Ngày 14-7, Bộ Y tế ban hành "Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng virus corona mới (SARS-CoV-2)". Hướng dẫn mới nhất này sẽ thay thế hướng dẫn do Bộ Y tế ban hành hồi tháng 4-2021.
Cho phép điều trị theo phác đồ đang ở dạng nghiên cứu
Theo đó, Bộ Y tế thay đổi phác đồ điều trị COVID-19 theo hướng phân loại người bệnh và xác định nơi điều trị theo mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Cụ thể, các trường hợp bệnh nghi ngờ (có thể xem như tình trạng cấp cứu) cần được khám, theo dõi và cách ly ở khu riêng tại cơ sở y tế, lấy bệnh phẩm đúng cách để làm xét nghiệm đặc hiệu chẩn đoán, xác định.
Trường hợp bệnh xác định cần được theo dõi và điều trị cách ly hoàn toàn.
Các ca bệnh F0 nhẹ không có triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ (viêm đường hô hấp trên, viêm phổi nhẹ) điều trị tại buồng bệnh thông thường.
Ca bệnh nặng (viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết) hoặc ca bệnh nhẹ ở người có bệnh mãn tính, người cao tuổi cần được điều trị tại phòng hồi sức tích cực.
Ca bệnh nặng (suy hô hấp nặng, sốc nhiễm trùng, suy đa cơ quan) cần được điều trị hồi sức tích cực.
Do chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, Bộ Y tế cho biết điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng là chủ yếu, nhưng cần cá thể hóa các biện pháp điều trị cho từng trường hợp, đặc biệt là các ca bệnh nặng, nguy kịch.
Đặc biệt, có thể áp dụng một số phác đồ điều trị đang ở dạng nghiên cứu và được Bộ Y tế cho phép, song song cần phát hiện và xử trí kịp thời các tình trạng nặng, biến chứng của bệnh.
Xuất viện sau 10 ngày nếu không có triệu chứng
Thay như hướng dẫn trước đây là phải có từ 2 kết quả âm tính mới được xuất viện, hướng dẫn này cũng cho biết bệnh nhân có thể xuất viện vào ngày thứ 10 kể từ khi có kết quả xét nghiệm dương tính, nếu không có triệu chứng lâm sàng trong vòng 10 ngày; tối thiểu lấy 2 xét nghiệm PCR cách nhau 24 giờ có kết quả âm tính hoặc vẫn dương tính nhưng nồng độ virus thấp (Ct < 30).
Ngoài ra, có thể xuất viện vào ngày thứ 14 nếu 10 ngày không có dấu hiệu lâm sàng, xét nghiệm nồng độ virus Ct > 30.
Bệnh nhân có thể xuất viện sau ngày thứ 14 kể từ ngày có kết quả xét nghiệm dương tính, ngày ra viện là ngày thứ 3 kể từ ngày không còn triệu chứng lâm sàng và đảm bảo tiêu chuẩn xét nghiệm.
Người được ra viện sẽ được giám sát tại nhà bởi y tế cơ sở và CDC địa phương thêm 14 ngày, mỗi ngày đo thân nhiệt 2 lần, nếu thân nhiệt cao hơn 38 độ C ở 2 lần đo liên tiếp thì báo ngay cho y tế địa phương.
Các trường hợp đã xuất viện và có kết quả xét nghiệm tái dương tính sẽ không phải quay lại điều trị tại bệnh viện.
5 mức độ bệnh COVID-19
Theo hướng dẫn mới nhất của Bộ Y tế, các trường hợp bệnh nghi ngờ mắc COVID-19 bao gồm: người bệnh có sốt và/hoặc viêm đường hô hấp cấp tính không lý giải được bằng các nguyên nhân khác; người bệnh có bất kỳ triệu chứng hô hấp nào và có tiền sử đến/qua/ở/về từ vùng dịch tễ có bệnh COVID-19 trong khoảng 14 ngày trước khi khởi phát các triệu chứng hoặc tiếp xúc gần với trường hợp bệnh nghi ngờ hoặc xác định COVID-19 trong khoảng 14 ngày trước khi khởi phát các triệu chứng.
Trường hợp bệnh xác định mắc COVID-19 được Bộ Y tế quy định là trường hợp bệnh nghi ngờ hoặc bất cứ người nào có xét nghiệm dương tính với vi rút SARS-CoV-2 bằng kỹ thuật Real time RT-PCR.
Theo hướng dẫn, các triệu chứng lâm sàng của bệnh thể hiện: thời gian ủ bệnh là từ 2-14 ngày, trung bình từ 5-7 ngày. Dấu hiệu khởi phát là các triệu chứng hay gặp là sốt, ho khan, mệt mỏi và đau cơ; có thể bị đau họng, nghẹt mũi, chảy nước mũi, đau đầu, ho có đờm, nôn và tiêu chảy. Một số trường hợp có biểu hiện rối loạn khứu giác hoặc tê lưỡi.
Về diễn biến bệnh cụ thể, hướng dẫn mới nhất của Bộ Y tế nêu rõ: "Hầu hết người bệnh (khoảng hơn 80%) chỉ sốt nhẹ, ho, mệt mỏi, không bị viêm phổi và thường tự hồi phục sau khoảng một tuần. Tuy nhiên, một số trường hợp không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng nào".
"Khoảng gần 20% số bệnh nhân diễn biến nặng, thời gian trung bình từ khi có triệu chứng ban đầu tới khi diễn biến nặng thường khoảng 5-8 ngày" - Bộ Y tế hướng dẫn cụ thể.
"Các biểu hiện nặng bao gồm: viêm phổi, viêm phổi nặng cần nhập viện… Trong đó khoảng 5% cần điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực với các biểu hiện hô hấp cấp (thở nhanh, khó thở, tím tái…), hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS), rối loạn đông máu, tổn thương vi mạch gây huyết khối và tắc mạch, viêm cơ tim, sốc nhiễm trùng, suy chức năng các cơ quan bao gồm tổn thương thận và tổn thương cơ tim, dẫn đến tử vong".