắc đến vai trò của marketing mix, nó là yếu tố quan trọng trong mô hình kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Được coi là cầu nối giữa người mua và người bán, giúp người bán có thể dễ dàng hơn trong việc hiểu được những nhu cầu thực tế của người mua từ đó giúp thỏa mãn một cách tối ưu nhất. Nhờ vậy có thể hoạch định được các chiến lược tiếp thị phù hợp nhất.
- Phân bổ trách nhiệm: Marketing mix đóng vai trò đem lại sự chuyên môn hóa. Nhờ đó giúp phân bổ trách nhiệm đến từng thành viên, công việc được chia nhỏ đảm bảo được tính S.M.A.R.T
- Cung cấp những dữ liệu giá trị để phân bố tài nguyên: Mỗi một chiến dịch marketing thành công đều cần phải được đảm bảo bởi sự phân bổ nguồn lực bao gồm tài chính và con người.
- Phân tích cơ cấu lợi nhuận – chi phí
- Tạo cơ hội xúc tiến thương mại:
Marketing mix 4P truyền thống
Đây là mô hình marketing được xây dựng năm 1960 bởi E. Jerome McCarthy. Khi đó, mô hình Marketing mix 4Ps đã vô cùng nổi tiếng và được sử dụng rất nhiều trong các doanh nghiệp. Hơn nữa nó còn được sử dụng để giảng dạy trong các trường đại học trên toàn thế giới. Mô hình Marketing 4Ps là nền móng cho khái niệm Marketing Mix hiện nay. Dưới đây sẽ là mô hình
4P trong marketing mix truyền thống bạn có thể tham khảo:
Product (Sản phẩm)
Product là 1 trong những thành phần của marketing mix đầu tiên trong chuỗi 4p. Đó có thể là một sản phẩm hữu hình hoặc một dịch vụ vô hình nào đó. Ví dụ về các sản phẩm hữu hình có thể là những chiếc xe có động cơ, một chiếc điện thoại thông minh,hay một chiếc máy sản xuất,…Ví dụ về các sản phẩm vô hình (dịch vụ) là dịch vụ như ngành nhà hàng, khách sạn, spa, các dịch vụ du lịch hay các dịch vụ tín dụng của ngân hàng,…
Mì Tiến Vua từng là một sản phẩm mới trong ngành hàng mì ăn liền vốn đã có rất nhiều đối thủ mạnh, và chỉ trong 3 tháng tung hàng, Tiến Vua đã đạt được những chỉ số mà các nhãn hàng khác phải mất ít nhất 6 tháng hoặc hơn để đạt được, với Proposition “Mì vì sức khỏe, do không dùng dầu chiên đi chiên lại nhiều lần, đảm bảo sức khỏe cho gia đình bạn”
Sau tất cả, người làm marketing cần phải tự hỏi chính mình: Cần phải làm gì để mình có thể cung cấp sản phẩm/dịch vụ tới thị trường tốt hơn so với những đối thủ cạnh tranh còn lại?
- Tuy nhiên, nếu bạn muốn như thế thì bạn cần trả lời những câu hỏi sau:
- Khách hàng muốn gì từ sản phẩm/dịch vụ bạn cung cấp
- Khách hàng sử dụng sản phẩm/dịch vụ của bạn như thế nào
- Khách hàng sử dụng chúng ở đâu
- Tính năng gì sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu của họ
- bạn có tạo ra những tính năng thừa thãi hay không?
- Tên sản phẩm/dịch vụ bạn muốn cung cấp là gì? nó có bắt tai hay không.
- Kiểu dáng bạn muốn cung cấp cho sản phẩm/dịch vụ là gì
- Sản phẩm của bạn khác biệt như thế nào so với các đối thủ cạnh tranh
- Hình thủ cuối cùng co sản phẩm/dịch vụ mà bạn muốn cung cấp sẽ có dạng như thế nào
Price (Giá cả)
Giá sản phẩm hay chính là chi phí khách hàng phải bỏ ra để sở hữu/ sử dụng sản phẩm dịch vụ bao gồm thị phần, cạnh tranh, chi phí nguyên liệu, nhận dạng sản phẩm và giá trị cảm xúc của khách hàng đối với sản phẩm. Việc định giá trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay trở nên vô cùng quan trọng và đầy thách thức. Nếu giá sản phẩm được đặt quá thấp, doanh nghiệp sẽ phải tập trung bán theo số lượng lớn hơn để thu về lợi nhuận. Nếu mức giá quá cao, khách hàng sẽ dần chuyển hướng sang sản phẩm đối thủ cạnh tranh. Các yếu tố chính nằm trong chiến lược giá bao gồm điểm giá ban đầu, giá niêm yết, chiết khấu %, thời kỳ thanh toán,…
Ngoài ra, giá bán quá cao có thể khiến khách hàng bỏ qua lợi ích mà sản phẩm của bạn có thể đem lại. Thế nên bạn hãy nghiên cứu chính xác yếu tố giá thị trường và giá bán đổi thủ để có thể xác định giá bán cho sản phẩm của mình thật phù hợp. Khi xác định giá bán, marketer nên cân nhắc giá trị khách hàng nhận được của một sản phẩm. Có ba chiến lược định giá chính bao gồm:
- Market penetration pricing (định giá thâm nhập).
- Market skimming pricing (định giá hớt váng).
- Neutral pricing (định giá trung lập).
Để có được chiến lược định giá chuẩn xác, bạn cần xác định:
- Bạn cần chi bao nhiêu để sản xuất một đơn vị sản phẩm.
- Giá trị nhận được khi khách hàng sử dụng sản phẩm của bạn là gì?
- Nếu bạn giảm giá bán của sản phẩm, liệu thị phần có tăng lên?
- Giá bán mà bạn đang cung cấp có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường?
Place (Phân phối)
Các kênh phân phối là đại diện cho nơi mà một sản phẩm có thể được trao đổi mua bán, trưng bày, giới thiệu. Cửa hàng phân phối có thể là đại lý bán lẻ hay các cửa hàng thương mại điện tử trên internet. Sở hữu hệ thống phân phối là yếu tố quan trọng đưa sản phẩm đến tay khách hàng. Nếu doanh nghiệp không đầu tư, phát triển kênh phân phối đúng mức có thể làm lãng phí công sức quảng cáo, sản xuất sản phẩm mà không đưa ra thị trường thành công.
Dưới đây là các chiến lược phân phối bạn có thể tham khảo
- Chiến lược phân phối rộng khắp (intensive).
- Chiến lược phân phối độc quyền (exclusive).
- Chiến lược phân phối chọn lọc (selective).
- Nhượng quyền (franchising).
Ngoài ra, bạn cần để ý những vấn đề sau:
- Khách hàng tìm đến sản phẩm của bạn ở đâu.
- Nơi nào khách hàng của bạn thường xuyên tới để mua sắm?
- Bạn có thể tiếp cận những kênh phân phối nào? Tiếp cận chúng ra sao?
- Hệ thống phân phối của doanh nghiệp bạn khác biệt với đối thủ ra sao?
- Bạn có cần hệ thống phân phối mạnh hay không?
- Bạn có cần bán sản phẩm của mình trên môi trường kinh doanh trực tuyến hay không?
Promotions (xúc tiến thương mại)
Các hoạt động hỗ trợ bán hàng nhằm đảm bảo rằng khách hàng nhận biết được về sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp được coi là xúc tiến thương mại. Từ ấn tượng tốt về sản phẩm hay dịch vụ, khách hàng sẽ dễ dàng tiến hành thực hiện giao dịch mua bán thật sự hơn, gia tăng tỉ lệ chuyển đổi với khách hàng tiềm năng.
Các hoạt động ở khâu này gồm quảng cáo, catalog, quan hệ công chúng và bán lẻ, cụ thể là quảng cáo trên truyền hình, quảng cáo trên báo chí, quảng cáo trên đài phát thanh,… Với ngân sách lớn hơn, doanh nghiệp có thể thực hiện tài trợ cho các chương trình truyền hình hay các kênh phát thanh được đông đảo công chúng theo dõi, tổ chức các chương trình dành cho khách hàng thân thiết,… để tăng độ nhận biết thương hiệu với khách hàng đại chúng.