Lượng nhập tiểu ngạch phải tương đương nhập chính ngạch
Còn xuất tiểu ngạch cực kỳ thấp
Quan hệ thương mại tiểu ngạch được áp dụng chủ yếu cho một số mặt hàng nông sản của Việt Nam và các mặt hàng tiêu dùng. Ngược lại chúng ta cũng có nhu cầu nhập khẩu những sản phẩm công nghiệp và hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng của phía Trung Quốc.
Riêng đối với mặt hàng nông sản, theo thống kê của Bộ Công Thương, 1/3 sản lượng xuất khẩu thông qua con đường tiểu ngạch. Đối với mặt hàng gạo, Hiệp hội Lương thực Việt Nam cũng ước tính, xuất khẩu gạo theo đường tiểu ngạch sang Trung Quốc năm 2013 lên tới 1,5 triệu tấn, chiếm hơn 20% tổng lượng xuất khẩu gạo chính ngạch của Việt Nam và hơn 51% tổng lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Trung Quốc.
Còn theo Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam, hiện có đến 50-60% cao su xuất khẩu qua Trung Quốc là theo đường tiểu ngạch. Hiệp hội rau quả Việt Nam cũng cho biết, có đến 90% sản lượng thanh long xuất khẩu sang Trung Quốc qua đường tiểu ngạch.
Lợi ích có, song rủi ro cũng rất nhiều
Lợi ích của xuất khẩu tiểu ngạch là thủ tục đơn giản, không cần qua hợp đồng bằng văn bản và không cần thanh toán qua ngân hàng; vì thế thích hợp với khối lượng trao đổi nhỏ, hoặc cần thời gian gấp.
Lý do chính khiến rất nhiều doanh nghiệp và cá nhân chọn hình thức buôn bán tiểu ngạch là do yêu cầu chất lượng từ thị trường Trung Quốc không cao, hình thức buôn bán “dễ tính”.
Hiện nay, có hai phương thức chính hiện được áp dụng trong thu mua hàng hóa ở Việt Nam để xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc.
Cách thứ nhất là các thương lái Trung Quốc thu mua nông sản của nông dân Việt Nam rồi tiêu thụ tại thị trường trong nước hay vận chuyển lên biên giới xuất khẩu.
Cách thứ hai là các thương nhân Trung Quốc đặt hàng các doanh nghiệp Việt Nam thu gom và vận chuyển.
Mặc dù giá thu mua của các thương nhân Trung Quốc thường cao, nhưng phần lớn chỉ có hợp đồng miệng dẫn đến hiện tượng bị ép giá, mà không có cơ sở giải quyết khi có tranh chấp.
Bất lợi lớn của hình thức buôn bán tiểu ngạch là thiếu ổn định, dẫn đến thiệt hại cho phía Việt Nam:
Thứ nhất, nguồn cung (sản xuất) từ phía Việt Nam không được điều phối phù hợp, sản xuất vượt quá khả năng tiêu thụ.
Thứ hai, tính mùa vụ cao của các sản phẩm trao đổi. Nhiều sản phẩm, như: rau quả, thủy sản vào mùa khai thác hoặc thu hoạch buộc phải tiêu thụ nhanh dẫn đến hiện tượng bị ép giá, làm giá trong nước giảm nhanh, gây thiệt hại cho nông dân.