Phi công mải ăn sáng, 185 máy bay MiG bị đánh tan tành: Thiệt hại sau cùng rất khủng khiếp
Công Minh | 15/01/2022 07:00 PM
1
Chiến dịch Moked với hai đặc điểm nổi bật: mức độ chính xác và thời gian thực hiện, đã trở thành tiêu chuẩn vàng cho các cuộc không kích phủ đầu tiêu diệt không quân đối phương.
CHIẾN DỊCH ĐÁNH ĐÒN PHỦ ĐẦU "OPERATION MOKED"
Ngày 5/6/1967, một cuộc chiến có vai trò quan trọng trong việc định hình lại Trung Đông đã xảy ra. Căng thẳng đã âm ỉ trong một thời gian dài giữa
Israel và các nước láng giềng.
Bị áp đảo về số lượng quân so với liên quân các nước Ả Rập và bị bao vây bởi kẻ thù ở ba mặt và mặt còn lại giáp với biển Địa Trung Hải sâu thẳm, Israel đã quyết tâm tấn công trước và giành chiến thắng nhanh chóng.
Để giành được chiến thắng Israel phải kiểm soát được bầu trời. Nhưng không quân Israel chỉ có gần 200 máy bay hầu hết là của Pháp (trước năm 1968, Mỹ đã không bán máy bay cho IAF) chống lại 600 máy bay Ả Rập với nhiều máy bay chiến đấu MiG do Liên Xô cung cấp.
Ngoài ra, Israel còn lo ngại về 30 máy bay ném bom Tu-16 Badger do Liên Xô sản xuất, mỗi chiếc có thể thả 10 tấn bom xuống các thành phố của Israel.
Chính vì vậy, Chiến dịch Moked (Tiêu điểm) ra đời. Đó là một cuộc tấn công phủ đầu nhằm tiêu diệt lực lượng không quân Ả Rập trên mặt đất và là một trong những chiến dịch trên không xuất sắc nhất trong lịch sử.
Kế hoạch đã được vạch ra và luyện tập trong vài năm. Các phi công của IAF đã thực hiện lặp đi lặp lại nhiệm vụ thực hành tấn công các sân bay giả của Ai Cập trên sa mạc Negev, trong khi tình báo Israel thu thập thông tin về sơ đồ bố trí hệ thống phòng thủ của Ai Cập.
Liệu kế hoạch của Israel có thành công? Câu hỏi được giải đáp chỉ vài phút sau khi máy bay chiến đấu của Israel bay qua Địa Trung Hải và đến Ai Cập.
Máy bay Mirage IIICJ 158 của Không quân Israel tại Bảo tàng Không quân Israel ở Hatzerim
6 TIẾNG QUYẾT ĐỊNH CUỘC CHIẾN 6 NGÀY
Vào lúc 7:10 sáng theo giờ Israel, 16 máy bay huấn luyện Fouga Magister của Không quân Israel (IAF) đã cất cánh và giả vờ như đang huấn luyện bình thường. Họ bay các đường bay thông thường và sử dụng tần số vô tuyến thông thường để tiến hành nhiệm vụ do thám các radar Ả Rập giống như cuộc tuần tra trên không bình thường của Israel vào buổi sáng.
Vào lúc 7:15 sáng, một loạt gồm 183 máy bay - gần như toàn bộ phi đội chiến đấu của Israel - lao lên không trung. Họ tiến về phía Tây qua Địa Trung Hải trước khi hạ thấp độ cao xuống 60 feet so với mặt nước biển để tránh bị phát hiện bởi radar của các nước Ả Rập.
Trước đó, trong vòng 2 năm, radar của Ai Cập, Syria và Jordan cũng đã theo dõi được những hoạt động tương tự như vậy - cất cánh mỗi sáng trên cùng đường bay này, và sau đó biến mất khỏi phạm vi quan sát trước khi trở về căn cứ.
Điểm khác là lần này số lượng máy bay đông hơn rất nhiều. Lần xuất kích này, thay vì quay về nhà, phi đội của Israel bao gồm các máy bay phản lực Mirage và Super Mystere do Pháp sản xuất đã chuyển hướng về phía nam tiến thẳng đến Ai Cập.
Trạm radar của Jordan đã phát hiện ra số lượng bất thường các máy bay Israel trên không vào ngày hôm đó và gửi một cảnh báo mã hóa cho Ai Cập. Nhưng không quân Ai Cập trước đó đã đổi mã mà không thông báo cho Jordan.
Tuy nhiên, dù có nhận được thông báo thì kết cục cũng không không thay đổi. Chiến thuật của Israel mới là điều quyết định, “Thay vì tấn công vào lúc rạng sáng, IAF quyết định đợi vài giờ cho đến 07:45 (08:45 theo giờ Ai Cập).
Vào lúc này, sương mù buổi sáng trên đồng bằng sông Nile đã tan và các đội tuần tra buổi sáng của Ai Cập đã trở lại căn cứ nơi các phi công đang ăn sáng, trong khi nhiều phi công và phi hành đoàn mặt đất vẫn đang trên đường đi làm.
Khi máy bay Israel tiến vào, các chỉ huy của lực lượng vũ trang và không quân Ai Cập đang rời khỏi vị trí của họ trong một chuyến thị sát trên một chuyến bay vận tải. Sợ rằng các xạ thủ phòng không nhầm họ với người Israel mà bắn, các chỉ huy này đã ra lệnh lực lượng phòng không của Ai Cập không được bắn khi máy bay vận tải này đang ở trên không.
Máy bay Israel đã bay lên độ cao 9.000 feet khi tiếp cận các mục tiêu của mình: Mười phi trường Ai Cập, nơi các máy bay đậu ngay ngắn thành hàng sát cánh bên nhau.
Gần như không bị cản trở bởi tiêm kích đánh chặn và pháo phòng không của Ai Cập, máy bay Israel, theo đội hình 4 chiếc, đã thực hiện từ 3 - 4 đợt tấn công mỗi lượt bằng bom và súng pháo. Trước tiên, họ phá hủy các đường băng để máy bay địch không thể cất cánh, tiếp theo là các máy bay ném bom Ai Cập và sau đó là những máy bay khác.
Chính trong chiến dịch này, Israel đã triển khai một loại vũ khí bí mật: bom xuyên phá bê tông, loại vũ khí phá hủy đường băng chuyên dụng đầu tiên. Dựa trên một thiết kế của Pháp, những quả bom được hãm lại bằng dù sau đó một động cơ tên lửa đẩy bom khoan sâu xuống đường băng và kích nổ tạo ra một hố lớn khiến máy bay Ai Cập không thể cất cánh.
Đợt tấn công đầu tiên chỉ kéo dài 80 phút. Sau chỉ 10 phút nghỉ ngơi, đợt tấn công thứ 2 vào 14 sân bay khác bắt đầu. Trước những loạt tấn công như vũ bão của Israel, Ai Cập cho rằng Israel đã bí mật tích lũy một lực lượng không quân khổng lồ.
Sự thật là các phi hành đoàn mặt đất của Israel đã thực hành việc trang bị và tiếp nhiên liệu cho các máy bay trở về trong vòng chưa đầy tám phút, điều này cho phép rút ngắn thời gian cho các đợt tấn công.
Máy bay chiến đấu Dassault Mirage III của không quân Israel bay qua bán đảo Sinai tại biên giới Israel-Ai Cập vào ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh 6 ngày, ngày 5 tháng 6 năm 1967. Ảnh: AFP
Sau 170 phút - chỉ chưa đầy ba giờ - Ai Cập đã thiệt hại 293 trong tổng số gần 500 máy bay, bao gồm tất cả các máy bay ném bom Tu-16 và Il-28 do Liên Xô chế tạo có khả năng đe dọa các thành phố của Israel, và 185 máy bay chiến đấu MiG. Phía Israel đã bị bắn hạ 19 máy bay, hầu hết là do hỏa lực mặt đất.
Cũng trong ngày hôm đó, vào lúc 12 giờ 45 phút ngày 5/6, IAF tiếp tục tấn công các mục tiêu khác của không quân liên quân Ả Rập trong đó có các sân bay của Syria và Jordan và căn cứ không quân H3 của Iraq.
Syria mất 2/3 lực lượng không quân, với 50 máy bay bị phá hủy trên mặt đất, trong khi Jordan mất toàn bộ 28 máy bay. Vào cuối chiến dịch năm 1967 này, phía liên quân Ả Rập đã mất 450 máy bay, trong khi Israel mất 46 chiếc.
Sau sáu tiếng đồng hồ kể từ khi chiếc máy bay đầu tiên của IAF xuất kích, Israel đã giành chiến thắng trong cuộc chiến dự kiến trong sáu ngày. Không chỉ các đội xe tăng và binh lính tránh được các cuộc đụng độ khó khăn ở Sinai, Golan và Jerusalem, việc tiêu diệt lực lượng không quân của liên quân Ả Rập còn giúp lực lượng của Israel tránh được hệ thống phòng không của kẻ địch.
Điều này cũng có nghĩa là máy bay Israel có thể không ngừng ném bom và đánh phá lực lượng trên bộ của Ả Rập và kết quả là Ai Cập đã phải rút lui khỏi Sinai.
Nếu nói rằng chiến dịch Moked là độc nhất vô nhị cũng không phải vì trước đó, vào ngày 22/6/1941, Không quân Đức đã tấn công bất ngờ vào các sân bay của Liên Xô trong Chiến dịch Barbarossa.
Phía Liên Xô có thể đã mất gần bốn nghìn máy bay trong ba ngày đầu tiên của cuộc tấn công - nhiều máy bay bị phá hủy trên mặt đất trong khi phía Đức chỉ mất 80 máy bay.
Tuy nhiên, Chiến dịch Moked nổi bật với sự chuẩn bị tỉ mỉ và độ chính xác về thời gian thực hiện. Hai điểm nổi bật này đã trở thành tiêu chuẩn vàng cho các cuộc không kích phủ đầu nhằm tiêu diệt không quân đối phương.