[Funland] Tin tức kỹ thuật quân sự quốc tế

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực


 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực


 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực

 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực
ReDrone và nhiệm vụ giải quyết những thách thức từ UAV
Thứ Tư, 22:25, 22/01/2025
VOV.VN trên Google News

VOV.VN - Công ty Elbit Systems Ltd. của Israel đã ký một hợp đồng trị giá khoảng 60 triệu USD để cung cấp Hệ thống chống máy bay không người lái (C-UAS) tiên tiến cho một quốc gia thành viên NATO tại châu Âu.

Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ máy bay không người lái đã dẫn đến những thách thức đáng kể, khi máy bay không người lái được sử dụng để trinh sát, buôn lậu và thậm chí là tấn công có vũ trang. Các quốc gia hiện đang đầu tư vào các công nghệ C-UAS mạnh mẽ để giảm thiểu những rủi ro này.
redrone va nhiem vu giai quyet nhung thach thuc tu uav hinh anh 1


Ảnh: Hệ thống chống máy bay không người lái ReDrone. Nguồn: Thedefensepost.com
Ngày 6/01/2025, Công ty Elbit Systems Ltd (Israel) đã công bố ký kết một hợp đồng trị giá khoảng 60 triệu USD, kéo dài trong ba năm, để cung cấp Hệ thống chống máy bay không người lái (C-UAS) tiên tiến cho một quốc gia thành viên NATO tại châu Âu. Trọng tâm của hợp đồng này là giải pháp C-UAS mô-đun ReDrone tiên tiến, một hệ thống phòng thủ nhiều lớp được thiết kế để phát hiện, nhận dạng, định vị, theo dõi và vô hiệu hóa nhiều máy bay không người lái thù địch cùng lúc.
Tính năng nổi bật của hệ thống ReDrone là khả năng thích ứng, hỗ trợ cả cấu hình cố định và di động để triển khai linh hoạt trong bối cảnh đô thị và nông thôn. Là một nền tảng đa cảm biến cung cấp các khả năng tiên tiến vượt xa các công nghệ cảm biến thông thường, nó có thể nhanh chóng phân loại và xác định vị trí của máy bay không người lái trong nhiều điều kiện thời tiết và môi trường khác nhau cả ngày lẫn đêm.

Ngoài ra, nó có thể hoạt động trên nhiều kênh liên lạc của máy bay không người lái khác nhau và bao gồm các khả năng tiên tiến về chỉ huy, điều khiển, liên lạc, máy tính và tình báo. ReDrone có thể được thiết lập cố định hoặc di động, với cấu hình sau cho phép nó được gắn trên xe để tăng cường tính linh hoạt trong hoạt động.
Hệ thống ReDrone tích hợp nhiều hệ thống con, gồm radar DAiR có khả năng xác định chính xác nhiều mối đe dọa trên không; cảm biến SIGINT (Tình báo tín hiệu) cung cấp dữ liệu quan trọng để phát hiện và phân loại các mối đe dọa từ máy bay không người lái; biện pháp đối phó chiến tranh điện tử (EW) để phá vỡ liên lạc và điều khiển máy bay không người lái; và tải trọng quang điện tử (EO) có khả năng hoạt động cả ngày lẫn đêm, để nhận dạng và theo dõi trực quan máy bay không người lái theo thời gian thực.
Cùng nhau, các thành phần này cung cấp một bức tranh trên không chi tiết và gắn kết đồng thời tạo khả năng tấn công điện tử để vô hiệu hóa hiệu quả các mối đe dọa. Thiết kế dạng mô-đun, khả năng đa cảm biến và chức năng đa nhiệm vụ của ReDrone khiến nó trở nên khác biệt - đảm bảo khả năng mở rộng, cho phép người vận hành tùy chỉnh hệ thống cho các nhu cầu hoạt động cụ thể.
Cho dù được gắn trên xe hay triển khai dưới dạng lắp đặt cố định, hệ thống ReDrone đều mang lại sự linh hoạt và hiệu quả. Là một phần trong danh mục các giải pháp EW, radar và SIGINT tiên tiến của Elbit, hệ thống này vượt trội hơn các khả năng thông thường của cảm biến chủ động và thụ động. Khả năng thích ứng cho phép hệ thống hoạt động hiệu quả trong cả môi trường đô thị và nông thôn trong nhiều điều kiện thời tiết khác nhau. Hệ thống này cũng kết hợp các khả năng chỉ huy và kiểm soát (C4I) tiên tiến, cho phép quản lý nhiệm vụ tập trung.
Được thiết kế để đáp ứng các yêu cầu chiến lược của lực lượng vũ trang hiện đại, hệ thống này cung cấp khả năng bảo vệ toàn diện chống lại các mối đe dọa ngày càng tăng do máy bay không người lái gây ra, đóng vai trò quan trọng trong các cuộc xung đột đương đại. Hệ thống có thể hoạt động trên nhiều kênh liên lạc khác nhau, cung cấp khả năng bảo vệ toàn diện cho cơ sở hạ tầng quan trọng, cơ sở quân sự và các tài sản có giá trị cao khác.
Giải pháp ReDrone của Elbit Systems đã chứng minh được khả năng trong nhiều bối cảnh hoạt động khác nhau, được công nhận về độ tin cậy và hiệu quả. Sự gia tăng của máy bay không người lái đòi hỏi các giải pháp tinh vi để bảo vệ cơ sở hạ tầng quan trọng, không phận và khí tài quân sự. Hợp đồng là một cột mốc quan trọng đối với Elbit Systems để củng cố vị thế là nhà cung cấp chính các công nghệ phòng thủ tiên tiến trong NATO.
Dự án này, nêu bật nỗ lực ngày càng tăng của các quốc gia NATO vào việc tăng cường khả năng phòng thủ của họ trước các mối đe dọa mới nổi, đặc biệt là những mối đe dọa do hệ thống máy bay không người lái gây ra. Với khả năng công nghệ tiên tiến và tính linh hoạt trong hoạt động, ReDrone rất phù hợp để giải quyết những thách thức do các mối đe dọa từ máy bay không người lái gây ra trong bối cảnh địa chính trị đang thay đổi.
 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực


 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực



 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực


 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực

 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực

 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực

 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực
Tại sao Anh, Mỹ trì hoãn mở Mặt trận thứ hai chống phát xít?
Cập nhật lúc: 07:00 25/01/2025Google News
facebook
twitter
-
+
print friendly
TIN LIÊN QUAN
Lính dù đã làm thay đổi Thế Chiến II ra sao?
Lính dù đã làm thay đổi Thế Chiến II ra sao?
Loạt ảnh hiếm về cuộc đổ bộ D-Day trong Thế chiến II
Anh và Mỹ trì hoãn việc mở Mặt trận thứ hai để "giành giật" những miếng ngon nhất từ "con gấu Đức" đang "rỉ máu" và ngăn chặn Liên Xô mở rộng sự thống trị sau Thế chiến II.

Vấn đề mở Mặt trận thứ hai
Tai sao Anh, My tri hoan mo Mat tran thu hai chong phat xit?
Ảnh: Cuộc đổ bộ của các đơn vị Đại đội E thuộc Trung đoàn bộ binh 16 thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 của Quân đội Mỹ lên bãi biển Omaha ngày 6/6/1944. (Nguồn: Topwar).
Lần đầu tiên, việc mở Mặt trận thứ hai chính thức được nêu ra trong một thông điệp cá nhân từ Joseph Stalin, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô từ tháng 7/1941, gửi đến Thủ tướng Anh Winston Churchill. Stalin hoan nghênh việc thiết lập quan hệ đồng minh giữa Liên Xô và Anh, cũng như bày tỏ sự tin tưởng vào chiến thắng trước kẻ thù chung. Theo người đứng đầu Chính phủ Liên Xô, thế trận quân sự của Anh và Liên Xô sẽ được cải thiện nếu có thể thành lập một Mặt trận chống Đức phía Tây (miền Bắc nước Pháp) và ở phía Bắc (Bắc Cực). Điều này có thể thu hút lực lượng lớn quân Đức ra khỏi mặt trận phía Đông, đồng thời làm thất bại cuộc xâm lược Anh của Hitler.
Tuy nhiên, Thủ tướng Churchill ngay lập tức bác bỏ đề nghị này, viện dẫn lý do thiếu lực lượng và nguy cơ “thất bại đẫm máu” nếu tiến hành cuộc đổ bộ. Thực tế, người Anh lúc đó đang cân nhắc khả năng đổ bộ vào Na Uy để ngăn chặn Đức chiếm đóng Thuỵ Điển bằng các nguồn lực chiến lược của mình.
Tháng 9/1941, khi các mặt trận đang bị tổn thất nghiêm trọng, Stalin một lần nữa đã nhắc lại vấn đề này. Trong các thông điệp gửi Churchill vào ngày 3 và 13/9/1941, Stalin viết: “… Đức đã chuyển hơn 30 sư đoàn bộ binh mới, một lượng lớn máy bay và xe tăng tới Mặt trận phía Đông và tăng cường hành động của các đồng minh…”. Theo Stalin, bộ chỉ huy Đức coi “mối nguy hiểm ở phương Tây là một trò lừa bịp” và đang chuyển toàn bộ lực lượng sang Nga.
Đức có cơ hội đánh bại trước tiên là Liên Xô, sau đó là Anh. Đây là thời điểm tốt cho Anh mở Mặt trận thứ hai. Churchill cũng phải thừa nhận Liên Xô đang gánh chịu thiệt hại khủng khiếp, nhưng việc mở Mặt trận thứ hai là “không thể”.
Những thắng lợi của Hồng quân trong mùa đông 1941-1942 lại tiếp tục mở ra những cơ hội mới cho việc mở Mặt trận thứ hai. Người Nga đã giữ được Leningrad và Moscow, cũng như phản công thành công vào các điểm nhạy cảm của quân Đức. Bộ trưởng Bộ Cung ứng, Lord Beaverbrook, đã báo cáo với Nội các Anh rằng tình hình thực tế đang mang lại cho Anh những cơ hội mới. Cuộc phản công của Nga đã tạo ra một thế trận mới, gần như mang tính cách mạng ở tất cả những quốc gia bị chiếm đóng, đồng thời mở ra 2.000 dặm bờ biển cho cuộc đổ bộ của quân Anh. Mặc dù vậy, giới lãnh đạo Anh vẫn coi châu Âu là “vùng cấm” với quân đội của mình, nội các Anh và Bộ tham mưu không thống nhất với quan điểm của Beaverbrook.
Ngày 7/12/1941, Mỹ chính thức tham chiến. Quân Mỹ đã khéo léo khiêu khích Nhật Bản tấn công, biến Mỹ thành “nạn nhân của một cuộc tấn công bất ngờ”. Dư luận Mỹ, vốn có khuynh hướng giữ thái độ trung lập, đã nhanh chóng quên đi các nguyên tắc trung lập và chủ nghĩa biệt lập.
Bộ chỉ huy Quân đội Mỹ khi đó đã bắt đầu phát triển một kế hoạch chiến lược bao gồm việc tập trung năng lực quân sự để đối phó với Đức. Nước Anh đã trở thành bàn đạp cho cuộc xâm lược miền Bắc nước Pháp. Kế hoạch này được thảo luận vào ngày 1/4/1942 tại một cuộc họp ở Nhà Trắng và được Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt chấp thuận.
Mỹ muốn sử dụng Liên Xô trong cuộc chiến với Nhật Bản
Tổng thống Roosevelt rất coi trọng kế hoạch này, cả về mặt chính trị lẫn chiến lược quân sự. Ông tin rằng cần phải nhanh chóng đảm bảo với Moscow về việc mở Mặt trận thứ hai. Điều này không chỉ củng cố liên minh với Liên Xô mà còn mang lại sự ủng hộ rộng rãi từ các cử tri Mỹ, những người đồng cảm với cuộc đấu tranh của Liên Xô chống lại quân xâm lược Đức Quốc xã. Sự ủng hộ này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh cuộc bầu cử quốc hội vào cuối năm 1942.
Từ quan điểm chiến lược- quân sự, Washington muốn tranh thủ sự hỗ trợ của Liên Xô trong việc đánh bại Đế quốc Nhật Bản tại chiến trường Thái Bình Dương. Với Tổng thống Roosevelt và các tướng Mỹ, sự tham gia của Liên Xô vào cuộc chiến với Nhật Bản là cực kỳ quan trọng.
Roosevelt đã cử trợ lý thân cận nhất của mình, Harry Hopkins, và Tham mưu trưởng Quân đội Mỹ, Tướng George Marshall, tới London để trình bày kế hoạch này với giới lãnh đạo Anh. Về nguyên tắc, lãnh đạo Anh đã đồng ý với việc thực hiện một cuộc đổ bộ hạn chế của quân Đồng minh phương Tây vào năm 1942 và mở Mặt trận thứ hai vào năm 1943.
Ngày 11/4/1942, Tổng thống Roosevelt đã mời Cố vấn Đại sứ quán Liên Xô, Andrei Gromyko, để chuyển thông điệp cá nhân tới người đứng đầu Chính phủ Liên Xô. Roosevelt đề xuất cử một phái đoàn Liên Xô tới Washington để đàm phán về việc mở Mặt trận thứ hai. Ngày 20/4, Stalin đồng ý và tuyên bố sẽ cử Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Vyacheslav Molotov gặp Tổng thống Mỹ để thảo luận về vấn đề này. London cũng được dự kiến sẽ tham gia. Sau các cuộc đàm phán căng thẳng, đại diện các bên quyết định thành lập Mặt trận thứ hai ở châu Âu. Ngày 12/6, có thông tin cho rằng thoả thuận đã được thông qua.
Tai sao Anh, My tri hoan mo Mat tran thu hai chong phat xit?-Hinh-2
Ảnh: Một đơn vị biệt kích Anh trước cuộc đổ bộ vào Normandy, tháng 6/1944 (Nguồn: Topwar).
Mỹ và Anh cố tình trì hoãn
Cả năm 1942 và 1943, việc mở Mặt trận thứ hai không diễn ra. Cuộc đổ bộ của quân đội châu Âu vào năm 1942 đã bị hoãn lại vì cuộc tấn công của quân Anh - Mỹ ở Bắc Phi. Roosevelt và Churchill đã thoả thuận với nhau, mà không có sự tham gia của đại diện Liên Xô. Từ góc độ quân sự, các hoạt động của quân Đồng minh ở Bắc Phi là không đáng kể, và cũng không có khả năng làm suy yếu sức mạnh quân sự của Đức. Tuy nhiên, những hoạt động ở Bắc Phi, bắt đầu từ tháng 11/1942, đã khiến việc tổ chức mặt trận thứ hai ở châu Âu vào năm 1943 trở nên không khả thi.
Moscow đã được thông báo về quyết định này. Tháng 8/1942, Thủ tướng Anh Churchill đến Liên Xô để đàm phán, đại diện Tổng thống Mỹ, Harryman, cũng có mặt. Ngày 13/8/1942, Stalin trao cho Churchill và Harryman một bản ghi nhớ, trong đó khẳng định năm 1942 là thời điểm tốt nhất để mở Mặt trận thứ hai. Ông lập luận rằng các lực lượng thiện chiến nhất của Đức đã bị đánh bại trên chiến trường Nga.
Tuy nhiên, Churchill lại thông báo về việc Mỹ và Anh đã thống nhất không mở Mặt trận thứ hai ở Tây Âu vào năm 1942, mà thay vào đó, mùa xuân năm 1943 sẽ là thời điểm thích hợp. Moscow quyết định không làm trầm trọng thêm vấn đề này.
Bộ chỉ huy Đức, lợi dụng sự trì hoãn này của Anh và Mỹ, đã mở cuộc tấn công mạnh mẽ vào sườn phía Nam của mặt trận Xô - Đức vào mùa hè thu năm 1942. Quân đội Đức Quốc xã đã tiến về sông Volga, và cố gắng chiếm Caucasus, nhằm giáng một đòn chí mạng vào Liên Xô. Nếu cuộc tấn công của Đức thành công, Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản có thể sẽ tham chiến chống Liên Xô.
Anh và Mỹ, với cái giá phải trả là sự hy sinh của Liên Xô, đã bảo toàn lực lượng và tài nguyên của mình.
Sau đó, họ sử dụng những lực lượng và tài nguyên này khi cuộc chiến gần kết thúc để áp đặt các điều kiện lên những nước thua cuộc, từ đó thiết lập trật tự thế giới theo ý muốn của họ.
Về bản chất, việc giới cầm quyền Mỹ và Anh liên tục trì hoãn mở Mặt trận thứ hai ở châu Âu đã mang lại cho “Đế chế thứ ba” (Đức Quốc xã, còn gọi là Đệ Tam Đế chế) sự hỗ trợ mà Đức không thể có được từ bất kỳ đồng minh nào của mình. Đức đã có thể duy trì sự thống trị trên gần khắp châu Âu bằng các nguồn lực con người, vật chất và kinh thế, đồng thời cũng gửi phần lớn lực lượng tới mặt trận phía Đông.
Năm 1943 được đánh dấu bằng một bước ngoặt căn bản trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Nga và Thế chiến thứ hai nói chung. Quân Liên Xô đã thắng lợi rực rỡ trong trận đánh kéo dài 200 ngày đêm trên sông Volga. Đức cũng thua trận thảm hại ở vùng Caucasus. Tháng 5/1943, quân Đồng minh đánh bại một nhóm quân Ý-Đức ở Bắc Phi. Tình hình cũng ổn định hơn ở Thái Bình Dương, quân Đồng minh đã được nắm thế chủ động chiến lược sau trận Guadalcanal. Tưởng chừng các nước Đồng minh đã có thể tập trung nỗ lực vào châu Âu và mở Mặt trận thứ hai.
Sau trận Stalingrad và sự tiến công liên tục của Hồng quân, các cường quốc phương Tây đã có cái nhìn khác về Liên Xô. Họ bắt đầu lo sợ rằng quân Đức sẽ sớm thất bại trên chiến trường, và mục tiêu làm suy yếu Liên Xô trong chiến tranh một cách tối đa sẽ chưa thể thực hiện. London và Washington hiểu rằng, Liên Xô không chỉ có thể tồn tại, mà còn có thể giành chiến thắng vang dội, từ đó củng cố được vị thế và ảnh hưởng trên toàn thế giới. Vì lẽ đó, họ sẽ phải trì hoãn việc mở Mặt trận thứ hai, để Đức chưa thể bại trận ngay.
Tai sao Anh, My tri hoan mo Mat tran thu hai chong phat xit?-Hinh-3
Ảnh: Các đội xe tăng Anh từ Phi đội C, 13/18 Royal Hussars, chuẩn bị xe tăng M4 Sherman cho cuộc đổ bộ lên Normandy, tháng 5/1944 (Nguồn: Topwar).
Chính sách trì hoãn Mặt trận thứ hai và làm Liên Xô kiệt sức có tầm quan trọng quyết định trong hành động của các cường quốc phương Tây
Đại sứ Liên Xô Maxim Litvinov tại Mỹ tuyên bố: “Không còn nghi ngờ gì nữa, các tính toán quân sự của cả Mỹ và Anh đều xuất phát từ ý định muốn làm quân đội Liên Xô cạn kiệt và hao mòn tối đa, để Liên Xô phải giảm bớt vai trò trong việc giải quyết các vấn đề hậu chiến. Hai nước này sẽ chỉ ngồi chờ tin về hoạt động quân sự của chúng tôi trên mặt trận”.
Hội nghị Anh - Mỹ được tổ chức tại Casablanca vào tháng 1 năm 1943 cho thấy, quân Đồng minh sẽ không thực hiện bất kỳ cuộc tấn công lớn nào ở châu Âu vào năm 1943. Churchill và Roosevelt đã gửi một thông điệp tới Moscow sau hội nghị, trong đó không nêu rõ khung thời gian hoặc thông tin về các hoạt động cụ thể về hy vọng rằng Đức sẽ bị đánh bại vào năm 1943 (Trên thực tế, dù không tuyên bố trực tiếp, nhưng việc mở mặt trận thứ hai đã bị trì hoãn cho đến tận năm 1944).
Ngày 30/1/1943, Moscow yêu cầu báo cáo về các hoạt động và thời gian tiến hành cụ thể. Sau khi tham vấn với Roosevelt, Churchill đã gửi thư khích lệ tới Moscow, và thông báo rằng đang chuẩn bị tích cực cho việc “vượt Eo biển Manche” vào tháng 8. Trong điều kiện thời tiết xấu, hoặc vì những lý do khác, việc này có thể sẽ bị hoãn lại đến tháng 9, khi đó, quân đồng minh sẽ cử một lực lượng lớn đi.
Đó thực sự là một lời nói dối có chủ đích. Khi thông báo về dự kiến thực hiện một chiến dịch đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp, London và Washington thực chất đang chuẩn bị cho một chiến dịch tại mặt trận Địa Trung Hải. Sự thật cuối cùng cũng được tiết lộ, vào tháng 5, Roosevelt đã thông báo với Moscow rằng hoạt động này sẽ được dời sang năm 1944.
Ngày 30/3, quân Đồng minh đã một lần nữa công bố ngừng cấp vật tư quân sự cho các cảng biển phía Bắc của Liên Xô với lý do cần chuyển toàn bộ phương tiện sang Biển Địa Trung Hải. Vào những thời điểm khó khăn nhất của cuộc chiến, vào năm 1942 và 1943, quân đồng minh đều có những lý do chính đáng cho việc ngừng cấp vũ khí, vật liệu cho Liên Xô.
Ngày 11/6, Moscow gửi thông điệp đến cả Washington và London, trong đó nhấn mạnh rằng việc mở Mặt trận thứ hai bị trì hoãn đã “tạo ra nhiều khó khăn thực sự” cho Liên Xô, khi phải chiến đấu với Đức và lực lượng đồng minh trong suốt hai năm qua.
Một cuộc trao đổi quan điểm càng làm tình hình thêm nóng, các cường quốc phương Tây không có lý lẽ thuyết phục nào để biện minh cho sự chậm trễ trong việc mở Mặt trận thứ hai. Trong thông điệp gửi đến Churchill ngày 24/6, Stalin nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc này có thể cứu sống hàng triệu người ở các khu vực bị chiếm đóng tại Nga và châu Âu, đồng thời nhắc đến những hy sinh to lớn của Hồng quân.
Tai sao Anh, My tri hoan mo Mat tran thu hai chong phat xit?-Hinh-4
Ảnh: Lính dù Anh thuộc Sư đoàn Dù số 6 lên máy bay trước khi hạ cánh xuống Normandy, ngày 6/6/1944. (Nguồn: Topwar).
Anh và Mỹ hiểu rằng, có thể mất toàn bộ châu Âu
Chiến thắng trong trận Vòng cung Kursk và trận sông Dnepr của quân đội Liên Xô đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Nga. Quân Đức và đồng minh sau đó đã buộc phải chuyển sang phòng thủ chiến lược. Toàn bộ tình hình chính trị - quân sự ở châu Âu và thế giới cũng nhờ đó mà thay đổi mạnh mẽ.
Liên Xô đã chứng tỏ được khả năng đánh bại Đức một cách độc lập, việc giải phóng hoàn toàn châu Âu khỏi Đức Quốc xã không còn xa nữa. Với lo ngại quân đội Liên Xô tiến vào Trung và Tây Âu trước quân Đồng minh, Anh và Mỹ đã thúc đẩy nhanh quá trình mở Mặt trận thứ hai. Họ sợ bỏ lỡ thời điểm quan trọng để chiếm được các trung tâm chính trị, kinh tế của châu Âu hay nhiều khu vực chiến lược quan trọng. Ngoài ra, Washington, nơi vốn không đổ máu vì chiến tranh, còn lo sợ rằng sẽ không thể đưa ra các điều khoản hoà bình cho châu Âu thời kỳ hậu chiến.

Tháng 8/1943, Hội nghị giữa những người đứng đầu chính phủ và đại diện Bộ chỉ huy Mỹ và Anh được tổ chức tại Quebec, Canada. Trong báo cáo kết luận của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân nêu rõ, Chiến dịch Normandy sẽ là cuộc tấn công quan trọng của lực lượng Anh - Mỹ trong năm 1944. Các hoạt động chuẩn bị cho kế hoạch này được tiến hành từ ngày 1/5/1944. Quyết định này đã cải thiện mối quan hệ giữa Liên Xô và các cường quốc phương Tây.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, Mỹ và Anh ở Moscow vào tháng 10/1943, do muốn giữ quyền tự do hành động, quân Đồng minh vẫn không cung cấp các thông tin cụ thể. Họ chỉ khẳng định kế hoạch mở một chiến dịch ở miền Bắc nước Pháp vào mùa xuân năm 1944, nếu điều kiện thời tiết ở khu vực Eo biển Manche, Anh thuận lợi, và lực lượng Không quân Đức ở Tây Bắc Âu phải cắt giảm đáng kể.
Ngày 19/11/1943, trên tàu chiến Iowa trên đường đi Cairo để tham dự hội nghị Anh-Mỹ-Trung (trước khi diễn ra hội nghị ở Tehran), Tổng thống Mỹ, trong bài phát biểu về sự cần thiết của việc mở Mặt trận thứ hai, đã nhấn mạnh rằng quân đội Liên Xô đã tiến gần tới Ba Lan và Bessarabia.
Roosevelt nhấn mạnh, quân đội Anh-Mỹ phải chiếm càng nhiều lãnh thổ châu Âu càng tốt. Roosevelt sẽ trao Pháp, Bỉ, Luxembourg và Nam Đức cho Anh quản lý. Người Mỹ muốn nắm lấy Tây Bắc nước Đức và các cảng của Đan Mạch và Na Uy. Berlin cũng nằm trong kế hoạch chiếm đóng của Mỹ và Anh.
Churchill cũng không muốn sự hiện diện của quân đội Liên Xô ở Tây Âu và đề xuất “phương án Balkan” - sự hiện diện của lực lượng Đồng minh ở vùng Balkan, nhằm tách quân đội Liên Xô khỏi Trung Âu. Ở các quốc gia Đông Nam Âu, họ sẽ thiết lập các chế độ theo định hướng Anh-Mỹ.
Người Mỹ vốn ủng hộ chiến lược Địa Trung Hải của Churchill cho đến giữa năm 1943 tin rằng những kế hoạch này đã quá muộn. Quân đội Đồng minh có thể mắc kẹt ở vùng Balkan, và lúc này quân Nga sẽ chiếm được các trung tâm quan trọng nhất của châu Âu. Mặt trận thứ hai ở Pháp đã ngăn chặn được quân Nga tiến vào các khu vực quan trọng là Ruhr và Rhine.
Phái đoàn Liên Xô tại Tehran đã tìm cách đạt được cam kết chắc chắn từ Anh và Mỹ về việc mở Mặt trận thứ hai. Kết quả, Stalin đã đạt được mục tiêu của mình. Hội nghị Tehran đã quyết định khởi động chiến dịch đổ bộ ở miền Bắc nước Pháp vào tháng 5 năm 1944.
Đồng thời, quân Đồng minh lên kế hoạch tiến hành một chiến dịch ở miền nam nước Pháp. Vào thời điểm này, Liên Xô cam kết sẽ mở một cuộc tấn công quyết định nhằm ngăn chặn việc chuyển quân Đức từ mặt trận phía Đông sang mặt trận phía Tây. Các thỏa thuận được thông qua ở Tehran đã ra quyết định chính trị để bắt đầu chiến dịch Normandy.
Tai sao Anh, My tri hoan mo Mat tran thu hai chong phat xit?-Hinh-5
Ảnh: Lính Anh bơi qua sông để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ Normandy, tháng 5/1944 (Nguồn: Topwar).
Chiến dịch chiến lược của quân Đồng minh đổ bộ vào Normandy (Pháp), hay còn gọi là chiến dịch “Overlord” được coi là ngày mở Mặt trận phía Tây (thứ hai) trong Thế chiến thứ hai. Chiến dịch Normandy là chiến dịch đổ bộ lớn nhất trong lịch sử nhân loại với hơn 3 triệu binh lính, vượt qua Eo biển Manche từ Anh đến Normandy. Vào ngày đầu tiên của chiến dịch, khoảng 100.000 lính thuộc 5 sư đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn thiết giáp và một số nhóm quân khác đã đổ bộ lên bờ biển Normandy.
Tính đến thời điểm đó, cả hành động của lực lượng Đồng minh ở Bắc Phi hay cuộc đổ bộ vào Sicily và Ý chưa thể coi là “mặt trận thứ hai”. Phải đến khi quân Đồng minh tiến hành cuộc đổ bộ lớn vào miền Bắc nước Pháp và giải phóng Paris, họ mới thiết lập được một đầu cầu quan trọng cho cuộc tấn công diện rộng. Người Đức chỉ có thể thành lập một mặt trận mới vào tháng 9/1944, tại biên giới Tây Đức.
Việc mở Mặt trận phía Tây đã dẫn tới chiến thắng trước “Đế chế thứ ba”
Berlin phải huy động lực lượng lớn bộ binh và xe tăng vào cuộc chiến với lực lượng Đồng minh (chủ yếu là quân đội Mỹ, Anh, Canada và một phần của phong trào Kháng chiến Pháp). Mặc dù cuộc chiến ở Mặt trận phía Tây hầu như không diễn ra khốc liệt và giằng co như ở Mặt trận phía Đông, Đức vẫn không thể chuyển những lực lượng này sang Mặt trận Nga.
Kết quả là quân đội Liên Xô đã chiếm Berlin vào tháng 5/1945, thay vì vào cuối năm 1945 hoặc đầu năm 1946. Hồng quân lẽ ra đã có thể tự mình đánh bại Đức Quốc xã và cứu sống hàng trăm nghìn người sớm hơn, nhưng điều này lại không xảy ra và gây ra những tổn thất nghiêm trọng về người và vật chất.
Một trong những chiến dịch quân sự lớn nhất trong lịch sử nhân loại - “Chiến dịch Bagration” bắt đầu vào ngày 23/6/1944. Thành công của chiến dịch tại Belarus vượt xa mong đợi của Liên Xô. Nó đã dẫn đến sự thất bại của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm, giải phóng hoàn toàn Belarus, và quân đội Liên Xô chiếm lại một phần các nước Baltic cùng các khu vực phía đông của Ba Lan từ tay quân Đức.
Trên mặt trận dài 1.100 km, Hồng quân đã tiến sâu vào 600 km. Cuộc tấn công thành công này đã đặt Cụm Tập đoàn quân Bắc ở vùng Baltic vào tình thế nguy hiểm, tạo điều kiện thuận lợi cho Chiến dịch Baltic sau đó. Ngoài ra, Hồng quân còn chiếm được hai đầu cầu lớn ở phía bên kia sông Vistula, giúp cho Chiến dịch Vistula-Oder dễ dàng hơn.
Theo nhiều nhà sử học quân sự, cuộc tấn công của Mặt trận Liên Xô đã gặp nhiều thuận lợi nhờ Mặt trận phía Tây. Bộ chỉ huy Đức không thể điều chuyển quân dự bị từ Pháp, bao gồm cả các đơn vị xe tăng lớn. Sự thiếu hụt lực lượng đã làm khả năng phòng thủ của Đức trong Chiến dịch Belarus bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Mặt khác, một phần đáng kể của pháo binh và không quân Đức đang ở phía Tây. Điều này cho phép không quân Liên Xô nhanh chóng giành được ưu thế trên không và tiêu diệt các nhóm quân Đức đang rút lui mà không gặp nhiều trở ngại từ Luftwaffe.
Cuộc tấn công mạnh mẽ của Liên Xô tại Belarus đã ngăn Bộ chỉ huy Đức tập trung lực lượng để loại bỏ đầu cầu Đồng minh ở Normandy. Ngày 10/6, Hồng quân đã phát động tấn công vào phía bắc của mặt trận, ngày 23/6, Chiến dịch Bagration bắt đầu.
Quân Đồng minh đổ bộ vào Pháp muộn nhiều hơn so với những gì họ đã hứa và dự kiến. Trên thực tế, giới lãnh đạo chính trị-quân sự hàng đầu của Anh và Mỹ đã chờ đến tận phút chót. Ban đầu, họ tin rằng, Hitler sẽ nhanh chóng đè bẹp Liên Xô, với sự cho phép của London và Washington để thôn tính phần lớn châu Âu, rồi huy động các nguồn lực kinh tế và nhân lực từ đó. Tuy nhiên, họ cũng cho rằng quân Đức sẽ gặp khó khăn khi phải đối phó với chiến tranh du kích và việc kiểm soát các vùng lãnh thổ rộng lớn của Nga.
Sau đó, họ có thể thực hiện kịch bản thoả thuận với Hitler về việc chia sẻ thế giới này. Hoặc các tướng lĩnh Đức sẽ thủ tiêu vị Quốc trưởng khó tính, người sẽ phải “chóng mặt vì thành công”. Điều này hoàn toàn có cơ sở, bởi hầu hết giới lãnh đạo Đức trước Thế chiến thứ hai, và ngay cả trong giai đoạn đầu của chiến tranh, đều mơ ước liên minh với Anh. Trong khi Đế quốc Anh là hình mẫu của “Đế chế vĩnh cửu” của Đức khi đã từng xây dựng hệ thống chủng tộc trên khắp hành tinh, các trại tập trung đầu tiên.
Trên thực tế, người Anh - Mỹ ban đầu là những người sáng tạo và tài trợ cho dự án “Đế chế thứ ba”. Đức đã không thể đè bẹp Liên Xô chỉ bằng một đòn duy nhất, mà thay vào đó là cuộc chiến tranh tiêu hao và kéo dài, trong khi dân tộc Nga lại dũng cảm không ai sánh bằng. Anh và Mỹ đã bắt đầu đợi cho đến khi cả Đức và Liên Xô suy yếu để nhận về mọi chiến thắng, cũng như có quyền kiểm soát hoàn toàn thế giới.
Nhưng họ đã nhầm, Liên Xô, mặc dù chịu nhiều tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với những đối thủ khổng lồ này, vẫn có thể củng cố sức mạnh của mình, và bắt đầu quá trình giải phóng Liên Xô, rồi sau đó là châu Âu. Nguy cơ nảy sinh khi Liên Xô có thể nắm quyền kiểm soát không chỉ một phần Đông và Đông Nam Âu, mà cả Trung và Tây Âu. Anh và Mỹ nhận thấy cần phải đổ quân vào Tây Âu để không chậm chân trong việc phân chia miếng bánh “Đức”.
Bởi vậy, chiến dịch Normandy không gắn liền với mong muốn việc giúp đỡ một đồng minh đang trong cuộc chiến khó khăn chống lại Đức và giải phóng châu Âu khỏi sự chiếm đóng của Đức Quốc xã, mà chỉ với mong muốn của Anh - Mỹ là thiết lập một chế độ chiếm đóng mới ở các nước châu Âu, cũng như ngăn chặn Liên Xô chiếm vị trí thống trị ở Thế giới cũ. Anh và Mỹ đã vội vàng giành giật những miếng ngon nhất từ con gấu “Đức” đang rỉ máu.


 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực


 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực
Nga phát triển máy bay không người lái đa năng Kasatka mới để làm suy yếu hệ thống phòng không của Ukraine .
Theo báo cáo của TASS vào ngày 22 tháng 1 năm 2025, Nga đã phát triển hệ thống máy bay không người lái Kasatka, một nền tảng chuyển tiếp tín hiệu có khả năng trinh sát và tấn công. Hoạt động ở độ cao từ một đến hai km, máy bay không người lái này truyền tín hiệu vô tuyến trực tiếp trong phạm vi lên đến 50 km, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều khiển các máy bay bốn cánh quạt kamikaze như máy bay không người lái Tribunal. Ngoài ra, Kasatka được trang bị các tấm phản xạ được thiết kế để mô phỏng các tín hiệu radar của các máy bay không người lái lớn hơn như Geran hoặc Orion, đóng vai trò như một mồi nhử để chuyển hướng hệ thống phòng không của đối phương.
Theo dõi Army Recognition trên Google News tại liên kết này


Kasatka (còn được gọi là Killer Whale) là một hệ thống đa chức năng chủ yếu dùng để chuyển tiếp tín hiệu, cũng có thể mang theo tải trọng lên tới 3 kg thuốc nổ, cho phép nó hoạt động như một máy bay không người lái kamikaze. (Nguồn ảnh: TASS)
Nikolay Zhernov, Tổng giám đốc điều hành của công ty Aerofregat có trụ sở tại Novosibirsk, tuyên bố rằng Kasatka (còn được gọi là Killer Whale) là một hệ thống đa chức năng chủ yếu dùng để chuyển tiếp tín hiệu. Nó cũng có thể mang theo trọng tải lên tới 3 kg thuốc nổ, cho phép nó hoạt động như một máy bay không người lái kamikaze. Ở cấu hình này, nó có tầm hoạt động 70 km và có thể bay trong không trung trong 40 phút đến một giờ. Máy bay không người lái Tribunal, được phát triển trong cùng khu vực, có tầm hoạt động hơn 10 km. Cả hai hệ thống đều được Câu lạc bộ Kulibin của Mặt trận Nhân dân hỗ trợ, nơi xác định và thúc đẩy các dự án kỹ thuật trong nước để sản xuất hàng loạt. Sáng kiến này cũng hỗ trợ việc triển khai các công cụ tác chiến điện tử nhắm vào máy bay không người lái, máy bay bốn cánh quạt, hệ thống rô bốt tự hành và các công nghệ tương tự của đối phương.

Ezoic

Kasatka có vai trò tương tự như ADM-160 Miniature Air-Launched Decoy (MALD) do Hoa Kỳ phát triển, đây là tên lửa mồi nhử phóng từ trên không, có thể tiêu hủy được, được thiết kế để mô phỏng các tín hiệu radar của nhiều loại máy bay khác nhau, do đó gây nhầm lẫn cho hệ thống phòng không của đối phương. Tương tự như vậy, Nga đã phát triển các máy bay không người lái mồi nhử, chẳng hạn như UAV Gerbera và Parody, được thiết kế để mô phỏng các hệ thống máy bay không người lái khác. Các máy bay không người lái mồi nhử như thế này được sử dụng trong các hoạt động quân sự để đánh lừa các hệ thống phòng không của đối phương. Bằng cách mô phỏng mặt cắt radar của máy bay hoặc máy bay không người lái thực tế, chúng khiến đối phương tấn công các mục tiêu giả này, do đó bảo toàn được nhiều tài sản có giá trị hơn. Ngoài ra, máy bay không người lái mồi nhử có thể được trang bị hệ thống tác chiến điện tử để phá vỡ radar, thông tin liên lạc và dẫn đường của đối phương, làm phức tạp thêm quá trình nhắm mục tiêu của đối phương.
Shahed-136, được phát triển tại Iran và được gọi là Geran-2 trong biên chế của Nga, đã ảnh hưởng đến thiết kế và sản xuất đạn dược lơ lửng trên toàn thế giới. Với tầm bắn 2.500 km và đầu đạn 90 kg, nó được thiết kế cho các cuộc tấn công tầm xa. Các biến thể như Shahed-131, với tầm bắn 900 km và đầu đạn 15 kg, có khả năng hạn chế hơn nhưng có chung các nguyên tắc thiết kế. Các quốc gia như Belarus , nơi sản xuất máy bay không người lái Nomad và Israel , nơi sản xuất RS2 cánh Delta cho mục đích huấn luyện, đã áp dụng và bản địa hóa thiết kế Shahed. Trung Quốc đã phát triển đạn dược lơ lửng DFX-50 và DFX-100, có khả năng mang tải trọng lần lượt là 5 kg và 50 kg, với phạm vi hoạt động vượt quá 100 km và 1.000 km. Các hệ thống này nhằm mục đích cung cấp khả năng tiết kiệm chi phí cho các cuộc tấn công trinh sát và chính xác.

Ezoic

Đạn dược lang thang, bao gồm máy bay không người lái loại Shahed, được thiết kế để cung cấp khả năng hoạt động mở rộng, kết hợp trinh sát thời gian thực và khả năng tấn công các mục tiêu cố định và di chuyển. Thiết kế tương đối đơn giản và hệ thống tải trọng mô-đun của chúng cho phép sản xuất hàng loạt tiết kiệm chi phí và triển khai rộng rãi. Các hệ thống này được điều chỉnh thêm cho các hoạt động linh hoạt thông qua tích hợp với các nền tảng di động, chẳng hạn như khung gầm FAW MV3 cho ASN-301 của Trung Quốc và Ural 6x6 của Nga cho KUB-SM . Sự tích hợp này cho phép triển khai và sử dụng nhanh chóng trong các bối cảnh hoạt động khác nhau. Khả năng thích ứng và hiệu quả của đạn dược lang thang khiến chúng trở thành một thành phần quan trọng trong các ứng dụng quân sự hiện đại, hỗ trợ các cuộc tấn công chính xác và nhiệm vụ trinh sát.

Hoạt động ở độ cao từ một đến hai km, Kasatka truyền tín hiệu vô tuyến trực tiếp trong phạm vi lên tới 50 km, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều khiển các máy bay bốn cánh quạt kamikaze như máy bay không người lái Tribunal. (Nguồn ảnh: TASS)
 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực
Lô hàng pháo tự hành M1989 Koksan mới của Triều Tiên tới Nga .
Một lô hàng thiết bị quân sự mới từ Bắc Triều Tiên đến Nga gần đây đã được phát hiện, bao gồm pháo tự hành M1989 Koksan 170mm , đi kèm với thứ dường như là hệ thống tên lửa phóng loạt (MLRS) được giấu kín. Những khẩu pháo này, vốn đã có mặt trên tiền tuyến, đánh dấu sự tăng cường năng lực pháo binh của Nga trong bối cảnh xung đột đang diễn ra ở Ukraine.
Theo dõi Army Recognition trên Google News tại liên kết này


Koksan là loại pháo tự hành của Triều Tiên được thiết kế để cung cấp hỏa lực tầm xa. (Nguồn ảnh: Social Media)
Việc chuyển giao các khẩu pháo tự hành này là một phần trong sự hợp tác quân sự ngày càng tăng giữa Bắc Triều Tiên và Nga. Quan hệ đối tác này đã được củng cố trong những tháng gần đây, đặc biệt là khi Bắc Triều Tiên xuất khẩu thiết bị quân sự sang Nga, bao gồm súng M1989 và hệ thống MLRS 240mm. Những đợt chuyển giao này được thúc đẩy bởi nhu cầu ngày càng tăng về đạn dược và hệ thống pháo binh do tổn thất ngày càng gia tăng ở Ukraine.
×
Ezoic

Các báo cáo cho biết việc chuyển giao khoảng ba mươi khẩu pháo này, cùng với các hệ thống vũ khí khác, cho Nga, một số trong số đó đã được chuyển đến khu vực Kursk. Các khẩu pháo này cho phép Nga bù đắp cho việc mất thiết bị và tăng áp lực lên các vị trí của Ukraine.
Hình ảnh lan truyền trên mạng xã hội xác nhận rằng súng M1989 Koksan đã được sử dụng trên tiền tuyến ở Ukraine. Lần đầu tiên xác nhận sự xuất hiện của những khẩu súng này diễn ra vào tháng 1 năm 2025, khi các bức ảnh được công bố cho thấy một trong những đơn vị M1989 đang hoạt động. Sự hiện diện này trên chiến trường phản ánh sự tích hợp nhanh chóng của thiết bị này vào các hoạt động quân sự của Nga và hiệu quả của nó trên thực địa.

Ezoic

Nhờ tầm bắn xa, pháo M1989 Koksan có thể hỗ trợ quan trọng cho lực lượng Nga, đặc biệt là các cuộc tấn công bão hòa vào các vị trí của Ukraine. Các khẩu pháo này cho phép nhắm mục tiêu tầm xa, do đó giảm nhu cầu giao tranh trực tiếp với lực lượng Ukraine.
Koksan là một loại pháo tự hành của Bắc Triều Tiên được thiết kế để cung cấp hỏa lực tầm xa. Nó được trang bị một khẩu pháo 170mm có khả năng bắn đạn pháo ở khoảng cách xa, khiến nó trở thành một vũ khí chủ chốt trong các cuộc tấn công pháo binh tầm xa trên chiến trường. Hệ thống pháo binh này được Bắc Triều Tiên và gần đây hơn là Nga sử dụng.
Koksan được thiết kế để có thể di chuyển và hoạt động trong nhiều môi trường khác nhau. Nó có thể đạt tốc độ 50 km/h trên đường, cho phép kíp lái di chuyển nhanh qua địa hình để đáp ứng nhu cầu chiến thuật. Với tầm hoạt động 500 km, nó có thể di chuyển quãng đường dài mà không cần tiếp nhiên liệu thường xuyên, đây là một lợi thế chiến lược trong các vùng chiến đấu rộng lớn.
Hệ thống pháo binh này tương đối nhẹ so với kích thước của nó, nặng 40.000 kg, giúp tăng cường khả năng cơ động trong khi vẫn duy trì một số mức độ bảo vệ. Phi hành đoàn, bao gồm hai thành viên chính (một tài xế và một chỉ huy) cùng với bảy binh sĩ bổ sung, được hưởng lợi từ khả năng bảo vệ NBC (hạt nhân, sinh học và hóa học) để bảo vệ họ khỏi các mối đe dọa hóa học hoặc phóng xạ. Ngoài ra, hệ thống này còn bảo vệ chống lại hỏa lực vũ khí nhỏ và mảnh đạn pháo, mang lại sự an toàn cơ bản trong quá trình giao tranh.
Về kích thước, Koksan dài 6,28 mét và rộng 2,78 mét, mang lại kích thước tương đối nhỏ gọn cho một khẩu súng cùng loại. Sự nhỏ gọn này, kết hợp với các tính năng kỹ thuật, khiến Koksan trở thành một công cụ hiệu quả cho pháo binh hiện đại, có khả năng hỗ trợ các hoạt động trong khi vẫn được bảo vệ và cơ động trên nhiều loại địa hình.

Ezoic

Việc súng M1989 Koksan đến Nga làm dấy lên một số lo ngại về địa chính trị. Đầu tiên, sự tham gia ngày càng tăng của Bắc Triều Tiên trong việc hỗ trợ quân sự cho Nga có thể dẫn đến việc tăng cường các lệnh trừng phạt quốc tế đối với cả hai nước, vốn đã phải chịu nhiều hạn chế do các hoạt động quân sự tương ứng của họ. Động thái này làm gia tăng căng thẳng trong một khu vực vốn đã mong manh, đặc biệt là với Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu của nước này.
 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực
Tin tức nhanh: Phát hiện bệ phóng tên lửa của Triều Tiên ngụy trang thành xe dân sự ở Nga .
Theo kênh điện tín Milinfolive, một Hệ thống tên lửa phóng loạt 122mm (MLRS) của Triều Tiên, được ngụy trang thành xe tải dân sự, đã được phát hiện ở Nga. Hệ thống này, trước đây chưa từng được biết đến dưới hình thức này, đã được phát hiện ở một khu vực chiến lược gần biên giới Nga. Sự cố này xảy ra sau lần trình làng đầu tiên của hệ thống này trong cuộc diễu binh quân sự Bình Nhưỡng vào ngày 8 tháng 9 năm 2023, đánh dấu kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (DPRK).
Theo dõi Army Recognition trên Google News tại liên kết này


MLRS của Triều Tiên được lắp trên khung gầm xe tải dân dụng. (Nguồn ảnh: Kênh Telegram Milinfolive)
MLRS của Bắc Triều Tiên được lắp trên khung gầm xe tải dân sự, một lựa chọn nhằm che giấu bản chất quân sự thực sự của xe. Chiếc xe tải trông hoàn toàn bình thường, một chiến lược được thiết kế để che giấu vũ khí hạng nặng mà nó mang theo. Bằng cách thay đổi diện mạo, Bắc Triều Tiên dường như đang cố gắng làm cho việc phát hiện xe khó khăn hơn bằng vệ tinh hoặc các phương pháp giám sát thông thường, do đó khiến việc triển khai xe trở nên kín đáo hơn. Hình thức ngụy trang này sẽ là một chiến thuật phù hợp để vượt qua các hệ thống phát hiện tinh vi được các quốc gia láng giềng triển khai, bao gồm cả Nga và có khả năng là các quốc gia khác trong khu vực.

Ezoic

Chiếc xe này lần đầu tiên được phát hiện gần biên giới Nga, cho thấy sự tăng cường hơn nữa trong hợp tác quân sự giữa Bắc Triều Tiên và Nga. Sự hợp tác quân sự này, vốn đã diễn ra trong nhiều năm, đã tăng cường trong những tháng gần đây. Sự hiện diện của hệ thống này ở khu vực biên giới đặt ra câu hỏi về ý định chiến lược của Bắc Triều Tiên và cách MLRS này có thể được sử dụng trong bối cảnh quan hệ quân sự Nga-Bắc Triều Tiên.
Hệ thống phóng tên lửa đa nòng 122mm, được ra mắt trong cuộc diễu hành ở Bình Nhưỡng vào tháng 9 năm 2023, được lắp trên khung gầm xe tải đã được cải tiến. Xe mang theo một bệ phóng sáu ống, có khả năng bắn tên lửa 122mm tương tự như hệ thống BM-21 Grad của Liên Xô, nhưng được điều chỉnh theo nhu cầu cụ thể của Triều Tiên. Loại bệ phóng tên lửa đa nòng này cho phép bắn bão hòa, có thể tấn công một khu vực rộng lớn trong thời gian rất ngắn. Tính cơ động của nó, được tạo ra nhờ khung gầm xe tải dân dụng, là một lợi thế lớn, cho phép nó di chuyển nhanh chóng và định vị lại mà không dễ bị phát hiện.
Sự xuất hiện của hệ thống này ở Nga không phải là một sự cố đơn lẻ mà là dấu hiệu cho thấy sự hợp tác ngày càng tăng giữa Triều Tiên và Nga trong lĩnh vực quân sự. Vào năm 2023, các báo cáo tiết lộ rằng Nga và Triều Tiên đang củng cố mối quan hệ quân sự của họ, đặc biệt là thông qua việc trao đổi thiết bị và công nghệ quân sự. Người ta cũng biết rằng Triều Tiên đã cử hàng nghìn binh lính đến hỗ trợ lực lượng Nga ở Ukraine. Những hành động này đã thúc đẩy sự suy đoán về một liên minh quân sự sâu sắc hơn giữa hai quốc gia, điều này có thể giải thích tại sao hệ thống này được triển khai ở một khu vực gần Nga.
Nga có thể tìm cách tận dụng chuyên môn quân sự của Bắc Triều Tiên, đặc biệt là trong lĩnh vực hệ thống tên lửa và pháo binh. Đổi lại, Bắc Triều Tiên có thể hưởng lợi từ việc tiếp cận các công nghệ quân sự tiên tiến hơn của Nga, chẳng hạn như hệ thống phòng không và thiết bị tác chiến điện tử. Sự hợp tác này cũng có thể là cách để Nga đa dạng hóa nguồn cung cấp vũ khí trước các lệnh trừng phạt quốc tế và sự cô lập ngoại giao.
×
Ezoic

Về phía Nga, hệ thống này có thể được sử dụng để tăng cường khả năng phòng thủ dọc theo biên giới phía đông của nước này, đặc biệt là ở Siberia, một khu vực chiến lược. Quân đội Nga cũng có thể tìm cách sử dụng loại bệ phóng tên lửa này cho nhu cầu của riêng mình trong bối cảnh chiến tranh ở Ukraine, dựa vào công nghệ của Bắc Triều Tiên để tăng cường kho vũ khí của mình.
Sự xuất hiện của hệ thống Bắc Triều Tiên này tại Nga đánh dấu một giai đoạn mới trong sự leo thang căng thẳng quân sự. Sự phát triển này, cùng với sự hợp tác gia tăng với Nga, có thể có những tác động đáng kể đến sự ổn định của khu vực và toàn cầu trong những tháng và năm tới.
 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực
Thụy Điển và Ukraine hợp tác để mở rộng khả năng tấn công tầm xa của Ukraine .
Trong một tuyên bố được Bộ Quốc phòng Ukraine công bố vào ngày 23 tháng 1 năm 2025, Thụy Điển đã cam kết đầu tư vào sản xuất vũ khí tầm xa tại Ukraine. Động thái này thể hiện bước tiến đáng kể trong hợp tác song phương giữa hai quốc gia, khi Ukraine tìm cách tăng cường năng lực quân sự của mình trong cuộc chiến đang diễn ra chống lại sự xâm lược của Nga. Khoản đầu tư này, được coi là chiến lược, là một phần của sáng kiến rộng lớn hơn nhằm củng cố ngành công nghiệp quốc phòng của Ukraine đồng thời giải quyết nhu cầu cấp thiết của nước này về các công nghệ quân sự tiên tiến.
Theo dõi Army Recognition trên Google News tại liên kết này


Thụy Điển và Ukraine có tiềm năng bổ sung cho nhau trong lĩnh vực vũ khí tầm xa, mở đường cho hợp tác chiến lược nhằm nâng cao năng lực của mỗi bên (Nguồn ảnh: Bộ Quốc phòng Ukraine)
Trong một cuộc họp tại Kyiv, Sergiy Boiev, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Ukraine phụ trách Hội nhập châu Âu, và Johan Axelsson, Chuẩn tướng đại diện cho cơ quan chính phủ Thụy Điển FMV, đã thảo luận về các chi tiết của sự hợp tác này. Johan Axelsson xác nhận rằng một gói viện trợ quân sự mới của Thụy Điển, được mô tả là lớn nhất kể từ khi Nga bắt đầu cuộc xâm lược quy mô lớn, đang chờ chính phủ Thụy Điển phê duyệt. Ngoài việc cung cấp thiết bị quân sự, chương trình này sẽ bao gồm các khoản đầu tư đáng kể vào ngành công nghiệp quốc phòng của Ukraine, đặc biệt tập trung vào sản xuất vũ khí tầm xa tại địa phương, vốn rất quan trọng đối với chiến lược quốc phòng và quân sự của Kyiv.
Sergiy Boiev nhấn mạnh rằng vũ khí tầm xa, hệ thống phòng không và đạn dược vẫn là những ưu tiên chính của Ukraine. Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường năng lực sản xuất trong nước để giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung quốc tế và đảm bảo nguồn cung ổn định bất chấp những thách thức do xung đột gây ra. Theo tuyên bố, cam kết của Thụy Điển này dự kiến sẽ cho phép Ukraine phát triển các công nghệ quân sự quan trọng trực tiếp trên lãnh thổ của mình, qua đó đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa kho vũ khí của mình.
Ngoài ra, các cuộc thảo luận còn đề cập đến việc tối ưu hóa bảo trì và sửa chữa cho các thiết bị quân sự của Thụy Điển đã được đưa vào sử dụng tại Ukraine, bao gồm cả xe chiến đấu bộ binh CV-90. Những chiếc xe này, được chuyển giao như một phần trong hỗ trợ quân sự của Thụy Điển, đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động trên bộ của Ukraine. Việc thiết lập quan hệ đối tác để thực hiện bảo trì và sửa chữa tại địa phương ở Ukraine không chỉ có thể tăng cường khả năng hoạt động của chúng mà còn tăng cường sự hội nhập của ngành công nghiệp quốc phòng địa phương của Ukraine vào nỗ lực chiến tranh của đất nước.
Tuyên bố cũng đề cập đến sự sẵn sàng của Thụy Điển trong việc cung cấp các công cụ công nghệ tiên tiến để đảm bảo kết nối chiến trường đáng tin cậy. Trong số các công cụ này có các hệ thống liên lạc vệ tinh hiệu suất cao, theo Axelsson, đã chứng minh được hiệu quả trong các môi trường hoạt động khắc nghiệt. Các khả năng như vậy là cần thiết đối với lực lượng Ukraine, cho phép họ phối hợp các hoạt động và duy trì lợi thế chiến lược trong các điều kiện chiến đấu phức tạp.
Thụy Điển và Ukraine sở hữu tiềm năng bổ sung cho nhau trong lĩnh vực vũ khí tầm xa, mở đường cho sự hợp tác chiến lược nhằm nâng cao năng lực của mỗi bên. Về phía Thụy Điển, hệ thống pháo tự hành Archer 155mm nổi bật với độ chính xác, tính cơ động và khả năng bắn nhanh. Hệ thống này, vốn đã được lực lượng Ukraine sử dụng, chứng minh khả năng cung cấp các giải pháp pháo binh tiên tiến của Thụy Điển. Ngoài ra, tên lửa chống hạm RBS-17, phiên bản cải tiến của AGM-114C Hellfire, làm nổi bật chuyên môn của Thụy Điển về công nghệ tên lửa chính xác, có thể được điều chỉnh cho các ứng dụng trên bộ trong bối cảnh Ukraine.
×
Ezoic

Về phần mình, Ukraine đã thể hiện chuyên môn của mình với việc phát triển tên lửa hành trình Neptune, ban đầu được thiết kế để nhắm vào các tàu hải quân nhưng có khả năng tấn công đất liền chiến lược. Nước này cũng đang nghiên cứu tên lửa đạn đạo Hrim-2, được thiết kế để tấn công tầm xa với tầm bắn ước tính là 480 km và khả năng mang tải trọng đáng kể. Các hệ thống này, mặc dù hiệu quả, có thể được hưởng lợi từ sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Thụy Điển để đẩy nhanh quá trình phát triển và nâng cao độ tin cậy của chúng.
Hợp tác giữa hai quốc gia có thể hiện thực hóa thông qua việc cùng phát triển tên lửa hành trình, kết hợp chuyên môn của Thụy Điển về công nghệ dẫn đường và đẩy với kinh nghiệm của Ukraine trong việc thiết kế các nền tảng phù hợp với nhu cầu cụ thể. Tương tự như vậy, việc sản xuất chung hệ thống Archer có thể được xem xét tại Ukraine, cho phép chuyển giao công nghệ đáng kể và tăng cường năng lực sản xuất tại địa phương để đáp ứng nhu cầu trước mắt của lực lượng Ukraine.
Sự hợp tác này sẽ mang lại lợi thế chiến lược cho cả Ukraine và Thụy Điển. Đối với Ukraine, những khoản đầu tư này sẽ củng cố ngành công nghiệp quốc phòng, tăng cường quyền tự chủ và cung cấp các hệ thống vũ khí quan trọng phù hợp với nhu cầu của cuộc xung đột đang diễn ra. Đối với Thụy Điển, quan hệ đối tác này đại diện cho cơ hội mở rộng ảnh hưởng của mình tại một khu vực quan trọng của châu Âu đồng thời củng cố vai trò của mình như một bên ủng hộ tích cực cho sự ổn định và an ninh trên lục địa. Cùng nhau, hai quốc gia này có thể phát triển các giải pháp sáng tạo và hiệu quả để giải quyết các thách thức an ninh hiện tại và tương lai.

Ukraine giới thiệu máy bay không người lái Poseidon H10 MkIII tiên tiến để giám sát chiến trường .
Vào ngày 22 tháng 1 năm 2025, Bộ Quốc phòng Ukraine đã công bố việc chính thức tiếp nhận và triển khai Poseidon H10 MkIII, một hệ thống máy bay không người lái (UAV) do trong nước phát triển. Sự phát triển này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy khả năng giám sát và trinh sát của Lực lượng vũ trang Ukraine. Tổng cục Hỗ trợ Vòng đời Vũ khí và Thiết bị Quân sự đã xác nhận rằng hệ thống này được thiết kế riêng để đáp ứng các yêu cầu khắt khe của chiến tranh hiện đại, đặc biệt là trong các môi trường hoạt động có nhiều thách thức và cạnh tranh.
Theo dõi Army Recognition trên Google News tại liên kết này


Mỗi hệ thống Poseidon H10 MkIII bao gồm ba máy bay không người lái và hai trạm điều khiển, đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn ngay cả khi mất một máy bay không người lái (Nguồn ảnh: POSEIDON)
Poseidon H10 MkIII ban đầu được ký hợp đồng thử nghiệm vào tháng 5 năm 2022. Trong quá trình thử nghiệm, máy bay không người lái đã chứng minh một số tính năng tiên tiến giúp nó khác biệt so với nhiều hệ thống đã triển khai trước đó. Những tính năng này bao gồm khả năng chống lại tác chiến điện tử, khả năng tự động tránh các mối đe dọa và quay trở lại căn cứ, hiệu suất bay ổn định ngay cả trong điều kiện thời tiết bất lợi và hoạt động đáng tin cậy trên khoảng cách xa. Hệ thống này được thiết kế để thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, từ trinh sát tiên tiến đến hỗ trợ chiến thuật cho các đơn vị bộ binh, pháo binh và tình báo.

Ezoic

Poseidon H10 MkIII tích hợp công nghệ tiên tiến để tối đa hóa hiệu quả hoạt động của nó. Nó có một camera ban ngày với zoom tổng hợp 20x và ổn định để chụp ảnh chính xác, cũng như một camera hình ảnh nhiệt với zoom 4x để tăng cường hiệu suất trong điều kiện tầm nhìn thấp. Các tính năng này cho phép giám sát chi tiết và thu thập dữ liệu bất kể thời gian trong ngày hay thời tiết. UAV hoạt động ở độ cao lên đến 5.000 mét và có thể đạt tốc độ tối đa 150 km/h, với phạm vi hoạt động là 150 km. Hệ thống được thiết kế để linh hoạt, hoạt động đáng tin cậy trong điều kiện nhiệt độ khắc nghiệt từ -40°C đến +60°C.
Mỗi hệ thống Poseidon H10 MkIII bao gồm ba máy bay không người lái và hai trạm điều khiển, đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn ngay cả trong trường hợp mất máy bay không người lái. Để tạo điều kiện triển khai nhanh chóng, hệ thống bao gồm các hộp vận chuyển lưu trữ an toàn tất cả các thành phần, giúp hệ thống phù hợp với nhiều điều kiện thực địa khác nhau. Người vận hành trải qua khóa đào tạo nghiêm ngặt tại Trung tâm đào tạo 190, nơi họ thành thạo cách sử dụng máy bay không người lái trước khi triển khai. Sự chuẩn bị toàn diện này đảm bảo rằng người vận hành có thể tối đa hóa tiềm năng của hệ thống trong các hoạt động thực tế.

Ezoic

Máy bay không người lái đặc biệt hiệu quả trong các hoạt động phản công, nơi mà thông tin tình báo kịp thời và nhắm mục tiêu chính xác là rất quan trọng. Bằng cách cung cấp khả năng giám sát mở rộng và truyền dữ liệu thời gian thực, Poseidon H10 MkIII cho phép lực lượng mặt đất dự đoán và vô hiệu hóa các mối đe dọa với hiệu quả cao hơn. Các hệ thống tác chiến điện tử tiên tiến của nó càng tăng cường khả năng phục hồi của nó trong không phận có tranh chấp, khiến nó trở thành một công cụ đáng tin cậy cho các cuộc giao tranh quân sự hiện đại.
Việc giới thiệu Poseidon H10 MkIII nhấn mạnh cam kết của Ukraine trong việc phát triển công nghệ quốc phòng có nguồn gốc tại địa phương, giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài trong khi củng cố cơ sở công nghiệp quốc phòng của mình. Cách tiếp cận này phù hợp với mục tiêu rộng hơn là đạt được sự độc lập về công nghệ và đảm bảo hỗ trợ bền vững cho các nhu cầu đang phát triển của quân đội. Hơn nữa, việc sử dụng các hệ thống sản xuất trong nước như Poseidon góp phần vào khả năng tự lực hoạt động, một yếu tố quan trọng trong việc duy trì khả năng sẵn sàng xung đột lâu dài.

Ezoic

Ngoài những lợi ích về mặt hoạt động, Poseidon H10 MkIII còn minh họa cho vai trò ngày càng tăng của máy bay không người lái trong chiến tranh hiện đại. Khi các hệ thống không người lái tiếp tục định nghĩa lại các chiến lược chiến đấu, việc Ukraine áp dụng công nghệ này phản ánh sự thích nghi với các hình thức chiến tranh mới ưu tiên trí thông minh, độ chính xác và khả năng phục hồi. Poseidon H10 MkIII không chỉ tăng cường khả năng phòng thủ tức thời của Ukraine mà còn định vị quốc gia này là một bên đóng góp tiềm năng cho sự phát triển của công nghệ quân sự tiên tiến trên quy mô toàn cầu. UAV này làm nổi bật cách tích hợp các giải pháp tiên tiến có thể giải quyết các động lực phức tạp và thay đổi nhanh chóng của các thách thức an ninh đương đại.


×
 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực
Phân tích: Phát triển và sử dụng máy bay không người lái FPV quang học của Nga ở Ukraine, bỏ qua hệ thống tác chiến điện tử .
Những cải tiến công nghệ liên tục định hình lại bản chất của chiến tranh trong cuộc xung đột đang diễn ra giữa Nga và Ukraine. Một trong những phát triển quan trọng nhất là sự xuất hiện của máy bay không người lái FPV (góc nhìn thứ nhất) sợi quang của Nga, một công nghệ tiên tiến đã nâng cao đáng kể khả năng của lực lượng Nga. Những máy bay không người lái này được trang bị cáp quang, cho phép chúng vượt qua các hệ thống gây nhiễu tác chiến điện tử (EW) và hoạt động trong môi trường mà máy bay không người lái truyền thống sẽ trở nên vô hiệu. Bước đột phá này đặc biệt quan trọng trong một chiến trường nơi sự gián đoạn điện tử đã trở thành chiến thuật chính.
Theo dõi Army Recognition trên Google News tại liên kết này


Nga đã phát triển Máy bay không người lái quang học 'Prince Vandal Novgorodsky', một công nghệ tiên tiến được thiết kế để vượt qua các hệ thống tác chiến điện tử, cung cấp khả năng nâng cao cho các cuộc tấn công chính xác và giám sát trong môi trường có xung đột. (Nguồn ảnh: Trang web RussianArms của Nga)
Không giống như máy bay không người lái thông thường dựa vào tín hiệu tần số vô tuyến hoặc GPS để giao tiếp với người vận hành, máy bay không người lái FPV cáp quang sử dụng kết nối có dây để truyền dữ liệu và nguồn cấp dữ liệu video. Điều này mang lại lợi thế chiến thuật đáng kể: khả năng miễn nhiễm với nhiễu. Ở các khu vực xung đột như Ukraine, nơi các hệ thống tác chiến điện tử thường xuyên được triển khai để vô hiệu hóa máy bay không người lái, tính năng này khiến máy bay không người lái cáp quang trở nên vô giá. Khả năng duy trì liên lạc an toàn, không bị gián đoạn với máy bay không người lái cho phép thực hiện các nhiệm vụ đáng tin cậy và chính xác hơn, ngay cả ở những khu vực tranh chấp, nơi gián đoạn điện tử là mối đe dọa thường trực.
Những máy bay không người lái này thường được thiết kế cho các hoạt động tầm trung đến tầm xa, với khả năng đạt tới 20 km, tùy thuộc vào chiều dài cáp và thiết lập triển khai. Chúng đã được chứng minh là hiệu quả trong các nhiệm vụ trinh sát, giám sát và tấn công chính xác. Thiết kế của chúng cho phép chúng bay thấp và chậm, khiến chúng khó bị phát hiện, trong khi vẫn cung cấp nguồn cấp video liên tục, chất lượng cao giúp người vận hành theo dõi và tấn công mục tiêu.
Việc đưa những máy bay không người lái này vào sử dụng đã mang lại cho lực lượng Nga một lợi thế độc đáo trên chiến trường, đặc biệt là ở khu vực Donbas đang có nhiều tranh chấp của Ukraine, nơi chiến tranh điện tử đang ở đỉnh cao. Khả năng hoạt động của máy bay không người lái mà không có nguy cơ mất tín hiệu hoặc mất kiểm soát là một bước ngoặt, đặc biệt là khi so sánh với các UAV truyền thống dựa vào thông tin liên lạc không dây dễ bị tấn công. Khả năng phục hồi này cho phép lực lượng Nga thực hiện các nhiệm vụ mà máy bay không người lái truyền thống sẽ thất bại, mở ra những khả năng mới cho các hoạt động chiến thuật trong môi trường chiến tranh điện tử dày đặc.

Ezoic

Máy bay không người lái FPV sợi quang đã nhanh chóng tìm thấy vị trí của mình trong bộ công cụ chiến thuật của Nga, đặc biệt là trong việc phá hủy xe bọc thép. Một ví dụ đặc biệt đáng chú ý về hiệu quả của chúng là khi lực lượng Nga sử dụng những máy bay không người lái này để nhắm mục tiêu và vô hiệu hóa một xe tăng M1A1 Abrams do Hoa Kỳ cung cấp, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc sử dụng máy bay không người lái cho các hoạt động chống tăng. Những máy bay không người lái này, thường được trang bị các tải trọng thuốc nổ nhỏ, đã chứng minh được hiệu quả cao trong việc vô hiệu hóa hoặc phá hủy các mục tiêu bọc thép hạng nặng, bao gồm xe tăng, pháo binh và các phương tiện quân sự kiên cố khác.
Việc sử dụng máy bay không người lái sợi quang cho các nhiệm vụ chống tăng làm nổi bật tính linh hoạt và độ chính xác của chúng. Không giống như tên lửa dẫn đường lớn hơn, đắt tiền hơn, những máy bay không người lái này cung cấp một lựa chọn công nghệ thấp, chi phí thấp để tấn công các mục tiêu có giá trị cao. Khả năng chỉ đạo máy bay không người lái theo thời gian thực và thực hiện một cuộc tấn công chính xác vào xe tăng hoặc xe bọc thép khiến những máy bay không người lái này trở thành giải pháp lý tưởng để vô hiệu hóa các mối đe dọa ở khu vực đô thị hoặc được bảo vệ nghiêm ngặt. Hơn nữa, khả năng duy trì hoạt động của chúng trong môi trường có hệ thống tác chiến điện tử hoạt động tạo thêm một lớp lợi thế chiến thuật.
×
Ezoic

Trong bối cảnh cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine, nơi cả hai bên đều đầu tư mạnh vào các công nghệ chống tăng hiện đại, máy bay không người lái sợi quang đã cho phép lực lượng Nga tấn công với sự tự tin và thành công hơn. Những máy bay không người lái này có thể xâm nhập vào phòng tuyến của kẻ thù và tấn công các mục tiêu dễ bị tấn công mà không có nguy cơ bị các biện pháp đối phó của kẻ thù đánh chặn, thường được sử dụng để phòng thủ chống lại các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái thông thường hơn.
Trong số các mục tiêu đáng chú ý được báo cáo là bị phá hủy bởi những máy bay không người lái này có xe tăng tiên tiến do phương Tây cung cấp, bao gồm Leopard 2A6, Abrams M1A1 của Mỹ và Challenger 2 của Anh. Ngoài ra, máy bay không người lái FPV của Nga đã được ghi nhận là đã phá hủy thành công xe tăng T-64 của Ukraine, lựu pháo M777 của Mỹ, pháo tự hành Caesar do Pháp sản xuất và pháo tự hành M109 Paladin do Mỹ sản xuất. Mặc dù những tuyên bố này đã được đưa tin rộng rãi trên các phương tiện truyền thông Nga, bao gồm các kênh như Pravda và Topwar, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là việc xác minh độc lập về những vụ phá hủy này vẫn còn ít và các báo cáo như vậy thường thiếu bằng chứng cụ thể từ các nguồn trung lập.
Việc triển khai máy bay không người lái FPV sợi quang của lực lượng Nga đại diện cho một sự thay đổi lớn trong chiến thuật quân sự. Chúng cung cấp một giải pháp đáng tin cậy cho vấn đề chiến tranh điện tử, vốn đã trở thành một đặc điểm trung tâm của các cuộc xung đột hiện đại. Trong khi Ukraine và các đối thủ khác đã phát triển các hệ thống EW mạnh mẽ có khả năng vô hiệu hóa các UAV tiêu chuẩn, thì những máy bay không người lái sợi quang này không dễ bị nhiễu như vậy, cho phép tiếp tục hoạt động ngay cả trong không phận đang có tranh chấp.

Ezoic

Việc sử dụng chúng cũng chứng minh cách máy bay không người lái được tích hợp vào các chiến lược chiến đấu rộng hơn, không chỉ để trinh sát và giám sát mà còn để hành động trực tiếp và tấn công chính xác. Máy bay không người lái sợi quang cho phép lực lượng Nga tiến hành giám sát chi tiết và tấn công các mục tiêu ưu tiên cao với độ chính xác đáng kinh ngạc, trong khi vẫn gần như vô hình đối với các hệ thống phát hiện của kẻ thù.
Tuy nhiên, những chiếc máy bay không người lái này không phải là không có hạn chế. Nhược điểm chính là bản chất bị trói buộc của cáp quang, hạn chế phạm vi và khả năng cơ động của máy bay không người lái. Cáp vật lý cũng dễ bị cắt hoặc hư hỏng, có thể vô hiệu hóa máy bay không người lái giữa chừng khi đang hoạt động. Bất chấp những thách thức này, những lợi thế mà máy bay không người lái mang lại về mặt độ tin cậy và độ chính xác trong hoạt động vượt trội hơn những hạn chế.
Hơn nữa, hậu cần liên quan đến việc quản lý những máy bay không người lái này phức tạp hơn so với những máy bay không người lái truyền thống. Đội mặt đất được yêu cầu triển khai và quản lý cáp quang, bổ sung thêm một lớp phối hợp và hỗ trợ. Điều này có thể là một thách thức trong các tình huống chiến đấu diễn ra nhanh, khi thời gian là yếu tố cốt yếu.

Ezoic

Sự thành công của máy bay không người lái FPV sợi quang ở Ukraine cho thấy chúng sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các cuộc xung đột trong tương lai, đặc biệt là trong môi trường mà chiến tranh điện tử đang lan tràn. Trong khi Nga đi đầu trong việc triển khai các hệ thống này, các quốc gia khác, bao gồm cả Ukraine, cũng đang bắt đầu khám phá tiềm năng của chúng. Các lực lượng Ukraine được cho là đã thử nghiệm các hệ thống tương tự để chống lại chiến tranh điện tử của Nga và duy trì tính liên tục của hoạt động trước các mối đe dọa EW tinh vi.
Khi công nghệ phát triển, khả năng của những chiếc máy bay không người lái này có thể sẽ tiếp tục phát triển. Các mẫu máy bay trong tương lai có thể có cáp nhẹ hơn, bền hơn, khả năng tải trọng được cải thiện và phạm vi hoạt động dài hơn. Ngoài ra, việc tích hợp AI và hệ thống điều khiển bay tự động có thể khiến những chiếc máy bay không người lái này thậm chí còn hiệu quả hơn, cho phép độ chính xác cao hơn và giảm sự phụ thuộc vào người điều khiển.
Máy bay không người lái FPV sợi quang đại diện cho bước tiến đáng kể trong quá trình tiến hóa của các phương tiện bay không người lái, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh điện tử hiện đại. Bằng cách bỏ qua các điểm yếu của máy bay không người lái truyền thống, các hệ thống này cung cấp khả năng phục hồi vô song trong các khu vực chiến đấu, cho phép lực lượng quân sự thực hiện các cuộc tấn công chính xác và nhiệm vụ giám sát mà máy bay không người lái thông thường không thể thực hiện được. Khi cuộc xung đột ở Ukraine tiếp diễn, vai trò của những máy bay không người lái này có khả năng mở rộng, định hình tương lai của chiến tranh trong thế kỷ 21.
 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực
Liệu pháo tự hành 2S19 Msta-SM2 của Nga có chứng minh được giá trị của nó ở Ukraine không ?
Như Maxim Kazanin đã lưu ý vào ngày 7 tháng 1 năm 2025, việc Nga triển khai pháo tự hành 2S19M2 Msta-SM2 tại Ukraine đã mang đến những tiến bộ cho các đơn vị pháo binh Nga bằng cách cải thiện độ chính xác khi ngắm bắn và mở rộng phạm vi hoạt động. Tuy nhiên, các nhà phân tích Trung Quốc đã quan sát thấy rằng các vấn đề về thiết kế và hoạt động của Msta-SM2, bao gồm các vấn đề về độ tin cậy cơ học và hạn chế về hậu cần, đã làm giảm hiệu quả chung của nó. Mặc dù Msta-SM2 tăng cường khả năng trong các tình huống cụ thể, nhưng nó không giải quyết toàn diện các thiếu sót chính về hoạt động của các đơn vị pháo binh Nga tại Ukraine.
Theo dõi Army Recognition trên Google News tại liên kết này


Tính đến thời điểm hiện tại, pháo tự hành 2S19 Msta-SM2 cung cấp khả năng nhắm mục tiêu được cải thiện cho các đơn vị pháo binh Nga triển khai tại Ukraine, nhưng bị hạn chế bởi một số vấn đề về cơ khí và hậu cần. (Nguồn ảnh: phương tiện truyền thông xã hội Nga)
Tại Ukraine, Lực lượng vũ trang Nga đã triển khai pháo tự hành 2S19M2 Msta-SM2 để cải thiện khả năng pháo binh, đặc biệt là trong các hoạt động phản pháo. Hệ thống này có hệ thống dẫn đường và kiểm soát hỏa lực tự động Uspekh-S (AGFCS), cho phép hoạt động trong nhiều điều kiện thời tiết khác nhau và vào mọi thời điểm trong ngày. Hệ thống này kết hợp các hệ thống ngắm và bắn tiên tiến, cho phép phi hành đoàn nhận dữ liệu mục tiêu từ các máy bay không người lái như Orlan-10, ZALA 421-16E, Forpost-Ru và Inokhodets-Ru. Mặc dù các khả năng này nâng cao độ chính xác trong hoạt động, nhưng việc thiếu hệ thống kiểm soát hỏa lực hoàn toàn kỹ thuật số và một số hạn chế về tự động hóa đã hạn chế hiệu quả tổng thể của hệ thống.

Ezoic

Các nhà phân tích quân sự Trung Quốc cho rằng Msta-SM2 có một số điểm mạnh, bao gồm số hóa một phần và khả năng tương thích GPS/GLONASS, giúp cải thiện độ chính xác khi ngắm bắn. Họ xác định đây là hệ thống có khả năng so với các tùy chọn tiên tiến hơn nhưng ít triển khai hơn như 2S35 Koalitsiya-SV. Tuy nhiên, họ cũng nêu bật những điểm yếu như độ tin cậy thủy lực thấp, không có vách ngăn bọc thép để đảm bảo an toàn cho kíp lái và phụ thuộc vào hậu cần chiến trường, gây ra những thách thức trong điều kiện chiến đấu. Tổn thất chiến đấu ở Ukraine, do các cuộc tấn công bằng pháo binh và trục trặc đạn dược, minh họa cho những hạn chế này và làm giảm tác động chung của nó.
Được giới thiệu vào năm 2013, Msta-SM2 có pháo lựu 152mm 2A64M2 với tốc độ bắn lên đến 10 viên mỗi phút. Nó đạt tầm bắn tối đa 43 km khi sử dụng các loại đạn tiên tiến như đạn dẫn đường Krasnopol-D. Hệ thống nạp đạn có thể lập trình hỗ trợ các nhiệm vụ "bắn phá", cho phép tấn công đồng bộ. Tính cơ động của nó, được hỗ trợ bởi khung gầm lấy từ xe tăng T-72 và T-80, hỗ trợ chiến thuật bắn và chạy trốn để giảm thiểu khả năng bị tấn công. Tuy nhiên, các báo cáo từ Ukraine đã lưu ý các vấn đề như hỏng hóc cơ học và khả năng bảo trì hạn chế, ảnh hưởng đến việc sử dụng chiến đấu liên tục của nó.

Ezoic

Còn được gọi là 2S33 Msta-SM2 , pháo tự hành của Nga này đã được sử dụng hiệu quả trong vai trò chống pháo trong cuộc xung đột ở Ukraine. Việc tích hợp nó với các UAV, chẳng hạn như Orlan-30, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng đạn Krasnopol-M2 để tấn công có độ chính xác cao vào các vị trí kiên cố, các đơn vị pháo binh và trung tâm chỉ huy. Các điều chỉnh chiến thuật bao gồm triển khai các nhóm chống pháo nhỏ gồm 2-3 khẩu súng trong các khu vực tuần tra được chỉ định với các điểm tiếp tế được sắp xếp trước. Mặc dù các chiến lược này làm giảm bớt các hạn chế về hoạt động, nhưng chúng cũng nhấn mạnh sự phụ thuộc của hệ thống vào kế hoạch hậu cần cẩn thận.
Những tổn thất đáng kể đã được ghi nhận; tính đến ngày 23 tháng 1 năm 2025, lực lượng Nga đã mất 51 đơn vị. Trong số này, 30 đơn vị đã bị phá hủy (một số do đạn dược của Triều Tiên bị lỗi), ba đơn vị bị hư hại và 18 đơn vị đã bị lực lượng Ukraine bắt giữ. Các đơn vị bị bắt giữ bao gồm một số đơn vị bị hư hại, phản ánh những thách thức trong việc duy trì quyền kiểm soát hoạt động đối với các khẩu pháo tự hành này. Lực lượng Ukraine đã sử dụng hiệu quả một số hệ thống bị bắt giữ để chống lại các vị trí của Nga, chứng minh khả năng thích ứng của nền tảng này trong các bối cảnh hoạt động đa dạng.
 

rugi_vnb

Xe điện
Biển số
OF-673778
Ngày cấp bằng
18/6/19
Số km
4,354
Động cơ
138,330 Mã lực
Kalashnikov thử nghiệm hỗ trợ chiến thuật mới cho vũ khí nhỏ ở Ukraine .
Vào năm 2024, Trung tâm Thiết kế và Công nghệ của JSC Concern Kalashnikov đã phát triển hỗ trợ chiến thuật sáng tạo để nâng cao khả năng của vũ khí nhỏ trong cuộc chiến chống lại máy bay không người lái (UAV) của đối phương. Theo yêu cầu của các cơ quan an ninh, thiết bị mới này đã được thử nghiệm tại Ukraine, nơi nó nhận được phản hồi tích cực từ quân nhân.
Theo dõi Army Recognition trên Google News tại liên kết này


Thiết bị hỗ trợ cải tiến này bao gồm chân máy có thể gập lại, điều chỉnh độ cao với giá đỡ phía trên có thể di chuyển. (Nguồn ảnh: Kalashnikov)
Hỗ trợ chiến thuật được thiết kế để cải thiện hiệu quả của vũ khí nhỏ trong việc tiêu diệt UAV nhỏ ở khoảng cách lên đến 300 mét. Ngoài ra, nó có thể được sử dụng để chống lại nhân sự địch bị lộ ở phạm vi lên đến 1000 mét, cung cấp một giải pháp linh hoạt cho nhiều tình huống hoạt động khác nhau.

Ezoic

Giá đỡ cải tiến này bao gồm một chân máy có thể gập lại, có thể điều chỉnh độ cao với giá đỡ phía trên có thể di chuyển. Thiết kế này cho phép sử dụng linh hoạt với nhiều loại vũ khí khác nhau, bao gồm một hoặc hai súng máy Kalashnikov (PKM, PKT), súng máy Degtyarev (DPM) hoặc súng trường tấn công kiểu AK, tùy thuộc vào giá đỡ cụ thể. Trọng lượng của giá đỡ chiến thuật thay đổi từ 15 đến 38 kg, tùy thuộc vào sửa đổi và được trang bị một điểm ngắm cơ học mở. Hệ thống này cũng cho phép lắp đặt các thiết bị ngắm quang điện tử, cải thiện độ chính xác khi ngắm mục tiêu.
Các cuộc thử nghiệm được tiến hành tại Ukraine đã xác nhận rằng vũ khí hỗ trợ chiến thuật Kalashnikov đáp ứng các yêu cầu hoạt động để chống lại máy bay không người lái bằng vũ khí nhỏ. Nó được thiết kế để phù hợp với các đặc điểm kỹ thuật và chiến thuật cụ thể của vũ khí mà nó hỗ trợ, đảm bảo hiệu suất tối ưu. Concern Kalashnikov hiện đã sẵn sàng sản xuất các vũ khí hỗ trợ chiến thuật này với số lượng mà lực lượng an ninh Nga yêu cầu.

Ezoic

Cuộc chiến ở Ukraine đã làm nổi bật tầm quan trọng của vũ khí nhỏ và hệ thống phòng thủ máy bay không người lái. Các lực lượng Ukraine đã sử dụng vũ khí nhỏ để chống lại các đối thủ được trang bị tốt hơn, ngăn chặn các đoàn xe bọc thép của Nga tiến sâu. Vũ khí phòng không đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lãnh thổ và ngăn chặn ưu thế trên không của Nga trên chiến trường.
Đồng thời, lực lượng Nga đã phát triển các giải pháp sáng tạo để chống lại mối đe dọa từ máy bay không người lái. Các phương tiện chống máy bay không người lái tự chế, được trang bị súng và súng trường AK, đã được sử dụng để bắn hạ máy bay không người lái của đối phương. Những phương tiện này, chẳng hạn như xe buggy được trang bị các nhóm súng và súng trường AK, chứng minh khả năng thích ứng của lực lượng Nga khi đối mặt với mối đe dọa từ máy bay không người lái.

Ezoic

Việc phát triển và thử nghiệm thành công hỗ trợ chiến thuật của Kalashnikov tại Ukraine phản ánh cam kết của công ty trong việc cung cấp các giải pháp phù hợp với những thách thức trên chiến trường đương đại. Bằng cách tích hợp các công nghệ tiên tiến và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của lực lượng vũ trang, Kalashnikov tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển thiết bị quân sự hiện đại.

{"uid":"5","hostPeerName":"https://www.armyrecognition.com","initialGeometry":"{\"windowCoords_t\":0,\"windowCoords_r\":1920,\"windowCoords_b\":1040,\"windowCoords_l\":0,\"frameCoords_t\":3184.953125,\"frameCoords_r\":1287,\"frameCoords_b\":3464.953125,\"frameCoords_l\":951,\"styleZIndex\":\"auto\",\"allowedExpansion_t\":0,\"allowedExpansion_r\":616,\"allowedExpansion_b\":679.046875,\"allowedExpansion_l\":951,\"xInView\":1,\"yInView\":0.8569754464285714}","permissions":"{\"expandByOverlay\":false,\"expandByPush\":false,\"readCookie\":false,\"writeCookie\":false}","metadata":"{\"shared\":{\"sf_ver\":\"1-0-40\",\"ck_on\":1,\"flash_ver\":\"0\"}}","reportCreativeGeometry":false,"isDifferentSourceWindow":false,"goog_safeframe_hlt":{}}" scrolling="no" marginwidth="0" marginheight="0" width="336" height="280" data-is-safeframe="true" sandbox="allow-forms allow-popups allow-popups-to-escape-sandbox allow-same-origin allow-scripts allow-top-navigation-by-user-activation" allow="private-state-token-redemption;attribution-reporting" aria-label="Quảng cáo" tabindex="0" data-google-container-id="5" style="box-sizing: border-box; vertical-align: bottom; border: 0px; width: revert-layer; margin: 0px !important; padding: 0px !important;">
Ezoic

Chiến dịch gần đây này ở khu vực Kharkiv minh họa cho vai trò biến đổi của máy bay không người lái trên chiến trường. Bằng cách tích hợp các hệ thống không người lái tiên tiến như Vampire vào chiến lược quân sự của mình, Ukraine đã có thể thích nghi với sự phức tạp của xung đột hiện đại, tận dụng công nghệ chính xác để giành lợi thế trước đối thủ. Việc triển khai thành công máy bay không người lái không chỉ nâng cao năng lực chiến thuật của lực lượng Ukraine mà còn giảm thiểu rủi ro liên quan đến chiến đấu truyền thống.

Khi cuộc xung đột tiếp diễn, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ máy bay không người lái nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của nó trong việc định hình tương lai của chiến tranh. Vampire, với sự kết hợp giữa khả năng tấn công và phòng thủ, đóng vai trò là minh chứng cho tiềm năng của các hệ thống không người lái trong việc giải quyết những thách thức đa dạng của các hoạt động quân sự hiện đại. Bằng cách duy trì sự tập trung vào đổi mới và hợp tác quốc tế, Ukraine định vị mình để duy trì áp lực lên các lực lượng đối lập trong khi củng cố cơ sở hạ tầng phòng thủ của mình.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top