Topic tìm hiểu về lịch sử Việt Nam

ktphong

Xe tăng
Biển số
OF-109486
Ngày cấp bằng
18/8/11
Số km
1,317
Động cơ
400,718 Mã lực
Nếu mà tra Gúc gồ mà ra thì e đã ko hỏi các cụ.
Vì sao e bắt đầu topic bằng 1 câu về dân tộc Kinh, vì nếu ko biết được nguồn gốc dân tộc Kinh, sự phát triển và di chuyển của dân tộc này sẽ không bao giờ xác định được "gốc tích nước nhà Việt Nam". Đây là vấn đề rất lớn của lịch sử VN.
Ng VN mình chính thức đc gọi là "Dân tộc Kinh" từ khi có CMND mới (sau thống nhất, năm 1979 mới có công bố danh mục 54 dân tộc VN), trước đây nói đến dân tộc Kinh không ai biết là dân tộc gì. Các cụ ko tin về hỏi các bậc bô lão sinh trước năm 1930 xem khi đó có đề cập gì đến dân tộc VN mình là dân tộc gì ko?

Và ở đây, tại sao ko gọi là dân tộc Việt mà lại gọi là dân tộc Kinh, trong khi quyết định công bố danh mục 54 dân tộc năm 1979 thì tên gọi chính là dân tộc kinh, tên gọi khác là dân tộc việt.
Do đó, theo e suy đoán thì có 1 tài liệu lịch sử nào đó xác định tên gọi của dân tộc mình là dân tộc kinh, làm cơ sở để ban hành quyết định này. Đó là tài liệu e cần tìm và hỏi các cụ ạ.
 

ltgbau

Xe điện
Biển số
OF-14433
Ngày cấp bằng
1/4/08
Số km
2,207
Động cơ
535,711 Mã lực
Gọi là dân tộc Việt thế cái nước VN này chỉ là của người Việt, còn lại ở nhờ à?
 

ktphong

Xe tăng
Biển số
OF-109486
Ngày cấp bằng
18/8/11
Số km
1,317
Động cơ
400,718 Mã lực
Gọi là dân tộc Việt thế cái nước VN này chỉ là của người Việt, còn lại ở nhờ à?
=D> =D> =D> =D> =D> =D> =D> =D> =D> =D> =D> =D>

Cảm ơn cụ. thế mà e ko nghĩ ra. haha

Và con đường đi tìm nguồn gốc từ khái niệm "dân tộc Kinh" bị vùi lấp. Nguồn gốc dân tộc Việt thì tài liệu hiện nay đang còn lùng bùng vì các dữ liệu lịch sử đều "mượn" của các nước bạn.
 

MP4-22

Xe điện
Biển số
OF-7284
Ngày cấp bằng
20/7/07
Số km
2,637
Động cơ
565,720 Mã lực
Nơi ở
Quan Nhân, Hà Nội


Re:Lịch sử Nước Việt nam có khi nào??? 10 04 2011 23:26:39 (permalink)

VĂN HOÁ VÀ CỘI NGUỒN VIÊM VIỆT

LỜI NÓI ĐẦU.

Người Việt chúng ta thường hãnh diện về một nền văn hóa Dân Tộc trải qua năm ngàn năm văn hiến, từ thời lập quốc gia Xích Quỷ từ bờ Nam sông Hoàng Hà đến Hồ Động Đình, Lưỡng Quãng sau cùng đến Phong Châu, từ nhà nước Văn Lang, trải qua các triều đại trung cổ cho đến Quốc Gia Việt Nam hôm nay, chúng ta vẫn giữ vững truyền thống của dân tộc Bách Việt, chúng ta tự hào có tinh thần không khuất phục, bị nô lệ mà không đồng hóa ý chí luôn quật cường trước bất kỳ cuộc xâm lăng nào của ngoại bang bằng cớ tiếng Việt Ngàn đời vẫn giữ nguyên tiếng Việt, dù các thứ ngoại ngữ du nhập vào Việt Nam V.V. luôn vẫn Việt Ngữ hóa.(Dân Tộc hóa)

Thời kỳ cha ông chúng ta lập quốc, theo truyền thuyết Đại tộc Viêm Việt đã có một nền văn hóa phong phú, hai vị nguyên tổ của chúng ta là Phục Hy và Nữ Oa tạo ra “ Quy Củ “ là một nếp chuẩn thằng cho sự nhận định nhân sinh và vũ trụ quan Âm dương, những khái niệm đầu tiên được áp dụng truyền từ đời này sang đời khác bằng chứng là cái giếng ( Việt Tỉnh) dưới tròn trên vuông, những ký tự văn thư ghi chép bằng chữ Nòng Nọc ( Âm Dương ) = O + l. ( giống như Kipu ký tự của dân tộc Inca thời cổ ở Nam Mỹ )

Phục Hy phát minh ra Bát Quái Đồ Tiên Thiên bằng những ký tự Nòng Nọc cổ xưa nhất của loài người.

Gần một ngàn năm sau. Hiên Viên Hoàng Đế ( Vị Quốc Tổ của Dân Tộc Trung Hoa ) là một nền văn minh Du mục Tây Bắc Á vượt sông Hoàng Hà chiếm đất, cướp lấy văn hóa Nông nghiệp của chúng ta rồi cải biến thành một nền văn hóa riêng của họ, Việt Nho của chúng ta bị đè bẹp trước Hán Nho trong thời kỳ hơn một ngàn năm Bắc thuộc.( 179.tr CN đến . 939. Sau CN.)

Thời tiền sử là khuyết sử, vì chưa có sự ghi chép cặn kẽ các biến cố xảy ra theo thời gian, cho nên huyền sử là sử viết theo hàng dọc, có tính cách tâm linh xoay quanh tác động lý tưởng cho tinh thần hào hùng của dân tộc, đồng thời biểu thị những sơ nguyên tượng Quốc Tổ Đại Tộc Viêm Việt ,cho nên cố tình cách phổ biến chung cho Tinh Thần dân tộc Việt Nam chúng ta .

Còn riêng sử ký là ghi các biến cố có tính cách hàng ngang, để nói lên những dữ kiện và nhân vật xảy ra từng thời gian có tính liên tục liên quan đến quá trình đấu tranh xây dựng đất nước Việt Nam của chúng ta.

Ngày nay các thế hệ trẻ e ngại không muốn tìm hiểu và xem Huyền Sử như một mớ chằng chịt không có tính trung thực , họ không ngần ngại chẳng quan tâm khi tìm hiểu về thời cổ sử, vì họ nghĩ rằng làm như thế thì họ sẽ đi thụt lùi trở thành dân tộc thái cổ, họ không nhận định được tính chất tâm linh Thiêng liêng của hồn Đất Nước và dân tộc ở trong đó, nó có tính chất phổ biến cho tất cả mọi con người nào có giòng máu Viêm Việt, để cho chúng ta tự hào giữ lấy mảnh giang sơn và tinh thần dân tộc cha ông chúng ta ngày xưa đã vì nó đổ bao nhiêu xương máu để gìn giữ, mặc dù bị nô lệ nhưng không bị mất gốc, không làm người vong bản, vẫn là con dân tộc Việt, Viêm Việt, Hoàng Việt, Hùng Việt, Lạc Việt, Việt Thường, Đại Cồ Việt, Đại Việt và cuối cùng là Việt Nam.

Huyền sử về Lạc Long Quân Và Âu Cơ bọc trứng nở trăm con là Bách tính hiện nay của dân tộc Việt Nam, có những yếu tố quan trọng đặc biệt khác hơn bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, chúng ta sống gắn bó cùng nhau trên bờ cũng như nơi sông nước, nói tới quê hương thì ta gọi là “đất nước” hay “Nước Nhà”. Những người cùng chung dòng máu Bách Việt thì ta gọi nhau bằng “ Đồng Bào”, cái tinh thần “ Đại Gia Tộc “ vẫn còn giữ vững trong tâm của mỗi người dân Việt, một nền văn hiến gần Năm ngàn năm ung đúc cho chúng ta một nền tảng như ngày nay, đất nước và con người Việt chúng ta hãnh diện văn hóa Việt Nho cùng với bè bạn Năm Châu, một tinh thần đại gia tộc, đại đoàn kết dưới nền minh triết Văn Hoá Việt Nho, chính những ý thức của Dân Tộc Việt xóa bỏ những kỳ thị, ý thức hệ văn hóa du nhập từ địa phương xa xôi của chủng tộc khác, để rồi chúng ta không mãi bị phân ly qua ý thức hệ đấu tranh vì hạnh phúc chung cho Dân tộc và đất nước Việt Nam...

Trong kỷ nguyên mới, chúng ta phải vực dậy tinh thần đại gia tộc của Bách Việt, phải đoàn kết lại cùng nhau xây dựng cho một xã hội đất nước Việt Nam trở thành một cường quốc thái bình, đạo đức làm gương mẩu chung cho thế giới

OS
 
Chỉnh sửa cuối:

MP4-22

Xe điện
Biển số
OF-7284
Ngày cấp bằng
20/7/07
Số km
2,637
Động cơ
565,720 Mã lực
Nơi ở
Quan Nhân, Hà Nội
HỒNG BÀNG HUYỀN SỬ
Vào năm 3.434 trước CN một nhánh chủng tộc Nam Á định cư đầu tiên ở lưu vực sông Hoàng Hà gồm :- Tộc người Viêm Việt, có 02 vị Nguyên Tổ đầu tiên của tộc Viêm Việt là Phục Hy (1)( hiệu Là Bào Hy cùng vợ là Nữ Oa ) dạy dân định cư cất nhà, dạy các tập tục văn hóa, dùng dây thừng thắt gút để ghi nhớ các sự kiện đã qua. Phục Hy xem Thiên, Địa Tượng và phát minh ra Bát Quái định ra Quy Củ của nền Nho Việt : Trời tròn Đất vuông, hay Minh Triết Hà Đồ và Lạc Thư, dịch kinh Việt Nho dùng ký tự Nòng Nọc (2)
Năm 3.118. tr. CN trong đại Tộc Viêm Việt có một vị thủ lỉnh của bộ tộc hiệu là Viêm Đế Thần Nông (3), ông tiếp tục phát triển sự nghiệp văn hóa Việt Nho của Phục Hy và Nữ Oa dạy dân cày cấy trồng lúa nước, dạy dân cất nhà ở ngoài nơi trống trải để ở, không còn phải ở hang đọng như trước đây. Ngài nếm trăm loại cỏ cây chỉ cho dân biết cách trị bệnh. Đế triều của Thần Nông truyền được 8 đời? Sau bị mất về tay của Hiên Viên Hoàng đế (4).
Trải qua thời gian dài gần 200 năm tộc Viêm Việt phát triển mạnh. Bấy giờ xuất hiện một thủ lĩnh của Bộ tộc Viêm Việt là cháu 3 đời của Viêm Đế Thần Nông, lên ngôi Vua lấy hiệu là Đế Minh. ( không rõ năm sanh và năm lên làm Vua ) Đế Minh kết hôn sau đó sanh ra Đế Nghi (2.889 trCN - 2.834 .tr CN ) (5). Khi đi tuần thú phương Nam đến vùng Ngũ Lỉnh Sơn ( Tỉnh Hồ Nam TQ. ) gặp bà Vụ Tiên cưới về sinh ra Lộc Tục,( Đức Lộc Tục sinh năm Nhâm Ngọ 2.919 tr CN. Lên ngôi nằm.2.879 trCN.)(6)
Tộc Viêm Việt phân ra nhiều bộ lạc ở rải rác từ lưu vực bờ Bắc sông Hoàng Hà đến phía Nam Động Đình Hồ có bốn mùa tám tiết, đặc biệt có một chiếc hồ ưu đãi thủy sản vật cho dân tộc Bách Việt sinh sống, đó là “Hồng Hồ,” (7) trong lòng hồ có vô vàn chim Hồng Hạc ( Hồng Hộc ) sống cộng sinh gắn bó cùng người dân tộc Viêm Việt từ nhiều đời. Vào những năm 2.885 trước CN có những tập đoàn Dân Tộc Tây Bắc Á du cư ( Văn hóa Du Mục Tiền thân của Dân Tộc Trung Hoa ) tràn xuống phía Bắc lưu vực sông Hoàng Hà và họ vượt sông dùng vũ lực xâm chiếm các Bộ Lạc Viêm Việt điển hình ở trận Trác Lộc, chủ yếu đánh cướp lương thực, bắt đi Thanh niên, Nam Nữ Tộc Viêm Việt để làm nô lệ, cuộc chiến tranh kéo dài hơn 5 năm, người tộc Viêm Việt chống trả yếu ớt, sau đó bắt đầu mở cuộc di dân về phương Nam, còn lại gần 70% tộc Viêm Việt tản lạc lẩn tránh trong vùng đất củ ( Bờ Bắc và Nam sông Hoàng Hà ), riêng 30% dân số thì di cư đến nơi Hồ Động Đình và thành lập một nhà nước có tên gọi là Xích Quỷ(8), quy tụ gồm các bộ lạc thuộc giống dân Viêm Việt được gọi chung là Dân Bách Việt.
Một Nhà Nước Xích Quỷ được thành lập vào năm Nhâm Tuất 2. 879 tr CN , một nhà nước sơ khai có tổ chức gần như một Vương Triều phong kiến, thành phần Thủ lĩnh các Tướng soái và Tráng đinh trong bộ lạc là những chiến sĩ có khả năng chống trả các cuộc xâm lăng của tộc phương Bắc để bảo vệ đất nước Xích Quỷ.
Năm 2.879 trước CN. Vua Đế Minh Lên Núi Lập Thiên Đài tế cáo Trời Đất truyền ngôi cho hai con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương. (tại vùng núi Quế Dương một trong dải núi Ngũ Lỉnh thuộc tỉnh Hồ Nam.) Đế Nghi được làm vua Phương Bắc, còn Kinh Dương thì làm Vua thống lỉnh cả bộ Tộc Bách Việt Phương Nam, tên húy là Lộc Tục. Kinh Dương Vương Lấy con gái của Động Đình Quân tên là Long Nữ sinh ra Sùng Lảm Hiệu là Lạc Long Quân( sinh năm Bính Thìn 2.825-tr CN ) sau đó được Đức Kinh Dương Vương cho cai trị vùng Đất Phương Nam Động Đình hồ,(Lạc Long Quân Lên ngôi năm Mậu Tý 2.793 tr CN ).
Đế Nghi, con Trưởng của Đế Minh vẫn cai trị các Bộ Lạc Viêm Việt vùng phía Bắc sông Hoàng Hà, sau truyền ngôi cho con là Đế Lai năm 2,843. Tr.CN. (9) Đến năm 2.790 trước CN. Đế Lai nhớ đến việc Nội Tổ của mình là Đế Minh đi tuần thú phương Nam gặp Tiên, nên có ý muốn đi về phương Nam du ngoạn, vì vậy Đế Lai để cho bề tôi tin cẩn của mình là anh em Xuy Vu (10) trông coi việc Nước, còn mình dẩn theo đoàn tùy tùng và gia đình đi tuần du phương Nam, khi đến hành cung của Lạc Long Quân, Đế Lai không thấy Lạc Long Quân, bấy giờ trong nước Xích Quỷ kể như vắng chủ. Đế Lai để vợ và con gái là Âu Cơ nghĩ lại Hành Cung nơi đây, riêng mình và cận thần đi du ngoạn khắp phương Nam. Trải xem các thắng cảnh hoa thơm cỏ lạ, các loại chim thú quý hiếm, hưởng đủ sơn hào hải vị, nhân khí hậu mát mẻ ôn hòa Đế Lai ưa thích quên cả chuyện trở về. Bấy giờ dân Bách Việt phương Nam đang khổ sở, vì nạn quấy nhiểu của Quan binh tùy tùng của người anh em họ Bách Việt, nên họ kêu gọi Đức Lạc Long Quân về cứu giúp họ.
Một hôm khi ở Thủy Phủ về, Lạc Long Quân thấy người con gái đẹp kiều diễm ở nơi hành cung của Ngài. Lạc Long Quân nghĩ đây là nhân duyên Thiên định nên biến hóa (11) thành một chàng trai tuấn tú khôi ngô ngỏ lời cầu hôn và đưa Âu Cơ cùng về Thủy Phủ kết duyên.
Đến khi Đế Lai trở về hành cung của Lạc Long Quân không thấy con gái nên cho Quan binh đi tìm đến Thủy Phủ, Lạc Long Quân dùng thần thông phép mầu biến hóa các loài thú dử xua đuổi bộ hạ của Đế Lai không cho đến gần Thủy Phủ. Bao nhiêu ngày vất vả tìm con không gặp, Đế Lai đành phải cùng đoàn tùy tùng đi trở về phương Bắc Hoàng Hà.
Năm 2.787 trước CN, cuộc kết duyên Âu Cơ cùng Lạc Long Quân đã 3 năm, sau đó Âu Cơ sinh một bọc trứng. Bà cho đó là điều dị thường nên đem bọc trứng ấy bỏ ngoài đồng. Tháng ngày dần qua bọc trứng nở ra trăm người con và thường ngày Đức Lạc Long Quân vẫn hay chăm nom, rồi thời gian trôi qua các người con nay đã trưởng thành người nào cũng anh minh, có tài trí, từ khi trăm con nên người. Sau đó Đức Lạc Long Quân mãi đi tuần du không về. Trong lúc ấy có những người dân Bách Việt xuống nước đánh bắt thủy sản, bị loài thuồng luồng (một Loài Cá Sấu mỏm Đao) làm hại, dân bèn kêu cứu Đức Lạc Long Quân “ Bố ơi ! Bố ơi ! Mau về cứu giúp chúng con! “ Ngài liền Xuất hiện chỉ dạy cho dân như sau: “ -Loài thủy tộc vốn ở dưới nước, chúng thấy các ngươi không cùng giống loài Thủy Tộc nên chúng làm hại, vậy từ nay kẻ nào xuống nước phải xâm vẽ mình như loài thủy tộc, thì chúng không còn hại các ngươi Nữa.” Dạy dỗ dân bộ lạc xong, Ngài biến mất. Cũng từ đó mới có tục xâm mình của dân tộc Bách Việt.
Năm 2.694 trước CN, một hôm vì nhớ quê nhà nên Âu Cơ dẫn đàn con trở về phương Bắc, bị quân canh ải của Hoàng Đế Hiên Viên ( lúc này đã diệt chi tộc Viêm Việt phía bắc, lên ngôi xưng Đế mở đầu cho những triều đại dân tộc Trung Hoa. Hiên Viên Hoàng Đế tên thật là Hữu Hùng Thị, có công đánh bắt được anh em Xuy Vưu ( Trung Quang ) tướng của Đế Dũ Võng trong trận Trác Lộc nên được dân tộc bắc Phương tôn lên làm Đế ) không cho về phương Bắc, nên Bà cùng các con phải trở về phương Nam, trên đường đi đến Tương Giang Dả ( Thuộc Tỉnh Hồ Nam )bổng Đức Lạc Long Quân hiện ra hỏi “ -Vì sao nàng định ra đi ? “ Âu Cơ Trả lời rằng :” -Thiếp cùng chàng nên nghĩa vợ chồng bấy lâu, nay vì nhớ đến song thân định đưa con trở về thăm cha mẹ ! “ Lạc Long Quân nói : “ -Ta và nàng vốn tương khắc như nước với lửa , ta là loài Rồng đứng đầu các loài dưới nước, nàng là Tiên làm người trên mặt đất, hai ta như âm dương tương hợp , nay nàng đưa con đi thì âu cũng là thiên định, nàng hãy dẫn 50 con về đất liền sinh sống, còn ta đưa 50 con xuống ven vùng biển để lập nghiệp cho chúng, nếu sau này có việc chi, khi lên ngàn xuống biển chẳng đặng bỏ nhau, có việc cần đến hãy gọi đến ta, thì tức khắc ta sẽ đến ngay .”

Nói xong Đức Lạc Long Quân dẫn 50 con đi về hướng biển Nam Hải, còn Âu Cơ đưa 50 con còn lại đi về hướng đất liền chia đất cho các con cùng cai trị. ( Đây là mật mả minh triết trong Kinh Diệc. Âm Dương nhị khí , trong Âm thăng hóa đến Dương tức là lên Núi, còn phần Dương đi dần đến Âm tức là xuống biển ). Sông Tương nước chảy hai chiều.
Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ,
Tương tư bất kiến,
Đồng ẩm Tương giang thủy.
Thưở ấy , 50 con theo Mẹ Âu Cơ đi đến vùng Ngũ Lỉnh Sơn, tất cả những người con đều tôn con trưởng lên làm thủ lĩnh bộ tộc còn được gọi là “ Kun “ hay là Hùng (Hồng) Vương, đặt tên nước là Văn Lang, theo thể chế Cha truyền con nối, còn các người con thứ được phong Lạc Hầu, Lạc Tướng chia nhau ra trấn giữ các vùng đất còn lại, trong thời Hùng Vương phân ra nhiều chức cai trị dân như :
· Lạc Hầu là những Anh Em của vua được phong thưởng cai trị các vùng đất ban cho làm Lạc Ap, hay ruộng Lạc.
· Lạc Tướng là những cận thần theo phò vua, có công với đất nước.
· Con trai trưởng của vua Hùng được gọi là Quang Lang.
· Con gái vua Hùng thì gọi là Mỵ Nương.
· Dân trong nước thì gọi là Lạc Đinh.
Các vua Hùng 4 dòng chi nối tiếp nhau cai trị nhà nước Dạ Lang ( thời kỳ chưa phát triển nền văn hóa nông nghiệp cao, ở nơi đây được 892 năm.(12)
Vào năm 2.240 trước CN, dòng chi đời Hùng Vương thứ 4 tức là Hùng Hoa Vương. Thủ lĩnh bộ tộc phương Bắc là Đế Quýnh đời Nhà Hạ, lại đem quân đánh chiếm vùng đất Bách Việt ở Bắc Ngũ Lỉnh Sơn, một trận chiến tranh mở rộng từ vùng Động Đình Hồ đến Ngũ Lỉnh sơn( gồm năm ngọn : Đại Dửu lỉnh, Kỳ điền lỉnh, Đô lung lỉnh, Minh chử lỉnh và Việt thành lỉnh. Di tích khảo cổ những nơi đây có nhiều tầng văn hóa của người Việt cổ chứng tỏ rằng chủ nhân vùng đất này là người Việt đã từng sinh tụ nơi đây nhiều thiên kỷ ). Cuộc chiến kéo dài 10 năm, sau cùng vua Hùng dòng chi thứ 4 cùng các thủ lĩnh các bộ tộc Bách Việt yếu thế nên phải bỏ lại vùng Hồ Động Đình di dân về hướng Nam, sau khi qua khỏi rặng núi Ngũ Lỉnh cứ nhắm theo hướng Nam mà đi đến vùng “ Lĩnh Nam “ ( nghĩa là phía Nam của dãy núi Ngũ Lỉnh Sơn ) tức là đất Phong Châu . Một lần Nữa dân tộc Bách Việt lập ra Nhà Nước Văn Lang( thời kỳ văn hóa nông nghiệp phát triển cao, năm 2230 Trước CN). Nước ta bấy giờ có địa giới như sau : - Phía Đông giáp biển Nam Hải, Phía Nam giáp nước Hồ Tôn( Chiêm Thành ), Phía Tây giáp nước Nam Chiếu, còn phía Bắc giáp Bắc Ngủ Lỉnh.
Hùng Vương Dòng Chi thứ 4 chia nước ra làm 15 bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Y Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm, Tượng Quận.
Vua Hùng Sai người đúc Trống Đồng có chạm khắc các hình ảnh trang trí trên Trống Đồng nói lên sự thạnh trị của Đất nước ta thời bấy giờ :
· Nơi tâm của Trống có hình Mặt Trời thiên đỉnh và 14 Tia Sáng tượng trưng cho 15 bộ của Quốc Gia Văn Lang. Trống Đồng dùng cho các lễ hội, hoặc làm hiệu lệnh cho toàn dân khi có việc chi hữu sự, mỗi Bộ, mỗi Làng( Lang) đều có Trống Đồng
· Các hình người Việt Cổ đầu đội mủ lông chim mặc váy xòe múa hát tay cầm rìu, giáo thiên về tinh thần thượng vỏ . Hoặc có những dụng cụ nhạc như : Khèn, Sên, Phách , nói lên nền văn hóa và tín ngưỡng cổ truyền.
· Những hình thuyền tượng trưng Giao Long( Rồng ) khi xuống nước, Hình chim xòe cánh bay lượn tượng trưng cho Tiên là nguồn gốc Dân Tộc . Là tín ngưỡng thờ mặt Trời một tín ngưỡng phổ thông thời bấy giờ.
· Hình hai người cầm chày giả gạo trong cối đá nói lên nền nông nghiệp của người Việt Cổ phong phú.
Ngoài việc cắt đặt quan chức Tư Mả hay còn gọi là Bố Chính, Tư Đồ, Tư Khấu, Tư Không xem xét về hành chính cai trị dân của một Bộ, dưới còn có chức Quan khác gọi là Khối. Các chức Quan đều cha truyền con nối gọi đó là Phụ Đạo, và các vua cùng dòng chi người nào có tài pháp thuật cao thâm, y học thần kỳ thì được đưa lên làm vua vì vua Hùng là một vị Giáo Vương thay mặt các đấng Thần Linh được tôn sùng mà trị dân, vì thế các vua thay nhau nối ngôi đều lấy hiệu là Hùng Vương. . . chứ không thay đổi, cho đến mãi hết dòng chi vua Hùng Vương thứ 18 ( Năm 208 trước CN ).
Trải qua qua mấy ngàn năm dân tộc Việt chúng ta luôn chiến đấu bảo tồn nòi giống trong cuộc “Nam tiến”. Từ miền đất xa xôi trong quá khứ, khởi từ lưu vực sông Hoàng Hà đến vùng núi Ngũ Lỉnh. Dân tộc Bách Việt vẫn đứng vững xuôi về phương Nam bỏ lại miền đất quá khứ cho “dân tộc bắc phương.” Các triều đại phong kiến Bắc Phương lại xâm lược tìm cách đồng hóa dân tộc Bách Việt từ Động Đình Hồ đến Thanh Hóa xóa bỏ những vết tích nền văn hóa Bách Việt. Cũng từ đó tộc Bách Việt bị chia chẻ ra nhiều mảnh, chỉ còn lại một phần của bộ tộc Bách Việt tiến xuống đồng bằng của Phong Châu hay Giao Châu bộ, lập thành quốc gia Văn Lang
Đến năm 208 trước CN, cuối dòng chi Hùng Vương thứ 18, vua Hùng không có con trai trong chi tộc, không người tài giỏi nên truyền ngôi lại cho một Lạc Hầu tên là Thục Phán có tài về quân sự, có công ngăn chận sự bành trướng các tộc phương Bắc Đời Nhà Tần đưa 50 vạn quân sang xâm chiếm nước ta năm 218-208 Tr CN. Viên tướng Tần là Hiệu Úy Đồ Thư cùng Năm mươi vạn quân đánh chiếm một giải đất từ Ba Thục cho đến Phong Châu. Vua Hùng Vương dòng chi 18 hoàn toàn bất lực trước cuộc xâm lăng của quân Tần, tất cả dân quân bỏ Kinh Đô vào rừng không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng cử những người tuấn kiệt lên làm tướng để đêm đêm ra đánh phá Quân Tần. Trong việc suy cử một vị lãnh đạo chống phá Quân Tần không ai khác hơn là Thục Phán , vì Thục Phán là người trí dũng song toàn một Lạc Hầu thuộc tộc người Tây Au ( một nhánh của Dân Bách Việt )ở vùng đất Ba Thục( 13 ). Sau gần 10 năm chống Quân Tần , Thục Phán đã giết được Đồ Thư đánh tan rã năm mươi vạn quân của Tần Thủy Hoàng, Vua Hùng đành phải nhượng ngôi lại cho Thục Phán.
Thục Phán lên Ngôi lấy hiệu là An Dương Vương sau đó kết hợp hai tộc Tây Au Và Lạc Việt, đổi tên nước là Au Lạc và xây thành Cổ Loa hay là Tư Long Thành ( nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ,) thành này được xây theo tất cả 7 vòng hình trôn ốc, một đường thành xoắn thuận vào, thì một vòng xoáy ngược ra lên cao, cứ thế mà xây lên 3 vòng thành, sau cùng là những vòng thuận rồi đến khu vực vua ngự, đó sáng kiến của một nhà quân sự tài ba tên là Kim Quy.
Khi lập ra triều chính Au Lạc và xây xong Loa Thành. An Dương Vương củng cố quân bị vũ khí, dạy dân đúc các thứ công cụ, cày, cuốc, binh khí, tên bằng đồng thau và kỹ thuật Liên Châu nỏ do Tướng Quân Cao Lổ phát minh, là loại vũ khí tối tân lợi hại vào bậc nhất thời ấy .
Năm 206 trước CN. Khi Nhà Tần bị diệt bởi Lưu Bang và Hạng Vũ, thời này sử ký gọi là thời kỳ đầu Tam Quốc ( 14 ) . Bấy giờ có một viên tướng của Nhà Tần là Triệu Đà chạy xuôi về Nam, chiếm nước Thục và lập ra Nước Nam Việt và bắt đầu dòm ngó nước ta. Triệu Đà đã bao phen đem quân sang đánh nước ta. Quân của Triệu Đà tiến công vào thành Cổ Loa nhưng không còn người trở ra, tất cả đều chết bởi cung nỏ của quân ta, quân Triệu đại bại trở về không hiểu nguyên do thế nào, quân Triệu đều cho rằng: -An Dương Vương có “nỏ thần” (15) một phát bắn ra tiêu diệt hằng ngàn tên.
Biết mình đánh không lại An Dương Vương nên Triệu Đà đề nghị giãng hòa và cầu hôn cho con trai là Trọng Thủy lấy Mỵ Nương con gái An Dương Vương. Triệu Đà chia quân giữ lại bộ Vũ Ninh ( Bắc Ninh, Hà Bắc ngày nay ) từ Bình Giang vùng sông Thiên Đức huyện Đông Ngàn trở về phía Bắc thì do Triệu Đà cai Quản, còn từ sông Thiên Đức trở về phương Nam thì của Vua An Dương Vương cai quản. Về sau Trọng Thủy nắm được bí mật thiết kế quân sự “ Thành Cổ Loa “ và “ Liên Châu Nỏ “ đưa cho Triệu Đà.
Đến năm 179 trước CN. Triệu Đà xua quân đánh chiếm được thành Cổ Loa nhờ nắm được bí quyết quân sự của Thành, vua An dương Vương bỏ chạy ra hướng biển rồi tử tiết sau 28 năm trị vì nước Au Lạc, họ Hồng Bàng đã kết thúc sau 27 thế kỷ trị vì dân tộc Bách Việt, trải qua 19 Dòng Chi hằng mấy mươi đời vua của dân tộc, đồng thời dân tộc Bách Việt phải sống hơn một ngàn năm trong những đêm dài đô hộ của các triều đại phong kiến tộc phương Bắc./.
Theo Hồng Bàng Thị :
1- Chi Càn. Hùng Dương Vương ( Lộc Tục . Hiệu là Kinh Dương Vương, sinh năm Nhâm Ngọ 2.919, lên ngôi năm 41 tuổi, vào năm Nhâm Tuất 2.879-đến đinh Hợi 2.794.tr CN tại vị được 85 năm)
2- Chi Khảm. Hùng Hiền Vương ( Sùng Lãm . Hiệu là Lạc Long Quân sinh năm Bính Thin 2.825. tr CN. Lên ngôi năm 33 tuổi, năm Mậu Tý 2.793. tr CN đến năm Bính Thin 2.525 tr CN. Tại vị và không rõ truyền được bao nhiêu đời được tất cả 269 năm.)
3- Chi Cấn. Hùng Quốc Vương .( Húy là Hùng Lân.Sinh năm Canh Ngọ 2.570 tr. CN. Lên ngôi năm 18 tuổi năm Đinh Tý 2.524 tr. CN đến năm Bính Tuất 2.255 tr. CN. Tại vị và truyền nhiều đời được tất cả 270 năm)
4- Chi Chấn: Hùng Hoa Vương .( Húy là Bửu Lang không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi 2.254 tr CN đến năm Mậu Thín 1.918 tr CN. Tại vị truyền nhiều đời được tất cả 342 năm)
5- Chi Tốn : Hùng Hy Vương .( Húy là Hy Lang sinh năm Tân Mùi 2.030 tr. CN lên ngôi năm 59 tuổi năm Mậu Thìn 1.917 tr CN đến năm Mậu Tý 1.713 tr. CN. Tại vị truyền nhiều đời được 204năm.)
6- Chi Ly : Hùng Hồng Vương ( Long Tiên Lang. Sinh năm Tân Dậu 1.740 tr CN lên ngôi năm 29 tuổi Kỷ Sửu 1.712. tr CN. Đến năm Kỷ Dậu 1.632 tr CN. Tại vị truyền 2 dời vua được 81 năm .)
7- Chi Khôn : Hùng ChiêuVương .(Quốc Lang sinh năm 1.768 tr. CN lên ngôi năm 18 tuổi Canh Tuất 1.631 tr CN đến năm Kỷ Tỵ 1.431 tr CN . Tại vị truyền 5 đời vua được 200 năm.)
8- Chi Đoài: Hùng Vỹ Vương ( Vân Lang sinh năm Nhâm Thín.1.469 tr CN lên ngôi năm 39 tuổi . Từ năm Canh Ngọ 1.430 tr CN đến năm Kỷ Dậu 1.332 tr CN. Tại vị truyền 5 đời vua. Được 103 năm)
9- Chi Giáp : Hùng Định Vương .( Chân Nhân Lang sinh năm Bính Dần1.375 tr CN lên ngôi năm 45 tuổi, tư năm
1. Canh Ngọ 1.331 tr CN đến năm Kỷ Hợi 1.251tr CN. Tại vị truyền ngôi 3 đời vua được 80 năm.)
10- Chi Ất : Hùng Uy Vương.( Hoàng Long Lang sinh năm Giáp Ngọ 1.287 tr CN lên ngôi Năm 47 tuổi từ năm Canh Ngọ 1.250tr CN đến năm Kỷ Hợi .1.162 tr CN. Tại vị và truyền 3 đời vua được 90 năm.)
11- Chi Bính : Hùng Trinh Vương.( Hưng Đức Lang sinh năm Canh Tuất 1.211 tr CN lên ngôi năm 51 tuổi từ năm Canh Tý 1.161 tr CN đến năm Bính Tuât 1.055 tr CN. Tại vị và truyền 4 đời vua được 107 năm .)
12- Chi Đinh : Hùng Vỏ Vương .( Đức Hiền Lang sinh năm Bính Thân 1.105 tr CN lên ngôi năm 52 tuổi, từ năm Đinh Hợi 1.054 tr CN đến năm Nhâm Tuất 969 tr CN . Tại vị và truyền 3 đời vua được 86 năm.)
13- Chi Mậu : Hùng Việt Vương.( Húy là Tuấn Lang sinh năm Kỷ Hợi 982 tr CN lên ngôi năm 23 tuổi từ năm 968 tr CN đến năm Đinh Mùi 854 tr CN. Tại vị truyền được 115 năm.)
14- Chi Kỷ :Hùng Anh Vương.( húy Viên Lang sinh năm Đinh Mảo 894 tr CN lên ngôi năm Mậu Thân 42 tuổi từ năm 853tr CN đến năm Bính Tuất 753 tr CN. Tại vị truyền 4 đời vua được 101năm.)
15- Chi Canh : Hùng Triệu Vương.( Cảnh Chiêu Lang sinh năm Quý Sữ 788 tr CN lên ngôi năm 35 tuổi từ năm Đinh Hợi 752 tr CN đến năm Canh Thân 661 tr CN. Tại vị truyền 3 đời vua 91 năm. )
16- Chi Tân : Hùng Tạo Vương.(Đức Lang Quân sinh năm Kỷ Tỵ 712 tr CN lên ngôi năm Tân Dậu 660 tr CN đến năm Nhâm Thìn 569 tr CN . Tại vị 92 năm.)
17- Chi Nhâm : Hùng Nghị Vương ( Bảo Quang Lang sinh năm At Dậu 576 tr CN lên ngôi 9 tuổi .Năm Quý Tỵ 568 tr CN đến năm Nhâm Thân 409 tr CN. Tại vị truyền 4 đời vua được 160 năm. )
18- Chi Quý : Hùng Duệ Vương.( sinh năm Canh Thân 421 tr CN lên ngôi năm 14 tuổi từ năm Quý Dậu 408 tr CN đến 208 tr CN. Tại vị truyền được 4 đời vua là 200 năm )
19- An Dương Vương. ( Thục Phán sinh năm Quý Mảo 258 trước CN lên ngôi năm 51 tuổi từ năm 207 tr. CN đến năm 179 tr CN. Tại Vị được 28 năm.
THEO HÙNG TRIỀU NGỌC PHẢ.
PHỤC HY + NỮ OA
VIÊN ĐẾ THẦN NÔNG
TỘC VIÊM VIỆT
ĐẾ MINH
QG, XÍCH QUỶ TN, BẮC HOÀNG HÀ
KINH DƯƠNG VƯƠNG ĐẾ NGHI
DÂN TỘC BÁCH VIỆT
LẠC LONG QUÂN ĐẾ LANG
ÂU CƠ
CÁC VUA HÙNG VƯƠNG
QG. ÂU LAC
À NƯỚC ÂU LẠC
VĂN HÓA HÙNG VƯƠNG
HÀ ĐỒ LẠC THƠ THỜI CÁC VUA HÙNG:
· Cộng theo các chiều : Ngang, Dọc , Chéo đều có tổng số là 15
· Trong Hà Đồ có 55 điểm và Lạc Thư có 45 điểm tổng cộng là 100 điểm,con số ấy tương ứng với 100 trứng nở thành trăm con do Mẹ Âu Cơ sinh ra, 100 người con ấy là tổ tiên của người Bách Việt, Hà Đồ Lạc Thư chính là mật mã Văn hóa riêng của Tộc Bách Việt, đó cũng là tượng số của Bát Quái Đồ Hậu Thiên. Trong Lạc Thư những con số nằm 3 hàng ngang dọc, nếu như cộng lại tất cả ngang, dọc, chéo, đều có số tổng là 15, đó là một ma phương (carré magic), con số tổng 15 cho ta biết từ khai lập sơn hà của cha ông chúng ta lấy con số 15 ấy định cho cả một quốc gia có 15 Bộ là 15 quận của quốc gia Văn Lang.
(1) Thái Cực+ (2) Lưỡng Nghi + (4) Tứ Tượng + (8) Bát Quái = 15 * (3) Tam Tài thị hiện tức là Lạc Thư = Tượng số là 45 .
Con số 5 của Hà Lạc nơi trung cung là con số sinh kỳ diệu, từ ngàn xưa dân tộc ta đã lấy con số này làm ngày kỷ niệm Đức Mẹ Âu Cơ tức là ngày mùng 5 tháng 5 đúng vào tiết Đoan Ngọ( sau đó chúng ta bị tộc phương Bắc đưa ngày kỷ niệm của Khuất Nguyên (307-246 trước CN,) cũng nhằm ngày mùng 5 tháng 5, để đồng hóa và làm xóa dấu vết lịch sử dân tộc ta, người đời sau sẽ quên đi Văn Hóa cội nguồn Bách Việt, đó là ý đồ của tộc phương Bắc.) Chúng ta giỗ tổ nhằm ngày mùng 10 tháng 3. Có ý nghĩa như sau : - số 10, là con số thành cao nhất trong Hà Đồ, cũng gọi con số + ( thập) trong dịch lý Nòng Nọc gọi là Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo, đó là một học thuyết âm dương nói về sự sinh thành của vũ trụ rất xa xưa, chưa ai chứng minh nó có tự bao giờ trong lịch sử văn hóa con người Đông Nam Á Châu. Bất kỳ một sự việc nào cũng phải hội đủ hai điều kiện Âm dương đối kháng và hòa hợp thống nhất, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, tác động lẩn nhau sinh hóa vạn hữu, đó là nét cơ bản để nhận thức nắm các quy luật tự nhiên, cũng là nền tảng của tôn giáo sau này ta gọi đó Quốc Đạo, con số 3 (Tam) chỉ vào tháng trong năm, từ xưa ông cha chúng ta đã lấy Thập Thiên Can và thập nhị Địa Chi mà nói đến giờ, ngày, tháng, năm. Tháng 3 là tháng Thìn, Thìn là Rồng (vì nguồn gốc dân tộc ta là con Rồng, Cháu Tiên), con số 3 là chỉ về Tam Tài : Thiên, Địa, Nhân, bao hàm cả vũ trụ, cái bao hàm chứa vũ trụ, mà ta gọi đó là Đạo ( Đạo sinh 1, 1 sinh 3, 5 đó là sự sinh hóa của Đạo, mà nói đến Đạo là bất ly Tam, Ngũ), trong Tam Tài con người là Nhân, đồng quyền hợp nhất cùng vũ trụ, điều kỳ diệu trong ý nghĩa của thuyết Huyền sử về Hồng Bàng Con Rồng Cháu Tiên, nó cũng nói lên được những cơ bản sự sinh hóa của vạn hữu vũ trụ, theo quan niệm của cha ông chúng ta, con người là do sự kết hợp 2 thành phần Linh và Thể không bao giờ tách rời, do đó trong thời kỳ Hồng Bàng cổ sử đã trải qua, nòi giống Bách Việt vẫn vững mạnh tồn tại gần năm ngàn năm, qua bao biến cố thăng trầm lịch sử, nhưng hồn thiêng Quốc Tổ oai linh và xác thể Đất nước Sơn hà vẫn không rời xa nhau, bàn tay vô hình Thiêng Liêng cha ông chúng ta vẫn đang âm thầm lèo lái vận chuyển dòng sinh mệnh Dân Tộc Đất Nước, tiến đến kỷ nguyên văn minh tín ngưỡng, một nền văn hóa Đạo Đức tổng hợp các nền Đạo trên thế giới lập thành gương mẫu chung cho toàn nhân loại sau này, đó là một xã hội Tân Dân Thánh Đức.
Muốn có một kỷ nguyên Thánh Đức thì chính Dân tộc Bách Việt hãy đoàn kết lại trong tinh thần con chung một Cha Mẹ, một nhà , một đất nước, một tiếng nói, một tư tưởng và một việc làm thiết thực cho dân tộc, đất nước. Nước Việt Nam trở nên một cường quốc thái bình, đó chính là con đường Quốc Đạo mà cha ông chúng ta đã định phận và lèo lái sinh mệnh dân tộc chúng ta đến quốc độ Thánh Đức./.
Sưu khảo. Thiên Nhiên Kỷ
NHỮNG TÀI LIỆU THAM KHẢO :
· Dịch kinh linh thể. GS, Kim Định.
· Thái Bình Minh Triết. GS. Kim Định.
· Việt Sử Giai Thoại. GS. Nguyên Khắc Thuần.
· Khai quật kho tàng Hừng Việt. BS.YK. Nguyễn Xuân Quang
· Cổ Sử Việt Nam. GS đào Duy Anh.
· Hùng Vương ST. Ngọc Phả cổ truyền. GS.Trần Huy Bá .
· Hùng Vương Dựng Nước . Hoàng Xuân Chính.
· Thời Đại Hùng Vương . Nguyễn Đổng Chi. Văn Tân. Nguyễn Linh. Lê Văn Lang. Hoàng Hưng.
Phần Chú giải:
(1)-/ PHỤC HY: 3434 tr. TL
Theo cổ sử Trung Hoa là một vị vua trong Tam Hoàng : Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế thời thượng cổ , dậy dân đánh cá, thuần dưởng chăn nuôi súc vật, Vạch ra Bát Quái, cũng là ông tổ chữ viết. Cũng có thuyết nói về Phục Hy là thuyết Tam Hoàng : Phục Hy, Toại Nhân, Nữ Oa
Phục Hy còn có tên là Thái Hạo, Bào Hy hiệu Thanh Tinh (Rồng Xanh). Theo truyền thuyết Phục Hy lấy Bà Nữ Oa tạo ra quy củ hôn nhân chồng vợ, dạy kết thằng ( Gút Dây) để ghi nhớ các sự việc.
Phục Hy không thể là người Trung Hoa vì Phục Hy là con của Thần Viêm Đế Mặt Trời, cho nên Phục Hy Nữ Oa đều là họ Tiên Rồng..
(2) còn được gọi là Dịch Nòng Nọc thoát thai từ hình của những đoạn dây thắt gút đó là chữ tối cổ của loài người, sau này chúng ta gọi đó là chữ Khoa đẩu và định các quẻ theo các hiện tượng củaThiên địa. Các ký tự chỉ về tứ tượng của Dịch Nòng Nọc đây là phần tứ hành :
TỨ TƯỢNG:
I I = Lửa = Nọc = Thái Dương.
OO= Nước = Nòng = Thái âm.
I O= Khí = Nọc+Nòng = Thiếu Âm.
O I= Đất = Nòng + Nọc = Thiếu Dương
TƯỢNG BÁT QUÁI TIÊN THIÊN:
CÀN = I I I = nọc+nọc+nọc. ( - - - )
DOÀI= O I I = nòng+ nọc + nọc. ( o - - )
LI = I O I = nọc + nòng + nọc. ( - o - )
CHẤN = O O I = nòng + nòng + nọc. ( o o - )
KHÔN = O O O = nòng + nòng + nòng. ( o o o )
CẤN = I O O = nọc + nòng + nòng. ( - o o )
KHẢM = O I O = nòng + nọc + nòng. (o - o )
TỐN = I I O = nọc + nọc + nòng. ( - - o )
Phục Hy và Nữ Oa là nguyên tổ của Viêm Việt tộc có công sáng tạo văn hóa Việt Nho ( Sau bị Hiên Viên Hoàng Đế thủy tổ của Tộc Trung Hoa chiếm lấy và khai thác trở thành kinh dịch của Trung Hoa .) và hướng dẫn bộ tộc Viêm Việt sinh sống bằng nghề canh tác trồng trọt lúa nước và đánh bắt thủy hải sản. Dòng chi Phục Hy làm vua được 315 năm truyền được 5 đời đều lấy hiệu là Phục Hy.)
(3)-/ THẦN NÔNG, 3118 tr TL
Theo truyền thuyết Thần Nông là một vị vua trong ba vị vua của sử Trung Hoa như đã nói trên, Thần Nông là một vị Thần Nông Nghiệp, ông có đầu giống như đầu Bò, người dạy dân chúng biết cách làm Nông Nghiệp, trồng trọt, dùng cây cỏ để chửa bệnh, ngày nay còn quyển sách thuốc “ Thần Nông Bản Thảo “ Ong có hiệu là Viêm Đế, Người ta cho rằng ông là vị thần gió, hoặc là vị Thần Lửa. Theo sử của Trung Hoa Ong làm vua và truyền được 8 đời rồi mới bị Hiên Viên Hoàng Đế tiêu diệt.
(4)-/ HIÊN VIÊN HOÀNG ĐẾ. 2697 tr. TL
Vào năm 2697 tr. TL. Huỳnh Đế Hiên Viên tên thật là Hữu Hùng Thị, Thủ lĩnh của dân tộc Tây Bắc Á, là dân tộc Du Mục tràn xuống phía Nam sông Hoàng Hà, đánh chiếm các bộ tộc định cư nông nghiệp và lên ngôi vua sau khi diệt anh em Xuy Vưu và Đế Du Võng là Hoàng Triều con cháu Thần Nông Bắc Hoàng Hà.2750-2696 tr.CN. Hiên Viên cầm quân đánh chiếm thêm bờ Nam sông Hoàng Hà là vùng đất của các bộ tộc Viêm Việt Thần Nông Nam, chiếm lấy đất đai và văn hóa của dân tộc Viêm Việt lập ra các triều đại của Trung Hoa sau này. Người Trung Hoa xem Hoàng Đế là vị Quốc Tổ của mình.
(5)-/ĐẾ NGHI. 2889-2884. Tr. TL
Là con của Đế Minh là anh lớn của Thái Tử Lộc Tục, được Đế Minh cho làm Vua Phương Bắc Hoàng Hà sau truyền ngôi cho con là Đế Lai 2843-2794. Và Đế Lai truyền ngôi lại cho con là Đế Ly 2793- 2751 tr. TL. Rồi Truyền cho Đế Du Võng 2750-2696 tr. TL mới bị mất Nước.
(6)-/ KINH DƯƠNG VƯƠNG 2879- 2794 TR. TL.
Thái Tử Lộc Tục sau được cha truyền ngôi làm vua phương Nam năm Nhâm Tuất 2.879 tr CN , lấy hiệu là Kinh Dương Vương, anh một cha khác mẹ của Kinh Dương Vương là Đế Nghi ( 2.889- 2.884 tr. CN ), lấy Bà Long Nữ Sinh ra Sùng Lảm sau này nhường ngôi cho con, Sùng Lảm lấy Hiệu là Lạc Long Quân.
(7)-/ Hồng Hồ.
Khi lập thành Quốc Gia Xích Quỷ ở Phương Nam có cái hồ lớn gọi đó là Hồng Hồ vì trong hồ có vô vàn chim Hồng Hoàng, Bồ Cắt là một loại chim Hạc sống cộng sinh cùng dân tộc Việm Việt, trong lúc tiết trời lạnh giá mùa đông loài chim Hồng Hạc ấy thiên di về phương Nam để lánh mùa đông, người xưa biết dùng lông chim Hồng để trang điểm trên mủ, áo, và cũng lấy biểu tượng của chim là đại diện cho một tinh thần dân tộc sống tự do trong bầu trời bao la, là con của thần mặt trời, thần lửa, thần gió, thần mặt trăng.v.v. . . Người Viêm Việt Cổ chạm khắc hoa văn trang trí trên vật dụng sinh hoạt như đồ đất nung và trên đá. Dân tộc Viêm Việt cư trú từng nhóm vài mươi người đến trăm người tạo nên một bộ lạc, nhiều nhóm liên kết lại gọi chung là dân tộc Bách Việt. Tộc Bách Việt sống chủ yếu nghề trồng lúa, chăn nuôi, thuần dưỡng thú vật ở lưu vực sông Hoàng Hà và đánh bắt hải sản các vùng sông, hồ, ven biển Nam Hải. Tộc Bách Việt đã có một nền văn hóa phong phú, biết dệt vỏ cây đay làm áo quần, sản xuất ra các dụng cụ bằng đất nung, những công cụ Rìu, Cày, Cuốc bằng đá dùng trong canh tác, vv.. . ..
(8) NƯỚC XÍCH QUỶ. 2879 tr. TL
Khi được cha truyền ngôi Kinh Dương Vương thành lập Quốc Gia có tên là Xích Quỷ có ý nghĩa là đất nước của” Mặt Trời Đỏ”. Người Việt cổ thường lấy phẩm đất màu đỏ trang điểm trên người như màu của ngọn lửa đỏ, cũng có nghĩa là “ người lửa đỏ “ hay Nước Xích Quỷ là của tộc Người lửa đỏ hay Người Mặt Trời Lửa Đỏ ( Một trong 4 chi của đại Tộc Viêm Việt là : Lửa, Nước, Gió, Đá ). Cũng là phần Tứ Hành Của Vũ Trụ theo quan niệm của người Việt cổ, là trứng vũ trụ Nòng Nang, chia làm hai phần : Nòng Âm và Nọc Dương, hai họ Bộc Nòng gồm những Bộc mặt trời dỉa tròn như các nước :Tây Thục , Ba Thục , các chi Tày, Thái, Nùng, Dao. . . và Việt Nọc Mặt trời Thái Dương gồm cả trăm Việt như Man Việt, Dương Việt, Lạc Việt, Lang Việt. . . các nước như Việt Câu Tiễn, U Việt, Ngô Việt, Mân Việt, Kinh Sở . . .Việt Nam là lịch sử thực thể có hiện thực còn thấy trước mắt chúng ta ngày nay. Đối với Đế Minh, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương là một thể chứng lịch sử qua dạng truyền thuyết, không phải là do các nhà Việt Nho bịa ra, bằng chứng bốn chi người Mặt Trời là bốn họ Việt của Đế Minh mà Trung Hoa gọi là Tứ Di, Tứ Man vẫn còn thực thể trên vùng phía Bắc nước ta dưới tên Man ( Mán, Mường. . . ) Kẻ, Ná (Nàng) Lang. Và cùng với bốn Châu: Châu Man, Châu Kì, Châu Giao, Châu Phong. . . . Tóm lại 50 con thuộc ngành Au ( Theo Mẹ Âu Cơ) là Au, Tày, Thái, Nùng. . . . Còn 50 con theo ngànhh Lạc ( Theo Cha Lạc Long Quân) là Giao, Lạc Dân, đông Di, Khuyển Nhung. .
Việc bọc trứng nở trăm con của Lạc Long Quân, Âu Cơ thể hiện qua các sắc dân tộc ở ngay Việt Nam hay trong vùng Đông Nam A mà chúng ta đã thấy, đều xuất phát từ gốc Việt mà ra.
(9) Đế Lai là con Đế Nghi lên ngôi năm 2.843 tr CN sau truyền ngôi cho con là Đế Ly và Đế Ly truyền ngôi cho Đế Du Võng thì vùng Bắc Viêm Việt mới bị rơi vào tay Hiên Viên Hoàng Đế của Trung Hoa.
(10)-/ Xuy Vu. Là tùy tướng của Đế Lai Hoàng Triều Thần Nông Bắc Hoàng Hà truyền xuống đến đời Đế Du Võng . Xuy Vưu có 81 anh em, theo giúp các vua Con Cháu Thần Nông Bắc trải qua 3 đời, cũng dòng dỏi họ Khương Viêm Đế Thần Nông, họ có công đánh trả lại cuộc xâm lăng của Hiên Viên Hoàng Đế, nhưng về sau cũng bị bại và mất nước.
(11)-/ Tục truyền rằng đức Lạc Long Quân có thần thông biến hóa, có tài sống dưới nước như ở trên cạn, Ngài có lập một Thủy Phủ cai quản cả trên cạn và dưới nước.
(12)-/Dòng chi thứ 4 của Hùng Hoa Vương húy là Bửu Lang sinh năm Canh Ngọ 2270, lên ngôi năm Đinh Hợi 2254 tr. CN truyền nhiều đời đến năm 1918 tr. CN. Được 336 năm mới đến dòng chi thứ 5 là Hùng Hy Vương
(13)-/Nước Ba Thục có trước thời Tam Quốc của Trung Hoa cũng là Dân Tộc thuộc dòng Bách Việt, một bộ lạc lớn mạnh ở phía Bắc nước Văn Lang, thường chống giữ ngăn chận những cuộc xâm lăng tộc Hoa Phương Bắc.
(14)-/Sau khi nhà Tần bị Hạng Vỏ và Lưu Bang diệt các lãnh chúa cát cứ địa phương xưng Vương gồm : Hán , Ngô , Sở . sau này Lưu Bang thống nhất được Trung Hoa.
(15)-/ Tướng Quân Cao Lổ là một nhà kỹ thuật quân sự tài ba, ông tạo ra loại Nỏ Liên Châu mỗi lần bắn một phát được 4, 6 mũi tên đồng có chiều dài 1,5 m, một loại Nỏ phòng thủ rất mạnh và hiệu quả nhờ tầm bắn xa, do 2 người sử dụng được đặt cố định trên thành có bệ xoay chuyển hướng bắn. Quân Triệu ngỡ ngàng khi bị thương vong quá nhiều do cung nỏ gây nên và chúng cho rằng An Dương Vương có Nỏ Thần./.

OS
 

Viva la vida

Xe tăng
Biển số
OF-97013
Ngày cấp bằng
25/5/11
Số km
1,507
Động cơ
409,666 Mã lực
Có một số bài của Nguyên Nguyên đọc khá thú vị nêu ra các giả thuyết về cội nguồn dân tộc:
18 đời Hùng Vương-một ý niệm liên tục
http://e-cadao.com/Coinguon/18doihungvuong1yniem.htm
Tiền đề và truyền thuyết Hùng Vương
:
http://e-cadao.com/Coinguon/truyenthuyethungvuong0.htm
Nước Sở: Cái Nôi của dân Việt
http://e-cadao.com/Coinguon/truyenthuyethungvuong2.htm
Tây Thi-gái nước Việt:
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong10.htm
Nước Văn Lang
http://e-cadao.com/Coinguon/truyenthuyethungvuong4.htm
Mô hình nước Văn Lang:
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong5.htm
Lạc Việt và Việt Nam:
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong6.htm
Hakka (Hẹ) và Lạc Việt:
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong7.htm
Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (8):Thịt Cầy, dân Triều Tiên và người Hẹ (Hakka)

http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong8.htm
Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (16):Hiên Viên, Xuy Vưu và Thần Nông
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong16.htm
 
Chỉnh sửa cuối:

ktphong

Xe tăng
Biển số
OF-109486
Ngày cấp bằng
18/8/11
Số km
1,317
Động cơ
400,718 Mã lực


Re:Lịch sử Nước Việt nam có khi nào??? 10 04 2011 23:26:39 (permalink)

VĂN HOÁ VÀ CỘI NGUỒN VIÊM VIỆT

LỜI NÓI ĐẦU.

Người Việt chúng ta thường hãnh diện về một nền văn hóa Dân Tộc trải qua năm ngàn năm văn hiến, từ thời lập quốc gia Xích Quỷ từ bờ Nam sông Hoàng Hà đến Hồ Động Đình, Lưỡng Quãng sau cùng đến Phong Châu, từ nhà nước Văn Lang, trải qua các triều đại trung cổ cho đến Quốc Gia Việt Nam hôm nay, chúng ta vẫn giữ vững truyền thống của dân tộc Bách Việt, chúng ta tự hào có tinh thần không khuất phục, bị nô lệ mà không đồng hóa ý chí luôn quật cường trước bất kỳ cuộc xâm lăng nào của ngoại bang bằng cớ tiếng Việt Ngàn đời vẫn giữ nguyên tiếng Việt, dù các thứ ngoại ngữ du nhập vào Việt Nam V.V. luôn vẫn Việt Ngữ hóa.(Dân Tộc hóa)

Thời kỳ cha ông chúng ta lập quốc, theo truyền thuyết Đại tộc Viêm Việt đã có một nền văn hóa phong phú, hai vị nguyên tổ của chúng ta là Phục Hy và Nữ Oa tạo ra “ Quy Củ “ là một nếp chuẩn thằng cho sự nhận định nhân sinh và vũ trụ quan Âm dương, những khái niệm đầu tiên được áp dụng truyền từ đời này sang đời khác bằng chứng là cái giếng ( Việt Tỉnh) dưới tròn trên vuông, những ký tự văn thư ghi chép bằng chữ Nòng Nọc ( Âm Dương ) = O + l. ( giống như Kipu ký tự của dân tộc Inca thời cổ ở Nam Mỹ )

Phục Hy phát minh ra Bát Quái Đồ Tiên Thiên bằng những ký tự Nòng Nọc cổ xưa nhất của loài người.

Gần một ngàn năm sau. Hiên Viên Hoàng Đế ( Vị Quốc Tổ của Dân Tộc Trung Hoa ) là một nền văn minh Du mục Tây Bắc Á vượt sông Hoàng Hà chiếm đất, cướp lấy văn hóa Nông nghiệp của chúng ta rồi cải biến thành một nền văn hóa riêng của họ, Việt Nho của chúng ta bị đè bẹp trước Hán Nho trong thời kỳ hơn một ngàn năm Bắc thuộc.( 179.tr CN đến . 939. Sau CN.)

Thời tiền sử là khuyết sử, vì chưa có sự ghi chép cặn kẽ các biến cố xảy ra theo thời gian, cho nên huyền sử là sử viết theo hàng dọc, có tính cách tâm linh xoay quanh tác động lý tưởng cho tinh thần hào hùng của dân tộc, đồng thời biểu thị những sơ nguyên tượng Quốc Tổ Đại Tộc Viêm Việt ,cho nên cố tình cách phổ biến chung cho Tinh Thần dân tộc Việt Nam chúng ta .

Còn riêng sử ký là ghi các biến cố có tính cách hàng ngang, để nói lên những dữ kiện và nhân vật xảy ra từng thời gian có tính liên tục liên quan đến quá trình đấu tranh xây dựng đất nước Việt Nam của chúng ta.

Ngày nay các thế hệ trẻ e ngại không muốn tìm hiểu và xem Huyền Sử như một mớ chằng chịt không có tính trung thực , họ không ngần ngại chẳng quan tâm khi tìm hiểu về thời cổ sử, vì họ nghĩ rằng làm như thế thì họ sẽ đi thụt lùi trở thành dân tộc thái cổ, họ không nhận định được tính chất tâm linh Thiêng liêng của hồn Đất Nước và dân tộc ở trong đó, nó có tính chất phổ biến cho tất cả mọi con người nào có giòng máu Viêm Việt, để cho chúng ta tự hào giữ lấy mảnh giang sơn và tinh thần dân tộc cha ông chúng ta ngày xưa đã vì nó đổ bao nhiêu xương máu để gìn giữ, mặc dù bị nô lệ nhưng không bị mất gốc, không làm người vong bản, vẫn là con dân tộc Việt, Viêm Việt, Hoàng Việt, Hùng Việt, Lạc Việt, Việt Thường, Đại Cồ Việt, Đại Việt và cuối cùng là Việt Nam.

Huyền sử về Lạc Long Quân Và Âu Cơ bọc trứng nở trăm con là Bách tính hiện nay của dân tộc Việt Nam, có những yếu tố quan trọng đặc biệt khác hơn bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, chúng ta sống gắn bó cùng nhau trên bờ cũng như nơi sông nước, nói tới quê hương thì ta gọi là “đất nước” hay “Nước Nhà”. Những người cùng chung dòng máu Bách Việt thì ta gọi nhau bằng “ Đồng Bào”, cái tinh thần “ Đại Gia Tộc “ vẫn còn giữ vững trong tâm của mỗi người dân Việt, một nền văn hiến gần Năm ngàn năm ung đúc cho chúng ta một nền tảng như ngày nay, đất nước và con người Việt chúng ta hãnh diện văn hóa Việt Nho cùng với bè bạn Năm Châu, một tinh thần đại gia tộc, đại đoàn kết dưới nền minh triết Văn Hoá Việt Nho, chính những ý thức của Dân Tộc Việt xóa bỏ những kỳ thị, ý thức hệ văn hóa du nhập từ địa phương xa xôi của chủng tộc khác, để rồi chúng ta không mãi bị phân ly qua ý thức hệ đấu tranh vì hạnh phúc chung cho Dân tộc và đất nước Việt Nam...

Trong kỷ nguyên mới, chúng ta phải vực dậy tinh thần đại gia tộc của Bách Việt, phải đoàn kết lại cùng nhau xây dựng cho một xã hội đất nước Việt Nam trở thành một cường quốc thái bình, đạo đức làm gương mẩu chung cho thế giới

OS

Cái này là VN mình mượn lịch sử của Trung Quốc, Đại việt sử ký toàn thư có nói về cái này. TQ và VN đều tự cho mình là hậu duệ của Rồng hết.

AI hay đọc truyện Trung Quốc thì cũng biết về Tam Hoàng (Phục Hy, Hoàng Đế, Thần Nông), cuộc chiến Xi Vưu và Hoàng đế, có cả Chúc Công húc đổ cột chống trời, Nữ Oa đội đá vá trời. Theo các truyền thuyết này, dân Bách Việt là hậu duệ của Thần Nông, hậu duệ của Hoàng Đế ở phía Bắc Trường Giang, hậu duệ Xi vưu là các nước triều tiên, nhật bản, và một số dân tộc hiện nay của VN như Mèo, mừong, tày.
 

ktphong

Xe tăng
Biển số
OF-109486
Ngày cấp bằng
18/8/11
Số km
1,317
Động cơ
400,718 Mã lực
Có một số bài của Nguyên Nguyên đọc khá thú vị nêu ra các giả thuyết về cội nguồn dân tộc:
18 đời Hùng Vương-một ý niệm liên tục
http://e-cadao.com/Coinguon/18doihungvuong1yniem.htm
Tiền đề và truyền thuyết Hùng Vương
:
http://e-cadao.com/Coinguon/truyenthuyethungvuong0.htm
Nước Sở: Cái Nôi của dân Việt
http://e-cadao.com/Coinguon/truyenthuyethungvuong2.htm
Tây Thi-gái nước Việt:
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong10.htm
Nước Văn Lang
http://e-cadao.com/Coinguon/truyenthuyethungvuong4.htm
Mô hình nước Văn Lang:
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong5.htm
Lạc Việt và Việt Nam:
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong6.htm
Hakka (Hẹ) và Lạc Việt:
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong7.htm
Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (8):Thịt Cầy, dân Triều Tiên và người Hẹ (Hakka)

http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong8.htm
Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (16):Hiên Viên, Xuy Vưu và Thần Nông
http://e-cadao.com/Coinguon/Truyenthuyethungvuong16.htm
vô cùng cảm ơn cụ share cái link này, lập luận bằng ngôn ngữ và món ăn là một lập luận hay về đặc tính dân tộc
 

Viva la vida

Xe tăng
Biển số
OF-97013
Ngày cấp bằng
25/5/11
Số km
1,507
Động cơ
409,666 Mã lực
Việt Nam-Yiệc Nam-Byiệt Nam
http://e-cadao.com/Coinguon/byietnam.htm

Văn hóa Luy Lâu & dấu vết Mã Lai

http://e-cadao.com/Coinguon/vanhoaluylauvadauvetmalai.htm

Thử viết lại cổ sử Việt Nam
http://e-cadao.com/lichsu/Thuvietlaicosuviet.htm

 
Chỉnh sửa cuối:

Bóng Chày

Tầu Hỏa
Biển số
OF-66195
Ngày cấp bằng
13/6/10
Số km
40,080
Động cơ
832,757 Mã lực
MP4-22 nói:
Re:Lịch sử Nước Việt nam có khi nào??? 10 04 2011 23:26:39 (permalink)

VĂN HOÁ VÀ CỘI NGUỒN VIÊM VIỆT

LỜI NÓI ĐẦU.

Người Việt chúng ta thường hãnh diện về một nền văn hóa Dân Tộc trải qua năm ngàn năm văn hiến, từ thời lập quốc gia Xích Quỷ từ bờ Nam sông Hoàng Hà đến Hồ Động Đình, Lưỡng Quãng sau cùng đến Phong Châu, từ nhà nước Văn Lang, trải qua các triều đại trung cổ cho đến Quốc Gia Việt Nam hôm nay, chúng ta vẫn giữ vững truyền thống của dân tộc Bách Việt, chúng ta tự hào có tinh thần không khuất phục, bị nô lệ mà không đồng hóa ý chí luôn quật cường trước bất kỳ cuộc xâm lăng nào của ngoại bang bằng cớ tiếng Việt Ngàn đời vẫn giữ nguyên tiếng Việt, dù các thứ ngoại ngữ du nhập vào Việt Nam V.V. luôn vẫn Việt Ngữ hóa.(Dân Tộc hóa)

Thời kỳ cha ông chúng ta lập quốc, theo truyền thuyết Đại tộc Viêm Việt đã có một nền văn hóa phong phú, hai vị nguyên tổ của chúng ta là Phục Hy và Nữ Oa tạo ra “ Quy Củ “ là một nếp chuẩn thằng cho sự nhận định nhân sinh và vũ trụ quan Âm dương, những khái niệm đầu tiên được áp dụng truyền từ đời này sang đời khác bằng chứng là cái giếng ( Việt Tỉnh) dưới tròn trên vuông, những ký tự văn thư ghi chép bằng chữ Nòng Nọc ( Âm Dương ) = O + l. ( giống như Kipu ký tự của dân tộc Inca thời cổ ở Nam Mỹ )

Phục Hy phát minh ra Bát Quái Đồ Tiên Thiên bằng những ký tự Nòng Nọc cổ xưa nhất của loài người.

Gần một ngàn năm sau. Hiên Viên Hoàng Đế ( Vị Quốc Tổ của Dân Tộc Trung Hoa ) là một nền văn minh Du mục Tây Bắc Á vượt sông Hoàng Hà chiếm đất, cướp lấy văn hóa Nông nghiệp của chúng ta rồi cải biến thành một nền văn hóa riêng của họ, Việt Nho của chúng ta bị đè bẹp trước Hán Nho trong thời kỳ hơn một ngàn năm Bắc thuộc.( 179.tr CN đến . 939. Sau CN.)

Thời tiền sử là khuyết sử, vì chưa có sự ghi chép cặn kẽ các biến cố xảy ra theo thời gian, cho nên huyền sử là sử viết theo hàng dọc, có tính cách tâm linh xoay quanh tác động lý tưởng cho tinh thần hào hùng của dân tộc, đồng thời biểu thị những sơ nguyên tượng Quốc Tổ Đại Tộc Viêm Việt ,cho nên cố tình cách phổ biến chung cho Tinh Thần dân tộc Việt Nam chúng ta .

Còn riêng sử ký là ghi các biến cố có tính cách hàng ngang, để nói lên những dữ kiện và nhân vật xảy ra từng thời gian có tính liên tục liên quan đến quá trình đấu tranh xây dựng đất nước Việt Nam của chúng ta.

Ngày nay các thế hệ trẻ e ngại không muốn tìm hiểu và xem Huyền Sử như một mớ chằng chịt không có tính trung thực , họ không ngần ngại chẳng quan tâm khi tìm hiểu về thời cổ sử, vì họ nghĩ rằng làm như thế thì họ sẽ đi thụt lùi trở thành dân tộc thái cổ, họ không nhận định được tính chất tâm linh Thiêng liêng của hồn Đất Nước và dân tộc ở trong đó, nó có tính chất phổ biến cho tất cả mọi con người nào có giòng máu Viêm Việt, để cho chúng ta tự hào giữ lấy mảnh giang sơn và tinh thần dân tộc cha ông chúng ta ngày xưa đã vì nó đổ bao nhiêu xương máu để gìn giữ, mặc dù bị nô lệ nhưng không bị mất gốc, không làm người vong bản, vẫn là con dân tộc Việt, Viêm Việt, Hoàng Việt, Hùng Việt, Lạc Việt, Việt Thường, Đại Cồ Việt, Đại Việt và cuối cùng là Việt Nam.

Huyền sử về Lạc Long Quân Và Âu Cơ bọc trứng nở trăm con là Bách tính hiện nay của dân tộc Việt Nam, có những yếu tố quan trọng đặc biệt khác hơn bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, chúng ta sống gắn bó cùng nhau trên bờ cũng như nơi sông nước, nói tới quê hương thì ta gọi là “đất nước” hay “Nước Nhà”. Những người cùng chung dòng máu Bách Việt thì ta gọi nhau bằng “ Đồng Bào”, cái tinh thần “ Đại Gia Tộc “ vẫn còn giữ vững trong tâm của mỗi người dân Việt, một nền văn hiến gần Năm ngàn năm ung đúc cho chúng ta một nền tảng như ngày nay, đất nước và con người Việt chúng ta hãnh diện văn hóa Việt Nho cùng với bè bạn Năm Châu, một tinh thần đại gia tộc, đại đoàn kết dưới nền minh triết Văn Hoá Việt Nho, chính những ý thức của Dân Tộc Việt xóa bỏ những kỳ thị, ý thức hệ văn hóa du nhập từ địa phương xa xôi của chủng tộc khác, để rồi chúng ta không mãi bị phân ly qua ý thức hệ đấu tranh vì hạnh phúc chung cho Dân tộc và đất nước Việt Nam...

Trong kỷ nguyên mới, chúng ta phải vực dậy tinh thần đại gia tộc của Bách Việt, phải đoàn kết lại cùng nhau xây dựng cho một xã hội đất nước Việt Nam trở thành một cường quốc thái bình, đạo đức làm gương mẩu chung cho thế giới

OS
Em nghe như tuyên truyền mị dân dùng thánh kinh huyền bí nào đó

Sent from my iPhone using Forum Runner
 

Bóng Chày

Tầu Hỏa
Biển số
OF-66195
Ngày cấp bằng
13/6/10
Số km
40,080
Động cơ
832,757 Mã lực
Bác cho hỏi tại sao lại phải dựng lên truyện hư cấu gọi là huyền kỳ bí để làm lịch sử nước nhà? Tại sao không dùng chứng cứ khoa học thực tế, biết đến đâu nói đến thế? Việc giả sử có nhiều ngàn năm có làm cho vn thực sự hùng cường như Chủ tịch vĩ đại từng trăn trối?
MP4-22 nói:
HỒNG BÀNG HUYỀN SỬ
Vào năm 3.434 trước CN một nhánh chủng tộc Nam Á định cư đầu tiên ở lưu vực sông Hoàng Hà gồm :- Tộc người Viêm Việt, có 02 vị Nguyên Tổ đầu tiên của tộc Viêm Việt là Phục Hy (1)( hiệu Là Bào Hy cùng vợ là Nữ Oa ) dạy dân định cư cất nhà, dạy các tập tục văn hóa, dùng dây thừng thắt gút để ghi nhớ các sự kiện đã qua. Phục Hy xem Thiên, Địa Tượng và phát minh ra Bát Quái định ra Quy Củ của nền Nho Việt : Trời tròn Đất vuông, hay Minh Triết Hà Đồ và Lạc Thư, dịch kinh Việt Nho dùng ký tự Nòng Nọc (2)
Năm 3.118. tr. CN trong đại Tộc Viêm Việt có một vị thủ lỉnh của bộ tộc hiệu là Viêm Đế Thần Nông (3), ông tiếp tục phát triển sự nghiệp văn hóa Việt Nho của Phục Hy và Nữ Oa dạy dân cày cấy trồng lúa nước, dạy dân cất nhà ở ngoài nơi trống trải để ở, không còn phải ở hang đọng như trước đây. Ngài nếm trăm loại cỏ cây chỉ cho dân biết cách trị bệnh. Đế triều của Thần Nông truyền được 8 đời? Sau bị mất về tay của Hiên Viên Hoàng đế (4).
Trải qua thời gian dài gần 200 năm tộc Viêm Việt phát triển mạnh. Bấy giờ xuất hiện một thủ lĩnh của Bộ tộc Viêm Việt là cháu 3 đời của Viêm Đế Thần Nông, lên ngôi Vua lấy hiệu là Đế Minh. ( không rõ năm sanh và năm lên làm Vua ) Đế Minh kết hôn sau đó sanh ra Đế Nghi (2.889 trCN - 2.834 .tr CN ) (5). Khi đi tuần thú phương Nam đến vùng Ngũ Lỉnh Sơn ( Tỉnh Hồ Nam TQ. ) gặp bà Vụ Tiên cưới về sinh ra Lộc Tục,( Đức Lộc Tục sinh năm Nhâm Ngọ 2.919 tr CN. Lên ngôi nằm.2.879 trCN.)(6)
Tộc Viêm Việt phân ra nhiều bộ lạc ở rải rác từ lưu vực bờ Bắc sông Hoàng Hà đến phía Nam Động Đình Hồ có bốn mùa tám tiết, đặc biệt có một chiếc hồ ưu đãi thủy sản vật cho dân tộc Bách Việt sinh sống, đó là “Hồng Hồ,” (7) trong lòng hồ có vô vàn chim Hồng Hạc ( Hồng Hộc ) sống cộng sinh gắn bó cùng người dân tộc Viêm Việt từ nhiều đời. Vào những năm 2.885 trước CN có những tập đoàn Dân Tộc Tây Bắc Á du cư ( Văn hóa Du Mục Tiền thân của Dân Tộc Trung Hoa ) tràn xuống phía Bắc lưu vực sông Hoàng Hà và họ vượt sông dùng vũ lực xâm chiếm các Bộ Lạc Viêm Việt điển hình ở trận Trác Lộc, chủ yếu đánh cướp lương thực, bắt đi Thanh niên, Nam Nữ Tộc Viêm Việt để làm nô lệ, cuộc chiến tranh kéo dài hơn 5 năm, người tộc Viêm Việt chống trả yếu ớt, sau đó bắt đầu mở cuộc di dân về phương Nam, còn lại gần 70% tộc Viêm Việt tản lạc lẩn tránh trong vùng đất củ ( Bờ Bắc và Nam sông Hoàng Hà ), riêng 30% dân số thì di cư đến nơi Hồ Động Đình và thành lập một nhà nước có tên gọi là Xích Quỷ(8), quy tụ gồm các bộ lạc thuộc giống dân Viêm Việt được gọi chung là Dân Bách Việt.
Một Nhà Nước Xích Quỷ được thành lập vào năm Nhâm Tuất 2. 879 tr CN , một nhà nước sơ khai có tổ chức gần như một Vương Triều phong kiến, thành phần Thủ lĩnh các Tướng soái và Tráng đinh trong bộ lạc là những chiến sĩ có khả năng chống trả các cuộc xâm lăng của tộc phương Bắc để bảo vệ đất nước Xích Quỷ.
Năm 2.879 trước CN. Vua Đế Minh Lên Núi Lập Thiên Đài tế cáo Trời Đất truyền ngôi cho hai con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương. (tại vùng núi Quế Dương một trong dải núi Ngũ Lỉnh thuộc tỉnh Hồ Nam.) Đế Nghi được làm vua Phương Bắc, còn Kinh Dương thì làm Vua thống lỉnh cả bộ Tộc Bách Việt Phương Nam, tên húy là Lộc Tục. Kinh Dương Vương Lấy con gái của Động Đình Quân tên là Long Nữ sinh ra Sùng Lảm Hiệu là Lạc Long Quân( sinh năm Bính Thìn 2.825-tr CN ) sau đó được Đức Kinh Dương Vương cho cai trị vùng Đất Phương Nam Động Đình hồ,(Lạc Long Quân Lên ngôi năm Mậu Tý 2.793 tr CN ).
Đế Nghi, con Trưởng của Đế Minh vẫn cai trị các Bộ Lạc Viêm Việt vùng phía Bắc sông Hoàng Hà, sau truyền ngôi cho con là Đế Lai năm 2,843. Tr.CN. (9) Đến năm 2.790 trước CN. Đế Lai nhớ đến việc Nội Tổ của mình là Đế Minh đi tuần thú phương Nam gặp Tiên, nên có ý muốn đi về phương Nam du ngoạn, vì vậy Đế Lai để cho bề tôi tin cẩn của mình là anh em Xuy Vu (10) trông coi việc Nước, còn mình dẩn theo đoàn tùy tùng và gia đình đi tuần du phương Nam, khi đến hành cung của Lạc Long Quân, Đế Lai không thấy Lạc Long Quân, bấy giờ trong nước Xích Quỷ kể như vắng chủ. Đế Lai để vợ và con gái là Âu Cơ nghĩ lại Hành Cung nơi đây, riêng mình và cận thần đi du ngoạn khắp phương Nam. Trải xem các thắng cảnh hoa thơm cỏ lạ, các loại chim thú quý hiếm, hưởng đủ sơn hào hải vị, nhân khí hậu mát mẻ ôn hòa Đế Lai ưa thích quên cả chuyện trở về. Bấy giờ dân Bách Việt phương Nam đang khổ sở, vì nạn quấy nhiểu của Quan binh tùy tùng của người anh em họ Bách Việt, nên họ kêu gọi Đức Lạc Long Quân về cứu giúp họ.
Một hôm khi ở Thủy Phủ về, Lạc Long Quân thấy người con gái đẹp kiều diễm ở nơi hành cung của Ngài. Lạc Long Quân nghĩ đây là nhân duyên Thiên định nên biến hóa (11) thành một chàng trai tuấn tú khôi ngô ngỏ lời cầu hôn và đưa Âu Cơ cùng về Thủy Phủ kết duyên.
Đến khi Đế Lai trở về hành cung của Lạc Long Quân không thấy con gái nên cho Quan binh đi tìm đến Thủy Phủ, Lạc Long Quân dùng thần thông phép mầu biến hóa các loài thú dử xua đuổi bộ hạ của Đế Lai không cho đến gần Thủy Phủ. Bao nhiêu ngày vất vả tìm con không gặp, Đế Lai đành phải cùng đoàn tùy tùng đi trở về phương Bắc Hoàng Hà.
Năm 2.787 trước CN, cuộc kết duyên Âu Cơ cùng Lạc Long Quân đã 3 năm, sau đó Âu Cơ sinh một bọc trứng. Bà cho đó là điều dị thường nên đem bọc trứng ấy bỏ ngoài đồng. Tháng ngày dần qua bọc trứng nở ra trăm người con và thường ngày Đức Lạc Long Quân vẫn hay chăm nom, rồi thời gian trôi qua các người con nay đã trưởng thành người nào cũng anh minh, có tài trí, từ khi trăm con nên người. Sau đó Đức Lạc Long Quân mãi đi tuần du không về. Trong lúc ấy có những người dân Bách Việt xuống nước đánh bắt thủy sản, bị loài thuồng luồng (một Loài Cá Sấu mỏm Đao) làm hại, dân bèn kêu cứu Đức Lạc Long Quân “ Bố ơi ! Bố ơi ! Mau về cứu giúp chúng con! “ Ngài liền Xuất hiện chỉ dạy cho dân như sau: “ -Loài thủy tộc vốn ở dưới nước, chúng thấy các ngươi không cùng giống loài Thủy Tộc nên chúng làm hại, vậy từ nay kẻ nào xuống nước phải xâm vẽ mình như loài thủy tộc, thì chúng không còn hại các ngươi Nữa.” Dạy dỗ dân bộ lạc xong, Ngài biến mất. Cũng từ đó mới có tục xâm mình của dân tộc Bách Việt.
Năm 2.694 trước CN, một hôm vì nhớ quê nhà nên Âu Cơ dẫn đàn con trở về phương Bắc, bị quân canh ải của Hoàng Đế Hiên Viên ( lúc này đã diệt chi tộc Viêm Việt phía bắc, lên ngôi xưng Đế mở đầu cho những triều đại dân tộc Trung Hoa. Hiên Viên Hoàng Đế tên thật là Hữu Hùng Thị, có công đánh bắt được anh em Xuy Vưu ( Trung Quang ) tướng của Đế Dũ Võng trong trận Trác Lộc nên được dân tộc bắc Phương tôn lên làm Đế ) không cho về phương Bắc, nên Bà cùng các con phải trở về phương Nam, trên đường đi đến Tương Giang Dả ( Thuộc Tỉnh Hồ Nam )bổng Đức Lạc Long Quân hiện ra hỏi “ -Vì sao nàng định ra đi ? “ Âu Cơ Trả lời rằng :” -Thiếp cùng chàng nên nghĩa vợ chồng bấy lâu, nay vì nhớ đến song thân định đưa con trở về thăm cha mẹ ! “ Lạc Long Quân nói : “ -Ta và nàng vốn tương khắc như nước với lửa , ta là loài Rồng đứng đầu các loài dưới nước, nàng là Tiên làm người trên mặt đất, hai ta như âm dương tương hợp , nay nàng đưa con đi thì âu cũng là thiên định, nàng hãy dẫn 50 con về đất liền sinh sống, còn ta đưa 50 con xuống ven vùng biển để lập nghiệp cho chúng, nếu sau này có việc chi, khi lên ngàn xuống biển chẳng đặng bỏ nhau, có việc cần đến hãy gọi đến ta, thì tức khắc ta sẽ đến ngay .”

Nói xong Đức Lạc Long Quân dẫn 50 con đi về hướng biển Nam Hải, còn Âu Cơ đưa 50 con còn lại đi về hướng đất liền chia đất cho các con cùng cai trị. ( Đây là mật mả minh triết trong Kinh Diệc. Âm Dương nhị khí , trong Âm thăng hóa đến Dương tức là lên Núi, còn phần Dương đi dần đến Âm tức là xuống biển ). Sông Tương nước chảy hai chiều.
Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ,
Tương tư bất kiến,
Đồng ẩm Tương giang thủy.
Thưở ấy , 50 con theo Mẹ Âu Cơ đi đến vùng Ngũ Lỉnh Sơn, tất cả những người con đều tôn con trưởng lên làm thủ lĩnh bộ tộc còn được gọi là “ Kun “ hay là Hùng (Hồng) Vương, đặt tên nước là Văn Lang, theo thể chế Cha truyền con nối, còn các người con thứ được phong Lạc Hầu, Lạc Tướng chia nhau ra trấn giữ các vùng đất còn lại, trong thời Hùng Vương phân ra nhiều chức cai trị dân như :
· Lạc Hầu là những Anh Em của vua được phong thưởng cai trị các vùng đất ban cho làm Lạc Ap, hay ruộng Lạc.
· Lạc Tướng là những cận thần theo phò vua, có công với đất nước.
· Con trai trưởng của vua Hùng được gọi là Quang Lang.
· Con gái vua Hùng thì gọi là Mỵ Nương.
· Dân trong nước thì gọi là Lạc Đinh.
Các vua Hùng 4 dòng chi nối tiếp nhau cai trị nhà nước Dạ Lang ( thời kỳ chưa phát triển nền văn hóa nông nghiệp cao, ở nơi đây được 892 năm.(12)
Vào năm 2.240 trước CN, dòng chi đời Hùng Vương thứ 4 tức là Hùng Hoa Vương. Thủ lĩnh bộ tộc phương Bắc là Đế Quýnh đời Nhà Hạ, lại đem quân đánh chiếm vùng đất Bách Việt ở Bắc Ngũ Lỉnh Sơn, một trận chiến tranh mở rộng từ vùng Động Đình Hồ đến Ngũ Lỉnh sơn( gồm năm ngọn : Đại Dửu lỉnh, Kỳ điền lỉnh, Đô lung lỉnh, Minh chử lỉnh và Việt thành lỉnh. Di tích khảo cổ những nơi đây có nhiều tầng văn hóa của người Việt cổ chứng tỏ rằng chủ nhân vùng đất này là người Việt đã từng sinh tụ nơi đây nhiều thiên kỷ ). Cuộc chiến kéo dài 10 năm, sau cùng vua Hùng dòng chi thứ 4 cùng các thủ lĩnh các bộ tộc Bách Việt yếu thế nên phải bỏ lại vùng Hồ Động Đình di dân về hướng Nam, sau khi qua khỏi rặng núi Ngũ Lỉnh cứ nhắm theo hướng Nam mà đi đến vùng “ Lĩnh Nam “ ( nghĩa là phía Nam của dãy núi Ngũ Lỉnh Sơn ) tức là đất Phong Châu . Một lần Nữa dân tộc Bách Việt lập ra Nhà Nước Văn Lang( thời kỳ văn hóa nông nghiệp phát triển cao, năm 2230 Trước CN). Nước ta bấy giờ có địa giới như sau : - Phía Đông giáp biển Nam Hải, Phía Nam giáp nước Hồ Tôn( Chiêm Thành ), Phía Tây giáp nước Nam Chiếu, còn phía Bắc giáp Bắc Ngủ Lỉnh.
Hùng Vương Dòng Chi thứ 4 chia nước ra làm 15 bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Y Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm, Tượng Quận.
Vua Hùng Sai người đúc Trống Đồng có chạm khắc các hình ảnh trang trí trên Trống Đồng nói lên sự thạnh trị của Đất nước ta thời bấy giờ :
· Nơi tâm của Trống có hình Mặt Trời thiên đỉnh và 14 Tia Sáng tượng trưng cho 15 bộ của Quốc Gia Văn Lang. Trống Đồng dùng cho các lễ hội, hoặc làm hiệu lệnh cho toàn dân khi có việc chi hữu sự, mỗi Bộ, mỗi Làng( Lang) đều có Trống Đồng
· Các hình người Việt Cổ đầu đội mủ lông chim mặc váy xòe múa hát tay cầm rìu, giáo thiên về tinh thần thượng vỏ . Hoặc có những dụng cụ nhạc như : Khèn, Sên, Phách , nói lên nền văn hóa và tín ngưỡng cổ truyền.
· Những hình thuyền tượng trưng Giao Long( Rồng ) khi xuống nước, Hình chim xòe cánh bay lượn tượng trưng cho Tiên là nguồn gốc Dân Tộc . Là tín ngưỡng thờ mặt Trời một tín ngưỡng phổ thông thời bấy giờ.
· Hình hai người cầm chày giả gạo trong cối đá nói lên nền nông nghiệp của người Việt Cổ phong phú.
Ngoài việc cắt đặt quan chức Tư Mả hay còn gọi là Bố Chính, Tư Đồ, Tư Khấu, Tư Không xem xét về hành chính cai trị dân của một Bộ, dưới còn có chức Quan khác gọi là Khối. Các chức Quan đều cha truyền con nối gọi đó là Phụ Đạo, và các vua cùng dòng chi người nào có tài pháp thuật cao thâm, y học thần kỳ thì được đưa lên làm vua vì vua Hùng là một vị Giáo Vương thay mặt các đấng Thần Linh được tôn sùng mà trị dân, vì thế các vua thay nhau nối ngôi đều lấy hiệu là Hùng Vương. . . chứ không thay đổi, cho đến mãi hết dòng chi vua Hùng Vương thứ 18 ( Năm 208 trước CN ).
Trải qua qua mấy ngàn năm dân tộc Việt chúng ta luôn chiến đấu bảo tồn nòi giống trong cuộc “Nam tiến”. Từ miền đất xa xôi trong quá khứ, khởi từ lưu vực sông Hoàng Hà đến vùng núi Ngũ Lỉnh. Dân tộc Bách Việt vẫn đứng vững xuôi về phương Nam bỏ lại miền đất quá khứ cho “dân tộc bắc phương.” Các triều đại phong kiến Bắc Phương lại xâm lược tìm cách đồng hóa dân tộc Bách Việt từ Động Đình Hồ đến Thanh Hóa xóa bỏ những vết tích nền văn hóa Bách Việt. Cũng từ đó tộc Bách Việt bị chia chẻ ra nhiều mảnh, chỉ còn lại một phần của bộ tộc Bách Việt tiến xuống đồng bằng của Phong Châu hay Giao Châu bộ, lập thành quốc gia Văn Lang
Đến năm 208 trước CN, cuối dòng chi Hùng Vương thứ 18, vua Hùng không có con trai trong chi tộc, không người tài giỏi nên truyền ngôi lại cho một Lạc Hầu tên là Thục Phán có tài về quân sự, có công ngăn chận sự bành trướng các tộc phương Bắc Đời Nhà Tần đưa 50 vạn quân sang xâm chiếm nước ta năm 218-208 Tr CN. Viên tướng Tần là Hiệu Úy Đồ Thư cùng Năm mươi vạn quân đánh chiếm một giải đất từ Ba Thục cho đến Phong Châu. Vua Hùng Vương dòng chi 18 hoàn toàn bất lực trước cuộc xâm lăng của quân Tần, tất cả dân quân bỏ Kinh Đô vào rừng không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng cử những người tuấn kiệt lên làm tướng để đêm đêm ra đánh phá Quân Tần. Trong việc suy cử một vị lãnh đạo chống phá Quân Tần không ai khác hơn là Thục Phán , vì Thục Phán là người trí dũng song toàn một Lạc Hầu thuộc tộc người Tây Au ( một nhánh của Dân Bách Việt )ở vùng đất Ba Thục( 13 ). Sau gần 10 năm chống Quân Tần , Thục Phán đã giết được Đồ Thư đánh tan rã năm mươi vạn quân của Tần Thủy Hoàng, Vua Hùng đành phải nhượng ngôi lại cho Thục Phán.
Thục Phán lên Ngôi lấy hiệu là An Dương Vương sau đó kết hợp hai tộc Tây Au Và Lạc Việt, đổi tên nước là Au Lạc và xây thành Cổ Loa hay là Tư Long Thành ( nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ,) thành này được xây theo tất cả 7 vòng hình trôn ốc, một đường thành xoắn thuận vào, thì một vòng xoáy ngược ra lên cao, cứ thế mà xây lên 3 vòng thành, sau cùng là những vòng thuận rồi đến khu vực vua ngự, đó sáng kiến của một nhà quân sự tài ba tên là Kim Quy.
Khi lập ra triều chính Au Lạc và xây xong Loa Thành. An Dương Vương củng cố quân bị vũ khí, dạy dân đúc các thứ công cụ, cày, cuốc, binh khí, tên bằng đồng thau và kỹ thuật Liên Châu nỏ do Tướng Quân Cao Lổ phát minh, là loại vũ khí tối tân lợi hại vào bậc nhất thời ấy .
Năm 206 trước CN. Khi Nhà Tần bị diệt bởi Lưu Bang và Hạng Vũ, thời này sử ký gọi là thời kỳ đầu Tam Quốc ( 14 ) . Bấy giờ có một viên tướng của Nhà Tần là Triệu Đà chạy xuôi về Nam, chiếm nước Thục và lập ra Nước Nam Việt và bắt đầu dòm ngó nước ta. Triệu Đà đã bao phen đem quân sang đánh nước ta. Quân của Triệu Đà tiến công vào thành Cổ Loa nhưng không còn người trở ra, tất cả đều chết bởi cung nỏ của quân ta, quân Triệu đại bại trở về không hiểu nguyên do thế nào, quân Triệu đều cho rằng: -An Dương Vương có “nỏ thần” (15) một phát bắn ra tiêu diệt hằng ngàn tên.
Biết mình đánh không lại An Dương Vương nên Triệu Đà đề nghị giãng hòa và cầu hôn cho con trai là Trọng Thủy lấy Mỵ Nương con gái An Dương Vương. Triệu Đà chia quân giữ lại bộ Vũ Ninh ( Bắc Ninh, Hà Bắc ngày nay ) từ Bình Giang vùng sông Thiên Đức huyện Đông Ngàn trở về phía Bắc thì do Triệu Đà cai Quản, còn từ sông Thiên Đức trở về phương Nam thì của Vua An Dương Vương cai quản. Về sau Trọng Thủy nắm được bí mật thiết kế quân sự “ Thành Cổ Loa “ và “ Liên Châu Nỏ “ đưa cho Triệu Đà.
Đến năm 179 trước CN. Triệu Đà xua quân đánh chiếm được thành Cổ Loa nhờ nắm được bí quyết quân sự của Thành, vua An dương Vương bỏ chạy ra hướng biển rồi tử tiết sau 28 năm trị vì nước Au Lạc, họ Hồng Bàng đã kết thúc sau 27 thế kỷ trị vì dân tộc Bách Việt, trải qua 19 Dòng Chi hằng mấy mươi đời vua của dân tộc, đồng thời dân tộc Bách Việt phải sống hơn một ngàn năm trong những đêm dài đô hộ của các triều đại phong kiến tộc phương Bắc./.
Theo Hồng Bàng Thị :
1- Chi Càn. Hùng Dương Vương ( Lộc Tục . Hiệu là Kinh Dương Vương, sinh năm Nhâm Ngọ 2.919, lên ngôi năm 41 tuổi, vào năm Nhâm Tuất 2.879-đến đinh Hợi 2.794.tr CN tại vị được 85 năm)
2- Chi Khảm. Hùng Hiền Vương ( Sùng Lãm . Hiệu là Lạc Long Quân sinh năm Bính Thin 2.825. tr CN. Lên ngôi năm 33 tuổi, năm Mậu Tý 2.793. tr CN đến năm Bính Thin 2.525 tr CN. Tại vị và không rõ truyền được bao nhiêu đời được tất cả 269 năm.)
3- Chi Cấn. Hùng Quốc Vương .( Húy là Hùng Lân.Sinh năm Canh Ngọ 2.570 tr. CN. Lên ngôi năm 18 tuổi năm Đinh Tý 2.524 tr. CN đến năm Bính Tuất 2.255 tr. CN. Tại vị và truyền nhiều đời được tất cả 270 năm)
4- Chi Chấn: Hùng Hoa Vương .( Húy là Bửu Lang không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi 2.254 tr CN đến năm Mậu Thín 1.918 tr CN. Tại vị truyền nhiều đời được tất cả 342 năm)
5- Chi Tốn : Hùng Hy Vương .( Húy là Hy Lang sinh năm Tân Mùi 2.030 tr. CN lên ngôi năm 59 tuổi năm Mậu Thìn 1.917 tr CN đến năm Mậu Tý 1.713 tr. CN. Tại vị truyền nhiều đời được 204năm.)
6- Chi Ly : Hùng Hồng Vương ( Long Tiên Lang. Sinh năm Tân Dậu 1.740 tr CN lên ngôi năm 29 tuổi Kỷ Sửu 1.712. tr CN. Đến năm Kỷ Dậu 1.632 tr CN. Tại vị truyền 2 dời vua được 81 năm .)
7- Chi Khôn : Hùng ChiêuVương .(Quốc Lang sinh năm 1.768 tr. CN lên ngôi năm 18 tuổi Canh Tuất 1.631 tr CN đến năm Kỷ Tỵ 1.431 tr CN . Tại vị truyền 5 đời vua được 200 năm.)
8- Chi Đoài: Hùng Vỹ Vương ( Vân Lang sinh năm Nhâm Thín.1.469 tr CN lên ngôi năm 39 tuổi . Từ năm Canh Ngọ 1.430 tr CN đến năm Kỷ Dậu 1.332 tr CN. Tại vị truyền 5 đời vua. Được 103 năm)
9- Chi Giáp : Hùng Định Vương .( Chân Nhân Lang sinh năm Bính Dần1.375 tr CN lên ngôi năm 45 tuổi, tư năm
1. Canh Ngọ 1.331 tr CN đến năm Kỷ Hợi 1.251tr CN. Tại vị truyền ngôi 3 đời vua được 80 năm.)
10- Chi Ất : Hùng Uy Vương.( Hoàng Long Lang sinh năm Giáp Ngọ 1.287 tr CN lên ngôi Năm 47 tuổi từ năm Canh Ngọ 1.250tr CN đến năm Kỷ Hợi .1.162 tr CN. Tại vị và truyền 3 đời vua được 90 năm.)
11- Chi Bính : Hùng Trinh Vương.( Hưng Đức Lang sinh năm Canh Tuất 1.211 tr CN lên ngôi năm 51 tuổi từ năm Canh Tý 1.161 tr CN đến năm Bính Tuât 1.055 tr CN. Tại vị và truyền 4 đời vua được 107 năm .)
12- Chi Đinh : Hùng Vỏ Vương .( Đức Hiền Lang sinh năm Bính Thân 1.105 tr CN lên ngôi năm 52 tuổi, từ năm Đinh Hợi 1.054 tr CN đến năm Nhâm Tuất 969 tr CN . Tại vị và truyền 3 đời vua được 86 năm.)
13- Chi Mậu : Hùng Việt Vương.( Húy là Tuấn Lang sinh năm Kỷ Hợi 982 tr CN lên ngôi năm 23 tuổi từ năm 968 tr CN đến năm Đinh Mùi 854 tr CN. Tại vị truyền được 115 năm.)
14- Chi Kỷ :Hùng Anh Vương.( húy Viên Lang sinh năm Đinh Mảo 894 tr CN lên ngôi năm Mậu Thân 42 tuổi từ năm 853tr CN đến năm Bính Tuất 753 tr CN. Tại vị truyền 4 đời vua được 101năm.)
15- Chi Canh : Hùng Triệu Vương.( Cảnh Chiêu Lang sinh năm Quý Sữ 788 tr CN lên ngôi năm 35 tuổi từ năm Đinh Hợi 752 tr CN đến năm Canh Thân 661 tr CN. Tại vị truyền 3 đời vua 91 năm. )
16- Chi Tân : Hùng Tạo Vương.(Đức Lang Quân sinh năm Kỷ Tỵ 712 tr CN lên ngôi năm Tân Dậu 660 tr CN đến năm Nhâm Thìn 569 tr CN . Tại vị 92 năm.)
17- Chi Nhâm : Hùng Nghị Vương ( Bảo Quang Lang sinh năm At Dậu 576 tr CN lên ngôi 9 tuổi .Năm Quý Tỵ 568 tr CN đến năm Nhâm Thân 409 tr CN. Tại vị truyền 4 đời vua được 160 năm. )
18- Chi Quý : Hùng Duệ Vương.( sinh năm Canh Thân 421 tr CN lên ngôi năm 14 tuổi từ năm Quý Dậu 408 tr CN đến 208 tr CN. Tại vị truyền được 4 đời vua là 200 năm )
19- An Dương Vương. ( Thục Phán sinh năm Quý Mảo 258 trước CN lên ngôi năm 51 tuổi từ năm 207 tr. CN đến năm 179 tr CN. Tại Vị được 28 năm.
THEO HÙNG TRIỀU NGỌC PHẢ.
PHỤC HY + NỮ OA
VIÊN ĐẾ THẦN NÔNG
TỘC VIÊM VIỆT
ĐẾ MINH
QG, XÍCH QUỶ TN, BẮC HOÀNG HÀ
KINH DƯƠNG VƯƠNG ĐẾ NGHI
DÂN TỘC BÁCH VIỆT
LẠC LONG QUÂN ĐẾ LANG
ÂU CƠ
CÁC VUA HÙNG VƯƠNG
QG. ÂU LAC
À NƯỚC ÂU LẠC
VĂN HÓA HÙNG VƯƠNG
HÀ ĐỒ LẠC THƠ THỜI CÁC VUA HÙNG:
· Cộng theo các chiều : Ngang, Dọc , Chéo đều có tổng số là 15
· Trong Hà Đồ có 55 điểm và Lạc Thư có 45 điểm tổng cộng là 100 điểm,con số ấy tương ứng với 100 trứng nở thành trăm con do Mẹ Âu Cơ sinh ra, 100 người con ấy là tổ tiên của người Bách Việt, Hà Đồ Lạc Thư chính là mật mã Văn hóa riêng của Tộc Bách Việt, đó cũng là tượng số của Bát Quái Đồ Hậu Thiên. Trong Lạc Thư những con số nằm 3 hàng ngang dọc, nếu như cộng lại tất cả ngang, dọc, chéo, đều có số tổng là 15, đó là một ma phương (carré magic), con số tổng 15 cho ta biết từ khai lập sơn hà của cha ông chúng ta lấy con số 15 ấy định cho cả một quốc gia có 15 Bộ là 15 quận của quốc gia Văn Lang.
(1) Thái Cực+ (2) Lưỡng Nghi + (4) Tứ Tượng + (8) Bát Quái = 15 * (3) Tam Tài thị hiện tức là Lạc Thư = Tượng số là 45 .
Con số 5 của Hà Lạc nơi trung cung là con số sinh kỳ diệu, từ ngàn xưa dân tộc ta đã lấy con số này làm ngày kỷ niệm Đức Mẹ Âu Cơ tức là ngày mùng 5 tháng 5 đúng vào tiết Đoan Ngọ( sau đó chúng ta bị tộc phương Bắc đưa ngày kỷ niệm của Khuất Nguyên (307-246 trước CN,) cũng nhằm ngày mùng 5 tháng 5, để đồng hóa và làm xóa dấu vết lịch sử dân tộc ta, người đời sau sẽ quên đi Văn Hóa cội nguồn Bách Việt, đó là ý đồ của tộc phương Bắc.) Chúng ta giỗ tổ nhằm ngày mùng 10 tháng 3. Có ý nghĩa như sau : - số 10, là con số thành cao nhất trong Hà Đồ, cũng gọi con số + ( thập) trong dịch lý Nòng Nọc gọi là Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo, đó là một học thuyết âm dương nói về sự sinh thành của vũ trụ rất xa xưa, chưa ai chứng minh nó có tự bao giờ trong lịch sử văn hóa con người Đông Nam Á Châu. Bất kỳ một sự việc nào cũng phải hội đủ hai điều kiện Âm dương đối kháng và hòa hợp thống nhất, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, tác động lẩn nhau sinh hóa vạn hữu, đó là nét cơ bản để nhận thức nắm các quy luật tự nhiên, cũng là nền tảng của tôn giáo sau này ta gọi đó Quốc Đạo, con số 3 (Tam) chỉ vào tháng trong năm, từ xưa ông cha chúng ta đã lấy Thập Thiên Can và thập nhị Địa Chi mà nói đến giờ, ngày, tháng, năm. Tháng 3 là tháng Thìn, Thìn là Rồng (vì nguồn gốc dân tộc ta là con Rồng, Cháu Tiên), con số 3 là chỉ về Tam Tài : Thiên, Địa, Nhân, bao hàm cả vũ trụ, cái bao hàm chứa vũ trụ, mà ta gọi đó là Đạo ( Đạo sinh 1, 1 sinh 3, 5 đó là sự sinh hóa của Đạo, mà nói đến Đạo là bất ly Tam, Ngũ), trong Tam Tài con người là Nhân, đồng quyền hợp nhất cùng vũ trụ, điều kỳ diệu trong ý nghĩa của thuyết Huyền sử về Hồng Bàng Con Rồng Cháu Tiên, nó cũng nói lên được những cơ bản sự sinh hóa của vạn hữu vũ trụ, theo quan niệm của cha ông chúng ta, con người là do sự kết hợp 2 thành phần Linh và Thể không bao giờ tách rời, do đó trong thời kỳ Hồng Bàng cổ sử đã trải qua, nòi giống Bách Việt vẫn vững mạnh tồn tại gần năm ngàn năm, qua bao biến cố thăng trầm lịch sử, nhưng hồn thiêng Quốc Tổ oai linh và xác thể Đất nước Sơn hà vẫn không rời xa nhau, bàn tay vô hình Thiêng Liêng cha ông chúng ta vẫn đang âm thầm lèo lái vận chuyển dòng sinh mệnh Dân Tộc Đất Nước, tiến đến kỷ nguyên văn minh tín ngưỡng, một nền văn hóa Đạo Đức tổng hợp các nền Đạo trên thế giới lập thành gương mẫu chung cho toàn nhân loại sau này, đó là một xã hội Tân Dân Thánh Đức.
Muốn có một kỷ nguyên Thánh Đức thì chính Dân tộc Bách Việt hãy đoàn kết lại trong tinh thần con chung một Cha Mẹ, một nhà , một đất nước, một tiếng nói, một tư tưởng và một việc làm thiết thực cho dân tộc, đất nước. Nước Việt Nam trở nên một cường quốc thái bình, đó chính là con đường Quốc Đạo mà cha ông chúng ta đã định phận và lèo lái sinh mệnh dân tộc chúng ta đến quốc độ Thánh Đức./.
Sưu khảo. Thiên Nhiên Kỷ
NHỮNG TÀI LIỆU THAM KHẢO :
· Dịch kinh linh thể. GS, Kim Định.
· Thái Bình Minh Triết. GS. Kim Định.
· Việt Sử Giai Thoại. GS. Nguyên Khắc Thuần.
· Khai quật kho tàng Hừng Việt. BS.YK. Nguyễn Xuân Quang
· Cổ Sử Việt Nam. GS đào Duy Anh.
· Hùng Vương ST. Ngọc Phả cổ truyền. GS.Trần Huy Bá .
· Hùng Vương Dựng Nước . Hoàng Xuân Chính.
· Thời Đại Hùng Vương . Nguyễn Đổng Chi. Văn Tân. Nguyễn Linh. Lê Văn Lang. Hoàng Hưng.
Phần Chú giải:
(1)-/ PHỤC HY: 3434 tr. TL
Theo cổ sử Trung Hoa là một vị vua trong Tam Hoàng : Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế thời thượng cổ , dậy dân đánh cá, thuần dưởng chăn nuôi súc vật, Vạch ra Bát Quái, cũng là ông tổ chữ viết. Cũng có thuyết nói về Phục Hy là thuyết Tam Hoàng : Phục Hy, Toại Nhân, Nữ Oa
Phục Hy còn có tên là Thái Hạo, Bào Hy hiệu Thanh Tinh (Rồng Xanh). Theo truyền thuyết Phục Hy lấy Bà Nữ Oa tạo ra quy củ hôn nhân chồng vợ, dạy kết thằng ( Gút Dây) để ghi nhớ các sự việc.
Phục Hy không thể là người Trung Hoa vì Phục Hy là con của Thần Viêm Đế Mặt Trời, cho nên Phục Hy Nữ Oa đều là họ Tiên Rồng..
(2) còn được gọi là Dịch Nòng Nọc thoát thai từ hình của những đoạn dây thắt gút đó là chữ tối cổ của loài người, sau này chúng ta gọi đó là chữ Khoa đẩu và định các quẻ theo các hiện tượng củaThiên địa. Các ký tự chỉ về tứ tượng của Dịch Nòng Nọc đây là phần tứ hành :
TỨ TƯỢNG:
I I = Lửa = Nọc = Thái Dương.
OO= Nước = Nòng = Thái âm.
I O= Khí = Nọc+Nòng = Thiếu Âm.
O I= Đất = Nòng + Nọc = Thiếu Dương
TƯỢNG BÁT QUÁI TIÊN THIÊN:
CÀN = I I I = nọc+nọc+nọc. ( - - - )
DOÀI= O I I = nòng+ nọc + nọc. ( o - - )
LI = I O I = nọc + nòng + nọc. ( - o - )
CHẤN = O O I = nòng + nòng + nọc. ( o o - )
KHÔN = O O O = nòng + nòng + nòng. ( o o o )
CẤN = I O O = nọc + nòng + nòng. ( - o o )
KHẢM = O I O = nòng + nọc + nòng. (o - o )
TỐN = I I O = nọc + nọc + nòng. ( - - o )
Phục Hy và Nữ Oa là nguyên tổ của Viêm Việt tộc có công sáng tạo văn hóa Việt Nho ( Sau bị Hiên Viên Hoàng Đế thủy tổ của Tộc Trung Hoa chiếm lấy và khai thác trở thành kinh dịch của Trung Hoa .) và hướng dẫn bộ tộc Viêm Việt sinh sống bằng nghề canh tác trồng trọt lúa nước và đánh bắt thủy hải sản. Dòng chi Phục Hy làm vua được 315 năm truyền được 5 đời đều lấy hiệu là Phục Hy.)
(3)-/ THẦN NÔNG, 3118 tr TL
Theo truyền thuyết Thần Nông là một vị vua trong ba vị vua của sử Trung Hoa như đã nói trên, Thần Nông là một vị Thần Nông Nghiệp, ông có đầu giống như đầu Bò, người dạy dân chúng biết cách làm Nông Nghiệp, trồng trọt, dùng cây cỏ để chửa bệnh, ngày nay còn quyển sách thuốc “ Thần Nông Bản Thảo “ Ong có hiệu là Viêm Đế, Người ta cho rằng ông là vị thần gió, hoặc là vị Thần Lửa. Theo sử của Trung Hoa Ong làm vua và truyền được 8 đời rồi mới bị Hiên Viên Hoàng Đế tiêu diệt.
(4)-/ HIÊN VIÊN HOÀNG ĐẾ. 2697 tr. TL
Vào năm 2697 tr. TL. Huỳnh Đế Hiên Viên tên thật là Hữu Hùng Thị, Thủ lĩnh của dân tộc Tây Bắc Á, là dân tộc Du Mục tràn xuống phía Nam sông Hoàng Hà, đánh chiếm các bộ tộc định cư nông nghiệp và lên ngôi vua sau khi diệt anh em Xuy Vưu và Đế Du Võng là Hoàng Triều con cháu Thần Nông Bắc Hoàng Hà.2750-2696 tr.CN. Hiên Viên cầm quân đánh chiếm thêm bờ Nam sông Hoàng Hà là vùng đất của các bộ tộc Viêm Việt Thần Nông Nam, chiếm lấy đất đai và văn hóa của dân tộc Viêm Việt lập ra các triều đại của Trung Hoa sau này. Người Trung Hoa xem Hoàng Đế là vị Quốc Tổ của mình.
(5)-/ĐẾ NGHI. 2889-2884. Tr. TL
Là con của Đế Minh là anh lớn của Thái Tử Lộc Tục, được Đế Minh cho làm Vua Phương Bắc Hoàng Hà sau truyền ngôi cho con là Đế Lai 2843-2794. Và Đế Lai truyền ngôi lại cho con là Đế Ly 2793- 2751 tr. TL. Rồi Truyền cho Đế Du Võng 2750-2696 tr. TL mới bị mất Nước.
(6)-/ KINH DƯƠNG VƯƠNG 2879- 2794 TR. TL.
Thái Tử Lộc Tục sau được cha truyền ngôi làm vua phương Nam năm Nhâm Tuất 2.879 tr CN , lấy hiệu là Kinh Dương Vương, anh một cha khác mẹ của Kinh Dương Vương là Đế Nghi ( 2.889- 2.884 tr. CN ), lấy Bà Long Nữ Sinh ra Sùng Lảm sau này nhường ngôi cho con, Sùng Lảm lấy Hiệu là Lạc Long Quân.
(7)-/ Hồng Hồ.
Khi lập thành Quốc Gia Xích Quỷ ở Phương Nam có cái hồ lớn gọi đó là Hồng Hồ vì trong hồ có vô vàn chim Hồng Hoàng, Bồ Cắt là một loại chim Hạc sống cộng sinh cùng dân tộc Việm Việt, trong lúc tiết trời lạnh giá mùa đông loài chim Hồng Hạc ấy thiên di về phương Nam để lánh mùa đông, người xưa biết dùng lông chim Hồng để trang điểm trên mủ, áo, và cũng lấy biểu tượng của chim là đại diện cho một tinh thần dân tộc sống tự do trong bầu trời bao la, là con của thần mặt trời, thần lửa, thần gió, thần mặt trăng.v.v. . . Người Viêm Việt Cổ chạm khắc hoa văn trang trí trên vật dụng sinh hoạt như đồ đất nung và trên đá. Dân tộc Viêm Việt cư trú từng nhóm vài mươi người đến trăm người tạo nên một bộ lạc, nhiều nhóm liên kết lại gọi chung là dân tộc Bách Việt. Tộc Bách Việt sống chủ yếu nghề trồng lúa, chăn nuôi, thuần dưỡng thú vật ở lưu vực sông Hoàng Hà và đánh bắt hải sản các vùng sông, hồ, ven biển Nam Hải. Tộc Bách Việt đã có một nền văn hóa phong phú, biết dệt vỏ cây đay làm áo quần, sản xuất ra các dụng cụ bằng đất nung, những công cụ Rìu, Cày, Cuốc bằng đá dùng trong canh tác, vv.. . ..
(8) NƯỚC XÍCH QUỶ. 2879 tr. TL
Khi được cha truyền ngôi Kinh Dương Vương thành lập Quốc Gia có tên là Xích Quỷ có ý nghĩa là đất nước của” Mặt Trời Đỏ”. Người Việt cổ thường lấy phẩm đất màu đỏ trang điểm trên người như màu của ngọn lửa đỏ, cũng có nghĩa là “ người lửa đỏ “ hay Nước Xích Quỷ là của tộc Người lửa đỏ hay Người Mặt Trời Lửa Đỏ ( Một trong 4 chi của đại Tộc Viêm Việt là : Lửa, Nước, Gió, Đá ). Cũng là phần Tứ Hành Của Vũ Trụ theo quan niệm của người Việt cổ, là trứng vũ trụ Nòng Nang, chia làm hai phần : Nòng Âm và Nọc Dương, hai họ Bộc Nòng gồm những Bộc mặt trời dỉa tròn như các nước :Tây Thục , Ba Thục , các chi Tày, Thái, Nùng, Dao. . . và Việt Nọc Mặt trời Thái Dương gồm cả trăm Việt như Man Việt, Dương Việt, Lạc Việt, Lang Việt. . . các nước như Việt Câu Tiễn, U Việt, Ngô Việt, Mân Việt, Kinh Sở . . .Việt Nam là lịch sử thực thể có hiện thực còn thấy trước mắt chúng ta ngày nay. Đối với Đế Minh, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương là một thể chứng lịch sử qua dạng truyền thuyết, không phải là do các nhà Việt Nho bịa ra, bằng chứng bốn chi người Mặt Trời là bốn họ Việt của Đế Minh mà Trung Hoa gọi là Tứ Di, Tứ Man vẫn còn thực thể trên vùng phía Bắc nước ta dưới tên Man ( Mán, Mường. . . ) Kẻ, Ná (Nàng) Lang. Và cùng với bốn Châu: Châu Man, Châu Kì, Châu Giao, Châu Phong. . . . Tóm lại 50 con thuộc ngành Au ( Theo Mẹ Âu Cơ) là Au, Tày, Thái, Nùng. . . . Còn 50 con theo ngànhh Lạc ( Theo Cha Lạc Long Quân) là Giao, Lạc Dân, đông Di, Khuyển Nhung. .
Việc bọc trứng nở trăm con của Lạc Long Quân, Âu Cơ thể hiện qua các sắc dân tộc ở ngay Việt Nam hay trong vùng Đông Nam A mà chúng ta đã thấy, đều xuất phát từ gốc Việt mà ra.
(9) Đế Lai là con Đế Nghi lên ngôi năm 2.843 tr CN sau truyền ngôi cho con là Đế Ly và Đế Ly truyền ngôi cho Đế Du Võng thì vùng Bắc Viêm Việt mới bị rơi vào tay Hiên Viên Hoàng Đế của Trung Hoa.
(10)-/ Xuy Vu. Là tùy tướng của Đế Lai Hoàng Triều Thần Nông Bắc Hoàng Hà truyền xuống đến đời Đế Du Võng . Xuy Vưu có 81 anh em, theo giúp các vua Con Cháu Thần Nông Bắc trải qua 3 đời, cũng dòng dỏi họ Khương Viêm Đế Thần Nông, họ có công đánh trả lại cuộc xâm lăng của Hiên Viên Hoàng Đế, nhưng về sau cũng bị bại và mất nước.
(11)-/ Tục truyền rằng đức Lạc Long Quân có thần thông biến hóa, có tài sống dưới nước như ở trên cạn, Ngài có lập một Thủy Phủ cai quản cả trên cạn và dưới nước.
(12)-/Dòng chi thứ 4 của Hùng Hoa Vương húy là Bửu Lang sinh năm Canh Ngọ 2270, lên ngôi năm Đinh Hợi 2254 tr. CN truyền nhiều đời đến năm 1918 tr. CN. Được 336 năm mới đến dòng chi thứ 5 là Hùng Hy Vương
(13)-/Nước Ba Thục có trước thời Tam Quốc của Trung Hoa cũng là Dân Tộc thuộc dòng Bách Việt, một bộ lạc lớn mạnh ở phía Bắc nước Văn Lang, thường chống giữ ngăn chận những cuộc xâm lăng tộc Hoa Phương Bắc.
(14)-/Sau khi nhà Tần bị Hạng Vỏ và Lưu Bang diệt các lãnh chúa cát cứ địa phương xưng Vương gồm : Hán , Ngô , Sở . sau này Lưu Bang thống nhất được Trung Hoa.
(15)-/ Tướng Quân Cao Lổ là một nhà kỹ thuật quân sự tài ba, ông tạo ra loại Nỏ Liên Châu mỗi lần bắn một phát được 4, 6 mũi tên đồng có chiều dài 1,5 m, một loại Nỏ phòng thủ rất mạnh và hiệu quả nhờ tầm bắn xa, do 2 người sử dụng được đặt cố định trên thành có bệ xoay chuyển hướng bắn. Quân Triệu ngỡ ngàng khi bị thương vong quá nhiều do cung nỏ gây nên và chúng cho rằng An Dương Vương có Nỏ Thần./.

OS
Sent from my iPhone using Forum Runner
 

noithatkientruc

Xe điện
Biển số
OF-60837
Ngày cấp bằng
3/4/10
Số km
3,322
Động cơ
469,903 Mã lực
Nơi ở
3 Đình - Hà lội
Có thông tin địa giới vịt mình chỉ có từ miền trung đổ ra phía bắc từ trước đời nguyễn, sau đó mới gấp thếp như bây h :D có cụ chiên gia nào xác thực thông tin này chửa ?
 

CIB

Xe điện
Biển số
OF-35776
Ngày cấp bằng
22/5/09
Số km
3,508
Động cơ
499,498 Mã lực
Cháu hỏi ngu tý, hôm sang Hưng Yên cháu tháy có cái di tích quốc gia là đền thờ Chử Đồng Tử, cho cháu hỏi là Ông Chử Đồng Tử này có công trạng gì mà đựoc phong là một trong tứ bất tử thế ạ?
 

workerbee2006

Xe tải
Biển số
OF-7286
Ngày cấp bằng
20/7/07
Số km
297
Động cơ
540,531 Mã lực
Theo ngu ý của em thì do Kinh Dương Vương là vị vua đầu tiên của phương Nam, là cha của Lạc Long Quân và là thủy tổ của các vua Hùng nên dân tộc ta gọi là dân tộc Kinh.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Hồng_Bàng
 

tranvespa

Xe tải
Biển số
OF-45975
Ngày cấp bằng
9/9/09
Số km
431
Động cơ
464,322 Mã lực
Có cái này nhà cháu cóp ở trên mạng. Ko phải nhà cháu sáng tác nhá!
Lạc Long Quân, vẩy đầy mình
Âu cơ là vợ, đẻ uỳnh trăm con.
Đứa xuống biển, đứa lên non
Những chuyện như thế ...éo còn ai tin.
Triệu Đà tướng giỏi vãi ...ìn,
Đánh nhau với cả quân mình Cổ Loa
Xây thành phải đợi tiếng gà,
Thần rùa giúp đỡ dần dà cũng xong
An Dương Vương, cứ khóc ròng
Mất nước chỉ tại thù trong giặc ngoài !
Trọng Thủy là đứa bất tài,
Mỵ Châu phải gọi là loài hiếu dâm.
Đất nước cực khổ muôn phần
Vào ách đô hộ đến gần trăm niên
******
Bà Trưng nhịn nhục nỗi niềm
Vùng lên khởi nghiã hấp diêm bọn Tàu
Nước mình độc lập chẳng lâu
Lũ Khựa nó lại lâu bâu xông vào
Lí Bí một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Có ông Hắc Đế họ Mai.
Lịch sử em nắm cũng vài ý chung.
Một nghìn năm sử lung tung.
Thế rồi Nam Hán như sung chết đầy
Ngô Quyền mưu giỏi kế hay
Chọc thủng tan nát một bầy thuyền to.
Nước mình tên gọi Đại Cồ
Việt ta ngày ấy họ Ngô nắm quyền
Mười hai Quân sứ nổi điên
Có người đánh lộn kiếm tiền họ Đinh
Cờ lau từ thuở còn trinh
Binh đao từ thuở nước mình hỗn mang
Ninh Bình vua ở với quan
Hoa Lư thủ phủ trong hang to đùng
Tiên Hoàng chết lúc đang sung
Thái hậu được dịp ngủ cùng họ Lê.
Hoàn ta sung sướng đê mê
Áo bào ra trận bụng phê mắt lòi.
Vua Lý thèm gái đi chơi
Tới khi ngẩng mặt lên trời thất kinh
Một con rồng múa linh tinh
Chỉ vì mê tín triều đình dời đô.
Một tay gây dựng cơ đồ
Phật là quốc đạo, Khổng Nho làm nền
Một hôm hội ngộ trong đền
Quốc sư Thường Kiệt rập rền Tống quân
Bắc loa lên giả làm thần
Nước Nam tao ở dần dần nói ra
Ai ngờ quân Tống cũng gà
Vội bê quần áo đệm ga đi về
Lý Thường Kiệt, cười hề hề
Giọng tao thái giám ai chê nữa nào ?
Quả là trí tuệ trình cao
Việt quân sung sướng ào ào tiến lên
Họ Trần *** chịu được thêm
Mới đưa Trần Cảnh một đêm vào triều
Cùng công chúa Lý làm liều
Thôi thì hai cháu cũng yêu thật lòng
Lý triều vì thế đi tong
Đến thời vua mới thuộc dòng nhà tao
Họ Trần rất đỗi anh hào
Thăng Long bỏ ngỏ chui vào rừng sâu
Nguyên Mông nhịn đói đã lâu
Từ trong hang đá ta bâu ra đầy
Người Việt vốn tính bầy hầy
Hỏi Trần Hưng Đạo bậc thầy thái sư :
Vua rằng " Địch mạnh thế ư?"
Đạo rằng "Thua cứ cắt cu của thần”
Toàn dân khí thế vô ngần
Đánh quân Mông Cổ ba lần nát tan
Quốc Toản bóp nát quả cam
Ống đồng thằng giặc Thoát Hoan chui vào
Xưa nay gì cứ cao trào
Thì ngay sau đó sẽ nhào xuống ngay
Quý Ly vốn kẻ cao tay
Tiếm quyền và nước non này về ta
Tây Đô Thanh Hóa là nhà
Thăng Long đếch ở, rõ là... thằng ngu
Nhà Hồ thọ được mấy thu
Giặc Minh phương Bắc từ từ xâm lăng
Đầu người thì bị chặt phăng
Trai tù gái hiếp hờn căm ngút trời.
Anh hùng xuất hiện kịp thời
Ở trong Thanh Hóa có người họ Lê
Tên là Lợi, nhóm máu dê
Nhân tài Nguyễn Trãi là bề tôi trung
Được cho gươm báu để dùng
Bởi vì người Việt thờ chung thần Rùa
Nhà vua câu cá với bồ
Tiện tay trả kiếm ở hồ Hoàn Gươm
Không lâu vua chết bất thường
Nguyễn Trãi phải khổ ba đuờng chu di
Trong vụ án vuờn Lệ Chi
Nguời ngoài bán tín bán nghi nhiều phần
Công lao chúa Nguyễn lấn sân
Nước mình chiếm trọn địa phần miền Nam
Ngày xưa là đất của Cam
Pu - chia với cả người Chàm Mút-xlim
Chiêu Thống bị giặc bóp chim
Phú Xuân Nguyễn Huệ im lìm tiến quân
Đánh cho dài tóc vô ngần
Đánh cho răng nhuộm mười phần đều đen
Đánh cho Sĩ Nghị một phen
Hồn bay phách lạc, xác chen thành gò
Đống Đa cho tới Cửa Lò
Gió reo còn vẳng tiếng hò ba quân
Giặc xâm lược phải mút chân
Giặc vô giặc phải liếm phân nước mình
Giặc Thanh giặc Tống giặc Minh
Nam tiến đều bị mất trinh mất đầu
Quang Trung vua sống chẳng lâu
Thì đùng một cái đi chầu bên kia.
Ngọc Hân công chúa đầm đìa:
Chàng ơi sao lại say bia đánh ..ồn
Các chúa nhà Nguyễn cũng khôn
Dần dần dẹp Trịnh ôn tồn tiến lên
Việt Nam quốc hiệu đặt tên
Miền Trung ở Huế dựng nên kinh thành
Bấy giờ thiên hạ nổi danh
Một người thơ phú rất rành tên Du
Viết ra một quyển dâm thư
Tên nhân vật chính hình như là Kiều
Gần xa ân ái cũng nhiều
Mười phần xinh đẹp lại chiều khách chơi
Ngâm Kiều mới hiểu kiếp người
Ngẫm ra càng thấy cuộc đời xấu xa
Đau đớn thay phận đàn bà
Than rằng bạc mệnh cũng là lời chung

******
Nam Kỳ trồng được cây bông
Gòn ở một chỗ là sông Sài Gòn
Hòa bình phủ khắp nước non
Các cha truyền đạo lon ton chạy vào
Tây Ban Nha tới Bồ Đào
Toàn người da trắng to cao chim dài
Có ông Đờ Rốt thật tài
Nghĩ ra quốc ngữ ngay bài đầu tiên
Dân Nam sung sướng như điên
Từ nay đỡ phải bút nghiên chữ Tàu
A bê xê, thuộc làu làu
Chữ Nho chữ Hán vò nhàu vứt đi
Vào năm Ây tin phíp ty-
Ết (1858) người Pháp đến chẳng đi về nhà
Đánh nhau bán đảo Sơn Trà
Pháp là đại bác, Việt là cung tên
Chịu thua vua Nguyễn kí tên
Nhường cho sáu tỉnh ở miền Đông Nam
Nước mình thành nước An Nam
Bị Pháp đô hộ lại càng khó khăn
Gần xa trí thức băn khoăn
Bao giờ mới hết liếm căn nước ngoài
Bội Châu thỉnh thoảng viết bài
Thơ ca yêu giống, yêu loài, ghét Tây
Đông Du phong trào rất hay
Thanh niên du học càng ngày càng đông.
Hoàng Hoa Thám, giỏi võ công
Mùa xuân khởi nghĩa, mùa đông mất đầu
Thế kỷ mười chín u sầu
Anh hùng giải phóng tìm đâu bây giờ?
Thình lình giáng thế Bác Hồ
Thiên văn phỏng đoán cơ đồ sẽ nên
Sinh Cung họ Nguyễn là tên,
Nam Đàn là huyện, Kim Liên là phường.
Nghệ An là đất quê hương
Trình độ Hán học tương đương người Tàu
Tây phương văn hóa hiểu sâu
Châu Mỹ đã trải, châu Âu đã từng
Yêu dân thương nước vô cùng
Năm hai mốt tuổi đùng đùng đi Tây
Quyết tâm học lấy điều hay
Mỗi ngày Bác viết lên tay vài từ
Bao lần vào tội ra tù
Bao lần Bác vẫn cười trừ kẻ gian
Ví không có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong lúc gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng
Paris Bác ở Công poăng
Ngày thì quét tuyết đêm chăm học bài
Lênin cương luận rất dài
Bác đọc cũng hiểu một vài ý chung
Học xong Nin - Mác Bác bùng
Nồi xoong, quần áo, chăn mùng Bác đi
Thế rồi Bác bị tình nghi
Tàu Tưởng bắt Bác mong chi ngày về
Nhưng nhờ nghị lực tràn trề
Đến năm Bốn Mốt Bác về Việt Nam
Ngày ngày Bác ở trong hang
Bẻ cây, phá đá làm bàn Bác ghi
Vui chơi sung suớng tuỳ nghi
Sáng ra bờ suối tối thì vào hang
Rau măng cháo bẹ sẵn sàng
Cuộc đời cách mạng thật sang thật giàu
Chẳng tiền bạc chẳng nhà lầu
Chẳng xe chẳng gái mà giàu với sang
Được cái vượt khó kinh hoàng
Mùng 2 tháng 9 oang oang một vùng (1945)
Từ nay coi trời bằng vung
Nhân dân đứng kín quảng trường hét vang
(Bấy giờ chưa có cái lăng,
Bao giờ Bác sụm, Bác nằm mới xây!).
*****
Quân Pháp hùng hổ ra tay
Bác rời thủ phủ lao ngay vào rừng
Du kích, chiến thuật, nằm vùng...
Nay mai đủ sức ta cùng chui lên
9 năm làm một Điện Biên,
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng!
Trai tráng lũ lượt về làng
Đâm đầu lấy vợ đẻ tràn cung mây!
Ngày ấy chưa giống ngày nay,
Mặc ai nấy đẻ, con mày mày nuôi.
Hòa bình được mấy năm trời
Chú Sam bên Mỹ vào chơi Nam Kỳ
Đến rồi lại chẳng chịu đi
Bài này ta rõ từ khi đánh Tàu!
Thế là Nam Bắc choảng nhau
Đại diện bên ấy đứng đầu họ Ngô
Vừa lùn vừa béo vừa dô
Thời gian thấm thoắt cả lò xuống âm
Lệ Xuân con ghẹ rất dâm
Về sau không rõ ăn nằm với ai!
Diệm đứt thì Thiệu lên thay
Được dăm ba bữa chạy lòi cả đom
Tình hình Bắc chẳng hơn Nam
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần
Xót xa đau khổ muôn phần
Dân ta gạt đất âm thầm xây lăng!
Bên Mỹ cũng chẳng nói năng
Gửi thêm bom đạn nhẹ nhàng phân ưu
Máy bay Mỹ lượn vèo vèo
Phi công mười chú thì teo gần mười
Dân ta hớn hở tươi cười
Hiệp định ký roẹt là mời bác thăng.
Tháng Tư hùng hổ xe tăng
Húc vào cửa sắt tung tăng treo cờ
Chỗ này cũng khá mù mờ
Tới bốn năm chú nhận là lái xe!
Xây dựng đất nước mới toe
Vài năm khói lửa lập lòe biên cương
Tàu - Việt hai nước thân thương
Môi hở răng lạnh vẫn thường đập nhau
Đâm chém được một hồi lâu
Thôi thì hữu nghị xoa đầu bắt tay
30 năm đó đên nay
Lãnh thổ vẫn cứ của mày của tao!!!
Trường Sa lên đến cao trào.
Liên Xô tan rã nên… chào hai tay
Nghĩ đi nghĩ lại cũng hay!!!
 

springsea

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-44950
Ngày cấp bằng
29/8/09
Số km
11,917
Động cơ
536,696 Mã lực
Ngày xưa nhà nước Văn Lang của vua Hùng cũng chỉ là 1 bộ tộc nhỏ của Bách Việt gọi là người Lạc Việt có lãnh thổ quanh vùng Phong Châu, Việt trì. Sau đó chiến tranh với bộ tộc Âu Việt rồi sát nhập thành nhà nước Âu lạc của Thục Phán
 

buonduale

Xe điện
Biển số
OF-102288
Ngày cấp bằng
18/6/11
Số km
2,454
Động cơ
417,253 Mã lực
Nơi ở
Hà nội
Có thông tin địa giới vịt mình chỉ có từ miền trung đổ ra phía bắc từ trước đời nguyễn, sau đó mới gấp thếp như bây h :D có cụ chiên gia nào xác thực thông tin này chửa ?
Cụ nói nhỏ thôi ! các cụ nhà mình xơi tái Quảng bình Hà tĩnh,Nghệ an của thằng em Lào .Từ thừa thiên trở vào là của người Chăm cũng bi vua Thành Thái thu hồi .Còn miền nam cách đây 300 năm Triều nguyền cử Nguyễn Chi Phương vào khai khẩn và mượn tam ko thời hạn của Khơ me.Các cụ mình công nhận giỏi thật đấy trong vòng 1000 năm đã mở rộng lãnh thổ lên gấp ba lần chả kém gí anh Khựa cả. Em đố các triều đại sau nay làm được như các cụ đấy hay lại làm mất đất đai biển đảo của cha ông vất vả đổ bao xương máu mới có được Các cụ nên nhớ rằng tấc đát tấc vàng đời nào cũng thế .Mình cứ chửi Tầu bành trướng nhưng mình cũng chả kém cạnh gi nhỉ
 

shuttle bus

Xe tăng
Biển số
OF-90629
Ngày cấp bằng
2/4/11
Số km
1,394
Động cơ
416,680 Mã lực
Nơi ở
những nẻo đường OF
Bác Hồ đã dạy
"Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"

Thế nhưng, cho đến giờ, e vẫn còn mù mờ về gốc tích nước nhà lắm nên mở topic này để mong học hỏi thêm được từ các cụ/mợ cao nhân trên này.

Trước hết, e có câu hỏi: Vì sao dân tộc mình có tên là dân tộc Kinh? Sự hình thành phát triển của dân tộc này thế nào.

Mong các cụ mợ cho em tí kiến thức nhé
Dạo này nhiều người không biết sử "Ta" là do trên tivi bây giờ nó toàn chiếu sử "Tung Của, Hàn Xẻng..." nên bây giờ có hỏi kể cả trẻ nhỏ Tần Vương, Hán Vương...là ai thì chúng nó trả lời vanh vách ! Thế nhưng khi hỏi AN Dương Vương hay Bố Cái Đại Vương là ai thì : 1- CHÁU không biết.
2- Chắc là vị vương nào đó mà cháu chưa xem Dã Sử Tung Của ~X( !
Khốn thay cho Bộ GD, Bộ Thông tin, truyền thông...và cho Các thạc sĩ,tiến sĩ...kính thưa các loại SĨ đang dày công nghiên cứu công trình : Làm sao lấy được tiền luận án,dự án... :((
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top