[Funland] Tác chiến phòng không chống không quân Mỹ và đánh tháng B-52 - Cái nhìn từ­ hai phía

waterfall

Xe buýt
Biển số
OF-58997
Ngày cấp bằng
13/3/10
Số km
711
Động cơ
448,695 Mã lực
dài wa, chưa đọc nhưng vẫn vodka cho bác vì cái công đánh từng này chữ vào. :D
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Vào hang bắt cọp B-52

Trích hồi ký "Bảo vệ bầu trời" của Thiếu tướng (sau này là Trung tướng) Nguyễn Xuân Mậu (tên thật: Nguyễn Xuân Kế, 10.1922), nguyên: Phó Chính ủy Quân chủng Phòng không Không quân, Chính ủy Bí thư Đảng ủy Quân chủng Phòng không, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Quân ủy Trung ương




Ngày 12-4-1966, 30 B-52 ném bom đèo Mụ Giạ. Đây là lần đầu tiên B-52 ra đánh phá miền Bắc. Ngay sáng hôm sau, tin đó đã gây nên cuộc thảo luận sôi nổi trong buổi giao ban ở sở chỉ huy quân chủng. Phòng quân báo được lệnh đi sâu nghiên cứu tính năng chiến thuật, kỹ thuật của B-52. Phòng tên lửa được lệnh ngoài nhiệm vụ chỉ đạo các đơn vị tác chiến thường xuyên, cần dành thời gian nghiên cứu cách đánh B-52. Ngày 27-4-1966, địch cho B-52 ra đánh Mụ Giạ lần thứ 2. Một hôm đồng chí Tính được gọi lên gặp Bác, trở về đồng chí nói với tôi (tướng Mậu, phó chính ủy quân chủng):

- Bác bảo miền Bắc chúng ta cần chuẩn bị để đối phó với B-52 và nhiệm vụ này chủ yếu giao cho bộ đội phòng không. Bác bảo bất kể trong tình huống như thế nào, chúng ta phải đánh thắng B-52.
Có thể nói là lúc bấy giờ chúng tôi chưa có một cơ sở tối thiểu để xây dựng một phương án đánh B-52, dù là ở dạng đơn giản nhất. Theo những số liệu do Cục quân báo, Bộ Tổng tham mưu cung cấp và phòng quân báo của quân chủng sưu tầm thêm được, chúng tôi biết B-52 là một loại máy bay to lớn, nặng nề. Trong lượng toàn bộ của nó lên tới trên dưới 200 tấn, tùy theo từng loại. Loại B-52 vừa được cải tiến mang ký hiệu B-52G, H, thì riêng lượng dầu để bảo đảm cho 1 chuyến bay lên tới 141 tấn. Cứ mỗi giờ bay, thông thường phải tiêu thụ hết từ 6 đến 7 tấn nhiên liệu. Xét riêng về cái thân hình nặng nề này thì B-52 đúng là miếng mồi ngon cho tên lửa SAM-2. Điều đáng chú ý là trên mỗi chiếc B-52 có đến 15 máy gây nhiễu. Thằng Mỹ có dại gì để những chiếc “pháo đài bay thượng đẳng” của chúng phơi xác cho ta thịt một cách dễ dàng. Vấn đề đặt ra lúc này là phải tập “nhìn” kẻ thù, phải đi đến những nơi có kẻ thù để bước đầu làm quen với nó. Nói cách khác, muốn bắt cọp thì phải vào tận hang.

Giữa tháng 7, chúng tôi được lệnh của Bộ Tổng tham mưu đưa trung đoàn tên lửa 238 vào Vĩnh Linh để đánh B-52. Đây quả là một quyết định hết sức táo bạo. Có bao giờ tên lửa lại đi xa như thế? Cuối năm 1965 và đầu năm 1966, một số tiểu đoàn tên lửa đã cơ động chiến đấu trên một số hướng, có tiểu đoàn đã vào đến Nghệ An, Hà Tĩnh. Nhưng dù sao thì cũng mới chỉ đi trong vúng hậu phương, đường sá được chuẩn bị tốt, có lưới lửa phóng không của các đơn vị bạn bảo vệ. Còn bây giờ là cả một trung đoàn tên lửa với hàng mấy trăm xe máy cồng kềnh, đi đâu phải có cần trục đi theo để tháo lắp; vào một vùng tuyến lửa ngày đêm địch bắn phá ác liệt, làm sao mà bảo đảm được an toàn! Thường vụ Đảng ủy quân chủng họp một phiên chuyên đề về việc trung đoàn 238 vào tuyến lửa. Chúng tôi dự kiến 3 cửa ải mà trung đoàn phải dũng cảm, mưu trí, sáng tạo mới có thể vượt qua để giành thắng lợi.

Một là, phải vượt qua chặng đường gần 600km, phần lớn phải đi theo đường chiến lược mới mở, có nhiều đèo dốc, khe sâu, địch thường xuyên khống chế, đánh phá ác liệt;
Hai là, giấu mình, trụ vững tại một vùng đất nhỏ hẹp nằm trong tầm phi pháo của địch từ trên không, từ ngoài biển và từ bờ nam sông Bến Hải.;
Ba là, phóng được đạn, bắn rơi được B-52, một đối tượng mà đơn vị chưa hiểu biết bao nhiêu.

Cho đến đầu năm 1967, tất cả 5 tiểu đoàn của trung đoàn 238 đều đã lần lượt có mặt trên đất Vĩnh Linh. Trên đường đi vào, qua đất Nghệ An, Bộ Tư lệnh quân khu 4 đã có một yêu cầu rất có ý nghĩa đối với trung đoàn: Tiểu đoàn nào bắn rơi được máy bay địch trên quê hương Bác mới “được giấy phép” vượt sông Lam. Ngày 28-7-1966, từ trận dịa quê hương làng Đỏ, tiểu đoàn 84 đã phóng 2 quả đạn, diệt 2 chiếc A-4, bắt sống giặc lái, trở thành tiểu đoàn đầu tiên giành được “chiếc vé” vượt Bến Thủy đi vào tuyến lửa. Đến Quảng Bình, chỉ do một sơ suất nhỏ, để lộ bí mật, tiểu đoàn 84 đã bị địch đánh liên tục trong 2 ngày, mỗi ngày trên 100 lần chiếc.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Tại Vĩnh Linh, khu vực tên lửa hoạt động được chỉ khoảng trên dưới 24km2. Đánh hơi tên lửa đã vào Vĩnh Linh, bọn địch quyết tâm đánh hủy diệt, hoặc ít ra cũng “đánh bật” được những bệ phóng SAM-2 ra khỏi khu vực này để tránh cho những pháo đài bay B-52 của chúng khỏi bị đe dọa. Vì thế vấn đề công sự ngụy trang được đặt lên hàng đầu, và có tầm quan trọng sống còn.

Chỉ trong một thời gian ngắn, bằng sức lao động của bản thân mình là chính, trung đoàn đã xây dựng được 22 trận địa tên lửa với khối lượng đào đắp lên tới 32.628m3 đất; hàng nghìn cây gỗ được chặt ngả, pha đẽo để làm hầm. Ngoài trận địa ra, còn phải xây dựng những khu giấu khí tài, trong đó có những khu có đủ hầm chứa xe máy, có đường cho xe xích kéo khí tài lên xuống. Đặc biệt hai trận địa sản xuất đạn của tiểu đoàn 85 giống như một công xưởng dưới hầm sâu, có đủ cả hầm tránh bom cho người và khí tài. Ở những nơi địch đánh ác liệt nhất, nhưng điều kiện bắn lại có thuận lợi, trung đoàn đã quyết tâm xây dựng những trận địa có nắp che kín cả khí tài. Toàn bộ khu trung tâm gồm xe điều khiển, xe tính toán, xe thu phát và trạm nguồn điện gồm xe điện, máy nổ 75KVA đều được nằm kín dưới hầm sâu, trừ bộ ăng tên phải vươn lên cao để phát sóng tìm địch và điều khiển đạn. Đó thực sự là cả một công trình đồ sộ. Chúng ta chắc đã từng thấy một trận địa tên lửa ở gần Hà Nội, hoặc ở một tỉnh đồng bằng. Một trận địa như vậy phải chiếm đến gần 10 héc ta. Ấy thế mà toàn bộ cái trận địa ấy, ở khu vực Vĩnh Linh, phải chuyển xuống lòng đất.

Nhưng không phải như thế là đã bảo đảm an toàn. Ở vùng tuyến lửa này, kẻ địch thường xuyên có mặt ở trên trời để nhòm ngó, phát hiện. Đó là chức năng chủ yếu của 2 tên chỉ điểm L-19 và OV-10. Chỉ cần 1 dấu hiệu nhỏ thôi; một làn khói mỏng lướt nhẹ trên ngọn cây; một cành lá ngụy trang héo chưa kịp thay; một vết xe đi vào bãi giấu chưa kịp xóa… lập tức nó thả pháo khói xuống và gọi bọn F-4, A-6 đến giội bom, vãi đạn. Các đồng chí trung đoàn 238 mỗi lần ra quân chủng họp, thường nói: ở vùng Vĩnh Linh có khoảng 10, 15 phút yên tĩnh là một điều hết sức hiếm hoi. Bọn L-19 và OV-10 không nghỉ trưa. Anh em bảo chúng “giao ban” ngay trên trời. Tên này đến thì tên kia mới về. Chính vì vậy mà kỷ luật về bí mật và ngụy trang được đặt ra hết sức nghiêm ngặt. Phải thực hiện nghiêm túc 24/24. Đôi khi, chỉ một sơ suất nhỏ mà dẫn đến tổn thất nặng nề. Đối với 1 trận địa tên lửa, đây là một vấn đề đặc biệt khó khăn, đòi hỏi công tác ngụy trang phải nâng lên đến mức nghệ thuật. Nếu vừa hành quân đến một địa điểm mà cây cối đang bị khô héo sau một đợt bom thì ngụy trang cho trận địa cũng phải là những cành lá khô héo giống như thế. Nếu con đường kéo khí tài vào trận địa là màu cỏ úa thì cũng phải dùng đúng những cỏ úa như thế để ngụy trang. Nghĩa là màu sắc vùng đất mà anh vừa mới đến hôm qua như thế nào, thậm chí giờ trước như thế nào, thì ngày hôm sau, giờ sau, anh phải làm lại đúng như thế.

Nhưng cũng vẫn phải coi chừng. Khi bọn do thám trên trời không phát hiện ra điều gì khả nghi thì bọn cường kích sẽ dùng thủ đoạn đánh xăm, thường là bằng đạn 20mm hoặc rốc két. Cũng có khi chúng xăm bằng bom. Chúng xăm từ ngoài vào, từ trong ra, xăm chéo góc. Đã có lần, chúng gây cho ta những tổn thất đáng kể với cái lối đánh xăm này. Ngoài các thủ đoạn phóng Shrike, bổ nhào bắn phá trận địa, đánh xăm, kẻ địch còn dùng một thủ đoạn hết sức nham hiểm nữa là đánh tọa độ. Bằng phương pháp giao hội điện tử, chúng phát hiện trận địa tên lửa của ta ở một tọa độ nào đấy, chúng liền dùng thủ đoạn bay bằng, ném bom theo tọa độ đã tính sẵn. Thủ đoạn này cho cho phép chúng không cần phải có thời tiết tốt, mà cả những lúc trời mưa, trời mù, chúng vẫn có thể ném bom trúng mục tiêu. Cho nên ở Vĩnh Linh, anh em đã có câu: “Nắng ráo bổ nhào, mưa rào tọa độ”. Và khi không có bổ nhào, không có tọa độ thì đã có pháo trên các hạm tàu ở ngoài biển bắn vào, pháo ở bờ nam bắn sang thay thế. Bầu trời và mặt đất Vĩnh Linh không bao giờ ngớt tiếng bom đạn.

Thế nhưng các chiến sĩ trung đoàn 238 vẫn ngoan cường chịu đựng, kiên nhẫn giấu mình chờ dịp trị cho bằng được tên giặc nguy hiểm B-52. Trong hoàn cảnh như vậy, tất nhiene trung đoàn khó tránh khỏi những tổn thất nhất định. Tất cả 5 tiểu đoàn đều lần lượt bị đánh. Trong đó, trận đánh ác liệt nhất, tàn bạo nhất là trận chúng ném bom tọa độ vào trận địa tiểu đoàn 83 ngay 29-4-2967. Hôm đó chúng đã dùng đến 109 lần chiếc máy bay các loại, đánh 24 đợt bom, trung bình 15,20 phút một đợt tọa độ. Kết hợp với máy bay, pháo từ hạm tàu, từ bờ nam cũng bắn vào 192 quả. Tiểu đoàn 83 hoàn toàn mất sức chiến đấu. Trận địa của tiểu đoàn 81 chi cách sông Bến Hải trên dưới 6km. Nhhững hôm trời trong, chiến sĩ ta có thể thấy hoạt động của địch ở các vị trí Cồn Tiên, Dốc Miếu. Trận địa của tiểu đoàn 82 ở xã Vĩnh Kim, Vĩnh Trung, thuộc khu đông, cách bờ biển chưa đầy 2km, hàng ngày anh em có thể nhìn thấy tàu địch lảng vảng ngoài xa. Tôi có được đọc cuốn nhật ký của đồng chí Phạm Sơn, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 81 lúc bấy giờ, sau này là đại tá, tham mưu phó quân chủng PK, trong đó có ghi: “Trong thời gian 3 tháng trú quân “tàng hình, rình mồi”, tháng 2, tháng 3, tháng 4 năm 1967, tiểu đoàn đã bị 67 lần pháo kích, tọa độ và bổ nhào (37 lần tọa độ, 1 lần bổ nhào, 29 lần pháo kích), trong đó 7 lần trúng khu trung tâm, 32 lần trong vòng từ 2m đến 500m, 35 lần từ 500m đến 1000m. Hy sinh 7, bị thường 22”. Kể cả các đồng chí cao xạ bảo vệ tên lửa và công binh, con số thương vong của riêng tiểu đoàn 81, tính đến hết tháng 7-1967 đã lên tới hàng chục. Tất cả những tổn thất hy sinh đó không một mảy may làm cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 238 nao núng.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Cái cửa ải thứ ba, cửa ải phóng được đạn lên trời, bắn rơi được B-52 thực khó khăn chiết chừng nào. Gần 5 tháng cắn răng chịu đựng, nằm dưới tầm bom đạn của địch, chưa tiểu đoàn nào phóng được quả đạn nào vào những tốp B-52 vẫn hàng ngày rải bóm xuống khu vực Vĩnh Linh. Trong thời gian này, radar cảnh giới của ta chưa phát hiện được B-52 nên tên lửa không được báo động từ xa để vào cấp 1, mà chủ yếu là dựa vào triệu chứng hoạt động của bọn cường kích để phán đoán. Có lần nghe tiếng bom B-52 vọng đến, đơn vị mới phát lệnh vào cấp 1. Khi phát sóng lên thì địch đã bay xa. Có lần vào cấp 1 được khá chủ động, có thời cơ, nhưng khí tài lại không ổn định.

Ở chiến trường Vĩnh Linh, thường xuyên phải cơ động, khí tài phải đặt dưới hầm sâu, độ ẩm cao, việc bảo đảm hệ số kỹ thuật, hệ số chiến đấu cho tên lửa là một việc cực kỳ khó khăn. Tuy nhiên, chí ít cũng có đến 2 lần, thời cơ phóng đạn vào B-52 đã đến với tiểu đoàn 81 và tiểu đoàn 83, nhưng rất tiếc là đã không thực hiện được, chỉ vì chỉ huy có phần thiếu quyết đoán. Một lần vào giữa tháng 3-1967, khi kẻ địch còn bất ngờ. Hôm đó, cả tiểu đoàn 81 và 83 đều đã nhìn thấy B-52. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 81 Phạm Sơn đề nghị cho phóng đạn. Nhưng người chỉ huy bảo còn chờ ý kiến của Mặt trận. Thời cơ trong tác chiến phòng không làm gì có chỗ cho việc đợi chờ! Lần thứ 2 vào đầu tháng 4-1967. Hôm ấy, cũng 2 tiểu đoàn 81 và 83 đều thấy mục tiêu. Nhưng sau đó, khí tài 83 không ổn định. Tiểu đoàn trưởng Phạm Sơn khẩn thiết đề nghị cho phóng, vì đây là thời cơ hiếm có. Nhưng người chỉ huy vẫn cứ báo chờ, lý do có khác lần trước, là chờ cho khí tài 83 tốt để đánh tập trung. Và kết quả là cái thời cơ vàng ngọc đó đã qua đi, không bao giờ trở lại với họ nữa.

Như trên đã nói, sau trận tọa độ ác liệt ngày 29-4-1967 của địch, tiểu đoàn 83 đã phải tạm thời lùi về phía sau củng cố. Lúc này Vĩnh Linh chỉ còn lại tiểu đoàn 81. Với lòng dũng cảm tuyệt vời, với tinh thần lao động không biết mệt mỏi, tiểu đoàn 81 dưới sự chỉ huy của người tiểu đoàn trưởng mưu trí, lại đào thêm hầm, đắp thêm công sự, kiên quyết đứng vững trên đất lửa Vĩnh Linh, chờ ngày bắt bon B-52 phải đền tội. Nhưng đường vào cửa ải thứ 3 lại càng khó khăn hơn. Bọn địch đã tăng cường thêm những biện pháp điện tử để giấu kín mình trong nhiễu.


Đầu tháng 5-1967, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 ra lệnh: “Cho tên lửa được đánh tất cả các đối tượng”. Mệnh lệnh sáng suốt đó đã đáp ứng được lòng mong mỏi của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 238, của tiểu đoàn 81. Bất chấp sự khống chế ác liệt của kẻ thù, ngày 10-5-1967, những quả đạn đầu tiên của bộ đội tên lửa Việt Nam đã được phóng lên trên bầu trời sông Bến Hải, thiêu cháy 1 lúc 2 chiếc F-105 của giặc Mỹ, làm nức lòng quân và dân 2 bờ Nam, Bắc. Bọn địch phản ứng quyết liệt, tìm mọi cách “làm cỏ” những bệ phóng SAM-2 này. Mưu trí và sáng tạo, hết sức dũng cảm và ngoan cường, ngày 22-5-1967, tiểu đoàn 81 lại phóng đạn tiêu diện 1 chiếc L-19, tên chỉ điểm nguy hiểm mà từ trước tới nay chưa hề bị trừng trị ở đây. Tiếp đó, ngày 16-7-1967, phối hợp với Mặt trận đường 9, tiểu đoàn 81 lại đánh thắng hết sức xuất sắc, bằng 2 quả đạn, bắn rơi tại chỗ 2 máy bay địch trên đất Gio An, đúng lúc bộ binh ta ào ạt tấn công vào căn cứ Cồn Tiên, Dốc Miếu của địch. Đó là một trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng tuyệt đẹp. Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phòng miền Nam tặng tiểu đoàn 81 huân chương chiến công Giải phóng hạng nhất. Nhưng cũng trong trận này, tiểu đoàn 81 đã bị địch đánh hỏng một số khí tài. Toàn kíp chiến đấu bị thương vong. Sĩ quan điều khiển Lê Hồng Thịnh đã hy sinh trong tư thế hết sức dũng cảm, được truy tặng huân chương Chiến công hạng 2. Tiểu đoàn trưởng Phạm Sơn cũng bị thương trong trận này. Con đường vượt qua cửa ải thứ 3, đánh rơi B-52, đành phải tạm thời dừng lại.

Trong những ngày này, địch đang mở những chiến dịch lớn đánh phá Hà Nội. Tại đây, bọn không quân chiến thuật đã leo đến nấc thang cao nhất và hy vọng nhờ đó có thể tạo nên một cục diện mới trên chiến trường. Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh tập trung chỉ đạo cuộc chiến đấu bảo vệ Hà Nội. Tuy nhiên, các đồng chí vẫn không quên B-52. Phải chăng, ngay từ bấy giờ, với tầm nhìn chiến lược, các đồng chí đã thấy: sẽ có ngày chúng ta phải chạm trán với bọn B-52 trong một trận quyết chiến chiến lược. Đồng chí Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng thường xuyên hỏi về tình hình chiến đấu cảu 238. Chúng tôi báo cáo tình hình khó khăn mà trung đoàn đang gặp phải. Các tiểu đòan của trung đoàn đã tạm thời lui về tuyến sau củng cố. Đồng chí Tổng tham mưu trưởng chỉ thị:

1. Quân chủng tập trung mọi cố gắng trang bị lại cho 238, tiếp tục đưa 238 trở lại chiến trường Vĩnh Linh, kiên quyết đánh cho được B-52.
2. Tổ chức một đoàn cán bộ của quân chủng vào trực tiếp giúp trung đòan 238 đánh thắng B-52
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Chấp hành chỉ thị đó của đồng chí Tổng tham mưu trưởng, chúng tôi tập trung cố gắng để tổ chức cho tiểu doàn 84, tiểu đoàn 82 hành quân vào Vĩnh Linh. Mặc dầu lúc này 80% lực lượng tên lửa phải tập trung bảo vệ HN, nhưng vẫn dành cho trung đoàn 238 những bộ khí tài tốt nhất, số phụ tùng linh kiện điện tử có chất lượng nhất. Quân chủng còn cử những kỹ thuật viên, thợ sửa chữa tên lửa có tay nghề vững vào giúp trung đoàn sửa chữa và hiệu chỉnh khí tài nhằm đảm bảo hệ số kỹ thuật, hệ số chiến đấu cao nhất, phục vụ cho nhiệm vụ đánh thắng B-52. Khẩu hiệu: “Tất cả để đánh thắng B-52” từ lâu đã cháy bỏng trong lòng các cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 238, nay cũng bắt đầu trở thành một trong những khẩu hiệu hành động của các cơ quan quân chủng, đặc biệt là cơ quan tham mưu. Đã bắt đầu hình thành tổ nghiên cứu đánh B-52; tổ này có nhiệm vụ theo sát cuộc chiến đấu của 238, tổng hợp những kinh nghiệm bước đầu thu được ở chiến trường Vĩnh Linh để làm tài liệu tập huấn cho cán bộ chỉ huy. Lần này phòng tác chiến – huấn luyện tên lửa, phòng quân báo quân chủng đã cử những cán bộ có khả năng tham gia vào đoàn công tác quân chủng. Đoàn được đặt tên là đoàn công tác B. Do tầm quan trọng của công việc, Đảng ủy và Bộ tư lệnh quân chủng đề nghị Bộ Tổng tham mưu chấp thuận việc cử đồng chí Hoàng Văn Khánh, lúc bấy giờ là phó tư lệnh binh chủng tên lửa, dẫn đầu doàn công tác này.

Chiều ngày 11-8-1967, giữa lúc hàng trăm máy bay địch lao vào đánh phá HN, chúng tôi tiễn đồng chí Hoàng Văn Khánh lên đường. Anh Khánh vốn không được khỏe lắm. Những ngày đêm chiến đấu bảo vệ HN căng thẳng vừa qua đã làm căn bệnh dạ dày của anh phát triển thêm. Tuy nhiên, khi được giao nhiệm vụ vào tuyến lửa để chỉ đạo đánh B-52, anh Khánh như quên hết cả bệnh tật. Cũng như trung đoàn 238 trước đây, các đồng chí đoàn công tác B và 2 tiểu đoàn 82, 84 lại phải bắt đầu vượt qua 3 cửa ải; Hành quân đến nơi an toàn, trụ vững dưới bom đạn ác liệt và đánh thắng B-52. Ngày 13-8-1967, đoàn công tác B vào đến Vĩnh Linh an toàn. Trước đó 3 ngày, tiểu đoàn 84 đã từ Nghệ An vào tập kết xong ở khu tây Vĩnh Linh; 15 ngày sau, 25-8-1967, tiểu đoàn 82 cũng hành quân vào tập kết xong ở khu đông Vĩnh Linh. Trung đoàn 238 lúc này đang trong tình trạng hết sức phân tán, từ Hà Bắc đến Vĩnh Linh, chỗ nào cũng có quân. Theo lệnh của đồng chí Hoàng Văn Khánh, trung đoàn chuyển trọng tâm công tác vào khu vực Vĩnh Linh, tập trung chuẩn bị cho tiểu đoàn 84 triển khai đánh B-52, kịp thời nổ súng phối hợp với chiến dịch Đường 9. Ngày 23-8-1967, tiểu đoàn 84 chiếm lĩnh xong toàn bộ trận địa T3, đội 6 nông trường Quyết Thắng. Ngày 25-8-1967, chuẩn bị chiến đấu xong ba hệ, hai rãnh, ba đạn, nhưng không có đài radar P-12 vì máy nổ còn ở Quảng Bình chưa kịp kéo vào. 3h05 sáng ngày 26-8-1967, Mặt trân thông báo sẽ có B-52 ra đánh phá Vĩnh Linh. Vì không có radar P-12 nên sau khi nghe B-52 ném bom ở An Xá, Lò Môn, tiểu đoàn mới vào cấp 1, do đó đã bị lỡ thời cơ. Buổi chiều ngày 25-8-1967, có 5 lần RF-4 bay thấp theo hướng đông – tây qua khu vực trận địa. Tiếp đó, có một chiếc RF-101 bay qua lại trên khu vực trận địa 6 lần.
Có khả năng trận địa bị lộ.

Vấn đề đặt ra gay gắt lúc ấy là có nên di chuyển hay không. Ở vùng đất lửa này, mỗi việc đều phải cân nhắc hết sức thận trọng, đặc biệt là vấn đề trận địa. Nếu chưa lộ thì chẳng dại gì mà chuyển, đã tốn công sức mà biết đâu trong quá trình đi chuyển lại bị lộ. Nhưng nếu đúng là bị lộ, thì bằng bất cứ giá nào cũng không được chần chừ. Đây là vấn đề thành công và thất bại, là xương máu, là tính mạng của cán bộ, chiến sĩ. Đặc biệt lúc này, chúng ta chỉ có 1 tiểu đoàn 84 được giao nhiệm vụ đánh B-52, còn tiểu đoàn 82 ở phía đông, được dùng làm lực lượng dự bị. Đảng ủy trung đoàn nhận định: “Trận địa chưa bị lộ, tiếp tục ở lại chiến đấu, nếu rút ra sẽ bỏ lỡ thời cơ chiến đấu”. Quyết định đó thể hiện tinh thần tích cực đánh địch và đáp ứng đúng nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ nên được mọi người nhiệt liệt hưởng ứng. Vào lúc này, vai trò của bộ phận lãnh đạo và chỉ huy thực vô cùng quan trọng. Chỉ nghĩ đến tiến công địch, đi theo tình cảm của quân chúng, mặc dù là tình cảm rất chính đáng, rất đáng han nghênh, nhưng thiếu mất sự tỉnh tảo, sâu sắc trong phân tích âm mưu của kẻ thù thì sẽ không tránh khỏi có những tổn thất đáng tiếc.

Đồng chí Hoàng Văn Khánh có mặt trong cuộc họp đã gợi ý, nếu trận địa có khả năng bị lộ, cần rút ra chuẩn bị trận chiến đấu khác, thời cơ đánh B052 còn nhiều. Nhưng tập thể đảng ủy trung đoàn sau khi thảo luận thêm vẫn quyết định để tiểu đoàn 84 ở lại trận địa cũ. Các đồng chí cho rằng trận địa T3 này được chuẩn bị rất chu đáo, đảm bảo bí mật cao, hầu như không có một sơ xuất nào để kẻ dịch phát hiện được. Đã 3 hôm nay, sáng nào nah em cũng thức dậy từ 3 giờ sáng để thay lá ngụy trang cho trận địa, bộ phận nào cũng cử người đi kiểm tra đường ra, lối vào, sửa lại từng cành cây, ngọn cỏ. Rút kinh nghiệm những trận địa trước, đường hào dẫn khói từ máy nổ dài hơn 500m đã được làm theo hướng đi ngược lên, để khói không tụ lại ở một đoạn nào. Còn việc địch trinh sát thì ở đây là chuyện bình thường như ta ăn cơm, uống nước. Các đồng chí quên mất 1 chi tiết khá quan trọng là bọn RF-4 vừa trinh sát xong, thì bọn RF-101 lại đến. Phải có điều nghi vấn, chúng mới làm như thế. Trước tình hình đó, đồng chí Hoàng Văn Khánh đã trao đổi với đồng chí Nguyễn Cận, phó tư lệnh phòng không không quân khu 4. Thấy rằng lấy danh nghĩa cá nhân để bác nghị quyết tập thể đảng ủy cấp dưới là không hợp lệ, nên 2 người đã bàn nhau xin ý kiến của Thường vụ Đảng ủy Mặt trận. Nhưng rất tiếc hôm đó, đường dây bị trắc trở, không liên lạc được.

Thế rồi việc không may đã xảy ra.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
9h sáng ngày 26-8-1967, địch dùng từng chiếc F-4 thay phiên đánh tọa độ vào trận địa cũ của tiểu đoàn 81, nhưng do trận địa T3 của 84 cách trận địa cũ của tiểu đoàn 81 chỉ có 150m, nên ngay loạt đầu, bom đã rơi gần khu trung tâm của trận địa 84. Một quả nổ cách xa đài điều khiển 30m. Một quả nổ cách đạn tên lửa 4m. Tất cả 17 lọat bom tọa độ. Đài điều khiển bị chấn động mạnh, phải có thời gian điều chỉnh lại. Riêng ăng ten bị móp nhẹ, còn có thể chiến đấu được. Tất cả 3 quả đạn nằm trên bệ thì 1 quả hỏng hoàn toàn, 1 quả hỏng cánh nâng, chỉ còn 1 quả tốt. Đêm 26-8-1967, tiểu đoàn 84 được lệnh rút khí tài kéo đến địa điểm cất giấu để kiểm tra hiệu chỉnh lại, chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới. Đồng chí tiểu đoàn phó được cử ra nông trường Phú Quý (Quảng Bình) chỉ huy chở thêm đạn vào.

3h15 ngày 1-9-1967, B-52 tiếp tục kéo ra một đợt 9 chiếc. Lúc này đài radar vẫn chưa chữa xong. Tiểu đoàn vào cấp 1 theo tiếng bom. Cả 2 lần phát sóng đều bắt được mục tiêu bay ra.

4h30, tiểu đoàn được lệnh vào cấp 1. Sau khi phát sóng bắt được 2 chiếc ở độ cao 8km, cư ly 18km. Tiểu đoàn báo cáo lên trung đoàn không phải là B-52 mà có thể là máy bay cường kích. Lệnh trung đoàn là tiếp tục phát sóng, sục sạo để xác định. Do tư tưởng nôn nóng sau nhiều lẫn lỡ thời cơ, chấp hành mệnh lệnh máy móc, yếu lĩnh chống Shrike chưa tốt, nên sau lần phát sóng thứ 2, bắt được mục tiêu ở cự ly 10km, thì ngoài trận địa nghe 1 tiếng nổ rất đanh. Shrike địch rơi gần xe điều khiển, trắc thủ phương vị hy sinh, một số đồng chí khác bị thương, trong đó có tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn. Thế là tiểu đoàn 84 lại phải tạm ngừng chiến đấu khi chỉ mới bước vào cửa ải thứ 3.

Mặc dầu liên tiếp trong vòng 1 tuần bị đánh 2 lần vào trận địa, các chiến sĩ tiểu đoàn 84 vẫn không hề nao núng. Chôn cất những đồng chí thân yêu đã hy sinh xong, họ lại tiếp tục lao vào chuẩn bị cho những trận đánh mới. Lại làm đường, lại đào hầm. Để có 1 trận địa ở Vĩnh Linh có thể triển khai chiến đấu được phải tốn công sức gấp mấy chục lần một trận địa ở ngoài miền Bắc. Đó là chưa kể xương máu phải đổ xuống. Chính trong khi làm đường vào trận địa T3, đại đội phó công binh Nguyễn Văn Hỗ đã hy sinh vì một quả pháo của địch từ bờ nam sông Bến Hải bắn sang.

Lúc này, trung đoàn chủ trương chuyển nhiệm vụ đánh B-52 cho tiểu đoàn 82 ở khu đông. Nhưng sau khi phân tích mọi mặt, thấy tiếp tục đánh B-52 ở khu tây có lợi hơn, đoàn công tác B đã đề nghị trung đoàn điều xe điều khiển của 82 lên ghép với khí tài của 84 để tiếp tục chiến đấu.

Đêm 2-9-1967, xe điều khiển cùng với kíp chiến đấu của tiểu đoàn 82 gồm tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đình Phiên, sĩ quan điều khiển Lê Hỷ, trắc thủ góc tà Lê Hữu Dính, trắc thủ phương vị Trần Mạnh Hiến, trắc thủ cự ly Nguyên Văn Ngận đi đến ngã ba Hạ Cờ thì bị bom tọa độ. Trần Mạnh Hiến bị thương nhẹ, Lê Hữu Dính bị thương nặng và hy sinh. Sau khi đưa Dính đến nơi yên nghỉ cuối cùng, kíp chiến đấu lại tiếp tục lên đường.

Tiểu đoàn 84 tiếp tục triển khai chiến đấu. Lúc này, tiểu đoàn 84 thực ra là một tiểu đoàn ghép. Tiểu đoàn trưởng, sĩ quan điều khiển và toàn bộ kíp chiến đấu đều là của tiểu đoàn 82 điều sang. Đêm 13-9-1967, toàn bộ khí tài triển khai xong. Trời mưa rất to, nước ngập đến sàn xe. Hai đại đội công binh tập trung đào hào thoát nước cho trận địa. Do mưa, hầm ngập nước, độ ẩm cao, nên khi tài luôn luôn bị hỏng hóc. Bệnh này vừa chữa xong lại sinh ra bệnh khác. Các kỹ thuật viên, thợ sửa chữa thức suốt đêm bên máy. Toàn bộ kỹ thuật viên của trung đoàn được tung xuống tiểu đoàn 84. Toàn bộ linh kiện máy móc, kể cả những bóng đèn điện tử dự trữ cuối cùng trong kho của trung đoàn cũng được lệnh chuyển xuống tiểu đoàn 84. Tất cả cho trận đầu đánh thắng B-52.

Ngày 17-9-1967. Mưa đã ngớt, nhưng trời vẫn xấu, mây mù nhiều. Mặt trận không có thông báo B-52, nhưng đồng chí Hoàng Văn Khánh và ba chỉ huy trung đoàn nhận định: hôm nay có khả năng B-52 sẽ đánh. Sở chỉ huy trung đoàn cho radar P-12 của 2 tiểu đoàn 81, 82 thay nhau mở máy. Tiểu đoàn 84 được lệnh ngồi trên xe, vừa luyện tập, vừa sẵn sàng chiến đấu chờ địch.
17h đài quan sát trên đồi 74 báo về có tiếng động cơ F-102, tên cận vệ của B-52, hoạt động ở hướng đông và đông bắc.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
17h02, P-12 của tiểu đoàn 84 bắt được một tốp 3 chiếc B-52 ở phương vị 180. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đình Phiên nhìn thấy rõ tốp này trên màn hiện sóng của mình và xin lệnh đánh. Sở chỉ huy trung đoàn nhất trí. Sĩ quan điều khiển Lê Hỷ bật công tắc, phát sóng, bắt được 3 chiếc B-52 đi theo đội hình bậc thang ở cự ly 40km, phương vị 180, độ cao 11km. Trắc thủ góc tà Phạm Văn Ngoạn, trắc thủ góc phương vị Trần Hồng Thính, trắc thủ cự ly Nguyễn Văn Ngận đã ngồi sẵn trên xe trong tư thế luyện tập, chuyển sang chiến đấu một cách bình tĩnh, tự tin.
17h03, 2 quả đạn của tiểu đoàn 84 từ trận địa T5 thuộc địa phận nống trường Quyết Thắng bay lên, hướng về tốp B-52 đang lừng lững bay vào. Quả đạn thứ nhất phóng ở cự ly 31km, gặp mục tiêu ở cự ly 25km, nổ sau 39 giây. Quả đạn thứ 2 phóng ở cự ly 29km, gặp mục tiêu ở cự ly 23km, nổ sau 36 giây. Sau 2 tiếng nổ, mục tiêu bị xóa trên màn hiện sóng.

17h27, đài quan sát trên đồi 74 báo về nghe tiếng động cơ B-52. Trận địa chỉ còn lại 1 quả đạn. Tiểu đoàn báo cáo quyết tâm lên sở chỉ huy trung đoàn. Đồng chí Hoàng Văn Khánh lệnh đánh tiếp.
17h34, tốp máy bay B-52 thứ 3 tiếp tục vào. Tiểu doàn 84 phát sóng bắt được mục tiêu khi chúng đang bay ra. Tiểu đoàn trưởng hạ lệnh bắn đuổi. Sĩ quan chỉ huy ấn nút phóng. Các trắc thủ nhìn thấy rõ mục tiêu. Đạn có điều khiển tốt.

Mặt trận thông báo: 2 B-52 bị tiêu diệt.

Khuya hôm đó, tin tiểu đoàn 84 bắn rơi 2 B-52 về đến sở chỉ huy quân chủng. Sau đó, báo cáo với Bác. Sau khi nghe báo cáo, Bác đã gửi thư khen đồng bào, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân và cán bộ Vĩnh Linh (đăng trên báo Nhân Dân, số ra ngày 20-9-1967):
“Bác rất vui lòng được tin ngày 17-9-1967, Vĩnh Linh đã lập công xuất sắc, lần đầu bắn rơi 2 máy bay B-52 của giặc Mỹ. Thay mặt trung ương Đảng và Chính phủ, Bác đặc biệt gửi lời khen đồng bào, cán bộ và chiến sĩ Vĩnh Linh đã đánh giỏi, bắn trúng, chiến thắng vẻ vang. Vĩnh Linh thật xứng đáng là tiền tuyến anh hùng của miền Bacứ xã hội chủ nghĩa. Đồng bào, chiến sĩ và cán bộ Vĩnh Linh hãy phát huy truyền thống đoàn kết, anh dũng, kiên cường trong chiến đấu và sản xuất, giành nhiều thắng lợi hơn nữa…
Chào thân ái và quyết thắng
Bác Hồ”

Cùng ngày, Bác đã ký lệnh thưởng huân chương chiến công hạng Nhì cho tiểu đoàn 84./.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Đoàn 1 đặc công biệt động tập kích các can cú xuất kích của Không quân Mỹ tại Thái Lan

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đang ở giai đoạn quyết liệt thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải chịu một tổn thất vô cùng lớn lao. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân từ trần. Toàn thể cán bộ, chiến sĩ đặc công đang học tập, công tác, chiến đấu trên mọi miền đất nước, trên các chiến trường đều nghẹn ngào, không cầm nổi nước mắt khi nhận được tin đau thương này.

Với tấm lòng thành kính tiếc thương Bác vô hạn, cán bộ, chiến sĩ Binh chủng Đặc công nguyện biến đau thương thành hành động cách mạng, tiếp tục vượt qua gian khổ thử thách, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu và công tác. Lực lượng đặc công biệt động phía Tây đã gấp rút tiến hành mọi công tác chuẩn bị và thực hành tiến công mục tiêu. Sân bay T99 được S76 chọn làm mục tiêu tiến công trước.

Sau một thời gian điều tra, nghiên cứu, đồng chí Trần Thế Lại từ trong vùng địch đã ra cứ báo cáo tình hình mục tiêu Sân bay T99 được xây dựng từ năm 1956 tại đông nam thành phố UB, còn có tên gọi sân bay UB. Đến năm 1960, quân đội Mỹ đầu tư xây dựng mở rộng và nâng cấp thành căn cứ không quân chiến lược của Mỹ ở X, trong sân bay có 120 máy bay F4 và một số máy bay vận tải của liên đội không quân số 8 Mỹ, máy bay F4 có ụ bê tông che chắn, bảo vệ; máy bay vận tải đậu trên đường băng. Sân bay được bảo vệ rất cẩn mật, xung quanh có các lớp rào dây thép gai; bên trong hàng rào có hệ thống chiếu sáng bằng đèn pha, đèn cao áp; lực lượng bảo vệ thường xuyên tuần tra, canh gác cả ngày lẫn đêm.

Trên cơ sở nắm tình hình mục tiêu và khả năng của đơn vị, khả năng sử dụng của hành lang, bàn đạp... đơn vị dự kiến kế hoạch chiến đấu với ý định sử dụng tổ 5 người, đánh bằng phương pháp phá hủy bí mật.

Đầu tháng 4 năm 1969, đơn vị tổ chức đánh sân bay UB (T99) lần thứ nhất. Sau 14 ngày đêm vượt núi, luồn rừng toàn tổ tới vị trí tập kết cách sân bay 3 ki-lô-mét, triển khai đào hầm bí mật, đào tới gần sáng mới được một hầm nhưng chưa hoàn chỉnh, chưa sử dụng được, anh em phải tìm nơi ẩn nấp qua ngày, chờ đêm tiếp tục đào. Song, do chủ quan, sơ suất trong lúc đào hầm ta đổ đất xuống sông ngay bên cạnh làm đục nước, sáng hôm sau địch đi tuần lần ngược theo dòng nước đục lên tận chỗ hầm bí mật của ta. Vị trí đào hầm bị lộ, yếu tố bí mật không còn, tổ phải quay về, không thực hiện được trận đánh.

Đây là bài học sâu sắc về ý thức cảnh giác, giữ bí mật trong từng hành động khi làm nhiệm vụ chiến đấu trong hậu phương địch được cán bộ, chiến sĩ rút ra từ hoạt động thực tiễn của chính mình, ai cũng đều thấm thía, nghiêm túc kiểm điểm và khắc phục tính bất cẩn tai hại này.

Với quyết tâm phải đánh sân bay T99 (UB) bằng được, đồng chí Trần Thế Lại lập tức quay về thành phố kiểm tra, nắm tình hình mục tiêu xem địch có những phản ứng gì sau khi chúng phát hiện hầm bí mật của ta. Sau một tháng dò la bám nắm bằng các biện pháp nghiệp vụ, thu thập, khai thác các nguồn thông tin kết hợp với trực tiếp quan sát, phân tích. . . đồng chí đã ra báo cáo tình hình cho biết, những ngày đầu địch có đề phòng, tăng cường tuần tra, cảnh giới tại sân bay và tung các toán, tổ ra lùng sục những nơi khả nghi. Nhưng hiện nay mọi hoạt động tại sân bay đã trở lại bình thường, ta có thể tiếp tục tổ chức lại trận đánh, tuy nhiên cũng phải hết sức thận trọng, đề phòng địch hoạt động không theo quy luật. Đầu tháng 7 năm 1969, đơn vị tổ chức đánh sân bay lần thứ hai với kế hoạch chiến đấu dự kiến là đánh bằng phương pháp phá hủy bí mật, lực lượng sử dụng 4 người, do đồng chí Vũ Quang Vinh chỉ huy, đồng chí Trần Thế Lại đi cùng để chỉ đạo nhưng chỉ được ở vị trí tập kết, không trực tiếp vào chiến đấu tới mục tiêu, đề phòng bất trắc ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của cán bộ đơn tuyến trong vùng hậu địch. Sau khi có kế hoạch chiến đấu dự kiến, đơn vị đã điện báo cáo với Bộ tư lệnh và được Tư lệnh binh chủng đồng ý.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Được lệnh, cả tổ lên đường, lúc này đang là mùa mưa, nước ngập mênh mông, có những đoạn hành lang của đơn vị phải đi qua chỗ có nước sâu hàng mét. Sau 19 ngày đêm liên tục lội nước, luồn rừng, toàn tổ tới vị trí tập kết cách sân bay khoảng 2 giờ đi bộ, triển khai đào hầm. Cả tổ tập trung đào đến gần sáng thì hoàn thành, mọi người xuống hầm nghỉ ngơi chờ tối. 18 giờ ngày 26 tháng 7, tổ rời vị trí tập kết, bí mật vận động vào mục tiêu để trinh sát, đến gần sáng ngày 27 tháng 7 lại trở về vị trí tập kết để ẩn nấp và hoàn chỉnh kế hoạch chiến đấu.

17 giờ ngày 27 tháng 7, tổ xuất phát đi đánh mục tiêu. Sau 3 giờ đội mưa, vận động trong đêm tối, đường trơn như đổ mỡ, cả tổ phải vất vả lắm mới vào đến hàng rào ngoài cùng và bắt đầu khắc phục vật cản, vào đến hàng rào thứ hai phát hiện một lính Mỹ có cả chó đang canh gác chặn ngay phía trước, tổ phải vòng sang bên phải khoảng 15 mét tiếp tục chui rào vào bên trong, vượt qua bãi trống và vượt qua đường băng, tiềm nhập vào khu máy bay vận tải. Tại đây, ta nhìn thấy bãi đỗ máy bay phản lực cách đó khoảng 200 mét về phía nam, nhưng lúc này trong sân bay đèn sáng như ban ngày, ta không thể tiếp tục tiềm nhập. Tổ hội ý thống nhất chỉ đánh máy bay vận tải và cụm ra-đa, đồng chí Vinh cảnh giới, yểm trợ cho 2 đồng chí Thứ và Hồng đặt mìn nổ chậm vào mục tiêu, đặt xong ra ngay. Ra cách cửa mở khoảng 30 mét lại gặp một lính Mỹ dắt chó đứng ngay trước mặt (có lẽ tên này thay đổi vị trí gác), trong tích tắc đồng chí Vinh nổ súng diệt cả tên lính Mỹ lẫn chó, rồi nhanh chóng rời khỏi sân bay ra vị trí tập kết và vượt song vào sâu trong rừng ngay trong đêm để tránh địch truy đuổi Kết quả: phá hủy 2 máy bay vận tải, 1 cụm ra-đa; diệt một lính Mỹ và một chó.


Tuy trận đánh chưa đúng ý định, chưa trúng máy bay phản lực và hiệu suất chiến đấu cũng chưa thật cao nhưng ta đã thực hiện đúng theo kế hoạch, phá hủy được phương tiện chiến tranh của địch, cổ vũ được tinh thần của bộ đội hăng hái công tác và chiến đấu, quyết tâm giành thắng lợi lớn hơn trong những trận đánh tiếp theo. Đây là chiến công đầu diệt được địch của lực lượng đặc công biệt động tác chiến ở ngoại biên phía Tây. Qua trận đánh này, đơn vị cũng rút ra được những kinh nghiệm bổ ích cho cả chỉ huy và phân đội về công tác tổ chức cũng như thực hành chiến đấu trong vùng sâu.

Nhằm bám đánh sân bay được liên tục, đồng chí Trần Thế Lại được đơn vị S76 cử quay lại thành phố UB cùng đồng chí Bùi Văn Phương đang hoạt động tại địa bàn tổ chức nắm lại tình hình trong sân bay. Sau khi nghiên cứu nắm được một số tình hình, tháng 12 năm 1969, đồng chí Lại ra báo cáo cho biết, từ khi bị ta tiến công lần thứ hai (7.1969), địch đã phòng thủ sân bay cẩn mật hơn, hệ thống công sự, vật cản được tăng cường cả độ vừng chắc và tính hiểm hóc, bố trí thêm hệ thống chiếu sáng và các phương tiện nghe nhìn hiện đại, xây dựng thêm nhiều chòi canh, vọng gác... Đồng thời kiểm soát nhân dân xung quanh sân bay chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, với đặc điểm sân bay luôn ồn ào, hoạt động tuần tra, canh gác lặp đi lặp lại triền miên, binh lính căng thẳng, mệt mỏi, hơn nữa là sau một thời gian tương đối dài không thấy xuất hiện dấu hiệu nào đe dọa đến an ninh, nên địch cũng đã có phần chủ quan, sơ hở. Hành lang bàn đạp của ta vẫn an toàn, vững chắc, nếu ta trinh sát nắm thật chắc tình hình bên trong sân bay thì vẫn có thể tổ chức đánh tiếp được.

Trên cơ sở phân tích những nét cơ bản về tình hình sân bay, đơn vị quyết định đánh T99 lần thứ ba với ý định chiến đấu được dự kiến là đánh bằng phương pháp phá hủy bí mật, nhưng quá trình tiềm nhập bị lộ thì thọc sâu chiến đấu Điều này thể hiện ý chí quyết tâm của đơn vị rất cao. Lực lượng tham gia trận đánh có 8 người, tổ chức thành một mũi chia làm 3 tổ, do đồng chí Mai Văn Mậu chỉ huy chung. Tổ 1 có hai đồng chí Mai Văn Mậu và Trần Thế Lại, nhưng đồng chí Lại có nhiệm vụ chỉ vào đến vị trí tập kết, rồi vào ngay thành phố để bắt liên lạc và giao nhiệm vụ cho đồng chí Bùi Văn Phương tham gia chiến đấu trận này. Tổ 2 có bốn người do đồng chí Vinh phụ trách, đánh máy bay. Tổ 3 có hai người do đồng chí Dung phụ trách, đánh kho xăng.

Sau khi điện báo cáo Bộ tư lệnh, anh em lên đường, mặc dù đường xa, mang vác nặng, nhưng đang là mùa khô, hành quân có thuận lợi hơn, chỉ sau 12 ngày đêm cả mũi đã đến vị trí tập kết cạnh một đầm nước lớn cách sân bay khoảng 2 giờ đi bộ. Đêm 12 tháng 1 năm 1970, đồng chí Phương từ thành phố ra đón cán bộ chỉ huy tổ, mũi vào trinh sát mục tiêu, rạng sáng ngày 13 tháng 1, toán trinh sát về vị trí tập kết ẩn nấp và hoàn chỉnh phương án chiến đấu Đêm 13 tháng 1, thực hành chiến đấu, hai đồng chí Mậu và Phương vào đến hàng rào, quay ra hầm bí mật ở vị trí tập kết, các tổ 2 và 3 khắc phục vật cản để luồn vào bên trong, khi đến hàng rào cuối cùng, tổ đánh kho xăng bị lộ, đồng chí Vinh bị thương vào cánh tay không thể trườn vào được phải quay ra. Lập tức ngay sau đó tổ đánh máy bay cũng bị lộ, địch bắn chặn dữ dội, nhưng theo kế hoạch chiến đấu đã hiệp đồng cả 5 đồng chí kiên quyết thọc sâu, hướng thẳng mục tiêu táo bạo xông lên. Song, vì quãng đường thọc sâu từ cửa mở đến mục tiêu còn quá xa, lại trống trải, đạn địch bắn xối xả, cả 5 đồng chí đã anh dũng hy sinh ngay tại sân bay. Còn đồng chí Vinh cố lết ra khỏi sân bay, dừng lại tự xử lý vết thương, rồi ra đến vị trí tập kết được các đồng chí Mậu và Phương đưa về căn cứ.

Trận đánh không thành công lại thương vong lớn, có thể được coi là lớn nhất đối với lực lượng đặc công biệt động ở phía Tây kể từ khi bước vào hoạt động đến thời điểm này. Nguyên nhân của nó đã được đơn vị nghiêm khắc kiểm điểm, thống nhất kết luận là do nắm tình hình mục tiêu không chắc, nhất là sau lần bị tập kích hồi tháng 7 năm 1969, địch đã có những thay đổi lớn về thủ đoạn và biện pháp đối phó. Nhưng, ta trinh sát mục tiêu để hoàn chỉnh phương án chiến đấu chỉ dừng lại ở hàng rào ngoài cùng, không vào trinh sát bên trong, không thực hiện được yêu cầu "mắt thấy, tai nghe, tay sờ” do đó đã không nắm được những thay đổi của địch một cách cụ thể, hoàn toàn không biết những hoả điểm ngầm, những ổ đề kháng và các vị trí canh gác bí mật địch mới tổ chức. Nếu trinh sát mục tiêu được thực hiện chu đáo, có kết quả cụ thể, thiết thực thì phương án thực hiện trận đánh đã được điều chỉnh phù hợp, có thể thay đổi mục tiêu, hướng, đường đột nhập, thậm chí có thể tạm hoãn trận đánh để chuẩn bị cho trận khác với cách đánh khác, tối ưu hơn thì chắc chắn kết quả sẽ khác nhiều so với trận đánh này.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
.....

Do yêu cầu giữ bí mật, ngày 7 tháng 11 năm 1970, Đoàn S76 được đôi phiên hiệu thành Tiểu đoàn 1A. Bộ tư lệnh Binh chủng điều đồng chí Nguyễn Thanh Tùng sang làm Tiểu đoàn trưởng thay đồng chí Mai Văn Mậu về nước do yếu sức khoẻ. Đồng chí Lê Toàn - nguyên Chính trị viên Đoàn S76 tiếp tục giữ chức chính trị viên Tiểu đoàn 1A.

Lực lượng của Tiểu đoàn lúc này có 2 đội chiến đấu, một đội hậu cứ và một phân đội trinh sát. Đội S56 hoạt động tác chiến trong nội địa nước bạn, Đội S48 hoạt động tác chiến ngoại biên, bám đánh các sân bay UB (T99) và UT (T90). Đội S48 tổ chức thành 3 phân đội, đó là Phân đội 1 chuyên về công tác hành lang, bàn đạp; Phân đội 2 chiến đấu; Phân đội 3 làm dự bị cơ động.

...........


Đồng thời với đánh địch trong nội địa nước bạn, Tiểu đoàn la cũng tích cực đẩy mạnh các hoạt động bám nắm mục tiêu, khẩn trương tiến hành mọi công tác chuẩn bị, sẵn sàng tiến công các sân bay quân sự lớn của Mỹ trên đất X. Theo chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu và Bộ tư lệnh Binh chủng Đặc công, mục tiêu tiến công của đơn vị lần này là sân bay T90. Đây là một sân bay quân sự được xây dựng từ năm 1952 tại một tỉnh ven biển miền Trung của X còn có tên gọi là sân bay UT, năm 1968, quân đội Mỹ đầu tư xây dựng thành một căn cứ không quân chiến lược để sử dụng trong chiến lược quân sự của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Trước mắt, sân bay được sử dụng cho máy bay chiến lược B52 của Mỹ xuất phát đi đánh phá Việt Nam và Lào, đặc biệt là trong mưu đồ dùng sức mạnh quân sự để gây sức ép với ta tại Hội nghị Pa-ri, Mỹ sẽ sử dụng sân bay này làm nơi xuất phát của không lực Hoa Kỳ đi đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh miền Bắc Việt Nam. Sân bay cách căn cứ của Tiểu đoàn hàng nghìn ki-lô-mét, lại được bảo vệ rất cẩn mật bằng nhiều tầng, nhiều tuyến với nhiều lực lượng cả quân đội Mỹ lẫn quân đội của X. Ta không thể sử dụng lực lượng từ căn cứ vào đánh, mà phải sử dụng lực lượng nhỏ đang hoạt động "hợp pháp" tại chỗ mới có điều kiện tiếp cận, điều nghiên và tiến công mục tiêu.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Để đánh sân bay này, tháng 5 năm 1971, đồng chí Lê Toàn - Chính trị viên tiểu đoàn cùng với tổ hành lang vượt biên giới sang K, rồi từ K lên sát biên giới K - X, trực tiếp bắt liên lạc và giao nhiệm vụ cho bộ phận hoạt động "hợp pháp" trong thành phố. Đồng chí Trần Thế Lại - Chỉ huy bộ phận "hợp pháp" ra nhận nhiệm vụ.

Sau khi nắm chắc nhiệm vụ được giao, đồng chí Lại quay ngay vào UB bắt liên lạc và giao nhiệm vụ cho đồng chí Bùi Văn Phương chuẩn bị vị trí cất giấu vũ khí. Tháng 7 phải chuẩn bị xong để ra nhận vũ khí do bộ phận hành lang chuyển từ căn cứ vào cất giấu tại một địa điểm có hẹn trước bằng những quy ước mật. Tháng 8, các đồng chí Lại và Phương vào UT để nghiên cứu nắm tình hình sơ bộ về mục tiêu và kiểm tra lại vị trí cất giấu vũ khí do các đồng chí Phương và Liên (một cơ sở tin cậy) đã chuẩn bị. Tháng 10, đồng chí Phương ra điểm hẹn, đưa vũ khí vào cất giấu tại vị trí đã chuẩn bị.

Cũng trong tháng 10 năm 1971, đồng chí Vũ Công Đài được lệnh vào khu vực gần mục tiêu bắt liên lạc với đồng chí Phương. Hai người đã gặp nhau tại một khách sạn, bàn bạc thống nhất kế hoạch, nội dung, phương pháp trinh sát mục tiêu từ ngày 5 đến ngày 9 tháng 11. Sau 5 ngày điều nghiên, đi lại bằng nhiều phương tiện, nhiều lần, cải trang trong nhiều "vai", trực tiếp quan sát nhiều lần cả ban đêm và ban ngày, hai đồng chí đã nắm được tình hình cụ thể ở sân bay, biết rõ quy luật hoạt động và các thủ đoạn đối phó của địch, kết luận được điểm mạnh, yếu và nơi sơ hở của địch... Qua đó đã dự kiến được phương án chiến đấu với ý định là tiến công sân bay bằng phương pháp phá hủy bí mật bằng thủ pháo nổ chậm, nếu lộ thì chuyển sang đánh nổ ngay. Hai đồng chí Phương và Đài, là người trực tiếp điều nghiên, làm mọi công tác tổ chức chuẩn bị và cũng là người thực hành trận đánh và đồng chí Phương là chỉ huy. Hướng đột nhập được xác định là từ hướng đông, khắc phục vật cản, rồi tiềm nhập vào sân bay. Về trang bị và vũ khí, sử dụng 10 quả thủ pháo loại 0,4 ki-lô-gam bằng chất nổ mạnh C4 và 2 quả lựu đạn, đã được cất giấu tại vị trí quy định; một số loại vũ khí và trang bị còn thiếu tổ sẽ đề nghị Tiểu đoàn để mua thêm cho đáp ứng cho nhu cầu của trân đánh.

Cũng vào thời gian này, Tiểu đoàn la được Bộ tư lệnh Binh chủng chấn chỉnh tổ chức biên chế, nên quân số cũng có những biến động nhất định. Tháng 6 năm 1971, Bộ tư lệnh Binh chủng điều một số cán bộ, chiến sĩ được huấn luyện kỹ nghiệp vụ hoạt động, thông thạo ngôn ngừ nước sở tại từ Tiểu đoàn đặc công biệt động 1 ở miền Bắc Việt Nam sang bổ sung cho Tiểu đoàn 1A. Tháng 8 năm 1971, Đội S4 đang hoạt động ở chiến trường được điều về nước trực thuộc Tiểu đoàn đặc công biệt động 1 để củng cố và huấn luyện. Tháng 11, Bộ tư lệnh Binh chủng điều tiếp 31 cán bộ, chiến sĩ từ Tiểu đoàn đặc công biệt động 1 sang bổ sung cho Tiểu đoàn 1A.

Sau khi trinh sát mục tiêu, xây dựng được phương án chiến đấu, cuối tháng 12 năm 1971, hai đồng chí Lại và Phương ra cứ báo cáo với chỉ huy Tiểu đoàn. Phương án chiến đấu và những kiến nghị của tổ hoạt động “hợp pháp" được Tiểu đoàn đồng ý; đồng thời điện về Bộ tư lệnh Binh chủng xin chỉ thị. Đồng chí Tư lệnh Binh chủng đã biểu dương kết quả nghiên cứu mục tiêu và công tác tổ chức chuẩn bị chiến đấu của đơn vị, đồng chí chỉ thị cho Tiểu đoàn động viên anh em tiếp tục tập trung nỗ lực, khắc phục khó khăn, cố gắng thực hiện thắng lợi trận đánh với hiệu suất chiến đấu cao nhất.

Đầu tháng 1 năm 1972, hai đồng chí Lại và Phương trở về thành phố. Đồng chí Phương tìm gặp đồng chí Đài, cả hai cùng đi mua thêm hai khẩu súng côn Mỹ, hai bộ quần áo ngụy trang và một số vật chất khác để bảo đảm cho trận đánh đã được Tiểu đoàn cho phép.

Trưa ngày 9 tháng 1 năm 1972, hai đồng chí Phương và Đài cùng đi xe xuống khu vực mục tiêu. 19 giờ cùng ngày đã lấy xong vũ khí, trang bị tại vị trí cất giấu. Sau khi quan sát nắm tình hình địch, cả hai vận động về phía mục tiêu, tiến hành khắc phục vật cản. Tại đây, gặp một số khó khăn do hàng rào cao đến 2 mét làm bằng dây thép gai loại 0,3 cen-ti-mét rất cứng, ta chỉ mang theo kéo cắt dây thép loại nhỏ, không thế cắt được, nên phải luồn lách qua, trong khi đó chiều sâu hệ thống vật cản lại lớn với nhiều lớp rào các loại, dưới hệ thống các loại bóng điện cả khu vực sang như ban ngày; hai anh mất khá nhiều thời gian và vất vả lắm với luồn qua được các lớp rào vào bên trong, vượt qua đường tuần tra của địch, vào cách nơi đỗ máy bay khoảng 300 mét thấy 3 xe ô tô chạy vào bãi đỗ máy bay và 2 lính địch đi thẳng từ bên trong ra hướng tiềm nhập của ta, các anh phải vòng tránh, tiềm nhập theo đường khác. Vào đến gần máy bay, chỉ còn cách độ 50 mét thì bị địch phát hiện và nổ súng. Trong tích tắc, đồng chí Phương tung ngay quả lựu đạn về phía địch, lựu đạn không nổ nhưng địch cũng hốt hoảng bỏ chạy, tranh thủ lúc địch bỏ chạy, hai đồng chí xông lên đánh ngay. Đồng chí Phương đánh hết thủ pháo đã chạy sang chỗ đồng chí Đài lấy thêm thủ pháo đánh tiếp. Hết thủ pháo, đồng chí Phương ra lệnh rút, quá trình rút mỗi người chạy theo một đường, đồng chí Đài chạy ra hướng cửa mở, đồng chí Phương chạy tắt qua khu kho bom, vượt rào ra ngoài thì nghe thấy nhiều tiếng súng ở hướng rút của đồng chí Đài. Kết quả, ta phá hủy, phá hỏng 8 máy bay B52; khi rời khỏi trận đánh, đồng chí Đài hy sinh tại cửa mở.

Với tinh thần dũng cảm, trí thông minh sáng tạo và ý chí quyết chiến, quyết thắng, tổ chiến đấu đã vượt qua được khó khăn thử thách, gian khổ và nguy hiểm, đánh trúng lực lượng không quân chiến lược của Mỹ tại căn cứ xuất phát đi đánh phá miền Bắc Việt Nam. Trận đánh T90 là đòn trừng trị đích đáng quân xâm lược Mỹ và phối hợp rất kịp thời có hiệu quả với quân và dân cả nước trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Trong trận đánh vào T90, ta dùng lực lượng nhỏ và vũ khí gọn nhẹ đánh vào một căn cứ lớn của Mỹ đạt hiệu suất cao. Đây là trận đánh rất táo bạo, linh hoạt. Lúc yếu tố bí mật không còn nữa, các chiến sĩ đặc công đã phán đoán và xử trí đúng tình huống, triệt để tận dụng thời cơ tiến công địch, không vì lộ mà vội vã rút lui. Thắng lợi của trận T90 còn là kết quả của công tác chuẩn bị công phu và là điển hình của cách đánh táo bạo, quả cảm, thông minh, trong đó vai trò người chỉ huy trực tiếp có ý nghĩa quan trọng, quyết định thắng lợi của trận đánh. Trận đánh T90 là chiến công xuất sắc của Tiểu đoàn 1A, đơn vị được thưởng Huân chương Quân công hạng ba.

Cả ba đồng chí chiến đấu và phục vụ chiến đấu (Đồng chí Trần Thế Lại – Chỉ huy bộ phận “hợp pháp”, trực tiếp tổ chức trận đánh. Đồng chí Bùi Văn Phương và đồng chí Vũ Công Đài trực tiếp thực hiện trận đánh) được thưởng Huân chương Chiến công hạng nhì. Đơn vị và ba đồng chí đều được đề nghị tặng thưởng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Tháng 5 năm 1972, Đoàn A54 đến chiến trường dừng chân ở Huội Lạ, Phôn Tọng thuộc tỉnh Viên Chăn (Bắc Lào). Sau khi ổn định vị trí đứng chân, Đoàn triển khai ngay công tác chuẩn bị chiến đấu với nhiệm vụ cụ thể là nghiên cứu, bám, nắm và tiến công sân bay 372 ở UĐ (còn có tên là sân bay UĐ), nơi xuất phát của không quân Mỹ đi đánh phá tuyến vận chuyển chiến lược Bắc - Nam và đánh phá các tỉnh miền Bắc của ta.

Vào thời điểm này, ở chiến trường miền Nam Việt Nam, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của ta đang vào giai đoạn quyết liệt. Sau những thắng lợi dồn dập của quân và dân ta, quân đội Sài Gòn bị mất nhiều địa bàn quan trọng, lực lượng và phương tiện chiến tranh bị tiêu hao lớn. Nhưng với bản chất *********, chúng vẫn ngoan cố giành giật với ta, nhằm tái chiếm những vùng đã mất, tổ chức những cuộc phản công quy mô lớn đã gây cho ta những tổn thất không nhỏ, địa bàn, trận địa ở nhiều nơi bị thu hẹp.

Trước tình hình đó, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã có những chỉ đạo sát sao, hướng dẫn các đơn vị. Đặc biệt là đối với các đơn vị ở chiến trường Quảng Trị - Thừa Thiên, Quân ủy Trung ương đã cử phái viên trực tiếp vào chiến trường giúp Bộ tư lệnh chiến dịch tổ chức phòng ngự thị xã Quảng Trị.

Để phối hợp với chiến trường chính, Tiểu đoàn 1A tổ chức tiến công sân bay T99 (UB) lần thứ sáu. Lực lượng tham gia trận đánh có 1 tổ trực tiếp chiến đấu và 1 tổ hành lang. Sau 16 ngày đêm hành quân, đêm 3 tháng 6 năm 1972, ta tiếp cận được sân bay, tiến hành khắc phục vật cản, luồn qua các lớp rào vào bên trong. Lúc đang chuẩn bị vượt đường băng thì bị địch phát hiện, nổ sung làm ta hy sinh 1 chiến sĩ, toàn sân bay báo động. Tình huống rất gay cấn, yếu tố bí mật không còn, nổ súng chiến đấu thọc sâu thì không thể vì từ đây đến vị trí máy bay đỗ còn khá xa, hoả lực địch rất dày, lại tập trung đúng hướng ta tiềm nhập, ta phải nhanh chóng rời khỏi, không thực hiện được ý định của trận đánh. Trên đường hành quân về căn cứ, tổ lại lọt vào ổ phục kích của địch, 1 chiến sĩ hy sinh và 2 chiến sĩ bị thương.

Cũng trong thời gian này, tại một hướng khác trên chiến trường phía Tây, Đoàn đặc công biệt động A54 đang khẩn trương tích cực đẩy mạnh hoạt động tác chiến. Tháng 7 năm 1972, Đoàn sử dụng 23 cán bộ, chiến sĩ biên chế thành một tổ soi đường và một tổ bảo đảm hậu cần đến đứng chân tại một địa điểm cách căn cứ của Đoàn khoảng 50 ki-lô-mét, sát với đất X. Từ đây, tổ soi đường tiến hành nghiên cứu tình hình, mở hành lang vào khu vực sân bay 372 (UĐ), trong điều kiện ta chưa có cơ sở, chưa hiểu biết nhiều về tình hình địa bàn, hành lang lại dài phải đi qua nhiều loại địa hình phức tạp, địch hoạt động mạnh, nên quá trình thực hiện nhiệm vụ vô cùng gian khổ.

Cuối tháng 7, tổ soi đường gồm các đồng chí Túc, Nga, Kính và Xướng bí mật vượt sông, luồn rừng nhằm hướng sân bay để đi nhưng đi được 15 ngày, hết lương thực phải quay về. Đầu tháng 8, tổ lại tiếp tục đi soi đường lần thứ hai, lần này tổ bảo đảm gồm các đồng chí Khải, Cấp và Mão đã mang theo đủ lương thực, tiếp tế kịp thời cho tổ soi đường (Lần trước, tổ bảo đảm ở bên này biên giới). Cuối cùng tổ soi đường cũng liên lạc được với lực lượng cách mạng X, được bạn tạo điều kiện, giúp đỡ, dẫn đường tới gần khu vực mục tiêu.

Tuy hành lang mới hình thành, chưa hoàn chỉnh nhưng với ý chí quyết tâm tiến công tiêu diệt địch càng sớm càng tốt Đoàn quyết định đánh sân bay 372 (UĐ). Kế hoạch thực hiện là quá trình trinh sát mục tiêu, đưa đội hình chiến đấu đi theo, trinh sát đến đâu hoàn chỉnh ngay phương án chiến đấu tới đó, nếu thời cơ cho phép sẽ thực hành đánh ngay.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Để rút ngắn cự ly đường hành lang từ căn cứ đến khu vực mục tiêu và bảo đảm cho việc chỉ huy được trực tiếp, cuối tháng 8, Đoàn tổ chức một đội gồm 10 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Đào Đức Hạnh - Đoàn trưởng chỉ huy vượt biên giới, luồn rừng bí mật vào đứng chân tại một căn cứ của lực lượng cách mạng X (căn cứ 07). Khi gần tới căn cứ, các đồng chí Chương, Mão và một người của lực lượng cách mạng X tên là Phôm-nít dẫn đường quay lại để đón hai đồng chí Vinh và Khuê ở phía sau vào bổ sung, nhưng không gặp hai đồng chí đó, chỉ đón được đồng chí Căn - quân y sĩ. Do hai người phía sau không lên được, để thêm quân số chiến đấu, đồng chí Chương là người được tổ chức phái vào UĐ để xây dựng cơ sở, hoạt động điều nghiên nắm địa bàn, mục tiêu cũng được bổ sung ngay vào đơn vị để trực tiếp chiến đấu.

Trong tháng 9 năm 1972, đơn vị tiến hành trinh sát tạo hành lang, bàn đạp từ căn cứ của lực lượng cách mạng X đến mục tiêu, xác định được vị trí tập kết và nắm được một số tình hình mục tiêu, chủ yếu là tình hình ngoại vi, xác định được đường, hướng đột nhập.

Thực hiện chỉ thị của Tư lệnh binh chủng, đầu tháng 10, đơn vị cơ động vào vị trí tập kết, hoàn chỉnh mọi công tác chuẩn bị lần cuối để kịp thời tiến công phá hủy máy bay trước khi chúng xuất phát đi đánh phá miền Bắc Việt Nam nhằm gây sức ép với ta tại Hội nghị Pa-ri.

Tại vị trí tập kết cuối cùng, ngày 1 tháng 10, đơn vị vận động tiếp cận mục tiêu. Đồng chí Hạnh và một số đồng chí ở lại vị trí tập kết, đồng chí Chương và anh Phôm-nít (người của lực lượng cách mạng X) đi trước dẫn đường, đồng thời làm nhiệm vụ cảnh giới phía trước, trường hợp bất ngờ gặp dân, không thể tránh được thì phải giữ lại để đảm bảo bí mật trận đánh. Cơ động trong lúc mưa to, gió lớn trời rất tối nên gần sáng ngày 2 tháng 10 mới tới được gần sân bay, đơn vị phải phân tán ra ẩn nấp chờ tối vào trinh sát mục tiêu. Lúc này, một vấn đề thực tế đặt ra đòi hỏi đơn vị phải cân nhắc xử lý; đó là theo nhiệm vụ chỉ huy Đoàn giao, sau khi trinh sát xong phải ra vị trí tập kết báo cáo kết quả, thống nhất phương án mới thực hành đánh nhưng đợi đêm trinh sát xong mới ra báo cáo thì sẽ mất thời cơ chiến đấu vì đường từ mục tiêu ra vị trí tập kết rất phức tạp và nguy hiểm, trinh sát xong có thể không đủ thời gian ra vị trí tập kết rồi quay vào mục tiêu để tiến hành trận đánh. Cuối cùng, anh em bàn bạc, thống nhất để một bộ phận ở lại trinh sát mục tiêu. Cử các đồng chí Kính, Xướng, Chương và anh Phôm-nít dẫn đường ra vị trí tập kết báo cáo, lấy thêm vũ khí rồi quay vào đúng lúc mục tiêu được trinh sát xong là thực hành tiến công luôn. Sau khi nghe đồng chí Chương báo cáo tình hình và kế hoạch chiến đấu dự kiến của Đội là vận dụng phương pháp phá hủy bí mật bằng mìn nổ chậm, nếu bị lộ chuyển sang đánh nổ ngay. Lực lượng sử dụng 8 đồng chí chia thành 3 tổ Trong đó, tổ mở cửa và bảo vệ cửa mở 2 đồng chí; tổ đánh phá máy bay 4 đồng chí và tổ đánh kho xăng 2 đồng chí. Chỉ huy Đoàn nhất trí phương án của Đội và giữ đồng chí Chương ở lại vị trí tập kết. Hai đồng chí Kính và Xướng quay lại mục tiêu bắt liên lạc với bộ phận trinh sát, thống nhất lại phương án lần cuối rồi thực hành trận đánh.

Tối 2 rạng ngày 3 tháng 10, hai tổ chiến đấu tiềm nhập vào sân bay, tổ mở cửa triển khai bảo vệ đầu cầu và chờ đón hai tổ chiến đấu. Theo hiệp đồng, sau khi cài, đặt lượng nổ, mìn hẹn giờ vào mục tiêu xong, cả hai tổ phải ra ngay để kịp rời khỏi sân bay trước khi trời sáng nhằm tránh thương vong khi lượng nổ, mìn phát tác và tránh địch truy đuổi. Nhưng tổ mở cửa chờ mãi không thấy hai tổ chiến đấu bên trong ra, trong khi đó đã quá giờ hiệp đồng và trời cũng sắp sáng.

Trước diễn biến đó, tổ bảo vệ cửa mở triển khai ém gần hơn vào các mục tiêu ở đầu cầu, sẵn sàng tiêu diệt để tạo điều kiện cho tổ đánh sân bay rút ra, nhưng chờ mãi không thấy. Cuối cùng tổ bảo vệ cửa mở phải rút vì trời bắt đầu sáng, nếu tiếp tục chờ sẽ phát sinh tình huống khác, bất lợi thêm. Ra tới ngoài, cách mục tiêu khá xa vẫn nghe tiếng súng nổ liên hồi. Lúc này, tại vị trí tập kết, chỉ huy trận đánh nóng lòng chờ đón tiếng nổ nhưng mãi không thấy động tĩnh gì. Chờ tới 10 giờ ngày 3 tháng 10, tổ đánh kho xăng và tổ mở cửa gồm các đồng chí Cấp, Tăng, Túc, Khải về đến vị trí tập kết, còn tổ đánh máy bay gồm các đồng chí Nga, Kính, Lãm, Xướng chưa ra được. Chỉ huy trận đánh đã cử đồng chí Chương và anh Phôm-nít cải trang thành thường dân quay lại mục tiêu tìm kiếm các đồng chí chưa ra được. Hai người đã vào sát hàng rào, gần vị trí cửa mở nhưng cũng không thấy ai và không nắm được thêm tình hình gì.

Kết quả trận đánh, ngay sau khi trận đánh kết thúc, ta chưa biết được kết quả cụ thể. Sau một thời gian khá dài, thông qua các nguồn thông tin nhiều chiều kết hợp với tin của cơ sở, ta mới biết được 3 đồng chí Phan Xuân Kính, Phạm Văn Lãm và Vũ Công Xướng hy sinh ngay tại sân bay; đồng chí Nguyễn Khắc Nga bị thương nặng và bị bắt. Về phía địch có hàng chục máy bay bị phá hủy. Ngoài ra, không biết được gì thêm do thông tin bị địch bưng bít. Trận đánh được thực hiện đúng thời cơ, đánh trúng mục tiêu. Đơn vị được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhì và được đề nghị tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 7 cán bộ, chiến sĩ được thưởng Huân chương Chiến công.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Trên hướng hoạt động và tác chiến của Tiểu đoàn 1a vào thời điểm này gặp rất nhiều khó khăn, sân bay T99 (UB) bị tiến công nhiều lần, địch đã tăng cường bảo vệ an ninh bằng nhiều biện pháp. Trong đó, chống đột nhập phá hoại được chúng đặc biệt coi trọng, tăng cường thêm lực lượng bảo vệ trực tiếp, tổ chức thêm nhiều vọng gác mới, có cả những vị trí gác bí mật ngay tại hàng rào; bố trí thêm hệ thống vật cản, tăng tính phức tạp và hiểm hóc kết hợp với hệ thống chiếu sáng nhiều và mạnh... Do vậy, ta khó có thể đột nhập vào mục tiêu thực hiên trận đánh như những năm trước đây. Nhưng với tinh thần cách mạng tiến công, nung nấu ý chí quyết tâm phải phá hủy phương tiện chiến tranh của địch càng nhiều càng tốt, cán bộ, chiến sĩ đặc công biệt động phía Tây đã không chịu bó tay trước những thủ đoạn đối phó mới của địch. Cách đánh tập kích hoả lực được lãnh đạo, chỉ huy Tiểu đoàn đưa ra nghiên cứu, bàn bạc và quyết tâm vận dụng. Song một thực tế rất khó khăn đặt ra đối với Tiểu đoàn lúc này là trong tay chỉ có một số súng bộ binh, còn lại các loại mìn, thủ pháo... không có bất kỳ loại vũ khí nào thích hợp cho trận tập kích hoả lực.

Trước tình hình đó, đồng chí Lê Toàn - Chính trị viên Tiểu đoàn cùng đồng chí Nguyễn Bá Do và một số đồng chí khác đã bí mật sang K gặp Bộ tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam đề nghị chi viện vũ khí. Tại đây, đồng chí Đồng Văn Cống - Tư lệnh mặt trận, người rất tâm huyết với Bộ đội Đặc công và cách đánh đặc công trên các chiến trường, đồng chí phấn khởi biểu dương tinh thần chủ động, sang tạo trong hoạt động và tác chiến của lực lượng đặc công biệt động phía Tây và quyết định cấp ngay vũ khí theo đề nghị của Tiểu đoàn la. Số vũ khí này gồm 2 súng cối 82 mi-li-mét, 2 cơ số đạn, 200 thủ pháo tay và một số vật chất chiến đấu khác được xếp lên 13 xe bò do đồng chí Nguyễn Bá Do phụ trách tổ áp tải vận chuyển về căn cứ của Tiểu đoàn. Khi về gần tới biên giới bị lực lượng biên phòng K chặn lại, đòi thu toàn bộ vũ khí, ta phải nhờ đến Tỉnh đội của bạn can thiệp, số vũ khí này mới được giải quyết cho qua biên giới, sau đó lại phải ngụy trang, nghi trang luồn lách qua nhiều khu vực có các lực lượng *********, thổ phỉ hoạt động. Cuối cùng, phải vất vả lắm số vũ khí này mới đưa được về đến căn cứ, đây cũng là một chiến công về ý chí, tinh thần, quyết tâm vượt qua mọi gian khổ và hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1A.

Sau khi có vũ khí, Tiểu đoàn tổ chức thực hiện ngay trận đánh bằng phương pháp tập kích hoả lực, ngày 2 tháng 10, một đội của Tiểu đoàn gồm 27 người tổ chức thành hai bộ phận, trong đó bộ phận trực tiếp chiến đấu có 13 người, 1 súng cối 82 mi-li-mét, 40 quả trận, do đồng chí Nguyễn Công Mùi chỉ huy cơ động tiếp cận, tiến công sân bay T99 (UB) lần thứ 7. Đang là mùa mưa, hành quân mang vác nặng đi qua nhiều loại địa hình phức tạp trong điều kiện huấn luyện cũng đã vất vả, ở đây đơn vị lại hành quân chiến đấu phải bí mật luồn lách qua các tuyến bố trí của địch trong điều kiện mưa triền miên, nhiều đoạn hành lang ngập sâu trong nước lụt, anh em chỉ lo cốt sao bảo đảm được bí mật, giữ cho đạn dược khỏi bị ẩm ướt đã là cố gắng rất lớn, không còn quan tâm gì đến quần áo ướt, ăn gạo rang thiu mốc, uống nước đục cũng như nằm bờ rúc bụi ở những cung trạm tạm dừng. Khi gần tới mục tiêu thì đồng chí Hồi - Khẩu đội trưởng lại bị sốt cao không thể đi tiếp được, đơn vị phải cử hai chiến sĩ ở lại trông nom, quân số chiến đấu đã ít lại thiếu hụt thêm. Tuy vậy, anh em vẫn tiếp tục cơ động tiếp cận khu vực sân bay, bí mật triển khai trận địa và thực hành nổ súng chiến đấu theo kế hoạch; mặc dù đã rất cố gắng giữ gìn súng đạn nhưng vẫn có 5 quả không nổ do bị ẩm ướt, còn lại 35 quả nổ trúng mục tiêu, phá hỏng đài chỉ huy sân bay, xưởng sửa chữa và một số thiết bị của sân bay. Sau khi sử dụng hết số đạn mang theo, đơn vị đã nhanh chóng rời khỏi trận địa, chôn súng tại một địa điểm bí mật trên đường lui quân. Khi về gần tới biên giới, đơn vị lọt vào ổ phục kích của địch, 2 đồng chí hy sinh, 1 đồng chí bị bắt; 1 đồng chí ốm và 2 đồng chí được cử ở lại trông nom đang ẩn náu gần đó cũng bị địch lùng sục, phát hiện và bắn chết.

Để mở thêm một hướng hoạt động khác, ngay từ đầu năm 1972, Bộ tư lệnh Binh chủng tổ chức một bộ phận do đồng chí Thêm phụ trách, vào miền Nam Việt Nam sang đứng chân tại một tỉnh ven biển thuộc đất K. Tháng 8, bộ phận này bắt đầu triển khai nhiệm vụ nghiên cứu mở hành lang cả trên biển và trên bộ vào X từ phía tây nam. Tháng 10, Bộ tư lệnh Binh chủng điều Đội S72 gồm 40 cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn đặc công biệt động 1 do đồng chí Trần Thanh Trung chỉ huy hành quân từ Hà Nội sang K hoạt động trong địa bàn. Bộ phận đồng chí Thêm đã chuẩn bị trước, nhưng lúc này tình hình an ninh chính trị của K rất phức tạp, Việt kiều và những người cách mạng K chân chính bị bắt bớ, tàn sát; các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam thường bị tập kích, đánh lén; cán bộ, chiến sĩ ta bị bắt cóc, ám sát... rồi chúng đổ thừa do chiến tranh.

Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Miền ra lệnh rút toàn bộ Đội S72 về để bảo toàn lực lượng. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Miền, Tư lệnh Binh chủng Đặc công đã cho rút toàn bộ lực lượng về miền và để lại một bộ phận, còn 20 người do Trần Thanh Trung chỉ huy tiếp tục hành quân sang Mặt trận phía Tây sáp nhập với Tiểu đoàn 1a.

Sau gần 5 năm kiên trì bám địa bàn, mục tiêu và tổ chức nhiều trận đánh sâu trong hậu phương địch, lực lượng đặc công biệt động phía Tây đã phát huy cao tinh thần cách mạng tiến công, vượt qua mọi gian lao, nguy hiểm và hy sinh, xây dựng thành công hành lang bàn đạp bí mật từ vị trí đứng chân đến các mục tiêu được giao, xây dựng được cơ sở để tồn tại và hoạt động ngay trong lòng địch, từ đó tạo được thế bám địch và đánh địch trong thời gian dài. Đã tổ chức được các trận đánh đúng thời điểm, đúng ý định của trên và đánh trúng mục tiêu quan trọng có ý nghĩa chiến lược của địch. Những chiến công vang dội ở các sân bay T99 (UB), 372 (UĐ), T90 (UT),... do sức lực, trí tuệ, mồ hôi, xương máu của cán bộ, chiến sĩ đặc công biệt động phía Tây làm nên đã góp phần tô thắm thêm trang sử oanh liệt của Bộ đội Đặc công. Đó là niềm tự hào làm rạng rỡ truyền thống của đơn vị và của Binh chủng Đặc công được lưu truyền đến ngày nay và mãi mãi các thế hệ mai sau./.

Chú thích của Triumf:
- UB: căn cứ không quân Ubon (F-4,...)
- UĐ: căn cứ không quân Uđon (F-4,...)
- UT: căn cứ không quân Utapao (B-52)
 
Chỉnh sửa cuối:

2R+

Xe điện
Biển số
OF-817
Ngày cấp bằng
18/7/06
Số km
3,556
Động cơ
612,363 Mã lực
Tuổi
44
Nơi ở
Hanoi
Loạt bài hay quá ... em đợi thêm loạt bài của phía bên kia viết về cuộc chiến này ... thanks bác chi um nhé.
Mèo mượn lích tí ...
 

HUNGSMUN

Xe container
Biển số
OF-25242
Ngày cấp bằng
5/12/08
Số km
9,173
Động cơ
584,890 Mã lực
Quá hay và thật đáng tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc ta.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Máy bay B-52 trong vai trò chiến thuật

John T. Greenwood

B-52 là loại máy bay chiến lược của Mỹ. Trong chiến tranh VN, Mỹ đã phải dùng B-52 vào nhiệm vụ chiến thuật. Dưới đây, xin trích một đoạn trong chương “B-52: máy bay ném bom chiến lược trong vai trò chiến thuật” của cuốn The Vietnam War của John T. Greenwood do NXB Salamande London ấn hành năm 1979.

Sau khi Nixon trúng cử, những chi phí tốn kém cho cuộc chiến tranh, tình trạng không ổn định bên trong nước Mỹ và chính sách “Việt Nam hóa” của chính quyền bắt đầu có ảnh hưởng đến cuộc chiến tranh bằng không quân. Bộ trưởng quốc phòng Laird quyết định giảm số phi xuất của chiến dịch Cung Sáng (Operation Arc Light) xuống 1.600 từ ngày 15-7-1969 rồi 1.400 từ đầu tháng 10. Do những khó khăn về tài chính và quân Mỹ tiếp tục rút khỏi các hoạt động tác chiến trên bộ, số phi suất của chiến dịch Cung sáng giảm xuống còn 1.000 mỗi tháng kể từ ngày 1-6-1971. Khi quyết định này được thục hiện, sư đoàn 3 không quân được đổi tên thành tập đoàn 8 không quân từ tháng 4-1970 – có thể đảm nhiệm tất cả các phi xuất bằng số máy bay ở căn cứ Utapao. Lần đầu tiên trong 5 năm, chỉ có 42 máy bay B-52 làm nhiệm vụ trong chiến dịch Cung sáng. Nhiều máy bay và tổ lái trở về Mỹ đã trở lại với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu chiến lược.

Đầu năm 1972, sự gia tăng hoạt động của đối phương trên hệ thống đường mòn ở Lào và tăng cường lực lượng trên nhiều mặt trận khác ở miền Nam chứng tỏ đối phương sắp mở một cuộc tiến công. Tướng Abram và đô đốc John Mc Kên tổng tư lệnh Thái Bình Dương, yêu cầu tăng cường sự yểm trợ của chiến dịch Cung sáng để ngăn chặn mối đe doạ này. Ngày 8-2, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân cho phép tăng số phi xuất hàng tháng lên 1.200 và ra lệnh đưa thêm 29 máy bay B-52D tới Guam. Lực lượng B-52 giờ đây cho phép tăng số phi xuất lên 1.500 theo yêu cầu của Abram.


Số máy bay B-52 tăng thêm được sử dụng để tăng cường oanh tạc các đường mòn ở Lào, các kho chứa đồ tiếp tế và các bãi xe, trong chiến dịch “Săn lùng VII”.

B-52 oanh tạc miền Bắc 1 lần nữa
Đúng vào ngày thứ sáu, 30-3-1972, đối phương mở màn cuộc tiến công vào các vị trí của Nam Việt Nam ở tỉnh Quảng Trị rồi mau chóng phát triển tới vùng ba biên giới ở Kontum, Playcu và tỉnh Bình Long (Lộc Ninh và An lộc). Hội đồng tham mưu trưởng liên quân lập tức ra lệnh đưa thêm máy bay B-52 tới Guam và tăng số phi xuất hàng tháng lên 1.800. Trong tháng 4, sau 2 lần triển khai nữa, toàn bộ số máy bay B-52D của Mỹ đã được đưa tới chiến trường, đủ để tăng số phi xuất hàng tháng lên 1.800. Một lần nữa pháo đài bay phục vụ cho chiến dịch Cung sáng lên tới con số 105. Tình hình ngày càng xấu đi trên cả 3 mặt trận khiến Hội đồng tham mưu trưởng liên quân phải quyết định đưa thêm 28 máy bay B-52G tới Guam. Tuy chỉ mang được 27 trái bom ở bên trong, các máy bay B-52G có thể bay thẳng từ căn cứ tới Nam Việt Nam mà không cần tiếp dầu trên không. Tuy nhiên, chúng không được trang bị tốt như các máy bay B-52D; các phương tiện gây nhiễu điện tử của chúng gồm các máy phát kém hiện đại và yếu hơn. Nhưng nhờ có thêm số máy bay B-52G, lực lượng 133 máy bay phục vụ cho chiến dịch Cung sáng có thể thực hiện 75 phi xuất hàng ngày và 2.200 phi xuất hàng tháng.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Vì hành động xâm lược của đối phương, tổng thống và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đã bãi lệnh ngừng ném bom Bắc Việt Nam và cho phép các máy bay chiến thuật và máy bay B-52 mở rộng dần các cuộc oanh tạc ra phía Bắc chừng nào đối phương còn tiếp tục cuộc tiến công. Trong tháng 4-1972, lần đầu tiên kể từ tháng 7-1968, các máy bay B-52 lại được lệnh oanh tạc miền Bắc. Trong 5 phi vụ, máy bay B-52 đã oanh tạc Vinh, sân bay Bái Thượng, khu kho chứa dầu Hải Phòng, và cuối cùng, điểm chuyển tải Hàm Rồng và Thanh Hóa ngay 21và 23 tháng 4. Trong phi vụ oanh tạc Hải Phòng, lần đầu tiên các máy bay B-52 mạo hiểm bay vào khu vực có hỏa lực phòng không mạnh giữa Hà Nội – Hải Phòng. Tuy nhiên, trong phi vụ này, các máy bay đã không bị tổn thương vì tên lửa và pháo phòng không.

Trong 5 tháng, thêm 70 máy bay B-52G được đưa tới Guam. 50 máy bay B-52D ở Utapao, cùng 52 chiếc B-52D và 98 chiếc B-52G ở Andersen (Guam), hàng ngày thực hiện 105 phi xuất (3150 phi xuất hàng tháng) trong khoảng từ tháng 2 đén tháng 6. Như vậy, Bộ tư lệnh không quân chiếc lược (SAC) đã tăng lực lượng của tập đoàn 8 không quân từ 50 lên 200 máy bay B-52 và tăng số phi xuất hàng tháng từ 1.000 lên 3.150.

Đối phó với cuộc tiến công mùa xuân 1972 của đối phương
Nỗ lực oanh tạc trong chiến dịch Cung sáng đã mau chóng được tăng cường trong tháng 4 và 5 năm 1972 để hỗ trợ cho các lực lượng Nam Việt Nam đang bị đối phương gây sức ép mạnh ở tỉnh Quảng Trị, Kon tum và An Lộc, Tây Bắc Sài Gòn. Chuyển mục tiêu oanh tạc từ Lào, Campuchia về VN trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1972, các máy bay B-52 đã thực hiện 6.000 phi xuất. Khối lượng ném bom chính xác đã góp phần chặn đứng rồi đẩy lùi cuộc tiến công dữ dội của đối phương. Trong nỗ lực tiến công lớn cuối cùng của đối phương ở An Lộc vào giữa tháng 5, các máy bay B-52 đã oanh tcạ 91 mục tiêu với 56 phi xuất ném bom các mục tiêu chỉ cách các vị trí của quân đồng minh khoảng 600-800m. Ở đây cũng như ở Kon Tum và Quảng Trị, các máy bay thường oanh tạc trúng những lực lượng tập trung của Bắc VN, tiêu diệt một lúc hàng trăm quân địch và nhiều khi cả đơn vị trong một đòn oanh tạc.

Trong tháng 4 ở tỉnh Quảng Trị, đã có lần 2 tốp máy bay B-52 bẻ gãy hoàn toàn các mũi tiến công trên bộ của đối phương khi một máy bay làm nhiệm vụ kiểm soát trên không phía trước đã phát hiện các xe tăng đối phương mạo hiểm theo quốc lộ số 1 tiến xuống Đông Hà. Khu vực này nằm trong ô mục tiêu đã định trong kế hoạch, vì vậy nhân viên kiểm soát trên không phía trước đã gọi B-52 tới. 30 phút sau, 6 máy bay B-52 tới ném bom, tiêu diệt 35 xe tăng và phá hủy một công sự dùng làm sở chỉ huy sư đoàn của đối phương.

Nỗ lực ngăn chặn cuộc tiến công mùa xuân năm 1972 của đối phương đã đòi hỏi phải sử dụng một số lượng lớn, có phối hợp các máy bay kiểm soát trên không, phi pháo, máy bay chiến thuật của không quân Mỹ, máy bay trực thăng vũ trang, máy bay vận tải của lục quân Mỹ và máy bay chiến lược B-52. Một chuẩn tướng thuộc bộ tư lệnh viện trợ vùng 3 sau này nói rằng B-52 “đã trở thành vũ khí có hiệu quả nhất mà chúng ta có thể đánh giá được…” Tướng John Vogt, tư lệnh tập đoàn 7 không quân, đã bình luận rằng B-52 “đã góp phần chủ yếu cho thắng lợi của những nỗ lực phòng thủ chống các lực lượng xâm lược. Hỏa lực mạnh ghê gớm của nó có ý nghĩa quan trọng ở những vùng then chốt như An Lộc và Kon Tum”.
 

Triumf

Xe tăng
Biển số
OF-20256
Ngày cấp bằng
22/8/08
Số km
1,296
Động cơ
-484 Mã lực
Linerbacker: Vùng trời Hà Nội chật hẹp
Nhân tố này hạn chế các đường vào và ra cho các đợt tiến công của máy bay B-52. Để lợi dụng khả năng có gió mạnh thổi từ hướng Tây Bắc, các máy bay bao giờ cũng từ phía Tây Bắc bay vào các mục tiêu lớn ở khu vực Hà Nội. Ngay sau khi trút bom, máy bay phải lượn vòng rất lớn ra phía sau mục tiêu để thoát ra ngoài tầm bắn của tên lửa đất đối không, càng nhanh càng tốt. Theo quy định, các tốp trong đội hình tiến công của máy bay ném bom chỉ được bay ở các độ cao và hướng khác nhau rất nhỏ, các tốp phải bám chặt đội hình để làm giảm khả năng dễ bị tổn thương vì tên lửa đất đối không, để tăng hiệu quả bảo vệ của các phương tiện gây nhiễu điện tử trong đội hình và giữa các tốp là để giữ đội hình trong hành lang có thả sợi nhiễu. Vì các phi công thuộc Bộ tư lệnh không quân chiến lược ít khi bay trong các đội hình lớn vào ban đêm và vì trời HN sẽ đông đặc máy bay nên các phi công được lệnh tránh va chạm bằng cách càng ít thực hiện động tác cơ động càng tốt.

Không đầy 30 phút trước khi chiếc đầu tiên trong số 129 máy bay B-52 dự định sử dụng cho cuộc tiến công ban đêm 18-12-1972, các máy bay F-111 đã oanh tạc 4 sân bay MiG. Các máy bay F-4 rải 2 hành lang sợi nhiễu để che chở cho các máy bay đánh phá các khu liên hợp Đông Anh và Yên Viên ở ngay phía Bắc HN. Đêm đó, cũng như 2 đêm sau, gió từ hướng Tây Bắc thổi mạnh với tốc độ lên tới trên 100 dặm/h đã đẩy các máy bay B-52 bay nhanh vào thung lũng sông Hồng, nhưng cũng thổi bạt sợi nhiễu ra khỏi các hành lang trước khi các pháo đài bay kịp tới. Những chiếc B-52 đầu tiên ném bom các sân bay Hòa Lạc, Kép và Phúc Yên. Một máy bay MiG bị bắn rơi – chiếc đấu tiên được xác định là do máy bay B-52 bắn rơi trong chiến dịch Linerbacker II và trong cả cuộc chiến tranh. Sau đó, Đông Anh và Yên Viên bị ném bom. Chiếc máy bay mang mật danh “Than củi” dẫn đầu 3 chiếc B-52 cất cánh từ Guam đánh vào khu nhà kho Yên Viên – Ái Mỗ, bị 2 tên lửa đất đối không bắn trúng trước khi trút bom và rơi xuống phía Tây Bắc Hà Nội. Đó là chiếc B-52 đầu tiên bị hỏa lực phòng không đối phương bắn rơi trong chiến dịch và là chiếc thứ 2 bị bắn rơi trong cuộc chiến tranh. Đến nửa đêm, 30 máy bay cất cánh từ Guam oanh tạc HN một lần nữa. Một chiếc B-52 khác bị thương nặng vì tên lửa đất đối không khi đang ngoặt ra khỏi mục tiêu và rơi ở Thái Lan, sau khi tổ lái đã nhảy dù. 5 giờ sau, đợt thứ 3 bay vào, thêm 1 máy bay nữa bị bắn rơi. Trong ngày thứ nhất 121 trong số 129 phi xuất dự định đã oanh tạc khu liên hợp Đông Anh và Yên Viên, 3 sân bay MiG, nhà máy xe lửa Gia Lâm và Đài phát thanh HN. Lực lượng phòng không đối phương đã phóng trên 200 quả tên lửa và hàng ngàn phát đạn pháo phòng không, bắn rơi 3 máy bay B-52 và bắn bị thương 2 chiếc khác. Xạ thủ trên các pháo đài bay đã bắn rơi ít nhất là 1 trong số những chiếc MiG đã cố gắng xuất kích một cách không hiệu quả.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top