[Funland] Sự trỗi dậy của nước Mỹ, từ chiến tranh độc lập đến siêu cường số một (repost)

Delta

Xe buýt
Biển số
OF-346820
Ngày cấp bằng
15/12/14
Số km
744
Động cơ
282,257 Mã lực
Câu cuối cùng của cụ gây tranh cãi đấy. bọn Mỹ là bọn làm việc rất điên cuồng - nghiện việc, có lẽ chỉ sau bọn Hàn, bọn Nhật.
Dân số Mỹ hơn 300 triệu, thành phần rất đa dạng, những người cày quên sống cũng có mà hội lười nhác cũng nhiều. Đấy là thời bây giờ, còn thời trước cách mạng công nghiệp hầu hết làm như điên mới đủ tồn tại, trừ một số ít thượng lưu.

Dân Hàn cày trâu ở nước nó thôi, chứ sang Việt Nam chả thấy mấy người cày, chỉ thấy đánh golf với nhậu là chăm.
 

cairong_2011

Xe container
Biển số
OF-193288
Ngày cấp bằng
9/5/13
Số km
9,018
Động cơ
479,197 Mã lực
Để em quất phát xem có ổn không, cám ơn các cụ.
Rút KN em ko mua sách qua online mà ko biết rõ nguồn gốc bán. Trừ các quyển sách cũ hiếm họ in photo lại thì ko nói. Có nhiều cuốn sách mới đang bán họ cũng photo lại bán rẻ hơn 1 chút. Hình quảng bá thì là sách thật nhưng sách giao chất lượng khác hẳn.
 

Xe_loi

Xe tăng
Biển số
OF-18178
Ngày cấp bằng
3/7/08
Số km
1,542
Động cơ
487,799 Mã lực
Dân số Mỹ hơn 300 triệu, thành phần rất đa dạng, những người cày quên sống cũng có mà hội lười nhác cũng nhiều. Đấy là thời bây giờ, còn thời trước cách mạng công nghiệp hầu hết làm như điên mới đủ tồn tại, trừ một số ít thượng lưu.

Dân Hàn cày trâu ở nước nó thôi, chứ sang Việt Nam chả thấy mấy người cày, chỉ thấy đánh golf với nhậu là chăm.
Tất cả những kẻ phải bỏ xứ là những kẻ éo trụ được tại xứ sở nên mới phải đi. Vì thế sang mình nó mới hưởng thụ lại được thu nhập cao xa xứ. Lịch sử di dân Bắc Việt mình cũng vậy mà, đa phần những ông nam tiến 54,75, 90 là do cơ hội xứ Bắc ko có đất phát triển.
 

rasi1

Xe tải
Biển số
OF-437090
Ngày cấp bằng
14/7/16
Số km
302
Động cơ
221,460 Mã lực
Tuổi
38
Dân số Mỹ hơn 300 triệu, thành phần rất đa dạng, những người cày quên sống cũng có mà hội lười nhác cũng nhiều. Đấy là thời bây giờ, còn thời trước cách mạng công nghiệp hầu hết làm như điên mới đủ tồn tại, trừ một số ít thượng lưu.

Dân Hàn cày trâu ở nước nó thôi, chứ sang Việt Nam chả thấy mấy người cày, chỉ thấy đánh golf với nhậu là chăm.
Bọn Hàn nó tranh nhau sang đây để đc hưởng thụ thì làm sao mà bọn nó chịu cày như trâu đc.
 

.Bo My

Xe container
Biển số
OF-795404
Ngày cấp bằng
1/11/21
Số km
9,588
Động cơ
217,651 Mã lực
Địa lý Trung Quốc gần như hoàn hảo, điểm yếu duy nhất là nước

Như đã nói ở trên, Ấn Độ và Trung Quốc đều không thể tấn công lẫn nhau qua Cao nguyên Tây Tạng, vậy tại sao Bắc Kinh nhất quyết phải kiểm soát cho bằng được khu vực này? Câu trả lời chính là ở nguồn nước.
Bài này cũng như nhiều bài khác các tác giả không hiểu rằng, nước của 1 con sông là từ nguyên cả chiều dài con sông chứ không phải tất cả từ 1 nguồn! Ở nguồn nó chỉ là con suối bé tẹo thôi.

Điểm yếu của TQ là đường vận chuyển dầu trên biển, có thể bị chặn ở bất cứ đoạn nào không nhất thiết ở Biển Đông..
 

meotamthe

Xe cút kít
Biển số
OF-140186
Ngày cấp bằng
30/4/12
Số km
17,467
Động cơ
102,103 Mã lực
Nơi ở
đảo không hoang
Rút KN em ko mua sách qua online mà ko biết rõ nguồn gốc bán. Trừ các quyển sách cũ hiếm họ in photo lại thì ko nói. Có nhiều cuốn sách mới đang bán họ cũng photo lại bán rẻ hơn 1 chút. Hình quảng bá thì là sách thật nhưng sách giao chất lượng khác hẳn.
Lúc nãy em cũng zoom hình lên nhưng chưa nhìn thấy nhà xuất bản nào làm, tuy nhiên 650k trên shoppee thì cũng có thể thử được ạ.
 

william1975

Đi bộ
Biển số
OF-813808
Ngày cấp bằng
8/6/22
Số km
9
Động cơ
16 Mã lực
Tuổi
32
Thớt cũ bị xoá, có vẻ lí do là không ghi rõ nguồn, mặc dù quán cà phê không có quy định ghi nguồn.
Em post lại, bổ sung đủ nguồn luôn ạ.

1. Chiến tranh bảy năm, Anh cướp gần hết thuộc địa của Pháp

Chiến tranh bảy năm (1756-1763) là cuộc chiến xảy ra giữa hai liên quân gồm có Anh, Phổ (tiền thân của Đức ngày nay) với liên quân Pháp, Áo, Nga, sau đó lan khắp châu Á, châu Mỹ.

Về bản chất, cuộc chiến tranh này là Anh và Pháp tranh giành ngôi vị số một thế giới. Trong các bên tham chiến, chỉ có Anh là ở ngoài biển, cách xa các nước khác, vì vậy mặc dù có hiệp ước đồng minh, nhưng trên đại lục châu Âu chủ yếu chỉ có một mình Phổ cân ba cả Pháp, Áo lẫn Nga. Ba đánh một không chột cũng què, Quốc vương Phổ Friedrich II đang vất vả chống đỡ thì nữ hoàng Nga Elizaveta (tên tiếng Anh là Elizabeth) đột ngột qua đời. Người lên kế vị là Pyotr III (tên tiếng Anh là Peter đệ tam). Pyotr III sinh ra trên đất Phổ, từ bé đã là fan cuồng của vủa Phổ Friedrich II, thế là vừa lên ngôi liền bãi chiến, thậm chí còn trả lại toàn bộ đất đai đã chiếm được cho Phổ, liên minh với Phổ để tận lại Áo. Nhờ thế Phổ mới thoát chết, và sau này trở thành Đức. Còn Pyotr III vì quá khôn nên bị chính vợ của mình ép thoái vị sau 6 tháng lên ngôi. Vợ của Pyotr III lên làm Sa Hoàng, chính là Yekaterina II vĩ đại (tiếng Anh là Catherine đại đế).

Khi Phổ đang trầy trật đánh nhau trên lục địa châu Âu thì nước Anh chủ yếu chỉ đứng sau bơm tiền, còn quân đội thì đưa đi khắp toàn cầu tranh giành thuộc địa với Pháp. Pháp thực ra cũng giống như Phổ, một mặt đánh Phổ, mặt khác còn phải đánh nhau với Anh ở Ấn Độ và Bắc Mỹ. Nhưng lúc này hải quân Anh mạnh hơn hải quân Pháp, nên đã cắt đứt tuyến tiếp viện từ Pháp đến các thuộc địa, khiến quân đội Pháp ở các thuộc địa không có tiếp viện, cuối cùng đành phải từ bỏ Ấn Độ, từ bỏ Canada, từ bỏ khu vực phía Đông sông Mississippi vào tay Anh quốc.

Anh là bên thắng lớn nhất trong chiến tranh bảy năm, chiếm được vô số thuộc địa trên toàn cầu. Chiến tranh bảy năm là lần đầu tiên các châu lục trên trái đất đồng thời xảy ra chiến tranh sau đó Churchill nói chiến tranh bảy năm mới là chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Trước cuộc chiến tranh này, thực lực tổng hợp của Pháp mạnh hơn Anh, sau chiến tranh Pháp suy yếu nghiêm trọng, bởi vì áp lực tài chính quá lớn, mỗi năm đánh nhau phải chi ra 37 triệu livre, còn phải chi cho các nước đồng minh 55 triệu livre. Khi đó mỗi năm Pháp thu vào khoảng 400 triệu livre, bảy năm chiến tranh tổng cộng chi hết 1,325 tỷ livre. Năm 1763, chiến tranh kết thúc. Năm 1786, Pháp bùng nổ khủng hoảng tài chính. Năm 1789, Pháp xảy ra đại cách mạng, vua và hoàng hậu bị chém đầu.

Bởi vì Pháp quá mạnh, trong lịch sử, tổng cộng có bảy lần các nước thành lập liên minh chống Pháp, gần như lần nào Anh cũng là nước dẫn đầu, cho nên đến nay người Anh và người Pháp vẫn còn những xích mích do lịch sử thù hận hàng trăm năm để lại.

Khi đối phó với liên minh chống Pháp lần đầu tiên, Napoléon, khi đó là Trung tướng, đánh tan tác quân Áo ở Italia, khiến liên minh chống Pháp lần đầu tiên tan rã. Lần thứ hai Chính phủ Pháp đánh thua liểng xiểng, Napoléon tức mình đảo chính lên nắm quyền, từ đó cho các version liên minh chống Pháp liên tục bị đánh tan. Đến tận liên minh chống Pháp version 7, người Anh mới hạ gục được Napoléon.

Nhưng Napoléon đã là vinh quang cuối cùng của nước Pháp. Sau thời Napoléon, ở châu Âu chỉ có Đức mới có thể đe dọa địa vị số 1 của Anh. Ý đồ soán vị của Đức đã dẫn đến hai cuộc thế chiến, và làm cho Mỹ tự dưng có cơ hội trỗi dậy.

2. Pháp bơm đồ cho Mỹ bật lại mẫu quốc Anh để giành độc lập

Người Pháp thực ra còn đến Bắc Mỹ sớm hơn người Anh. Năm 1603, Chamberlain người Pháp đã xây dựng khu định cư vĩnh cửu tại Quebec, nên ngày nay Quebec vẫn nói tiếng Pháp. Đến năm 1750, trước chiến tranh bảy năm, thuộc địa của Pháp và Tây Ban Nha ở Bắc Mỹ vẫn nhiều hơn người Anh. Người Anh lúc này chỉ kiểm soát khu vực bờ biển phía Đông, nhưng có lợi thế về địa hình, tiến có thể công, lùi có thể thủ. Sau khi chiến tranh bảy năm kết thúc, Bắc Mỹ đã có 13 thuộc địa của Anh, miền Bắc làm công nghiệp, miền Trung làm lương thực, miền Nam trồng cây công nghiệp, dân số lên đến 2,5 triệu người.

Trong chiến tranh bảy năm, không chỉ có người Pháp đốt tiền mà người Anh cũng đốt tổng cộng 160 triệu bảng Anh. Để kiếm tiền trả nợ, người Anh dự định thu thuế tại 13 thuộc địa của mình ở Bắc Mỹ, với ba dự luật thuế trà, thuế đường và thuế tem.

Các di dân Bắc Mỹ từ cả trăm năm nay không phải nộp một đồng thuế nào. Bây giờ thấy mẫu quốc bắt đầu định thu thuế liền phản đối kịch liệt. Thấy tình hình không ổn, Anh liền rút lại dự luật thuế đường, thuế tem, chỉ còn thu thuế trà.

Để thu được nhiều thuế, Anh quy định trước hết phải đấu giá trà ở London, sau đó mới chở đến Bắc Mỹ tiêu thụ. Rất nhiều thương nhân Bắc Mỹ trực tiếp buôn lậu trà từ Hà Lan để trốn thuế, cung cấp đến 90% trà cho Bắc Mỹ, khiến công ty Đông Ấn Độ của Anh làm ăn đúng luật bị lỗ nặng. Để hỗ trợ công ty Đông Ấn Độ, Chính phủ Anh thông qua dự luật trà năm 1773, cho phép công ty Đông Ấn Độ trực tiếp tiêu thụ trà tại Bắc Mỹ mà không phải qua đấu giá, còn có thể miễn thuế hoàn toàn. Dự luật này giúp trà của công ty Đông Ấn Độ lập tức rẻ bằng một nửa trà của đám buôn lậu.

Tự dưng mất mối làm ăn, đám buôn lậu cay quá, liền đi đút lót báo chí bản địa, nói chính quyền Anh đưa ra dự luật trà là để dụ dỗ các thuộc địa chấp nhận nộp thuế, đại loại là theo kiểu nước lạnh luộc ếch, sau này sẽ thu đủ loại thuế khác, mọi người nhất định không được mắc lừa.

Khống chế được dư luận chính là khống chế được lòng dân, người dân Bắc Mỹ bị truyền thông làm cho sửng sốt, bừng bừng lửa giận tới tấp đứng lên phản đối. Năm 1774, đại diện các thuộc địa đến Philadelphia mở hội nghị đại lục lần thứ nhất, chuẩn bị bật lại mẫu quốc. Một năm sau, người Anh đưa quân đến trấn áp, người dân thuộc địa đứng lên chống cự, chiến tranh độc lập chính thức bùng nổ.

Khi đó Anh đang mạnh nhất nhì thế giới. Người dân các thuộc địa Bắc Mỹ không tuổi gì có thể chống lại mẫu quốc được. Khi đó Anh có nền công nghiệp và lực lượng hải quân đứng đầu thế giới, có 30.000 quân đóng ở Bắc Mỹ, tất cả được vũ trang đến tận răng, còn quân cách mạng Bắc Mỹ là dân binh và quân tình nguyện, trang bị cơ bản chỉ có mỗi súng trường.

Bắc Mỹ lúc này còn rất nghèo, hơn nữa có một phần năm số người dân vẫn ủng hộ đế quốc Anh, nên việc làm cách mạng không hề dễ dàng.

Năm 1776, quân đội cách mạng do Washington lãnh đạo chỉ còn vẻn vẹn 4.000 người, sĩ khí hết sức sa sút, cách mạng sắp bị dìm trong bể máu.

Washington sinh ra trong một gia đình chủ nô, lúc 27 tuổi, trong nhà có 36 nô lệ da đen, sau khi lấy một quả phụ giàu có tên là Martha, Washington lên ngôi chạn vương, trong tay có hơn 200 nô lệ da đen. Washington vốn đi lính trong quân đội Anh, với hi vọng được nhập tịch mẫu quốc, nhưng bị quân Pháp đánh cho thảm bại tại chiến trường Ấn Độ và phải đầu hàng. Mặc dù sau đó được thả về, nhưng đã đầu hàng một lần thì làm sao còn có thể thăng tiến được nữa. Washington chán nản xuất ngũ, gửi gắm tương lai vào nhà vợ.

Washington có thể trở thành tổng chỉ huy quân cách mạng Bắc Mỹ là bởi vì ông ta là tướng lĩnh duy nhất của quân cách mạng có kinh nghiệm thực chiến, mặc dù là kinh nghiệm thua trận và bị bắt.

Quả nhiên quân của Washington bị đánh tan tác, đến lúc có nguy cơ phải đầu hàng thêm một lần nữa thì cứu tinh của Washington xuất hiện. Đó là quốc vương Pháp Louis XVI.

Chiến tranh độc lập Bắc Mỹ nổ ra, Louis XVI mới 21 tuổi, đang tuổi trẻ trâu húng chó, vẫn cay vì thất bại của Pháp trong chiến tranh bảy năm, để ngôi vị số một thế giới rơi vào tay quân Anh bốn lạng. Lúc này Nghe nói người dân thuộc địa Bắc Mỹ bắt đầu phản kháng Anh, Louis XVI mừng rỡ, quyết định hỗ trợ Bắc Mỹ để Anh phải tiêu hao sức người sức của. Thế là Louis XVI lập tức phái người tới liên lạc với Bắc Mỹ, kí điều ước phòng thủ chung có điều kiện, đưa tới rất nhiều vật tư quân dụng, trong thời gian ba năm tổng cộng viện trợ cho quân cách mạng số vũ khí trị giá 1 triệu bảng Anh.

Cho vật tư vũ khí còn chưa đủ, Louis XVI còn cử thượng tướng hải quân - bá tước Grasse và trung tướng lục quân - bá tước Rochambeau dẫn 12 chiếc tàu chiến và 5 chiếc tàu viễn dương chở 4.000 quân Pháp vượt Đại Tây Dương đến Bắc Mỹ đánh nhau với người Anh.

Viện quân Pháp không ngừng kéo đến, khiến cục diện chiến trường Bắc Mỹ xoay chuyển. Năm 1781, trước trận chiến Yorktown, quân đội của Washington không có tiền phát lương, khoảng 10% binh lính nổi loạn, bá tước Rochambeau phải bỏ ra một nửa tiền lương của quân Pháp cho Washington mới ổn định được quân tâm. Trong trận chiến Yorktown này, quân Pháp là chủ lực. Trên biển, quân cách mạng Bắc Mỹ không có quân, Pháp có 32 chiếc tàu chiến và 15.000 hải quân. Trên mặt đất, quân Bắc Mỹ tổng cộng có chưa đến 8.000 người, còn quân Pháp có đến 8.800 người. Trong số 375 khẩu pháo, có đến 343 khẩu là của người Pháp.

Chiến dịch Yorktown kết thúc, quân Anh thua trận, tướng lĩnh quân Anh đầu hàng, nhưng lại đầu hàng Pháp vì biết rõ Pháp mới là chủ lực. Bá tước Rochambeau không nhận, cho Washington đi tiếp nhận quân Anh đầu hàng. Washington xấu hổ không đi, cho Thiếu tướng Lincoln đi nhận thay.

Đại thắng Yorktown đánh dấu thắng lợi của chiến tranh độc lập Bắc Mỹ. Nhưng sau đó trong lịch sử nước Mỹ, rất ít người biết các bá tước Rochambeau, Grasse mới là người lãnh đạo chiến tranh độc lập Bắc Mỹ giành chiến thắng. Đại đa số mọi người chỉ biết đến quốc phụ Washington, tất cả công lao là của Washington hết.

Cũng giống như sau thế chiến thứ hai, bằng sự khống chế tuyệt đối của truyền thông Mỹ, hiện nay thế hệ trẻ đa số cho rằng người Mỹ đã đánh hạ Berlin, còn công lao của Liên Xô hoàn toàn bị xóa nhòa.

Cái gọi là chiến tranh độc lập Bắc Mỹ, thực ra chính là sự tiếp diễn của chiến tranh bảy năm, là cuộc báo thù rửa hận của người Pháp đối với người Anh. Trong chiến tranh độc lập, người Mỹ chỉ tốn 400 triệu USD, người Pháp thì tốn 1,3 tỷ livre, tương đương với 13 tỷ USD, gấp hơn 30 lần người Mỹ. Người Anh thì tốn 200 triệu bảng Anh, tương đương với 1,2 lần GDP cả nước.

Nhưng chính vì đầu tư quá nhiều để trả thù người Anh, tình hình tài chính của Pháp càng xấu đi. Năm 1783, chiến tranh độc lập Bắc Mỹ kết thúc. 3 năm sau khủng hoảng tài chính Pháp bùng nổ. 3 năm sau nữa, khủng hoảng tài chính lại dẫn đến cách mạng tư sản Pháp.

Sự ra đời của nước Mỹ chỉ là kết quả ngoài ý muốn của cuộc tranh giành địa vị bá chủ giữa Anh và Pháp. Kết quả cuối cùng của cuộc tranh giành này là bồi dưỡng ra siêu cường duy nhất trên toàn cầu.

Tổng kết lại một chút. Chiến tranh bảy năm nổ ra, một mình Đức (Phổ) cân ba Pháp, Áo, Nga. Anh xua quân đi tranh giành thuộc địa với Pháp tại Ấn Độ, Bắc Mỹ. Nga quay xe, Pháp thua trận, mất vô số thuộc địa vào tay Anh. Pháp cay quá, ủng hộ thuộc địa Bắc Mỹ của Anh giành độc lập. Quân Anh thua, nước Mỹ ra đời.

3. Mỹ mua Louisiana của Pháp, lãnh thổ mở rộng gấp đôi

Ơn huệ của Pháp đối với Mỹ không chỉ có thế. Mỹ có thể giành được Louisiana, mở rộng lãnh thổ gấp đôi, cũng là nhờ có Pháp.

Sau khi chiến bại, Pháp cắt địa bàn Canada cho Anh, cắt Louisiana cho Tây Ban Nha, hổn hển tức giận về nhà. Sau đó Napoléon ngang trời xuất thế, Tây Ban Nha không biết Napoléon là thằng nào, gia nhập liên minh chống Pháp, bị Napoléon đánh cho quỳ lạy van xin, năm 1800 trả lại Louisiana cho Pháp để Pháp đừng đánh nữa. Tây Ban Nha và Pháp kí một điều ước bí mật, bề ngoài vẫn là người Tây Ban Nha cai quản Louisiana, nhưng thực ra Louisiana là của Pháp.

Tại sao phải bảo mật việc này? Đây là yêu cầu của Pháp, vì Pháp không có sức lực đi quản Louisiana, Napoléon bận đánh nhau với liên minh chống Pháp trên lục địa, còn trên biển, người Anh khống chế mặt biển, hải quân Pháp không thể chính thức đến tiếp quản Louisiana được. Vì vậy Pháp phải bảo mật để đề phòng người Anh biết chuyện đến thịt mất Louisiana của mình.

Ý đồ của người Pháp cũng rất bá đạo, một là khống chế New Orleans ở cửa sông Mississipi, hai là khống chế thuộc địa Haiti, ba là lấy Haiti làm bàn đạp, thoát khỏi sự phong tỏa trên biển của người Anh, khống chế toàn bộ khu vực Bắc Mỹ.

Không ngờ người Pháp lại đá phải thép tấm ở Haiti. Năm 1802, Haiti nổ ra khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Napoléon phái 20.000 quân Pháp đi đàn áp, kết quả là 20.000 quân gần như chết sạch.

Napoléon nhận được tin sét đánh mà ngơ ngác. Mất Haiti là Pháp sẽ mất khả năng khống chế Bắc Mỹ. Bên này còn liên minh chống Pháp quậy phá, Napoléon không thể điều thêm quân đi dẹp loạn nữa. Thế là tình trạng của Louisiana vẫn tiếp tục chông chênh.

Như trên đã nói, lúc này Pháp đã khống chế thực tế New Orleans. Tại New Orleans, phong trào hủy bỏ chế độ nô lệ đang phát triển, mà New Orleans lại tiếp giáp với khu tập trung nô lệ da đen ở phía nam Mỹ. Sợ phong trào này lan đến Mỹ, năm 1803, người Mỹ liền phái Livingston đến Paris đàm phán, định ra giá 10 triệu USD mua lại New Orleans. Khi đến Paris, Livingston lại phát hiện Pháp và Tây Ban Nha có một điều ước bí mật, Pháp còn nắm chủ quyền cả vùng Louisiana chứ không chỉ mỗi New Orleans, thế là liền đến gặp Napoléon, hỏi xem có mua luôn cả Louisiana được không.

Livingston chỉ hỏi thử xem sao, nhưng Napoléon lại cảm thấy Louisiana kiểu gì cũng không giữ được, thôi thì bán quách cho Mỹ, để Mỹ với Anh tranh giành nhau, ít nhiều cũng kiếm được mấy đồng quân phí còn đánh nhau với Anh, thế là ra giá 15 triệu USD.

Louisiana rộng 2,15 triệu km2, tính ra mỗi mẫu Anh có giá chưa đến 3 cent, Livingston nghe xong mừng như điên, sợ Napoléon nuốt lời, không kịp xin ý kiến Quốc hội đã vội vàng kí thỏa thuận với Pháp.

Diện tích nước Mỹ lập tức tăng gấp đôi. Giống như chiến tranh độc lập, lần này cũng là nhờ có Anh, Pháp tranh giành mà Mỹ từ dưng vớ được món hời bố tướng.

Pháp giúp đỡ Mỹ đến mức này, vậy Mỹ báo đáp lại ra sao?

Sau khi độc lập, năm 1794, Mỹ kí với Anh một điều ước, nhanh chóng khôi phục quan hệ thương mại. Sau khi Pháp xảy ra đại cách mạng, Mỹ lấy lí do Pháp đã trở thành một nước cộng hòa, thế là bùng hết số nợ từ thời chiến tranh độc lập.

Bố vừa cho tiền, vừa cho vũ khí, vừa phải quân giúp mày độc lập, bây giờ bố vừa gặp nạn, mày lập tức tuyên bố quỵt nợ? Pháp tức điên lên, bắt giam hết tàu thuyền của Mỹ. Mỹ cũng bắt tàu thuyền của Pháp để trả đũa. Sau hai năm, Pháp thật sự quá bận, phải đánh nhau tứ tung với liên minh chống Pháp, cuối cùng mặc kệ thằng Mỹ vô ơn.

Từ đó trở đi, Pháp không bao giờ trở lại vị trí đứng đầu thế giới được nữa. Mỹ cũng không còn theo đại ca Pháp, mà tự mình thành đại ca của bọn khác.

4. Xâm lược Mexico, chiếm được các bang Texas, New Mexico, California

Trở mặt với Pháp xong, Mỹ miệt mài làm ăn buôn bán suốt 50 năm. Năm 1819 cướp được Florida từ tay người Tây Ban Nha, năm 1840 GDP đã bằng một nửa đế quốc Anh, sản lượng bông chiếm hai phần ba toàn thế giới. Đến năm 1860, sản lượng công nghiệp miền Bắc Mỹ đứng thứ tư thế giới, đạt 1,88 tỷ USD, còn khu trang trại cây công nghiệp phía nam cũng càng ngày càng lớn, nô lệ da đen lên tới 4 triệu người.

Có tiền, có địa bàn, dã tâm của Mỹ cũng ngày càng lớn, bắt đầu nhóm ngó sang hàng xóm Mexico.

Nhưng Mỹ là một nước có đạo đức, không có lí lẽ nào tự dưng đi đánh người khác. Thế nên trước khi động thủ, Mỹ liền đẩy mạnh tuyên truyền, đại ý là "Chế độ dân chủ của Mỹ thật là tuyệt cbn vời, vì vậy không nên bị hạn chế bởi bất cứ biên giới nào". Kể cả đến bây giờ, mỗi lẫn mang dân chủ đi ban phát, Mỹ đều có lí do rất đường hoàng, chống độc tài, bảo vệ nhân quyền, hoặc ít ra cũng phải giơ ra một lọ muối rồi mới đánh.

Năm 1821, Mexico đánh đuổi người Tây Ban Nha giành độc lập, nhưng cục diện chính trị sau dựng nước cũng rất loạn lạc, trong 30 năm đầu tiên thay đến 50 Chính phủ, 31 Tổng thống, xảy ra hơn trăm cuộc đảo chính quân sự, kinh tế nát bươm, công nghiệp không phát triển được.

Nhìn ông bạn láng giềng loạn lạc như vậy, Mỹ thèm chảy dãi, không thể ngồi yên được nữa.

Mục tiêu đầu tiên là Texas, Mỹ cho rất nhiều người Mỹ tràn vào Texas. Vùng đất này quá ít người, ban đầu người Mexico vẫn hoan nghênh người Mỹ đến, nhưng sau đó thấy nhiều người Mỹ quá, Mexico hãm lại nhưng không kịp. Người Mỹ trở thành đa số ở Texas, sau đó Chính phủ Mỹ giật dây, năm 1835, Texas tuyên bố độc lập. Tổng thống Mexico dẫn quân đi dẹp loạn, lại bị bắt sống, đành phải thừa nhận độc lập của Texas, còn gọi là nước cộng hòa Single Star.

Nước cộng hòa Texas này từng tồn tại mười năm, cho nên bây giờ thỉnh thoảng người Texas cãi nhau với Chính phủ liên bang lại giận dỗi đòi tachs ra độc lập, khôi phục nước cộng hòa Texas. Năm 1845, Texas gia nhập liên bang, trở thành bang thứ 28 của Mỹ.

Li khai độc lập đã đành, nhưng giờ lại còn sáp nhập? Mexico tức điên lên, năm 1846 tuyên chiến với Mỹ. Mỹ đã chuẩn bị sẵn từ lâu, quốc lực mạnh hơn Mexico nhiều, lại là nước công nghiệp đi đánh nước nông nghiệp, hơn một năm đã đánh đến tận thủ đô Mexico, người Mexico quỳ xuống cắt đất xin hàng, mới giữ lại được quốc thổ ngày nay.

Sau cuộc chiến tranh xâm lược này, Mỹ chiếm được 2,3 triệu km2 đất của Mexico, bao gồm các bang Texas, New Mexico, California ngày nay. Lãnh thổ Mỹ kéo dài từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương, vị thế nước lớn từ từ hình thành.

Còn diện tích 4 triệu km2 của Mexico thì giảm mất 55%.

Khi đó Mỹ hoàn toàn có thể nuốt hết Mexico, nhưng Mỹ nghĩ đến những người Mexico tin đạo Thiên Chúa, nói tiếng Tây Ban Nha này, có khác biệt rất lớn về văn hóa với người Mỹ, dân số lại quá nhiều, sau này sẽ là một tai họa tiềm ẩn, thế là để lại một phần lãnh thổ cho người Mexico mà không đuổi tận giết tuyệt.

Sau đó người Mexico vẫn vừa khóc vừa chửi, đã làm thì làm cho trót, đã chiếm thì chiếm cả nước đi, để bố cũng thành người Mỹ. Lại cứ ngập ngừng nửa nọ nửa kia, làm bây giờ bọn bố phải tìm trăm phương nghìn kế vượt biên vào Mỹ, hic.

5. Ăn cắp bản quyền máy dệt của Anh, đặt viên gạch đầu tiên cho sản xuất công nghiệp

Sau khi nuốt được một vùng rộng lớn của Mexico 13 năm, trong nội bộ nước Mỹ lại xảy ra một cuộc đại chiến.

Đương nhiên đó chính là nội chiến nam bắc nổi tiếng, cuộc chiến này có quan hệ rất lớn đối với sự phát triển của ngành dệt.

Trước chiến tranh độc lập, Mỹ phụ thuộc rất nhiều vào ngành dệt của Anh, mỗi năm phải nhập khẩu hơn 13 triệu foot vải vóc. Sau độc lập, Hamilton muốn giảm bớt phụ thuộc đối với Anh, đích thân thúc đẩy ngành dệt của Mỹ phát triển.

Khi đó Anh vẫn phong tỏa kĩ thuật dệt với người Mỹ.

Năm 1764, James Hargreaves phát minh ra máy kéo sợi Jenny, khiến hiệu suất nâng cao 80 lần. 5 năm sau, Richard Arkwright lại phát minh ra máy dệt chạy bằng sức nước, năm 1771 xây xong xưởng kéo sợi dùng sức nước đầu tiên trên thế giới. Để bảo đảm đi đầu về kĩ thuật, Anh cấm xuất khẩu máy móc ra nước ngoài, cũng không cho phép công nhân thành thạo kĩ thuật di cư ra nước ngoài.

Để học được kĩ thuật này của Anh, các nước trên thế giới tìm mọi cách buôn lậu máy dệt của Anh, mua chuộc thợ thuyền người Anh, còn phái gián điệp kinh tế đến Anh học trộm.

Mỹ cũng đăng quảng cáo trên báo chí Anh, đưa ra mức lương cao mời thợ dệt đến Mỹ.

Lúc này Mỹ vẫn là một nước thuần nông nghiệp, công nghiệp không hề có gì. Mẩu quảng cáo đó được một người Anh tên là Samuel Slater đọc được.

Slater là người Derbyshire, 14 tuổi bắt đầu học nghề thợ dệt, 21 tuổi đã nắm giữ toàn bộ kĩ thuật dệt, trở thành nhân viên quản lí cấp trung trong xưởng.

Xưởng dệt này dùng kĩ thuật dệt bằng sức nước do Arkwright phát minh, Arkwright còn có cổ phần ở đây. Vì vậy Slater học được kĩ thuật máy dệt bằng sức nước tiên tiến nhất.

Năm 1789, khi người Pháp đang bận làm đại cách mạng, Slater đọc được mẩu quảng cáo lương cao của Mỹ trên báo Anh, nghĩ mình chỉ là con nông dân, giờ lên đến quản đốc là kịch kim rồi, nước Anh là của quý tộc Anh, không phải của dân đen như mình. Không bằng đến Mỹ thử vận may xem sao.

Lúc này chiến tranh độc lập mới kết thúc không lâu, quan hệ Mỹ - Anh không hề hữu hảo, Anh hạn chế xuất khẩu kĩ thuật sang Mỹ cực kì nghiêm khắc. Cuối năm đó, Slater giấu người nhà, đóng giả làm công nhân nông trường, cùng các di dân trà trộn lên tàu chở khách sang Mỹ. Cảnh sát Anh từng tra hỏi Slater nhưng không thấy nghi ngờ gì.

Tháng 12 năm 1790, Slater dựa vào trí nhớ làm nhái ra chiếc máy dệt đầu tiên tại Mỹ, sau đó xây dựng xưởng dệt sức nước đầu tiên tại Mỹ.

Người Mỹ cuối cùng cũng có công nghiệp của mình, vui mừng như điên, liên tục phong cho Slater những danh hiệu cao quý, như "Cha đẻ của Cách mạng Công nghiệp Hoa Kỳ", hay "Cha đẻ của Hệ thống Nhà máy Hoa Kỳ". Còn người Anh thì căm thù Slater, gọi Slater là kẻ phản bội.

Đến khi qua đời năm 1835, Slater có 13 nhà máy dệt, xây dựng nên đế quốc dệt của mình, đóng vai trò cực lớn trong việc thúc đẩy ngành dệt của Mỹ phát triển.

Ngoài Slater còn có một người khác, đó là Lowell, một thương nhân Boston. Lowell là con buôn, quen biết nhiều chủ nhà máy Anh. Năm 1810, Lowell đến Anh dưỡng bệnh, nhân cơ hội thường xuyên đến tham quan các xưởng dệt tại Glasgow và Manchester. Lowell tốt nghiệp khoa toán đại học Harvard, trong quá trình tham quan, dựa vào trí nhớ siêu phàm của mình, Lovell ghi nhớ mỗi một chi tiết của kết cấu máy móc, về nhà vẽ ra bản thiết kế trên giấy. Sau khoảng 2 năm, Lowell đã nắm được toàn bộ kĩ thuật máy dệt của Anh. Để đảm bảo an toàn, Lowell ghi nhớ tất cả trong đầu, đốt hết bản vẽ rồi mới lên đường về nước. Hải quân Anh nghi ngờ Lowell là gián điệp công nghiệp nên chặn lại tra xét, nhưng lục hết toàn bộ hành lí của Lowell mà không tìm được bất cứ bằng chứng nào, đành phải cho Lowell về Mỹ.

Lowell về quê nhà Massachusetts xây nhà máy, nhái lại máy dệt Cartwright, cùng Slater thúc đẩy cách mạng ngành dệt Mỹ, đặt nền tảng cho công nghiệp hóa của Mỹ.

Mỹ là một quốc gia tôn trọng bản quyền sở hữu trí tuệ, nhưng đó là khi và chỉ khi bản quyền đó có lợi cho Mỹ. Lowell và Slater dám đánh cắp kĩ thuật của Anh là bởi vì năm 1793 Mỹ ban bố luật bản quyền (Patent Act of 1793), quy định bất cứ người nào đánh cắp, nhái lại được kĩ thuật của quốc gia khác, Mỹ sẽ trao bằng sáng chế cho người đó, đồng thời cấm nhà phát minh nước ngoài đăng kí bản quyền này tại Mỹ.

Bản quyền, đạo đức, pháp luật chỉ là thủ đoạn trong cạnh tranh quốc tế. Mục đích cuối cùng của các nước là tối đa hóa lợi ích, cho người dân nước mình sống cuộc sống sung sướng.

6. Mâu thuẫn thuế quan, nội chiến Nam Bắc bùng nổ

Sau khi có kĩ thuật dệt, năm 1859, số xưởng dệt bông tại Mỹ tăng đến 1091 xưởng, thời điểm cao nhất, hàng dệt bông chiếm 63% tổng giá trị xuất khẩu của Mỹ.

Bước đầu tiên khi một quốc gia phát triển công nghiệp thường đều bắt đầu từ ngành dệt. Bởi vì máy dệt tương đối đơn giản, yêu cầu kĩ thuật không quá cao, các nước đều có thể tự làm được. Sau đó, các nhà máy sản xuất máy dệt sẽ mở rộng nghiên cứu chế tạo các loại máy móc khác, vì vậy ngành dệt luôn được coi là mở đầu của quá trình công nghiệp hóa.

Bởi vì ngành dệt quan trọng như vậy, bảo vệ ngành dệt của Mỹ chính là bảo vệ ngành chế tạo Mỹ, vì thế Mỹ đặt ra mức thuế xuất nhập khẩu cực cao, lên đến 50%. Nếu không đặt hàng rào thuế, hàng hóa Mỹ vẫn chưa cạnh tranh được với Anh. Cùng là một bộ quần áo, sản xuất tại Mỹ còn đắt hơn nhiều so với sản xuất tại Anh, vận chuyển đến Mỹ. Mỹ chỉ có thể dùng thuế quan cao để ngăn chặn hàng hóa Anh tràn ngập thị trường, để người Mỹ mua hàng Mỹ.

Nhưng thuế quan cao lại bất lợi đối với các chủ trang trạng miền Nam. Sản lượng bông của Mỹ chiếm 80% nguyên vật liệu của Anh, Pháp, thuế xuất khẩu cao khiến giá bông của các chủ trang trại tăng cao, khó cạnh tranh. Hơn nữa miền Nam cần nhập khẩu nô lệ da đen, thuế cao khiến giá mua một nô lệ lên tới 1.800 USD, bằng thu nhập 17 năm của một người Mỹ bình thường. Thế là các chủ trang trại miền Nam kiên quyết yêu cầu giảm thuế.

Nói đơn giản, thuế cao có lợi cho miền Bắc phát triển công nghiệp, thuế thấp có lợi cho miền Nam phát triển nông nghiệp và Anh, Pháp xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ. Vì vấn đề này mà hai miền Nam Bắc vẫn mâu thuẫn với nhau.

Tháng 11 năm 1860, Lincoln ủng hộ miền Bắc trúng cử Tổng thống Mỹ. Bang Nam Carolina không phục, tuyên boos rút khỏi liên bang. Sáu bang khác cũng lần lượt tuyên bố độc lập. Ngày 18 tháng 2 năm 1861, các bang miền Nam thành lập nước liên minh America. Ngày 2 tháng 3, mấy ngày trước lễ nhậm chức của Lincoln, 7 bang miền Nam rút khỏi Thượng viện, Thượng viện tiếp tục thông qua luật tăng thuế, một tháng sau có hiệu lực.

Mâu thuẫn Nam Bắc không thể điều hòa, ngày 12 tháng 4 năm 1861, nội chiến Nam Bắc cuối cùng bùng nổ.

Giai đoạn đầu, tướng lĩnh miền Nam và binh lính chiếm ưu thế, miền Bắc chủ yếu chịu trận. Nhưng cán cân dần dần nghiêng về miền Bắc, nguyên nhân rất đơn giản, vì miền Bắc có công nghiệp. Miền Nam chỉ có thể đánh một vài trận, miền Bắc lại có thể đánh một vài năm.

Miền Nam đương nhiên biết điều này, cho nên còn chưa khai chiến đã sai người đến châu Âu cầu cứu Anh, Pháp. Như trên đã nói, miền Nam và Anh, Pháp có lợi ích chung là giảm thuế, còn miền Bắc là đối thủ cạnh tranh của Anh, Pháp, nên Anh, Pháp đương nhiên phải giúp miền Nam.

Nếu sau đó Anh, Pháp có thể đưa quân can thiệp nội chiến Nam Bắc Mỹ, chắc chắn vận mệnh nước Mỹ sau này đã khác. Nhưng Mỹ thực sự quá may mắn, vì khi đó liên tục xảy ra ba việc khiến Anh, Pháp không thể can thiệp vào nội chiến Nam Bắc được.

Thứ nhất, năm 1861, Anh mất mùa lương thực nghiêm trọng, còn lúa mì ở miền Bắc Mỹ lại bội thu. Anh phải tìm mua lương thực của miền Bắc, không dám chính thức trở mặt với miền Bắc.

Thứ hai là thời điểm đó sản lượng bông của Ai Cập và Ấn Độ bỗng tăng rất mạnh, nhu cầu nhập bông từ miền Nam Mỹ giảm bớt, khiến miền Nam không còn quá quan trọng đối với Anh, Pháp.

Thứ ba là khi đó Trung Quốc xảy ra loạn Thái Bình thiên quốc, ảnh hưởng đến việc làm ăn của Anh, Pháp ở Trung Quốc. Việc buôn bán các mặt hàng thuốc phiện, trà của Anh, tơ nguyên liệu của Pháp đều kiếm được rất nhiều tiền từ Trung Quốc.

Từ ba nguyên nhân trên, Anh, Pháp suy đi tính lại, cân nhắc lợi hại, cuối cùng quyết định giúp nhà Thanh trấn áp Thái Bình thiên quốc, còn chiến tranh Nam Bắc của Mỹ thì kệ Mỹ.

7. Nga kiệt quệ vì chiến tranh Crimea, bán Alaska cho Mỹ

Sau khi kết thúc Chiến tranh Nam Bắc, nô lệ da đen giành được tự do, nhưng chất lượng cuộc sống lại giảm xuống. Trước đó dù sao cũng có giá 1.800 USD, đắt vãi, chủ nô cũng không dám hành hạ quá mức. Bây giờ được tự do, nhưng làm gì để kiếm ăn? Lại đi làm thuê ở đồn điền, nhà máy, cơm ăn còn không bằng trước, mỗi ngày còn phải làm quần quật 14 tiếng. Luận điệu "Nội chiến Nam Bắc là để giải phóng nô lệ" chỉ là nói láo, căn nguyên của nội chiến là vấn đề thuế xuất nhập khẩu, giải phóng nô lệ chỉ là sản phẩm phụ, do miền Bắc cũng cần sức lao động tự do đến nhà máy làm việc.

Sau nội chiến, Mỹ vùi đầu phát triển công nghiệp, kinh tế phát triển như điên. Và lại có một chiếc bánh từ trên trời rơi xuống.

8 năm trước nội chiến Mỹ, châu Âu cũng nổ ra chiến tranh Crimea, đánh từ năm 1853 đến 1856, khiến người Nga thua liểng xiểng.

Bản chất của chiến tranh Crimea là hai nước Anh, Pháp hỗ trợ Ottoman đánh bại đế quốc Nga. Anh, Pháp có thể đánh nhau chết bỏ để tranh giành thiên hạ đệ nhất, nhưng Nga định chen vào là Anh, Pháp lập tức giảng hòa cùng nhau đánh Nga, sau đó lại bắt đầu đánh nhau tiếp.

Nga thấy đánh không lại Anh, Pháp, liền nảy ra ý định bán Alaska. Một là vì thiếu tiền, hai là vì Alaska nắm sát thuộc địa Canada của Anh, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị người Anh cướp mất, làm bàn đạp tấn công Nga từ hướng Đông Bắc. Thế là Nga nảy ra ý tưởng bán cho Mỹ, làm vùng đệm giảm sóc với Canada của Anh.

Khi đó điều kiện của Alaska thật sự quá khắc nghiệt. Người Pháp, người Anh cũng đã từng đến Alaska, nhưng cuối cùng đều khóc chạy về vì lạnh. Chỉ có người Nga chịu lạnh tốt mới ở lại được, cho nên thành địa bàn của Nga. Mọi người đều nghĩ chỉ có thằng ngu với mua mảnh đất chó ăn đá gà ăn sỏi này về.

Sau khi nội chiến Nam Bắc kết thúc, Nga đốt tiền quá nhiều trong chiến tranh Crimea, vội chạy tới gạ bán Alaska cho Mỹ. Để thúc giục người Mỹ mau chi tiền, thậm chí Nga còn bỏ tiền mua truyền thông Mỹ khen Alaska đáng giá blah blah. Năm 1867, Ngoại trưởng Mỹ Seward thử ra giá: 7,2 triệu đô. Nga lập tức bắt tay: Chốt đơn!

Alaska rộng 1,7 triệu km2, tính ra mỗi km2 có giá 4,74 USD.

Sau đó thì sao? Alaska phát hiện mỏ vàng Fortknox, mỏ vàng Pogo, mỏ vàng Placer, mỏ than Usibelli, và trữ lượng dầu mỏ ít nhất 7,2 tỷ thùng.

Sau khi mua rẻ được Alaska, Mỹ lại cắm đầu cắm cổ phát triển hơn 20 năm. Khoảng năm 1900, GDP Mỹ chính thức vượt qua Anh. Với tính cách của người Anh sẽ không thể bỏ qua cho một nước thuộc địa giờ lại dám ngồi lên đầu mình. Nhưng lúc này Anh lại gặp phải mối đe dọa từ Đức. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, sản lượng công nghiệp của Đức đã vượt qua Anh, từ năm 1890 bắt đầu cướp thuộc địa của Anh trê toàn cầu. Thế là Anh tạm gác lại ân oán với Mỹ, tập trung xử lý Đức, cuối cùng dẫn đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, 30 năm sau lại đến chiến tranh thế giới lần thứ hai.

8. Âm thầm lớn mạnh, tẩy trắng lịch sử, truyền bá giá trị quan kiểu Mỹ

Sau khi trở thành một cường quốc, Mỹ chưa vội gáy ngay mà dùng Tây Ban Nha để test thực lực của mình trước đã.

Khi đó Cuba là thuộc địa của Tây Ban Nha, phong trào cách mạng bị Tây Ban Nha đàn áp dã man. Năm 1898, Mỹ đưa tàu chiến Maine từ Florida tới Havana để lí do bảo vệ kiều dân Mỹ trước các hoạt động đàn áp của thực dân Tây Ban Nha. 9h tối ngày 15 tháng 2, tàu Maine đột nhiên nổ tung, chìm nghỉm, khiến 266 người chết. Nhưng khi nổ tất cả sĩ quan đều ở trên bờ, trên tàu chỉ có các thủy thủ và 2 sĩ quan. Mỹ một mực khẳng định là người Tây Ban Nha làm, sau một hồi tranh cãi, hai bên tuyên chiến. Sau ba (vâng, 03) phút đấu pháo kịch liệt, hải quân Tây Ban Nha thua chạy re kèn. Mỹ tiện đường chạy đến châu Á, tiêu diệt luôn hạm đội Tây Ban Nha tại Philippines.

Tây Ban Nha bị ép rút khỏi Cuba, cắt Puerto Rico và đảo Guam cho Mỹ, bán Philippines cho Mỹ với giá 20 triệu USD. Từ đó Tây Ban Nha trở thành một quốc gia top 2, không còn cơ hội chen vào top 1 nữa.

Đến bây giờ Puerto Rico và Guam vẫn là thuộc địa của Mỹ, nhưng gọi thuộc địa thì không hay, mà gọi là Puerto Rico thuộc Mỹ, Guam thuộc Mỹ.

Mỹ có cách nghĩ khác châu Âu, không có hứng thú gì với thuộc địa kiểu cũ. Mỹ không thích cai quản người Mexico, người Philippines, người Ấn Độ, vì không rảnh háng đến mức đó. Đối với một mảnh đất nào đó, Mỹ chỉ cần thị trường và tài nguyên, còn lại không có nhu cầu cai quản nó, biến nó thành thuộc địa kiểu mới bằng cách khống chế kinh tế, tài chính và cải tạo văn hóa tư tưởng là được.

Mỹ đánh Tây Ban Nha không phải vì đất đai hay dân số, mà là để mở rộng thị trường, làm cho nhiều người mua hàng Mỹ hơn. Lúc này, Mỹ đang sản xuất một nửa sản phẩm công nghiệp của toàn cầu.

Vì vị trí địa lí đặc thù, hai cuộc thế chiến đầu cách xa Mỹ. Châu Âu bị đánh tan hoang, rất nhiều nhà khoa học, tập đoàn tư bản đều chạy về Mỹ, khiến Mỹ lại càng thêm phát triển.

Sau sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ đã vượt xa Anh, Anh vay Mỹ rất nhiều tiền, quân đội Anh cũng suy yếu, không còn vốn liếng gì để cạnh tranh với Mỹ nữa, nên ngoan ngoãn dâng ngôi vị bá chủ toàn cầu cho Mỹ.

Tóm lại, vận mệnh quốc gia của Mỹ thực sự tốt, Mỹ đã quá may mắn, một phần cũng là nhờ vị trí địa chính trị của Mỹ.

Mỹ giành độc lập là nhờ có Pháp. Mỹ mua được đất của Pháp, của Nga cũng vì Pháp, Nga bận đánh nhau với Anh, thiếu tiền phải bán cho Mỹ. Mỹ lẽ ra phải quyết một trận sống mái, tranh giành ngôi bá chủ với Anh thì bỗng dưng Đức lại nhảy ra thách thức Anh. Vốn là cuộc chiến giữa số 1 (Anh) với số 2 (Mỹ) để xem thằng nào mới là đại ca, thì tự dưng ông số 3 (Đức) lại loi choi, để số 1 với số 2 hùa vào tẩn cho, Mỹ tránh được một cuộc soán ngôi đẫm máu.

Trong quá trình trỗi dậy, Mỹ cũng dựa vào xâm lược, ăn cắp bản quyền, tàn sát người Anh điêng, phản bội ân nhân Pháp, cũng không hề vinh dự gì. Nhưng sau khi trở thành siêu cường, Mỹ bắt đầu tẩy trắng bản thân.

Mà không chỉ có Mỹ, các nước khác cũng đều tự tẩy trắng lịch sử của mình, lịch sử nào mà chẳng có vết ố. Thế nên người ta mới nói, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn. Và lợi ích của nước này thường lại là thua thiệt của nước khác. Vì vậy, Mỹ hay nước nào thì cũng đều có tốt có xấu cả, đừng lên mặt với nước khác là ta đây tốt hơn, hay hơn, công bằng hơn, bình đẳng hơn, tự do hơn, dân chủ hơn, nên phải xuất khẩu ra cho các nước khác học theo mà làm gì.
(Nguồn: weibo.com, qq.com, weixin.com)
Có đủ bản full ko che rồi mà, cụ vào link này đặt mua nè:


FB group: Thích đọc sách
FB_IMG_1673298662434.jpg


📚 Chiến Tranh Tiền Tệ (Trọn bộ 5 tập)
📕 Chiến Tranh Tiền Tệ Tập 1
“Chiến tranh tiền tệ - Ai thật sự là người giàu nhất thế giới” đề cập đến một cuộc chiến khốc liệt, không khoan nhượng và dai dẳng giữa một nhóm nhỏ các ông trùm tài chính – đứng đầu là gia tộc Rothschild – với các thể chế tài chính của nhiều quốc gia. Đó là một cuộc chiến mà đồng tiền là súng đạn và mức sát thương thật sự ghê gớm.
📕 Chiến Tranh Tiền Tệ Tập 2
Mục đích của cuốn sách này không phải là để dạy bạn cách đầu tư, cách phân bổ tài sản hay dạy một bộ phương pháp đối phó tiền tệ điển hình. Cuốn sách này nhằm trả lời những câu hỏi từ lâu đã khiến chúng ta bối rối và chưa được giải đáp: Tại sao tiền tệ lại có xung đột?
📕 Chiến Tranh Tiền Tệ Tập 3
Sau hai cuốn đầu tiên lần lượt diễn giải lịch sử phát triển tài chính của Hoa Kỳ và châu Âu, tác giả đặt mục tiêu cho phần 3 vào Trung Quốc, bắt đầu từ Chiến tranh nha phiến,
📕 Chiến Tranh Tiền Tệ Tập 4:
Siêu Cường Về Tài Chính - Tham Vọng Về Đồng Tiền Chung Châu Á
Cuốn sách tiếp nối dòng câu chuyện về trận chiến tranh giành bá quyền tài chính thế giới, bắt đầu bằng nỗ lực lật đổ bá quyền đồng bảng Anh của đồng đô la Mỹ và cuộc phản công của đồng bảng Anh. Cuộc đấu tranh gay gắt giữa đồng đô la và đồng bảng Anh đã tạo ra một khoảng trống quyền lực tài chính thế giới trong những năm 1930, làm trầm trọng thêm cuộc Đại suy thoái trên toàn thế giới. Thế lực “Hợp chúng quốc châu Âu” cũng dần được thống nhất và trỗi dậy như một siêu cường tài chính.
📕 Chiến tranh tiền tệ tập 5 :
“Tương lai của tiền tệ thế giới – Bình yên trước giông bão” là phần cuối cùng trong series đình đám “Chiến tranh tiền tệ” được rất nhiều độc giả yêu thích và đánh giá cao.
Năm năm sau khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 kết thúc, các ý kiến về định hướng tương lai của nền kinh tế thế giới vẫn bị chia rẽ rất nhiều. Chính sách QE – nơi lỏng định lượng ở Mỹ có hiệu quả không? Tiền tệ toàn cầu phát hành quá mức rốt cuộc là phúc hay họa? Thị trường tài chính đang dần trở nên an toàn hay ngày càng nguy hiểm? Đà phục hồi kinh tế đang diễn ra ổn định hay chỉ là ánh chớp lóe lên rồi vụt tắt?
Trọng của cuốn Chiến tranh tiền tệ 5 biến các khái niệm “phân phối của cải” thành một con dao giải phẫu để mổ xẻ các hoạt động kinh tế, tiến hành so sánh xuyên thời gian và không gian giữa “giấc mơ Mỹ” ngày nay với “giấc mơ La Mã” và “giấc mơ triều Tống” trong lịch sử, đồng thời cung cấp một hệ quy chiếu lịch sử cho “giấc mơ Trung Hoa” trong tương lai.
Cuốn sách tập trung vào phân tích hiện trạng của nền kinh tế Mỹ và đồng đô la thông qua thị trường vàng, thị trường chứng khoán, cũng như tìm hiểu dòng vốn thông qua thị trường trái phiếu, khám phá lĩnh vực tài chính thông qua thị trường mua lại, tìm hiểu căn nguyên các cuộc khủng hoảng thông qua lãi suất, bất dộng sản, thị trường việc làm…
Ngoài ra, cuốn sách còn mở rộng tầm quan sát của độc giả đến giai đoạn những năm 2000, từ quan sát cận cảnh nền kinh tế Mỹ cho đến giai đoạn đánh giá và nắm bắt ngọn nguồn trong lịch sử, từ đó phục dựng lại một cách chân thực nhất mô hình của quá trình suy vong, từ đó hiểu được bản chất của tiền tệ cùng những định hướng, hướng đi trong tương lai.
có bản PDF không cụ
 

Tứ Vô Lượng

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-554568
Ngày cấp bằng
19/2/18
Số km
5,820
Động cơ
250,960 Mã lực
Em thấy cái 1 không đúng với nước Mỹ. Vốn dĩ nước Mỹ không có cái gọi là dân tộc Mỹ. Nếu dân tộc Mỹ là dân da đỏ thì nay nằm trong các khu bảo tồn.
Suy ra toàn thế giới cũng không hẳn đúng.
Lợi ích của giới cầm quyền( thống trị) mới đúng. Cái gọi là lợi ích dân tộc thực tế chẳng qua là lợi ích của tầng lớp thống trị trùng lặp với lợi ích của dân tộc.
Dân tộc có thể chia tách sáp nhập pha máu từ xưa đến nay đâu cố định. Dân tộc có thể dịch là ethnic hay people (nhân dân) cũng đúng. Tức là người dân sống ở trên đất đó 1 thời gian đủ lâu để nắm lấy chủ quyền.
 

dinhngocthach

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-302004
Ngày cấp bằng
17/12/13
Số km
130
Động cơ
310,581 Mã lực
Dân tộc có thể chia tách sáp nhập pha máu từ xưa đến nay đâu cố định. Dân tộc có thể dịch là ethnic hay people (nhân dân) cũng đúng. Tức là người dân sống ở trên đất đó 1 thời gian đủ lâu để nắm lấy chủ quyền.
Đó là do cụ phịa thế thôi. Chứ em thấy rõ ràng không có dân tộc Mỹ ( tính cho đến hiện tại)
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
3,277
Động cơ
367,409 Mã lực
Hồi đó dắt díu nhau sang vùng đất hoang Viễn Tây cũng liều mạng đó, mình đến bảo tàng hàng hải Anh hay các bảo tàng viễn Tây của Mỹ đều cảm nhận là: Tại sao Anh mạnh "mặt trời ko bao giờ lặn trên đất đế quốc Anh"?, vì ngày xưa chưa có phương tiện hàng hải mà người Anh đã đi biển khắp nơi dù va đá ngầm sóng gió bão bùng lạc hướng chết như rạ. Mỹ cũng khai phá miền Mississippi, viễn Tây vv với sự liều lĩnh vô pháp vô thiên. Đó là những dân tộc trí tuệ và dũng cảm.

P/s. Còn tàn sát thổ dân thì câu chuyện khác.
Em copy lại một bài bên thớt Nga Ukraine

=======
Súng đạn trong lịch sử và văn hóa Mỹ

(Hôm qua em vừa hứa viết bài về súng đạn tại Mỹ hầu các cụ xong thì bị cắt tầng. Hi vọng đăng xong không bị cắt tiếp)

Theo trang lưu trữ trực tuyến chuyên theo dõi các vụ bạo lực súng đạn ở Mỹ có tên Gun Violence Archive, chưa đầy 300 ngày kể từ năm 2022, đã có hơn 464 vụ xả súng. Trong số các quốc gia có số người chết vì súng nhiều nhất tính trên đầu người, Mỹ đứng đầu bảng xếp hạng với 48.832 nạn nhân vào năm 2021. Mỹ cũng đứng đầu về số lượng súng ống mà dân thường sở hữu, với 120,5 khẩu trên 100 người. Bạo lực súng đạn là một trong những vấn đề nghiêm trọng, kéo dài và khó giải quyết nhất ở Mỹ. Những vụ xả súng liên tiếp xảy ra hàng năm tại Mỹ cho thấy bạo lực súng đạn vẫn là nỗi ám ảnh đối với người dân Mỹ và làm dấy lên cuộc tranh luận cũng như gây chia rẽ sâu sắc trong chính trường về vấn đề kiểm soát súng đạn.

Sau mỗi vụ xả súng nghiêm trọng, Tổng thống Mỹ và các quan chức cao cấp đều lên tiếng, bày tỏ sự kinh ngạc và đau lòng, thương xót các nạn nhân, tuyên bố phải thay đổi hiện trạng, ngăn cản bi kịch tái diễn, tuyên bố treo cờ rủ tưởng nhớ các nạn nhân, đốt nền đặt hoa các kiểu. Sau đó, tình hình vẫn vậy, các vụ xả súng vẫn diễn ra ngày một nhiều hơn, ngày một nghiêm trọng hơn, lại tiếp tục đau lòng, lại tiếp tục đặt hoa, thắp nến.

Vì sao Mỹ vĩnh viễn không giải quyết được vấn đề này? Bởi vì ngọn nguồn của nó đến từ thời dựng nước hàng trăm năm trước, đến từ văn hóa súng đạn của người Mỹ, của nước Mỹ.

Khi nghiên cứu về lịch sử văn minh Mỹ, mọi người thường nhắc đến Mayflower. Mayflower là tên của một con tàu buồm đi vào lịch sử Mỹ khi một nhóm người bỏ nước Anh sang lập nghiệp ở thế giới mới, tổng cộng có 102 người cộng thêm 30 thuyền viên. Họ đặt chân đến Mỹ để bắt đầu một đời sống mới vào cuối năm 1620. Tuy nhiên những người trên Mayflower chỉ là một nhóm rất nhỏ trong số những người từ châu Âu đi tới Bắc Mỹ, hoàn toàn không phải khởi đầu, cũng hoàn toàn không phải kết thúc. Những thứ chúng ta học trong môn lịch sử ở trường có rất nhiều được nhìn từ góc nhìn của những kẻ thực dân phương Tây. Ngay cả cách nói Columbus tìm ra thế giới mới cũng là không chính xác.

Năm 1003, người Viking chiếm đảo Greenland, sau đó tìm cách đi tới đại lục Bắc Mỹ. Nhưng khi đó Bắc Mỹ là của người Anh điêng, mấy trăm tên cướp biển Viking không đánh nổi những thổ dân Anh điêng, chỉ có thể mò lên bờ biển Newfoundland cướp bóc một mẻ rồi té. Newfoundland ở đây, từ cái tên đã có thể thấy rõ rất nhiều điều.



Sau 300 năm trộm cướp ở Newfoundland, đến thế kỉ 14, thời tiết lạnh dần. Năm 1424, người Viking gửi bức thư cuối cùng đến Iceland, sau đó dần dần diệt vong, biến mất trong sông dài lịch sử. 68 năm sau, Columbus mới đi tới châu Mỹ.

Nói một cách chính xác, năm 1492 không phải Columbus phát hiện đại lục mới, mà là năm khởi đầu của quá trình người châu Âu xâm lấn châu Mỹ thành công. Trước đó châu Mỹ đã được phát hiện, nhưng người châu Âu không xâm lấn thành công mà thôi.

Suốt 300 năm, người Viking với vũ khí lạnh không làm được gì nhiều. Nhưng lần này thì khác, bởi vì trong tay người châu Âu có SÚNG.

Với súng đạn trong tay, việc cướp bóc thuận lợi hơn nhiều. Người châu Âu cầm các loại đồ vô giá trị đến gặp người Anh điêng đổi lấy vàng. Người Anh điêng không đổi, bòm bòm bòm, đốt nhà, giết người, cưỡng hiếp phụ nữ. Người Anh điêng ngày càng lui lại.

Phát hiện đại lục mới là góc nhìn của kẻ thực dân châu Âu, đại lục châu Mỹ vẫn ở đó từ xa xưa, trên đó có dân bản xứ đang sống yên lành. Người châu Âu tìm đến giết người phóng hỏa, còn bắt dân bản xứ cảm ơn mình đến khai hóa văn minh. Cao cả đến thế là cùng.

Trước đó người châu Âu đã cố gắng "khai hóa văn minh" châu Phi, nhưng xứ sở này rừng thiêng nước độc, người châu Âu đến nơi đa số không sống quá một năm, các loại bệnh tật, côn trùng, rắn rết khiến họ phải chùn bước. Còn châu Á? Châu Á hay đấy, nhưng văn minh châu Á khi đó đã khá rực rỡ, hơn nữa đường đến châu Á lại bị anh Đồ Gàn, à quên, đế quốc Ottoman chặn ngang, muốn đi qua phải nạp tiền mãi lộ. Lúc này người Tây Ban Nha tìm được một đại lục mới, tốt hơn châu Phi nhiều, đất đai màu mỡ, hoang vắng ít người, thời tiết phù hợp, thế là người châu Âu tới tấp chạy đến thực dân châu Mỹ.

Khi đó Tây Ban Nha đang trên đỉnh cao, Anh, Pháp tuổi tí, chỉ có thể nhường Tây Ban Nha chiếm hết chỗ tốt. Châu Mỹ Latinh là xứ nhiệt đới, đất đai màu mỡ, có nhiều mỏ bạc, đương nhiên là của Tây Ban Nha. Vì vậy các nước châu Mỹ Latinh hiện nay đều theo đạo Thiên Chúa, nói tiếng Tây Ban Nha, còn Bồ Đào Nha anh em cũng được chia một ít.

Không chỉ ở Nam Mỹ, Tây Ban Nha còn chiếm các vùng ở Bắc Mỹ nay là Florida, Texas, New Mexico. Nhưng sau đó Tây Ban Nha yếu dần, Anh, Pháp trỗi dậy, bắt đầu tranh giành Bắc Mỹ, xây dựng đế quốc mặt trời không bao giờ lặn. Năm 1607, Anh bắt đầu xây dựng Virginia, năm 1608 Pháp đã chiếm Quebec. Năm 1682, Pháp lại chiếm Louisiana, sau đó lan dần khắp Canada.

Quebec.png


Lúc này ở xứ nào đó, vua Lê chúa Trịnh vẫn đang chia nhau cát cứ, còn người ta đã tranh giành địa bàn khắp thế giới.

Ban đầu Anh Pháp chung sống hòa bình, việc ai nấy làm, đất ai nấy cướp. Sau đó Chiến tranh Bảy Năm nổ ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover, Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga, Thụy Điển và Vương quốc Sachsen ở phía còn lại. Anh biết đánh không lại Pháp trên đất liền, nhưng trên biển thì Pháp kém hơn nhiều. Anh có 156 tàu chiến, còn Pháp chỉ có 77, thế là Anh cứ nhằm vào các thuộc địa của Pháp mà đánh, đến 1763, hai bên kí hòa ước Paris, Pháp từ bỏ Ấn Độ, Canada, Mississippi, rút khỏi cạnh tranh toàn cầu.

Năm 1620, con tàu Mayflower đến Bắc Mỹ, nhưng lịch sử chính thống của Mỹ vẫn coi năm 1607 là nằm đầu tiên của lịch sử đất nước. Năm 1607, 105 người Anh mang theo lệnh của vua, lên tàu từ London, đi trên biển 144 ngày đến một vùng đầm lầy ở đông nam Virginia. Mục đích chính là cướp vàng, mục đích phụ là chiếm địa bàn. Sau khi lên bờ, họ bỏ ra 20 ngày xây một tòa thành gọi là Jamestown để đề phòng người Anh điêng tấn công. Sau khi yên ổn, người Anh ở Jamestown bắt đầu trồng thuốc lá, nhưng không tự tay trồng mà đưa nô lệ da đen từ châu Phi đến làm việc. Năm 1619, loạt nô lệ đầu tiên từ châu Phi được đưa đến. Cùng năm, những người Anh ở đây mở hội nghị lập pháp lần đầu tiên tại vùng thuộc địa Bắc Mỹ. Jamestown sau đó trở thành thủ phủ của Virginia, nhưng bởi vì loạn lạc bị san thành đất bằng. Jamestown là khởi nguồn của Virginia, Virginia là khởi nguồn của những Mỹ, là nơi sinh ra 4 trong 5 tổng thống đầu tiên của Mỹ là Washington, Jefferson, Madison, Monroe. Thành Jamestown, nông nghiệp, chế độ nô lệ mới là khởi đầu của nước Mỹ.

Năm 1629, người Anh điêng bị giết chóc, bị xua đuổi, người Anh xây dựng vùng thuộc địa hứ hai ở bên bờ sông Piscataqua, chính là New Hampshire. Sau đó vua Anh phái người đến càng ngày càng nhiều, sau hơn một trăm năm, đến năm 1732, 13 bang phía đông nước Mỹ lần lượt hình thành. Lúc này, những gì có thể gọi là nước Mỹ chỉ có như thế này:


Năm 1760, tại 13 bang tổng cộng có 1,2 triệu người da trắng. 400 nghìn nô lệ da đen làm việc quần quật để nuôi những người da trắng, cũng là thủy tổ của đại đa số người da đen ở Mỹ hiện nay. Từ ngày đầu tiên dựng nước, người da trắng và người da đen ở Mỹ đã là hai tầng lớp. Và cho đến nay cũng không khác xưa là mấy.

Nhìn bản đồ 13 bang có thể thấy toàn bộ nằm ở một dải hẹp ven biển phía đông. Nguyên nhân là bên trái có dãy núi Appalachian chặn đứng. Dãy núi Appalachian dài 3.000 km tạo thành một hiện tượng địa lí đặc biệt cho khu vực phía đông. Địa thế đột nhiên hạ thấp, sống suối từ núi cao chảy xuống đồng bằng hình thành rất nhiều thác nước. Những người châu Âu đầu tiên đến Mỹ đã biết lợi dụng sức nước, định cư gần các thác nước, tạo guồng nước, nhà xay bột, xưởng cưa, máy dệt cũng đều sử dụng sức nước. Vì vậy hiện nay thủ phủ các bang phía đông của Mỹ đều nằm ở gần các thác nước. New York và thủ đô Washington cũng không phải là ngoại lệ.

Năm 1783, Anh thất bại trong chiến tranh độc lập, ngoài 13 bang phía đông, Anh còn thừa nhận toàn bộ vùng đất phía tây núi Appalachian, phía nam Ngũ Hồ, phía bắc sông Mississippi thuộc về Mỹ. Lãnh thổ Mỹ vượt qua dãy núi Appalachian, diện tích mở rộng gấp đôi. Năm 1803, Mỹ bỏ ra 15 triệu USD, mua lại Louisiana với diện tích hơn 2 triệu km2 từ tay Napoléon. Trong vòng 20 năm ngắn ngủi, Mỹ đột nhiên biến thành một nước lớn với lãnh thổ 5 triệu km2. Vì vậy người Mỹ có rất nhiều đất đai miền tây cần khai khẩn. Con người đi khai phá miền tây còn phải có công cụ, vật tư đi theo.

1200px-Map_of_USA_highlighting_Great_Lakes_region.svg.png


Từ vùng Ngũ Hồ muốn ra biển phải đi qua sông Saint Laurent của Canada, một thuộc địa của Anh. Để cướp đường ra biển qua sông Saint Laurent, Mỹ đưa 1.500 quân tấn công Canada, tháng 4/1838 chiếm được thủ đô Canada là Toronto hiện nay. Sau đó Napoléon chiến bại, người Anh rảnh tay đối phó Mỹ, đưa 12.000 quân sang Canada đánh thốc xuống, Washington thất thủ, cả nhà Quốc hội lẫn Nhà Trắng bị thiêu hủy. Nhưng quân Anh không có hứng thú gì với Washington, sau khi chiếm 26 tiếng liền rút về Canada.

Chính là bởi vì đánh không lại quân Anh ở Canada, vùng Ngũ Hồ không có đường ra biển, Mỹ phải thi công kênh đào Erie, đồng thời bỏ ý định mở rộng lên bắc, quay sang bắt nạt Mexico ở hướng tây nam.

Khi đó chưa có tàu hỏa, đi đường bộ từ Buffalo đến New York, chở một tấn hàng mất 120 USD. Chi phí này quá cao, thế là Mỹ quyết định làm kênh đào Erie dài 584 km trong vòng 8 năm. Tổng đầu tư xây dựng kênh đào Erie là 7 triệu USD, một con số cực cao lúc bấy giờ. Để huy động tài chính, Mỹ phát hành công trái Erie tại phố Wall, New York. Sau khi xây xong, giá thành vận chuyển từ 120 USD giảm xuống còn 6 USD/tấn. Trái phiếu lên giá, các nhà đầu tư châu Âu cũng đổ về phố Wall, phố Wall dần dần trở thành trung tâm tài chính thế giới. Cảng New York cũng trở thành trung tâm logistics. Năm 1800, toàn Mỹ chỉ có 6% hàng hóa đi qua New York. Năm 1860, tăng đến 62%. Dân số New York cũng từ 120 nghìn tăng đến hơn 1 triệu, vượt qua Philadelphia và Boston, trở thành thành phố lớn nhất nước Mỹ. Nhờ hệ thống kênh đào, khu vực Ngũ Hồ giao thông thuận lợi hơn nhiều, trở thành khu công nghiệp đầu tiên của Mỹ, các thành phố Chicago, Detroit, Cleveland, Pittsburgh lần lượt hình thành.

Mỹ ngày càng phát triển, đất đai rộng rãi, từ năm 1842, mỗi năm có ít nhất 100 nghìn người từ châu Âu đến Mỹ kiếm ăn. Sau khi Anh chinh phục Ireland, nạn đói lan rộng làm hơn 1 triệu người Ireland chết đói. Mẫu quốc Anh không những không cứu mà còn nhân cơ hội thu mua nhà cửa, ruộng đồng tại Ireland. Người Ireland lang bạt khắp nơi, trong đó đại bộ phận đi đến Mỹ với 1,2 triệu người. Đến nay có 40 triệu người Mỹ là hậu duệ của người Ireland, trong đó có Clinton và Obama.
Từ năm 1852 đến 1854, 500 nghìn người Đức đến Mỹ để tránh loạn trong nước. Người Pháp và Italia cũng di cư đến Mỹ để né tránh cách mạng trong nước. Trong thời gian ngắn, Mỹ nhận thêm hơn 2 triệu người di cư.

Người da trắng cũng có đẳng cấp phân chia. Hạng nhất là người Anglo-Saxon, hạng nhì là người Pháp - Đức, hạng ba là Tây - Bồ - Ý, hạng bét là người Ireland và Đông Âu.

Tự dưng hơn 2 triệu người tràn vào miền đông, quá chật chội, phải làm sao bây giờ? Đơn giản: Đi miền tây khai phá. Nhưng bây giờ mới chỉ có đường thủy đi đến Ngũ Hồ, làm sao đi đến miền tây? Cũng đơn giản: Làm đường sắt.

Miền tây vốn là một thế giới hoang vu, trên danh nghĩa là thuộc địa của Pháp, trên thực tế vẫn là địa bàn của người Anh điêng và dã thú. Sau khi làm xong hai tuyến đường sắt chính, đường sắt nam bắc từ Chicago xuống New Orleans, đường sắt đông tây từ New York sang Los Angeles, người Đức, người Ireland đã có thể đi khắp miền tây. Đến nay người Mỹ gốc Đức có 58 triệu, là sắc tộc lớn nhất, còn hơn cả người Mỹ gốc Anh. Người gốc Đức vốn còn muốn giữ lại ngôn ngữ và văn hóa, nhưng trong WWI, Mỹ tuyên chiến với Đức, người Anglo-Saxon ở Mỹ cũng chèn ép người gốc Đức, đập phá cửa hàng của người gốc Đức, cấm nói tiếng Đức ở nơi công cộng, cuối cùng toàn bộ phải đổi sang nói tiếng Anh (nghe quen quen?). Những người Mỹ gốc Đức nổi tiếng Eisenhower, Nimitz thời WWII, Pershing thời WWI, đều cầm quân đánh Đức sụm xương sống, không còn luyến lưu gì cố quốc.

Để khai khẩn miền tây hoang dã, năm 1800, Mỹ quy định giá bán đất ở miền tây là 2 USD một mẫu, nhưng không ai thèm mua. 20 năm sau, giá giảm xuống 1,25 USD một mẫu Anh, vẫn không có người mua. Năm 1832, giá còn 0,5 USD một mẫu, nhưng không ai chịu đi làm dã nhân. Năm 1863, Mỹ cắn răng phá giá, 10 USD 160 mẫu. Lần này vừa khéo có rất nhiều người Ireland, Đức, Pháp, Ý tràn vào, không đi cũng phải đi.

Lịch sử khai phá miền tây của Mỹ là một lịch sử đẫm máu. Các thị trấn nhỏ được xây dựng bên đường ray, đường ray là liên hệ duy nhất giữa thị trấn với bên ngoài. Pháp luật cũng chỉ tồn tại trong phạm vi thị trấn, ai phạm tội liền chạy ra khỏi thị trấn là xong. Ai muốn bắt thì bỏ tiền thuê thợ săn tiền thưởng ra đời. Cảnh sát chỉ phụ trách an ninh trong thị trấn, nhưng nếu có người bỏ tiền thuê, cảnh sát cũng có thể trở thành thợ săn tiền thưởng.

Ra khỏi thị trấn chính là miền tây hoang dã mênh mông, với thung lũng, thảo nguyên, núi cao, tuyết trắng, có kẻ cướp, người Anh điêng, thú dữ, bò cạp. Từ ngày đầu tiên đổ bộ lên Bắc Mỹ, người châu Âu (cũng chính là người Mỹ sau này) đã cần súng để xua đuổi người Anh điêng và thú dữ, xây dựng thành phố đầu tiên, sau đó cầm súng chống lại mẫu quốc để tuyên bố độc lập, đến khi tây tiến lại cầm súng để xâm lược và tự vệ. Lúc này ở miền tây không có pháp luật và cơ quan chấp pháp hoàn thiện, chỉ có súng mới có thể cho người Mỹ cảm giác an toàn.

Năm 1787, Hiến pháp Mỹ quy định công dân có thể sở hữu và mang theo súng. Súng không phải là để bảo vệ tự do hay dân chủ, mà để bảo vệ tài sản tư nhân và an toàn tính mạng của người Mỹ. Từ châu Âu xa xôi vạn dặm đến đây, dùng súng xây dựng 13 bang miền đông làm bàn đạp, lại dùng súng đến miền tây chiếm lĩnh đất đai, trồng lúa mì, chăn bò, làm bạn với dã thú, xung quanh không làng không quán, đất hoang biến thành ruộng đồng màu mỡ, tất cả những thứ này là của họ, là tài sản tư hữu của họ. Ai dám động vào, trước hết phải hỏi khẩu súng trong tay họ có đồng ý hay không.


Từ năm 1607, tổ tiên của người Mỹ tới Jamestown, từng bước đi về phía tây, đến thác nước, qua dãy núi Appalachian, xây kênh đào Erie, phát triển khu vực Ngũ Hồ, tiếp tục đi mãi về tây, cuối cùng hình thành nước Mỹ ngày nay. Trong quá trình này, chính phủ Mỹ làm gì? Đào kênh, làm đường sắt, chấm hết. Toàn bộ là do những người Mỹ với khẩu súng trong tay, giết người Anh điêng, xua đuổi dã thú, chống lại kẻ cướp, tự phát định cư, khai khẩn, xây dựng thị trấn, thành phố, thành lập các bang. Tài sản của bố mày là do tổ tiên bố mày đổ máu đánh đổi, do bố mày đổ máu bảo vệ, ai cũng đừng hòng động vào, kể cả có là liên bang. Súng là để bảo vệ tài sản tư hữu của bố mày, liên bang được thành lập cũng là để bảo vệ tài sản tư hữu của bố mày. Liên bang có thể không cần, nhưng súng thì nhất định phải có.

Thế nên, súng ống đã là một phần không thể thiếu của lịch sử Mỹ, văn hóa Mỹ. Bất kể xảy ra bao nhiêu vụ nổ súng nữa, bất kể có bao nhiêu người chết vì súng, Mỹ cũng tuyệt đối không bao giờ cấm súng!
 

Tứ Vô Lượng

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-554568
Ngày cấp bằng
19/2/18
Số km
5,820
Động cơ
250,960 Mã lực
Em copy lại một bài bên thớt Nga Ukraine

=======
Súng đạn trong lịch sử và văn hóa Mỹ

(Hôm qua em vừa hứa viết bài về súng đạn tại Mỹ hầu các cụ xong thì bị cắt tầng. Hi vọng đăng xong không bị cắt tiếp)

Theo trang lưu trữ trực tuyến chuyên theo dõi các vụ bạo lực súng đạn ở Mỹ có tên Gun Violence Archive, chưa đầy 300 ngày kể từ năm 2022, đã có hơn 464 vụ xả súng. Trong số các quốc gia có số người chết vì súng nhiều nhất tính trên đầu người, Mỹ đứng đầu bảng xếp hạng với 48.832 nạn nhân vào năm 2021. Mỹ cũng đứng đầu về số lượng súng ống mà dân thường sở hữu, với 120,5 khẩu trên 100 người. Bạo lực súng đạn là một trong những vấn đề nghiêm trọng, kéo dài và khó giải quyết nhất ở Mỹ. Những vụ xả súng liên tiếp xảy ra hàng năm tại Mỹ cho thấy bạo lực súng đạn vẫn là nỗi ám ảnh đối với người dân Mỹ và làm dấy lên cuộc tranh luận cũng như gây chia rẽ sâu sắc trong chính trường về vấn đề kiểm soát súng đạn.

Sau mỗi vụ xả súng nghiêm trọng, Tổng thống Mỹ và các quan chức cao cấp đều lên tiếng, bày tỏ sự kinh ngạc và đau lòng, thương xót các nạn nhân, tuyên bố phải thay đổi hiện trạng, ngăn cản bi kịch tái diễn, tuyên bố treo cờ rủ tưởng nhớ các nạn nhân, đốt nền đặt hoa các kiểu. Sau đó, tình hình vẫn vậy, các vụ xả súng vẫn diễn ra ngày một nhiều hơn, ngày một nghiêm trọng hơn, lại tiếp tục đau lòng, lại tiếp tục đặt hoa, thắp nến.

Vì sao Mỹ vĩnh viễn không giải quyết được vấn đề này? Bởi vì ngọn nguồn của nó đến từ thời dựng nước hàng trăm năm trước, đến từ văn hóa súng đạn của người Mỹ, của nước Mỹ.

Khi nghiên cứu về lịch sử văn minh Mỹ, mọi người thường nhắc đến Mayflower. Mayflower là tên của một con tàu buồm đi vào lịch sử Mỹ khi một nhóm người bỏ nước Anh sang lập nghiệp ở thế giới mới, tổng cộng có 102 người cộng thêm 30 thuyền viên. Họ đặt chân đến Mỹ để bắt đầu một đời sống mới vào cuối năm 1620. Tuy nhiên những người trên Mayflower chỉ là một nhóm rất nhỏ trong số những người từ châu Âu đi tới Bắc Mỹ, hoàn toàn không phải khởi đầu, cũng hoàn toàn không phải kết thúc. Những thứ chúng ta học trong môn lịch sử ở trường có rất nhiều được nhìn từ góc nhìn của những kẻ thực dân phương Tây. Ngay cả cách nói Columbus tìm ra thế giới mới cũng là không chính xác.

Năm 1003, người Viking chiếm đảo Greenland, sau đó tìm cách đi tới đại lục Bắc Mỹ. Nhưng khi đó Bắc Mỹ là của người Anh điêng, mấy trăm tên cướp biển Viking không đánh nổi những thổ dân Anh điêng, chỉ có thể mò lên bờ biển Newfoundland cướp bóc một mẻ rồi té. Newfoundland ở đây, từ cái tên đã có thể thấy rõ rất nhiều điều.



Sau 300 năm trộm cướp ở Newfoundland, đến thế kỉ 14, thời tiết lạnh dần. Năm 1424, người Viking gửi bức thư cuối cùng đến Iceland, sau đó dần dần diệt vong, biến mất trong sông dài lịch sử. 68 năm sau, Columbus mới đi tới châu Mỹ.

Nói một cách chính xác, năm 1492 không phải Columbus phát hiện đại lục mới, mà là năm khởi đầu của quá trình người châu Âu xâm lấn châu Mỹ thành công. Trước đó châu Mỹ đã được phát hiện, nhưng người châu Âu không xâm lấn thành công mà thôi.

Suốt 300 năm, người Viking với vũ khí lạnh không làm được gì nhiều. Nhưng lần này thì khác, bởi vì trong tay người châu Âu có SÚNG.

Với súng đạn trong tay, việc cướp bóc thuận lợi hơn nhiều. Người châu Âu cầm các loại đồ vô giá trị đến gặp người Anh điêng đổi lấy vàng. Người Anh điêng không đổi, bòm bòm bòm, đốt nhà, giết người, cưỡng hiếp phụ nữ. Người Anh điêng ngày càng lui lại.

Phát hiện đại lục mới là góc nhìn của kẻ thực dân châu Âu, đại lục châu Mỹ vẫn ở đó từ xa xưa, trên đó có dân bản xứ đang sống yên lành. Người châu Âu tìm đến giết người phóng hỏa, còn bắt dân bản xứ cảm ơn mình đến khai hóa văn minh. Cao cả đến thế là cùng.

Trước đó người châu Âu đã cố gắng "khai hóa văn minh" châu Phi, nhưng xứ sở này rừng thiêng nước độc, người châu Âu đến nơi đa số không sống quá một năm, các loại bệnh tật, côn trùng, rắn rết khiến họ phải chùn bước. Còn châu Á? Châu Á hay đấy, nhưng văn minh châu Á khi đó đã khá rực rỡ, hơn nữa đường đến châu Á lại bị anh Đồ Gàn, à quên, đế quốc Ottoman chặn ngang, muốn đi qua phải nạp tiền mãi lộ. Lúc này người Tây Ban Nha tìm được một đại lục mới, tốt hơn châu Phi nhiều, đất đai màu mỡ, hoang vắng ít người, thời tiết phù hợp, thế là người châu Âu tới tấp chạy đến thực dân châu Mỹ.

Khi đó Tây Ban Nha đang trên đỉnh cao, Anh, Pháp tuổi tí, chỉ có thể nhường Tây Ban Nha chiếm hết chỗ tốt. Châu Mỹ Latinh là xứ nhiệt đới, đất đai màu mỡ, có nhiều mỏ bạc, đương nhiên là của Tây Ban Nha. Vì vậy các nước châu Mỹ Latinh hiện nay đều theo đạo Thiên Chúa, nói tiếng Tây Ban Nha, còn Bồ Đào Nha anh em cũng được chia một ít.

Không chỉ ở Nam Mỹ, Tây Ban Nha còn chiếm các vùng ở Bắc Mỹ nay là Florida, Texas, New Mexico. Nhưng sau đó Tây Ban Nha yếu dần, Anh, Pháp trỗi dậy, bắt đầu tranh giành Bắc Mỹ, xây dựng đế quốc mặt trời không bao giờ lặn. Năm 1607, Anh bắt đầu xây dựng Virginia, năm 1608 Pháp đã chiếm Quebec. Năm 1682, Pháp lại chiếm Louisiana, sau đó lan dần khắp Canada.

Quebec.png


Lúc này ở xứ nào đó, vua Lê chúa Trịnh vẫn đang chia nhau cát cứ, còn người ta đã tranh giành địa bàn khắp thế giới.

Ban đầu Anh Pháp chung sống hòa bình, việc ai nấy làm, đất ai nấy cướp. Sau đó Chiến tranh Bảy Năm nổ ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover, Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga, Thụy Điển và Vương quốc Sachsen ở phía còn lại. Anh biết đánh không lại Pháp trên đất liền, nhưng trên biển thì Pháp kém hơn nhiều. Anh có 156 tàu chiến, còn Pháp chỉ có 77, thế là Anh cứ nhằm vào các thuộc địa của Pháp mà đánh, đến 1763, hai bên kí hòa ước Paris, Pháp từ bỏ Ấn Độ, Canada, Mississippi, rút khỏi cạnh tranh toàn cầu.

Năm 1620, con tàu Mayflower đến Bắc Mỹ, nhưng lịch sử chính thống của Mỹ vẫn coi năm 1607 là nằm đầu tiên của lịch sử đất nước. Năm 1607, 105 người Anh mang theo lệnh của vua, lên tàu từ London, đi trên biển 144 ngày đến một vùng đầm lầy ở đông nam Virginia. Mục đích chính là cướp vàng, mục đích phụ là chiếm địa bàn. Sau khi lên bờ, họ bỏ ra 20 ngày xây một tòa thành gọi là Jamestown để đề phòng người Anh điêng tấn công. Sau khi yên ổn, người Anh ở Jamestown bắt đầu trồng thuốc lá, nhưng không tự tay trồng mà đưa nô lệ da đen từ châu Phi đến làm việc. Năm 1619, loạt nô lệ đầu tiên từ châu Phi được đưa đến. Cùng năm, những người Anh ở đây mở hội nghị lập pháp lần đầu tiên tại vùng thuộc địa Bắc Mỹ. Jamestown sau đó trở thành thủ phủ của Virginia, nhưng bởi vì loạn lạc bị san thành đất bằng. Jamestown là khởi nguồn của Virginia, Virginia là khởi nguồn của những Mỹ, là nơi sinh ra 4 trong 5 tổng thống đầu tiên của Mỹ là Washington, Jefferson, Madison, Monroe. Thành Jamestown, nông nghiệp, chế độ nô lệ mới là khởi đầu của nước Mỹ.

Năm 1629, người Anh điêng bị giết chóc, bị xua đuổi, người Anh xây dựng vùng thuộc địa hứ hai ở bên bờ sông Piscataqua, chính là New Hampshire. Sau đó vua Anh phái người đến càng ngày càng nhiều, sau hơn một trăm năm, đến năm 1732, 13 bang phía đông nước Mỹ lần lượt hình thành. Lúc này, những gì có thể gọi là nước Mỹ chỉ có như thế này:


Năm 1760, tại 13 bang tổng cộng có 1,2 triệu người da trắng. 400 nghìn nô lệ da đen làm việc quần quật để nuôi những người da trắng, cũng là thủy tổ của đại đa số người da đen ở Mỹ hiện nay. Từ ngày đầu tiên dựng nước, người da trắng và người da đen ở Mỹ đã là hai tầng lớp. Và cho đến nay cũng không khác xưa là mấy.

Nhìn bản đồ 13 bang có thể thấy toàn bộ nằm ở một dải hẹp ven biển phía đông. Nguyên nhân là bên trái có dãy núi Appalachian chặn đứng. Dãy núi Appalachian dài 3.000 km tạo thành một hiện tượng địa lí đặc biệt cho khu vực phía đông. Địa thế đột nhiên hạ thấp, sống suối từ núi cao chảy xuống đồng bằng hình thành rất nhiều thác nước. Những người châu Âu đầu tiên đến Mỹ đã biết lợi dụng sức nước, định cư gần các thác nước, tạo guồng nước, nhà xay bột, xưởng cưa, máy dệt cũng đều sử dụng sức nước. Vì vậy hiện nay thủ phủ các bang phía đông của Mỹ đều nằm ở gần các thác nước. New York và thủ đô Washington cũng không phải là ngoại lệ.

Năm 1783, Anh thất bại trong chiến tranh độc lập, ngoài 13 bang phía đông, Anh còn thừa nhận toàn bộ vùng đất phía tây núi Appalachian, phía nam Ngũ Hồ, phía bắc sông Mississippi thuộc về Mỹ. Lãnh thổ Mỹ vượt qua dãy núi Appalachian, diện tích mở rộng gấp đôi. Năm 1803, Mỹ bỏ ra 15 triệu USD, mua lại Louisiana với diện tích hơn 2 triệu km2 từ tay Napoléon. Trong vòng 20 năm ngắn ngủi, Mỹ đột nhiên biến thành một nước lớn với lãnh thổ 5 triệu km2. Vì vậy người Mỹ có rất nhiều đất đai miền tây cần khai khẩn. Con người đi khai phá miền tây còn phải có công cụ, vật tư đi theo.

1200px-Map_of_USA_highlighting_Great_Lakes_region.svg.png


Từ vùng Ngũ Hồ muốn ra biển phải đi qua sông Saint Laurent của Canada, một thuộc địa của Anh. Để cướp đường ra biển qua sông Saint Laurent, Mỹ đưa 1.500 quân tấn công Canada, tháng 4/1838 chiếm được thủ đô Canada là Toronto hiện nay. Sau đó Napoléon chiến bại, người Anh rảnh tay đối phó Mỹ, đưa 12.000 quân sang Canada đánh thốc xuống, Washington thất thủ, cả nhà Quốc hội lẫn Nhà Trắng bị thiêu hủy. Nhưng quân Anh không có hứng thú gì với Washington, sau khi chiếm 26 tiếng liền rút về Canada.

Chính là bởi vì đánh không lại quân Anh ở Canada, vùng Ngũ Hồ không có đường ra biển, Mỹ phải thi công kênh đào Erie, đồng thời bỏ ý định mở rộng lên bắc, quay sang bắt nạt Mexico ở hướng tây nam.

Khi đó chưa có tàu hỏa, đi đường bộ từ Buffalo đến New York, chở một tấn hàng mất 120 USD. Chi phí này quá cao, thế là Mỹ quyết định làm kênh đào Erie dài 584 km trong vòng 8 năm. Tổng đầu tư xây dựng kênh đào Erie là 7 triệu USD, một con số cực cao lúc bấy giờ. Để huy động tài chính, Mỹ phát hành công trái Erie tại phố Wall, New York. Sau khi xây xong, giá thành vận chuyển từ 120 USD giảm xuống còn 6 USD/tấn. Trái phiếu lên giá, các nhà đầu tư châu Âu cũng đổ về phố Wall, phố Wall dần dần trở thành trung tâm tài chính thế giới. Cảng New York cũng trở thành trung tâm logistics. Năm 1800, toàn Mỹ chỉ có 6% hàng hóa đi qua New York. Năm 1860, tăng đến 62%. Dân số New York cũng từ 120 nghìn tăng đến hơn 1 triệu, vượt qua Philadelphia và Boston, trở thành thành phố lớn nhất nước Mỹ. Nhờ hệ thống kênh đào, khu vực Ngũ Hồ giao thông thuận lợi hơn nhiều, trở thành khu công nghiệp đầu tiên của Mỹ, các thành phố Chicago, Detroit, Cleveland, Pittsburgh lần lượt hình thành.

Mỹ ngày càng phát triển, đất đai rộng rãi, từ năm 1842, mỗi năm có ít nhất 100 nghìn người từ châu Âu đến Mỹ kiếm ăn. Sau khi Anh chinh phục Ireland, nạn đói lan rộng làm hơn 1 triệu người Ireland chết đói. Mẫu quốc Anh không những không cứu mà còn nhân cơ hội thu mua nhà cửa, ruộng đồng tại Ireland. Người Ireland lang bạt khắp nơi, trong đó đại bộ phận đi đến Mỹ với 1,2 triệu người. Đến nay có 40 triệu người Mỹ là hậu duệ của người Ireland, trong đó có Clinton và Obama.
Từ năm 1852 đến 1854, 500 nghìn người Đức đến Mỹ để tránh loạn trong nước. Người Pháp và Italia cũng di cư đến Mỹ để né tránh cách mạng trong nước. Trong thời gian ngắn, Mỹ nhận thêm hơn 2 triệu người di cư.

Người da trắng cũng có đẳng cấp phân chia. Hạng nhất là người Anglo-Saxon, hạng nhì là người Pháp - Đức, hạng ba là Tây - Bồ - Ý, hạng bét là người Ireland và Đông Âu.

Tự dưng hơn 2 triệu người tràn vào miền đông, quá chật chội, phải làm sao bây giờ? Đơn giản: Đi miền tây khai phá. Nhưng bây giờ mới chỉ có đường thủy đi đến Ngũ Hồ, làm sao đi đến miền tây? Cũng đơn giản: Làm đường sắt.

Miền tây vốn là một thế giới hoang vu, trên danh nghĩa là thuộc địa của Pháp, trên thực tế vẫn là địa bàn của người Anh điêng và dã thú. Sau khi làm xong hai tuyến đường sắt chính, đường sắt nam bắc từ Chicago xuống New Orleans, đường sắt đông tây từ New York sang Los Angeles, người Đức, người Ireland đã có thể đi khắp miền tây. Đến nay người Mỹ gốc Đức có 58 triệu, là sắc tộc lớn nhất, còn hơn cả người Mỹ gốc Anh. Người gốc Đức vốn còn muốn giữ lại ngôn ngữ và văn hóa, nhưng trong WWI, Mỹ tuyên chiến với Đức, người Anglo-Saxon ở Mỹ cũng chèn ép người gốc Đức, đập phá cửa hàng của người gốc Đức, cấm nói tiếng Đức ở nơi công cộng, cuối cùng toàn bộ phải đổi sang nói tiếng Anh (nghe quen quen?). Những người Mỹ gốc Đức nổi tiếng Eisenhower, Nimitz thời WWII, Pershing thời WWI, đều cầm quân đánh Đức sụm xương sống, không còn luyến lưu gì cố quốc.

Để khai khẩn miền tây hoang dã, năm 1800, Mỹ quy định giá bán đất ở miền tây là 2 USD một mẫu, nhưng không ai thèm mua. 20 năm sau, giá giảm xuống 1,25 USD một mẫu Anh, vẫn không có người mua. Năm 1832, giá còn 0,5 USD một mẫu, nhưng không ai chịu đi làm dã nhân. Năm 1863, Mỹ cắn răng phá giá, 10 USD 160 mẫu. Lần này vừa khéo có rất nhiều người Ireland, Đức, Pháp, Ý tràn vào, không đi cũng phải đi.

Lịch sử khai phá miền tây của Mỹ là một lịch sử đẫm máu. Các thị trấn nhỏ được xây dựng bên đường ray, đường ray là liên hệ duy nhất giữa thị trấn với bên ngoài. Pháp luật cũng chỉ tồn tại trong phạm vi thị trấn, ai phạm tội liền chạy ra khỏi thị trấn là xong. Ai muốn bắt thì bỏ tiền thuê thợ săn tiền thưởng ra đời. Cảnh sát chỉ phụ trách an ninh trong thị trấn, nhưng nếu có người bỏ tiền thuê, cảnh sát cũng có thể trở thành thợ săn tiền thưởng.

Ra khỏi thị trấn chính là miền tây hoang dã mênh mông, với thung lũng, thảo nguyên, núi cao, tuyết trắng, có kẻ cướp, người Anh điêng, thú dữ, bò cạp. Từ ngày đầu tiên đổ bộ lên Bắc Mỹ, người châu Âu (cũng chính là người Mỹ sau này) đã cần súng để xua đuổi người Anh điêng và thú dữ, xây dựng thành phố đầu tiên, sau đó cầm súng chống lại mẫu quốc để tuyên bố độc lập, đến khi tây tiến lại cầm súng để xâm lược và tự vệ. Lúc này ở miền tây không có pháp luật và cơ quan chấp pháp hoàn thiện, chỉ có súng mới có thể cho người Mỹ cảm giác an toàn.

Năm 1787, Hiến pháp Mỹ quy định công dân có thể sở hữu và mang theo súng. Súng không phải là để bảo vệ tự do hay dân chủ, mà để bảo vệ tài sản tư nhân và an toàn tính mạng của người Mỹ. Từ châu Âu xa xôi vạn dặm đến đây, dùng súng xây dựng 13 bang miền đông làm bàn đạp, lại dùng súng đến miền tây chiếm lĩnh đất đai, trồng lúa mì, chăn bò, làm bạn với dã thú, xung quanh không làng không quán, đất hoang biến thành ruộng đồng màu mỡ, tất cả những thứ này là của họ, là tài sản tư hữu của họ. Ai dám động vào, trước hết phải hỏi khẩu súng trong tay họ có đồng ý hay không.


Từ năm 1607, tổ tiên của người Mỹ tới Jamestown, từng bước đi về phía tây, đến thác nước, qua dãy núi Appalachian, xây kênh đào Erie, phát triển khu vực Ngũ Hồ, tiếp tục đi mãi về tây, cuối cùng hình thành nước Mỹ ngày nay. Trong quá trình này, chính phủ Mỹ làm gì? Đào kênh, làm đường sắt, chấm hết. Toàn bộ là do những người Mỹ với khẩu súng trong tay, giết người Anh điêng, xua đuổi dã thú, chống lại kẻ cướp, tự phát định cư, khai khẩn, xây dựng thị trấn, thành phố, thành lập các bang. Tài sản của bố mày là do tổ tiên bố mày đổ máu đánh đổi, do bố mày đổ máu bảo vệ, ai cũng đừng hòng động vào, kể cả có là liên bang. Súng là để bảo vệ tài sản tư hữu của bố mày, liên bang được thành lập cũng là để bảo vệ tài sản tư hữu của bố mày. Liên bang có thể không cần, nhưng súng thì nhất định phải có.

Thế nên, súng ống đã là một phần không thể thiếu của lịch sử Mỹ, văn hóa Mỹ. Bất kể xảy ra bao nhiêu vụ nổ súng nữa, bất kể có bao nhiêu người chết vì súng, Mỹ cũng tuyệt đối không bao giờ cấm súng!
Súng cũng là 1 đặc điểm nổi bật của dân tộc (people) Mỹ, dù cụ trên nói ko có dân tộc Mỹ (theo nghĩa ethnic) nhưng vẫn có những đặc điểm gì đó phổ cập của people. Súng ăn sâu vào suốt cả lịch sử Mỹ. Và quyền mang súng được bảo vệ bởi hiến pháp.

Súng có cái rủi ro nhưng văn hóa súng hay đó, tương tự như Israel, Singapore, Hàn Quốc vv mọi nam thanh niên đều phải nghĩa vụ quân sự bắt buộc (hình như Israel cả nữ cũng bắt buộc), phải huấn luyện súng, bắn đạn thật.
 

Xe_loi

Xe tăng
Biển số
OF-18178
Ngày cấp bằng
3/7/08
Số km
1,542
Động cơ
487,799 Mã lực
Em copy lại một bài bên thớt Nga Ukraine

=======
Súng đạn trong lịch sử và văn hóa Mỹ

(Hôm qua em vừa hứa viết bài về súng đạn tại Mỹ hầu các cụ xong thì bị cắt tầng. Hi vọng đăng xong không bị cắt tiếp)

Theo trang lưu trữ trực tuyến chuyên theo dõi các vụ bạo lực súng đạn ở Mỹ có tên Gun Violence Archive, chưa đầy 300 ngày kể từ năm 2022, đã có hơn 464 vụ xả súng. Trong số các quốc gia có số người chết vì súng nhiều nhất tính trên đầu người, Mỹ đứng đầu bảng xếp hạng với 48.832 nạn nhân vào năm 2021. Mỹ cũng đứng đầu về số lượng súng ống mà dân thường sở hữu, với 120,5 khẩu trên 100 người. Bạo lực súng đạn là một trong những vấn đề nghiêm trọng, kéo dài và khó giải quyết nhất ở Mỹ. Những vụ xả súng liên tiếp xảy ra hàng năm tại Mỹ cho thấy bạo lực súng đạn vẫn là nỗi ám ảnh đối với người dân Mỹ và làm dấy lên cuộc tranh luận cũng như gây chia rẽ sâu sắc trong chính trường về vấn đề kiểm soát súng đạn.

Sau mỗi vụ xả súng nghiêm trọng, Tổng thống Mỹ và các quan chức cao cấp đều lên tiếng, bày tỏ sự kinh ngạc và đau lòng, thương xót các nạn nhân, tuyên bố phải thay đổi hiện trạng, ngăn cản bi kịch tái diễn, tuyên bố treo cờ rủ tưởng nhớ các nạn nhân, đốt nền đặt hoa các kiểu. Sau đó, tình hình vẫn vậy, các vụ xả súng vẫn diễn ra ngày một nhiều hơn, ngày một nghiêm trọng hơn, lại tiếp tục đau lòng, lại tiếp tục đặt hoa, thắp nến.

Vì sao Mỹ vĩnh viễn không giải quyết được vấn đề này? Bởi vì ngọn nguồn của nó đến từ thời dựng nước hàng trăm năm trước, đến từ văn hóa súng đạn của người Mỹ, của nước Mỹ.

Khi nghiên cứu về lịch sử văn minh Mỹ, mọi người thường nhắc đến Mayflower. Mayflower là tên của một con tàu buồm đi vào lịch sử Mỹ khi một nhóm người bỏ nước Anh sang lập nghiệp ở thế giới mới, tổng cộng có 102 người cộng thêm 30 thuyền viên. Họ đặt chân đến Mỹ để bắt đầu một đời sống mới vào cuối năm 1620. Tuy nhiên những người trên Mayflower chỉ là một nhóm rất nhỏ trong số những người từ châu Âu đi tới Bắc Mỹ, hoàn toàn không phải khởi đầu, cũng hoàn toàn không phải kết thúc. Những thứ chúng ta học trong môn lịch sử ở trường có rất nhiều được nhìn từ góc nhìn của những kẻ thực dân phương Tây. Ngay cả cách nói Columbus tìm ra thế giới mới cũng là không chính xác.

Năm 1003, người Viking chiếm đảo Greenland, sau đó tìm cách đi tới đại lục Bắc Mỹ. Nhưng khi đó Bắc Mỹ là của người Anh điêng, mấy trăm tên cướp biển Viking không đánh nổi những thổ dân Anh điêng, chỉ có thể mò lên bờ biển Newfoundland cướp bóc một mẻ rồi té. Newfoundland ở đây, từ cái tên đã có thể thấy rõ rất nhiều điều.



Sau 300 năm trộm cướp ở Newfoundland, đến thế kỉ 14, thời tiết lạnh dần. Năm 1424, người Viking gửi bức thư cuối cùng đến Iceland, sau đó dần dần diệt vong, biến mất trong sông dài lịch sử. 68 năm sau, Columbus mới đi tới châu Mỹ.

Nói một cách chính xác, năm 1492 không phải Columbus phát hiện đại lục mới, mà là năm khởi đầu của quá trình người châu Âu xâm lấn châu Mỹ thành công. Trước đó châu Mỹ đã được phát hiện, nhưng người châu Âu không xâm lấn thành công mà thôi.

Suốt 300 năm, người Viking với vũ khí lạnh không làm được gì nhiều. Nhưng lần này thì khác, bởi vì trong tay người châu Âu có SÚNG.

Với súng đạn trong tay, việc cướp bóc thuận lợi hơn nhiều. Người châu Âu cầm các loại đồ vô giá trị đến gặp người Anh điêng đổi lấy vàng. Người Anh điêng không đổi, bòm bòm bòm, đốt nhà, giết người, cưỡng hiếp phụ nữ. Người Anh điêng ngày càng lui lại.

Phát hiện đại lục mới là góc nhìn của kẻ thực dân châu Âu, đại lục châu Mỹ vẫn ở đó từ xa xưa, trên đó có dân bản xứ đang sống yên lành. Người châu Âu tìm đến giết người phóng hỏa, còn bắt dân bản xứ cảm ơn mình đến khai hóa văn minh. Cao cả đến thế là cùng.

Trước đó người châu Âu đã cố gắng "khai hóa văn minh" châu Phi, nhưng xứ sở này rừng thiêng nước độc, người châu Âu đến nơi đa số không sống quá một năm, các loại bệnh tật, côn trùng, rắn rết khiến họ phải chùn bước. Còn châu Á? Châu Á hay đấy, nhưng văn minh châu Á khi đó đã khá rực rỡ, hơn nữa đường đến châu Á lại bị anh Đồ Gàn, à quên, đế quốc Ottoman chặn ngang, muốn đi qua phải nạp tiền mãi lộ. Lúc này người Tây Ban Nha tìm được một đại lục mới, tốt hơn châu Phi nhiều, đất đai màu mỡ, hoang vắng ít người, thời tiết phù hợp, thế là người châu Âu tới tấp chạy đến thực dân châu Mỹ.

Khi đó Tây Ban Nha đang trên đỉnh cao, Anh, Pháp tuổi tí, chỉ có thể nhường Tây Ban Nha chiếm hết chỗ tốt. Châu Mỹ Latinh là xứ nhiệt đới, đất đai màu mỡ, có nhiều mỏ bạc, đương nhiên là của Tây Ban Nha. Vì vậy các nước châu Mỹ Latinh hiện nay đều theo đạo Thiên Chúa, nói tiếng Tây Ban Nha, còn Bồ Đào Nha anh em cũng được chia một ít.

Không chỉ ở Nam Mỹ, Tây Ban Nha còn chiếm các vùng ở Bắc Mỹ nay là Florida, Texas, New Mexico. Nhưng sau đó Tây Ban Nha yếu dần, Anh, Pháp trỗi dậy, bắt đầu tranh giành Bắc Mỹ, xây dựng đế quốc mặt trời không bao giờ lặn. Năm 1607, Anh bắt đầu xây dựng Virginia, năm 1608 Pháp đã chiếm Quebec. Năm 1682, Pháp lại chiếm Louisiana, sau đó lan dần khắp Canada.

Quebec.png


Lúc này ở xứ nào đó, vua Lê chúa Trịnh vẫn đang chia nhau cát cứ, còn người ta đã tranh giành địa bàn khắp thế giới.

Ban đầu Anh Pháp chung sống hòa bình, việc ai nấy làm, đất ai nấy cướp. Sau đó Chiến tranh Bảy Năm nổ ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover, Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga, Thụy Điển và Vương quốc Sachsen ở phía còn lại. Anh biết đánh không lại Pháp trên đất liền, nhưng trên biển thì Pháp kém hơn nhiều. Anh có 156 tàu chiến, còn Pháp chỉ có 77, thế là Anh cứ nhằm vào các thuộc địa của Pháp mà đánh, đến 1763, hai bên kí hòa ước Paris, Pháp từ bỏ Ấn Độ, Canada, Mississippi, rút khỏi cạnh tranh toàn cầu.

Năm 1620, con tàu Mayflower đến Bắc Mỹ, nhưng lịch sử chính thống của Mỹ vẫn coi năm 1607 là nằm đầu tiên của lịch sử đất nước. Năm 1607, 105 người Anh mang theo lệnh của vua, lên tàu từ London, đi trên biển 144 ngày đến một vùng đầm lầy ở đông nam Virginia. Mục đích chính là cướp vàng, mục đích phụ là chiếm địa bàn. Sau khi lên bờ, họ bỏ ra 20 ngày xây một tòa thành gọi là Jamestown để đề phòng người Anh điêng tấn công. Sau khi yên ổn, người Anh ở Jamestown bắt đầu trồng thuốc lá, nhưng không tự tay trồng mà đưa nô lệ da đen từ châu Phi đến làm việc. Năm 1619, loạt nô lệ đầu tiên từ châu Phi được đưa đến. Cùng năm, những người Anh ở đây mở hội nghị lập pháp lần đầu tiên tại vùng thuộc địa Bắc Mỹ. Jamestown sau đó trở thành thủ phủ của Virginia, nhưng bởi vì loạn lạc bị san thành đất bằng. Jamestown là khởi nguồn của Virginia, Virginia là khởi nguồn của những Mỹ, là nơi sinh ra 4 trong 5 tổng thống đầu tiên của Mỹ là Washington, Jefferson, Madison, Monroe. Thành Jamestown, nông nghiệp, chế độ nô lệ mới là khởi đầu của nước Mỹ.

Năm 1629, người Anh điêng bị giết chóc, bị xua đuổi, người Anh xây dựng vùng thuộc địa hứ hai ở bên bờ sông Piscataqua, chính là New Hampshire. Sau đó vua Anh phái người đến càng ngày càng nhiều, sau hơn một trăm năm, đến năm 1732, 13 bang phía đông nước Mỹ lần lượt hình thành. Lúc này, những gì có thể gọi là nước Mỹ chỉ có như thế này:


Năm 1760, tại 13 bang tổng cộng có 1,2 triệu người da trắng. 400 nghìn nô lệ da đen làm việc quần quật để nuôi những người da trắng, cũng là thủy tổ của đại đa số người da đen ở Mỹ hiện nay. Từ ngày đầu tiên dựng nước, người da trắng và người da đen ở Mỹ đã là hai tầng lớp. Và cho đến nay cũng không khác xưa là mấy.

Nhìn bản đồ 13 bang có thể thấy toàn bộ nằm ở một dải hẹp ven biển phía đông. Nguyên nhân là bên trái có dãy núi Appalachian chặn đứng. Dãy núi Appalachian dài 3.000 km tạo thành một hiện tượng địa lí đặc biệt cho khu vực phía đông. Địa thế đột nhiên hạ thấp, sống suối từ núi cao chảy xuống đồng bằng hình thành rất nhiều thác nước. Những người châu Âu đầu tiên đến Mỹ đã biết lợi dụng sức nước, định cư gần các thác nước, tạo guồng nước, nhà xay bột, xưởng cưa, máy dệt cũng đều sử dụng sức nước. Vì vậy hiện nay thủ phủ các bang phía đông của Mỹ đều nằm ở gần các thác nước. New York và thủ đô Washington cũng không phải là ngoại lệ.

Năm 1783, Anh thất bại trong chiến tranh độc lập, ngoài 13 bang phía đông, Anh còn thừa nhận toàn bộ vùng đất phía tây núi Appalachian, phía nam Ngũ Hồ, phía bắc sông Mississippi thuộc về Mỹ. Lãnh thổ Mỹ vượt qua dãy núi Appalachian, diện tích mở rộng gấp đôi. Năm 1803, Mỹ bỏ ra 15 triệu USD, mua lại Louisiana với diện tích hơn 2 triệu km2 từ tay Napoléon. Trong vòng 20 năm ngắn ngủi, Mỹ đột nhiên biến thành một nước lớn với lãnh thổ 5 triệu km2. Vì vậy người Mỹ có rất nhiều đất đai miền tây cần khai khẩn. Con người đi khai phá miền tây còn phải có công cụ, vật tư đi theo.

1200px-Map_of_USA_highlighting_Great_Lakes_region.svg.png


Từ vùng Ngũ Hồ muốn ra biển phải đi qua sông Saint Laurent của Canada, một thuộc địa của Anh. Để cướp đường ra biển qua sông Saint Laurent, Mỹ đưa 1.500 quân tấn công Canada, tháng 4/1838 chiếm được thủ đô Canada là Toronto hiện nay. Sau đó Napoléon chiến bại, người Anh rảnh tay đối phó Mỹ, đưa 12.000 quân sang Canada đánh thốc xuống, Washington thất thủ, cả nhà Quốc hội lẫn Nhà Trắng bị thiêu hủy. Nhưng quân Anh không có hứng thú gì với Washington, sau khi chiếm 26 tiếng liền rút về Canada.

Chính là bởi vì đánh không lại quân Anh ở Canada, vùng Ngũ Hồ không có đường ra biển, Mỹ phải thi công kênh đào Erie, đồng thời bỏ ý định mở rộng lên bắc, quay sang bắt nạt Mexico ở hướng tây nam.

Khi đó chưa có tàu hỏa, đi đường bộ từ Buffalo đến New York, chở một tấn hàng mất 120 USD. Chi phí này quá cao, thế là Mỹ quyết định làm kênh đào Erie dài 584 km trong vòng 8 năm. Tổng đầu tư xây dựng kênh đào Erie là 7 triệu USD, một con số cực cao lúc bấy giờ. Để huy động tài chính, Mỹ phát hành công trái Erie tại phố Wall, New York. Sau khi xây xong, giá thành vận chuyển từ 120 USD giảm xuống còn 6 USD/tấn. Trái phiếu lên giá, các nhà đầu tư châu Âu cũng đổ về phố Wall, phố Wall dần dần trở thành trung tâm tài chính thế giới. Cảng New York cũng trở thành trung tâm logistics. Năm 1800, toàn Mỹ chỉ có 6% hàng hóa đi qua New York. Năm 1860, tăng đến 62%. Dân số New York cũng từ 120 nghìn tăng đến hơn 1 triệu, vượt qua Philadelphia và Boston, trở thành thành phố lớn nhất nước Mỹ. Nhờ hệ thống kênh đào, khu vực Ngũ Hồ giao thông thuận lợi hơn nhiều, trở thành khu công nghiệp đầu tiên của Mỹ, các thành phố Chicago, Detroit, Cleveland, Pittsburgh lần lượt hình thành.

Mỹ ngày càng phát triển, đất đai rộng rãi, từ năm 1842, mỗi năm có ít nhất 100 nghìn người từ châu Âu đến Mỹ kiếm ăn. Sau khi Anh chinh phục Ireland, nạn đói lan rộng làm hơn 1 triệu người Ireland chết đói. Mẫu quốc Anh không những không cứu mà còn nhân cơ hội thu mua nhà cửa, ruộng đồng tại Ireland. Người Ireland lang bạt khắp nơi, trong đó đại bộ phận đi đến Mỹ với 1,2 triệu người. Đến nay có 40 triệu người Mỹ là hậu duệ của người Ireland, trong đó có Clinton và Obama.
Từ năm 1852 đến 1854, 500 nghìn người Đức đến Mỹ để tránh loạn trong nước. Người Pháp và Italia cũng di cư đến Mỹ để né tránh cách mạng trong nước. Trong thời gian ngắn, Mỹ nhận thêm hơn 2 triệu người di cư.

Người da trắng cũng có đẳng cấp phân chia. Hạng nhất là người Anglo-Saxon, hạng nhì là người Pháp - Đức, hạng ba là Tây - Bồ - Ý, hạng bét là người Ireland và Đông Âu.

Tự dưng hơn 2 triệu người tràn vào miền đông, quá chật chội, phải làm sao bây giờ? Đơn giản: Đi miền tây khai phá. Nhưng bây giờ mới chỉ có đường thủy đi đến Ngũ Hồ, làm sao đi đến miền tây? Cũng đơn giản: Làm đường sắt.

Miền tây vốn là một thế giới hoang vu, trên danh nghĩa là thuộc địa của Pháp, trên thực tế vẫn là địa bàn của người Anh điêng và dã thú. Sau khi làm xong hai tuyến đường sắt chính, đường sắt nam bắc từ Chicago xuống New Orleans, đường sắt đông tây từ New York sang Los Angeles, người Đức, người Ireland đã có thể đi khắp miền tây. Đến nay người Mỹ gốc Đức có 58 triệu, là sắc tộc lớn nhất, còn hơn cả người Mỹ gốc Anh. Người gốc Đức vốn còn muốn giữ lại ngôn ngữ và văn hóa, nhưng trong WWI, Mỹ tuyên chiến với Đức, người Anglo-Saxon ở Mỹ cũng chèn ép người gốc Đức, đập phá cửa hàng của người gốc Đức, cấm nói tiếng Đức ở nơi công cộng, cuối cùng toàn bộ phải đổi sang nói tiếng Anh (nghe quen quen?). Những người Mỹ gốc Đức nổi tiếng Eisenhower, Nimitz thời WWII, Pershing thời WWI, đều cầm quân đánh Đức sụm xương sống, không còn luyến lưu gì cố quốc.

Để khai khẩn miền tây hoang dã, năm 1800, Mỹ quy định giá bán đất ở miền tây là 2 USD một mẫu, nhưng không ai thèm mua. 20 năm sau, giá giảm xuống 1,25 USD một mẫu Anh, vẫn không có người mua. Năm 1832, giá còn 0,5 USD một mẫu, nhưng không ai chịu đi làm dã nhân. Năm 1863, Mỹ cắn răng phá giá, 10 USD 160 mẫu. Lần này vừa khéo có rất nhiều người Ireland, Đức, Pháp, Ý tràn vào, không đi cũng phải đi.

Lịch sử khai phá miền tây của Mỹ là một lịch sử đẫm máu. Các thị trấn nhỏ được xây dựng bên đường ray, đường ray là liên hệ duy nhất giữa thị trấn với bên ngoài. Pháp luật cũng chỉ tồn tại trong phạm vi thị trấn, ai phạm tội liền chạy ra khỏi thị trấn là xong. Ai muốn bắt thì bỏ tiền thuê thợ săn tiền thưởng ra đời. Cảnh sát chỉ phụ trách an ninh trong thị trấn, nhưng nếu có người bỏ tiền thuê, cảnh sát cũng có thể trở thành thợ săn tiền thưởng.

Ra khỏi thị trấn chính là miền tây hoang dã mênh mông, với thung lũng, thảo nguyên, núi cao, tuyết trắng, có kẻ cướp, người Anh điêng, thú dữ, bò cạp. Từ ngày đầu tiên đổ bộ lên Bắc Mỹ, người châu Âu (cũng chính là người Mỹ sau này) đã cần súng để xua đuổi người Anh điêng và thú dữ, xây dựng thành phố đầu tiên, sau đó cầm súng chống lại mẫu quốc để tuyên bố độc lập, đến khi tây tiến lại cầm súng để xâm lược và tự vệ. Lúc này ở miền tây không có pháp luật và cơ quan chấp pháp hoàn thiện, chỉ có súng mới có thể cho người Mỹ cảm giác an toàn.

Năm 1787, Hiến pháp Mỹ quy định công dân có thể sở hữu và mang theo súng. Súng không phải là để bảo vệ tự do hay dân chủ, mà để bảo vệ tài sản tư nhân và an toàn tính mạng của người Mỹ. Từ châu Âu xa xôi vạn dặm đến đây, dùng súng xây dựng 13 bang miền đông làm bàn đạp, lại dùng súng đến miền tây chiếm lĩnh đất đai, trồng lúa mì, chăn bò, làm bạn với dã thú, xung quanh không làng không quán, đất hoang biến thành ruộng đồng màu mỡ, tất cả những thứ này là của họ, là tài sản tư hữu của họ. Ai dám động vào, trước hết phải hỏi khẩu súng trong tay họ có đồng ý hay không.


Từ năm 1607, tổ tiên của người Mỹ tới Jamestown, từng bước đi về phía tây, đến thác nước, qua dãy núi Appalachian, xây kênh đào Erie, phát triển khu vực Ngũ Hồ, tiếp tục đi mãi về tây, cuối cùng hình thành nước Mỹ ngày nay. Trong quá trình này, chính phủ Mỹ làm gì? Đào kênh, làm đường sắt, chấm hết. Toàn bộ là do những người Mỹ với khẩu súng trong tay, giết người Anh điêng, xua đuổi dã thú, chống lại kẻ cướp, tự phát định cư, khai khẩn, xây dựng thị trấn, thành phố, thành lập các bang. Tài sản của bố mày là do tổ tiên bố mày đổ máu đánh đổi, do bố mày đổ máu bảo vệ, ai cũng đừng hòng động vào, kể cả có là liên bang. Súng là để bảo vệ tài sản tư hữu của bố mày, liên bang được thành lập cũng là để bảo vệ tài sản tư hữu của bố mày. Liên bang có thể không cần, nhưng súng thì nhất định phải có.

Thế nên, súng ống đã là một phần không thể thiếu của lịch sử Mỹ, văn hóa Mỹ. Bất kể xảy ra bao nhiêu vụ nổ súng nữa, bất kể có bao nhiêu người chết vì súng, Mỹ cũng tuyệt đối không bao giờ cấm súng!
Cụ tổng hợp xúc tích quá. Đứa ham ăn ít học như em mà đọc hết được cũng tài, nhớ để về chém với bọn trẻ ở nhà
 

radiogaga

Xe điện
Biển số
OF-177394
Ngày cấp bằng
18/1/13
Số km
3,277
Động cơ
367,409 Mã lực
Địa lý Trung Quốc gần như hoàn hảo, điểm yếu duy nhất là nước
13:09 | 17/07/2022
Vị trí địa lý của Trung Quốc vô cùng thuận lợi để tạo ra một cường quốc hưng thịnh suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, nếu muốn đảm bảo tương lai, Bắc Kinh cần kiểm soát được cả sông và biển.

Trung Quốc có hơn 5.000 năm lịch sử và là một trong 4 nền văn minh cổ đại (Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ và Hoàng Hà). Trong suốt chiều dài lịch sử, Trung Quốc vẫn luôn là cường quốc, có tầm ảnh hưởng lớn trong khu vực và trên thế giới.
Trung Quốc có được thành công như vậy một phần lớn đến từ địa lý: khí hậu ôn hòa, đất đai màu mỡ, được bảo vệ từ nhiều hướng và tương đối an toàn trước kẻ thù.
Tuy nhiên, nước (bao gồm cả biển và sông) đang là vấn đề lớn với sự phát triển của Trung Quốc trong tương lai. Đảm bảo được nguồn nước ngọt, kiểm soát được đại dương là điều kiện cần cho tương lai của Trung Quốc.
An toàn từ ba hướng
Lịch sử Trung Quốc là sự mở rộng từ khu vực đồng bằng nằm giữa sông Hoàng Hà và Trường Giang, ra ba hướng bắc, tây, và nam. Lãnh thổ Trung Quốc ngừng mở rộng khi gặp những rào cản địa lý không thể vượt qua và tạo ra những vùng đệm an toàn.
Khu vực lõi của Trung Quốc có đất đai màu mỡ, khí hậu tương đối ôn hòa, đủ sức để nuôi sống 1,4 tỷ người.
Sở dĩ Trung Quốc có dân số lớn nhất thế giới một phần là bởi địa lý của Trung Quốc từ xa xưa đã thuận lợi cho sản xuất lương thực, đủ để nuôi sống nhiều người. Những khu vực khác, chẳng hạn như Nga hay châu Âu, có khí hậu lạnh giá hoặc địa hình khó khăn, không phù hợp cho nông nghiệp nên dân số thấp.

Trung Quốc thời hiện đại gần như không thể xâm phạm từ cả ba hướng bắc, tây và nam. (Ảnh: freeworldmaps.net)
Phía bắc
Phía bắc Trung Quốc tồn tại hai cường quốc, một trong quá khứ và một thuộc thời hiện đại. Đầu tiên phải kể đến Đế quốc Mông Cổ từng tung hoành khắp châu Á, châu Âu vào thế kỷ 13 và 14. Chính Trung Quốc cũng trở thành nạn nhân của vó ngựa Mông Cổ.
Tuy nhiên, vào thời hiện đại, việc tấn công Trung Quốc từ phía bắc không khác nào tự sát, bởi quân đội sẽ phải vượt qua sa mạc Gobi khắc nghiệt. Cơ sở hạ tầng thiếu thốn ở khu vực này sẽ làm bất cứ cuộc hành quân nào qua vùng Nội Mông trở nên không tưởng.
Phía trên Mông Cổ là Nga, một cường quốc hiện đại. Nga và Trung Quốc tiếp giáp nhau ở khu vực Hắc Long Giang (bên bờ Thái Bình Dương), một phần Khu tự trị Nội Mông và một phần nhỏ chỉ khoảng 40 km gần Kazakhstan.
Tuy nhiên, vùng Viễn Đông của Nga có khí hậu khắc nghiệt, và dân số chưa đến 10 triệu người, so với khoảng hơn 100 triệu chỉ tính riêng vùng Mãn Châu của Trung Quốc. Dải đất hẹp tiếp giáp giữa hai nước “có thể là điểm yếu”, nhưng Moscow không có đủ tiềm lực cũng như lý do để tấn công Trung Quốc.
Cuộc xung đột Ukraine cũng đang đẩy Nga và Trung Quốc lại gần nhau hơn. Kế hoạch phát triển vùng Viễn Đông của Nga chắc chắn phải dựa vào sự giúp sức của Bắc Kinh.
Ngoài ra, Trung Quốc còn có đường biên giới trên bộ với Triều Tiên. Quốc gia này có thể được coi như một "vùng đệm", ngăn cách Trung Quốc với Hàn Quốc - nơi có căn cứ quân sự của Mỹ. Tuy nhiên, giống như Nga, Bình Nhưỡng có quan hệ thân thiết và sẽ phải dựa nhiều vào Bắc Kinh trong hiện tại và tương lai.
Phía Tây
Phía tây Trung Quốc tiếp giáp với Kazakhstan, Kyrgyzstan, Afghanistan và Pakistan. Trong quá khứ đây từng là Con đường Tơ lụa và có thể là một điểm yếu của Trung Quốc thời hiện đại.
Tuy nhiên, chắc chắn Kazakhstan không đủ khả năng để thách thức cường quốc số hai thế giới. Đồng thời, tương tự như Nội Mông, cơ sở hạ tầng khu vực này kém phát triển, và quãng đường cần di chuyển để tới được vùng lõi của Trung Quốc lên đến hàng nghìn cây số. Tương tự, Afghanistan, Pakistan, Kyrgyzstan đề có đường biên giới ngắn và địa hình hiểm trở.
Tuy nhiên, vấn đề của Trung Quốc không đến từ bên ngoài, mà đến từ chính Khu tự trị Tân Cương. Trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã đổ rất nhiều tiền vào đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường sắt, cũng như thúc đẩy người Hán di dân sang Tân Cương, để ổn định tình hình chính trị.
Phía Nam
Tây Nam là nơi hai nền văn minh cổ xưa, cũng là hai quốc gia đông dân nhất thế giới gặp nhau. Tuy nhiên, hoạt động giao thương giữa Ấn Độ và Trung Quốc gần như không diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử bởi địa hình khắc nghiệt của khu vực này.
Cao nguyên Tây Tạng và dãy Himalaya là như một phiên bản tự nhiên của “Vạn lý Trường Thành”, ngăn cách Ấn Độ và Trung Quốc. Bởi vậy, trong quá khứ cũng như tương lai, cả hai quốc gia sẽ khó mà xảy ra chiến tranh mặc dù có hệ thống chính trị khác nhau và bất đồng về biên giới.
Tất nhiên, Bắc Kinh và New Delhi đều muốn có được Cao nguyên Tây Tạng, nhưng vì các lý do khác nhau. Trung Quốc mong muốn kiểm soát nguồn nước huyết mạch, còn Ấn Độ muốn mở rộng tầm ảnh hưởng, và một vài xung đột nhỏ lẻ đã xảy ra trong quá khứ.
Myanmar, Lào, Việt Nam là ba quốc gia Đông Nam Á tiếp giáp với Trung Quốc. Biên giới giữa Lào, Myanmar và Trung Quốc là cao nguyên và núi cao, tăng dần từ đông sang tây.
Vùng giáp với Việt Nam chính là điểm yếu hiếm hoi của biên giới trên bộ của Trung Quốc. Với địa hình có nơi tương đối bằng phẳng, tiếp giáp với biển, nên việc di chuyển và vận tải hậu cần tương đối thuận lợi. Bởi vậy, trên thực tế, lịch sử hàng nghìn năm giữa hai quốc gia cũng không mấy hòa bình, nhiều triều đại phương Bắc trước đây đều có mong muốn xâm chiếm Việt Nam.
Nước là mạch sống
Dù là quốc gia đông dân nhất thế giới, 94% dân số của Trung Quốc sống ở phía đông, khu vực chỉ chiếm 47% diện tích đất nước. Nơi đây có những đồng bằng phì nhiêu, khí hậu tương đối ôn hòa và đặc biệt có nhiều con sông lớn.
Trung Quốc thời cổ đại dựa vào dòng nước sông để phát triển, các vương quốc lớn thường xuất hiện tại châu thổ của 4 con sông là Hoàng Hà, Trường Giang, Châu Giang và Hắc Long Giang.

94% dân số trung quốc sống ở phía đông, chỉ 4% sống ở phía tây. Đường ranh giới cắt từ Đằng Xu đến Hắc Hà.
Sông là mạch nguồn của sự sống, cung cấp phù sa màu mỡ cho nông nghiệp và đóng vai trò như tuyến giao thương quan trọng. Vào cuối thời Xuân Thu (722-481 TCN), Ngô Vương Phù Sai đã đặt nền móng cho Đại Vận Hà, kênh đào đầu tiên trong lịch sử nhân loại, có chiều dài khoảng 1.800 km, kết nối sông Hoàng Hà và Trường Giang.
Như đã nói ở trên, Ấn Độ và Trung Quốc đều không thể tấn công lẫn nhau qua Cao nguyên Tây Tạng, vậy tại sao Bắc Kinh nhất quyết phải kiểm soát cho bằng được khu vực này? Câu trả lời chính là ở nguồn nước.
Ba con sông lớn nhất (Trường Giang, Hoàng Hà và Châu Giang) của Trung Quốc đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng. Mặc dù là quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc chỉ chiếm 6% lượng nước ngọt toàn cầu.
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới (World Bank), mỗi người dân Trung Quốc chỉ có khoảng 2.005 m3 nước ngọt, bằng 1/3 so với mức trung bình toàn cầu. Bởi vậy, Bắc Kinh nhất quyết phải kiểm soát được khu vực nóc nhà của thế giới để đảm bảo sự sống của mình.

Trung Quốc không có nhiều nước ngọt.
Ngoài việc sử dụng quân đội, Trung Quốc cũng có những cách thức mềm mỏng hơn để gia tăng ảnh hưởng ở Tây Tạng như xây dựng cơ sở hạ tầng. Từ năm 2006, Bắc Kinh đã đưa vào vận hành tuyến đường sắt cao nhất thế giới, kết nối Thanh Hải và khu tự trị Tây Tạng.
Các công trình thủy lợi khổng lồ cũng như đập Tam Hiệp cũng là một giải pháp, vừa để phát điện, vừa giúp điều tiết, giữ gìn nguồn nước quý giá.
Biển là tương lai
Nếu nói sông là mạch sống của Trung Quốc thời cổ đại thì biển chính là sinh mệnh Trung Quốc thời hiện đại. Sau khi đã dành hàng nghìn năm củng cố đường biên giới trên bộ, gần như không thể xâm nhập từ mọi hướng, Trung Quốc đang xây dựng một hải quân “nước xanh dương” thực thụ.
Tác giả Tim Marshall của cuốn Những tù nhân địa lý cho biết, suốt chiều dài lịch sử, Trung Quốc vẫn chưa từng là một cường quốc hải quân thực thụ do lãnh thổ rộng lớn và các tuyến hàng hải tới đối tác thương mại thường ngắn.
Nuôi sống 1,4 tỷ dân của một quốc gia phát triển là nhiệm vụ không hề đơn giản. Nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc vào biển cho cả đầu vào gồm nhiên liệu, nguyên liệu; lẫn đầu ra là hàng xuất khẩu.
Khác với thời cổ đại, Con đường Tơ lụa không còn đủ để vận chuyển khối lượng hàng hóa khổng lồ mà Trung Quốc sản xuất cũng như tiêu thụ. Đồng thời, mạch sống của Trung Quốc hiện đại là nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ cũng phải đến từ đường biển.

Nền kinh tế Trung Quốc cần rất nhiều dầu thô
Trong khi Mỹ có thể tiếp cận với hai đại dương là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương mà không hề bị cản trở, Trung Quốc lại phải gặp rất nhiều "chướng ngại vật" để có thể giao thương với thế giới bên ngoài.
Từ phía Đông Bắc, Trung Quốc bị cản lại bởi Hàn Quốc, và xa hơn nữa là Nhật Bản. Cả hai người hàng xóm này đều là đồng minh thân cận của Mỹ, có căn cứ quân sự lớn của Mỹ. Đảo Đài Loan những năm gần đây cũng tăng cường mua sắm vũ khí từ Mỹ.
Tàu khởi hành từ Thượng Hải để đi tới Nga hoặc bờ tây nước Mỹ bắt buộc phải đi qua khu vực ảnh hưởng của Washington. Hiện tại, Trung Quốc có Triều Tiên như một vùng đệm, và đang tranh chấp đảo với Nhật Bản.
Tuy nhiên, khu vực quan trọng nhất với mạch sống của Trung Quốc chính là biển Đông. Theo số liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ, khoảng 80% dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc phải đi eo biển Malacca, rồi vòng lên biển Đông.

Trong thời bình, có nhiều đường đến Trung Quốc từ Biển Đông. Tuy nhiên nếu như xung đột xảy ra, tuyến đường có thể dễ dàng bị chặn đứng, từ đó vắt kiệt mạch sống của Bắc Kinh. Trong Thế Chiến II, thất bại của Phát xít Đức và Nhật một phần lớn đến từ việc không có đủ nhiên liệu, nguyên liệu.
Bởi vậy, Trung Quốc đang ngày càng tăng sự hiện diện tại biển Đông, đồng thời nỗ lực xây dựng hải quân "nước xanh dương" với mục tiêu vận hành 6 tàu sân bay vào năm 2035. Hải quân và các nhóm tàu sân bay sẽ giúp Bắc Kinh mở rộng tầm ảnh hưởng và bảo vệ những tuyến vận chuyển huyết mạch của mình.
Trung Quốc cũng nghiên cứu và chế tạo các loại tên lửa chống hạm siêu vượt âm, tàu ngầm ... như một công cụ răn đe và dần dần đối đầu với Mỹ trên Thái Bình Dương.

cac mua.png


Em thêm bài này cho vui.
Một năm có 4 mùa :
Mùa Đông : Đế chế arab + iran (lưỡng hà), sau đó là các sa hoàng Nga, rồi đến nước Nga hiện đại (sau CMT8).
Mùa Xuân (tưới mát bởi tiền, dòng tiền tư bản, đồng đô la xanh) : Tây ban nha, Anh, Mỹ quốc.
Mùa hạ (nóng nực bởi dân số lớn) : Pháp, Đức, Trung Quốc

Chúng ta đang ở giai đoạn cuối xuân, chuyển giao sang mùa Hạ, nên TQ sẽ mạnh thôi

Các quốc gia đại diện cho Thu (Phong) thì chưa biết ??????
 

Phỡn

Xe tăng
Biển số
OF-2657
Ngày cấp bằng
5/12/06
Số km
1,937
Động cơ
565,696 Mã lực
Nơi ở
bon bon
Lúc nãy em cũng zoom hình lên nhưng chưa nhìn thấy nhà xuất bản nào làm, tuy nhiên 650k trên shoppee thì cũng có thể thử được ạ.
Lên tiki mà mua cho yên tâm cụ. Nếu phần 5 là Tương lai tiền tệ thì là có đủ 5p rồi.
Song Hong Bing
Tập 1 – Ai thật sự giàu nhất thế giới?
Tập 2 – Sự Thống Trị Của Quyền Lực Tài Chính
Tập 3 – Biên giới Tiền tệ - Nhân tố bí ẩn trong các cuộc chiến kinh tế
Tập 4 - Siêu cường Tài chính
Tập 5 - Tương lai của tiền tệ thế giới – Bình yêu trước giông bão
 
Chỉnh sửa cuối:

TU160M2

Xe tăng
Biển số
OF-727513
Ngày cấp bằng
30/4/20
Số km
1,241
Động cơ
17,561 Mã lực
Em copy lại một bài bên thớt Nga Ukraine

=======
Súng đạn trong lịch sử và văn hóa Mỹ

(Hôm qua em vừa hứa viết bài về súng đạn tại Mỹ hầu các cụ xong thì bị cắt tầng. Hi vọng đăng xong không bị cắt tiếp)

Theo trang lưu trữ trực tuyến chuyên theo dõi các vụ bạo lực súng đạn ở Mỹ có tên Gun Violence Archive, chưa đầy 300 ngày kể từ năm 2022, đã có hơn 464 vụ xả súng. Trong số các quốc gia có số người chết vì súng nhiều nhất tính trên đầu người, Mỹ đứng đầu bảng xếp hạng với 48.832 nạn nhân vào năm 2021. Mỹ cũng đứng đầu về số lượng súng ống mà dân thường sở hữu, với 120,5 khẩu trên 100 người. Bạo lực súng đạn là một trong những vấn đề nghiêm trọng, kéo dài và khó giải quyết nhất ở Mỹ. Những vụ xả súng liên tiếp xảy ra hàng năm tại Mỹ cho thấy bạo lực súng đạn vẫn là nỗi ám ảnh đối với người dân Mỹ và làm dấy lên cuộc tranh luận cũng như gây chia rẽ sâu sắc trong chính trường về vấn đề kiểm soát súng đạn.

Sau mỗi vụ xả súng nghiêm trọng, Tổng thống Mỹ và các quan chức cao cấp đều lên tiếng, bày tỏ sự kinh ngạc và đau lòng, thương xót các nạn nhân, tuyên bố phải thay đổi hiện trạng, ngăn cản bi kịch tái diễn, tuyên bố treo cờ rủ tưởng nhớ các nạn nhân, đốt nền đặt hoa các kiểu. Sau đó, tình hình vẫn vậy, các vụ xả súng vẫn diễn ra ngày một nhiều hơn, ngày một nghiêm trọng hơn, lại tiếp tục đau lòng, lại tiếp tục đặt hoa, thắp nến.

Vì sao Mỹ vĩnh viễn không giải quyết được vấn đề này? Bởi vì ngọn nguồn của nó đến từ thời dựng nước hàng trăm năm trước, đến từ văn hóa súng đạn của người Mỹ, của nước Mỹ.

Khi nghiên cứu về lịch sử văn minh Mỹ, mọi người thường nhắc đến Mayflower. Mayflower là tên của một con tàu buồm đi vào lịch sử Mỹ khi một nhóm người bỏ nước Anh sang lập nghiệp ở thế giới mới, tổng cộng có 102 người cộng thêm 30 thuyền viên. Họ đặt chân đến Mỹ để bắt đầu một đời sống mới vào cuối năm 1620. Tuy nhiên những người trên Mayflower chỉ là một nhóm rất nhỏ trong số những người từ châu Âu đi tới Bắc Mỹ, hoàn toàn không phải khởi đầu, cũng hoàn toàn không phải kết thúc. Những thứ chúng ta học trong môn lịch sử ở trường có rất nhiều được nhìn từ góc nhìn của những kẻ thực dân phương Tây. Ngay cả cách nói Columbus tìm ra thế giới mới cũng là không chính xác.

Năm 1003, người Viking chiếm đảo Greenland, sau đó tìm cách đi tới đại lục Bắc Mỹ. Nhưng khi đó Bắc Mỹ là của người Anh điêng, mấy trăm tên cướp biển Viking không đánh nổi những thổ dân Anh điêng, chỉ có thể mò lên bờ biển Newfoundland cướp bóc một mẻ rồi té. Newfoundland ở đây, từ cái tên đã có thể thấy rõ rất nhiều điều.



Sau 300 năm trộm cướp ở Newfoundland, đến thế kỉ 14, thời tiết lạnh dần. Năm 1424, người Viking gửi bức thư cuối cùng đến Iceland, sau đó dần dần diệt vong, biến mất trong sông dài lịch sử. 68 năm sau, Columbus mới đi tới châu Mỹ.

Nói một cách chính xác, năm 1492 không phải Columbus phát hiện đại lục mới, mà là năm khởi đầu của quá trình người châu Âu xâm lấn châu Mỹ thành công. Trước đó châu Mỹ đã được phát hiện, nhưng người châu Âu không xâm lấn thành công mà thôi.

Suốt 300 năm, người Viking với vũ khí lạnh không làm được gì nhiều. Nhưng lần này thì khác, bởi vì trong tay người châu Âu có SÚNG.

Với súng đạn trong tay, việc cướp bóc thuận lợi hơn nhiều. Người châu Âu cầm các loại đồ vô giá trị đến gặp người Anh điêng đổi lấy vàng. Người Anh điêng không đổi, bòm bòm bòm, đốt nhà, giết người, cưỡng hiếp phụ nữ. Người Anh điêng ngày càng lui lại.

Phát hiện đại lục mới là góc nhìn của kẻ thực dân châu Âu, đại lục châu Mỹ vẫn ở đó từ xa xưa, trên đó có dân bản xứ đang sống yên lành. Người châu Âu tìm đến giết người phóng hỏa, còn bắt dân bản xứ cảm ơn mình đến khai hóa văn minh. Cao cả đến thế là cùng.

Trước đó người châu Âu đã cố gắng "khai hóa văn minh" châu Phi, nhưng xứ sở này rừng thiêng nước độc, người châu Âu đến nơi đa số không sống quá một năm, các loại bệnh tật, côn trùng, rắn rết khiến họ phải chùn bước. Còn châu Á? Châu Á hay đấy, nhưng văn minh châu Á khi đó đã khá rực rỡ, hơn nữa đường đến châu Á lại bị anh Đồ Gàn, à quên, đế quốc Ottoman chặn ngang, muốn đi qua phải nạp tiền mãi lộ. Lúc này người Tây Ban Nha tìm được một đại lục mới, tốt hơn châu Phi nhiều, đất đai màu mỡ, hoang vắng ít người, thời tiết phù hợp, thế là người châu Âu tới tấp chạy đến thực dân châu Mỹ.

Khi đó Tây Ban Nha đang trên đỉnh cao, Anh, Pháp tuổi tí, chỉ có thể nhường Tây Ban Nha chiếm hết chỗ tốt. Châu Mỹ Latinh là xứ nhiệt đới, đất đai màu mỡ, có nhiều mỏ bạc, đương nhiên là của Tây Ban Nha. Vì vậy các nước châu Mỹ Latinh hiện nay đều theo đạo Thiên Chúa, nói tiếng Tây Ban Nha, còn Bồ Đào Nha anh em cũng được chia một ít.

Không chỉ ở Nam Mỹ, Tây Ban Nha còn chiếm các vùng ở Bắc Mỹ nay là Florida, Texas, New Mexico. Nhưng sau đó Tây Ban Nha yếu dần, Anh, Pháp trỗi dậy, bắt đầu tranh giành Bắc Mỹ, xây dựng đế quốc mặt trời không bao giờ lặn. Năm 1607, Anh bắt đầu xây dựng Virginia, năm 1608 Pháp đã chiếm Quebec. Năm 1682, Pháp lại chiếm Louisiana, sau đó lan dần khắp Canada.

Quebec.png


Lúc này ở xứ nào đó, vua Lê chúa Trịnh vẫn đang chia nhau cát cứ, còn người ta đã tranh giành địa bàn khắp thế giới.

Ban đầu Anh Pháp chung sống hòa bình, việc ai nấy làm, đất ai nấy cướp. Sau đó Chiến tranh Bảy Năm nổ ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover, Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga, Thụy Điển và Vương quốc Sachsen ở phía còn lại. Anh biết đánh không lại Pháp trên đất liền, nhưng trên biển thì Pháp kém hơn nhiều. Anh có 156 tàu chiến, còn Pháp chỉ có 77, thế là Anh cứ nhằm vào các thuộc địa của Pháp mà đánh, đến 1763, hai bên kí hòa ước Paris, Pháp từ bỏ Ấn Độ, Canada, Mississippi, rút khỏi cạnh tranh toàn cầu.

Năm 1620, con tàu Mayflower đến Bắc Mỹ, nhưng lịch sử chính thống của Mỹ vẫn coi năm 1607 là nằm đầu tiên của lịch sử đất nước. Năm 1607, 105 người Anh mang theo lệnh của vua, lên tàu từ London, đi trên biển 144 ngày đến một vùng đầm lầy ở đông nam Virginia. Mục đích chính là cướp vàng, mục đích phụ là chiếm địa bàn. Sau khi lên bờ, họ bỏ ra 20 ngày xây một tòa thành gọi là Jamestown để đề phòng người Anh điêng tấn công. Sau khi yên ổn, người Anh ở Jamestown bắt đầu trồng thuốc lá, nhưng không tự tay trồng mà đưa nô lệ da đen từ châu Phi đến làm việc. Năm 1619, loạt nô lệ đầu tiên từ châu Phi được đưa đến. Cùng năm, những người Anh ở đây mở hội nghị lập pháp lần đầu tiên tại vùng thuộc địa Bắc Mỹ. Jamestown sau đó trở thành thủ phủ của Virginia, nhưng bởi vì loạn lạc bị san thành đất bằng. Jamestown là khởi nguồn của Virginia, Virginia là khởi nguồn của những Mỹ, là nơi sinh ra 4 trong 5 tổng thống đầu tiên của Mỹ là Washington, Jefferson, Madison, Monroe. Thành Jamestown, nông nghiệp, chế độ nô lệ mới là khởi đầu của nước Mỹ.

Năm 1629, người Anh điêng bị giết chóc, bị xua đuổi, người Anh xây dựng vùng thuộc địa hứ hai ở bên bờ sông Piscataqua, chính là New Hampshire. Sau đó vua Anh phái người đến càng ngày càng nhiều, sau hơn một trăm năm, đến năm 1732, 13 bang phía đông nước Mỹ lần lượt hình thành. Lúc này, những gì có thể gọi là nước Mỹ chỉ có như thế này:


Năm 1760, tại 13 bang tổng cộng có 1,2 triệu người da trắng. 400 nghìn nô lệ da đen làm việc quần quật để nuôi những người da trắng, cũng là thủy tổ của đại đa số người da đen ở Mỹ hiện nay. Từ ngày đầu tiên dựng nước, người da trắng và người da đen ở Mỹ đã là hai tầng lớp. Và cho đến nay cũng không khác xưa là mấy.

Nhìn bản đồ 13 bang có thể thấy toàn bộ nằm ở một dải hẹp ven biển phía đông. Nguyên nhân là bên trái có dãy núi Appalachian chặn đứng. Dãy núi Appalachian dài 3.000 km tạo thành một hiện tượng địa lí đặc biệt cho khu vực phía đông. Địa thế đột nhiên hạ thấp, sống suối từ núi cao chảy xuống đồng bằng hình thành rất nhiều thác nước. Những người châu Âu đầu tiên đến Mỹ đã biết lợi dụng sức nước, định cư gần các thác nước, tạo guồng nước, nhà xay bột, xưởng cưa, máy dệt cũng đều sử dụng sức nước. Vì vậy hiện nay thủ phủ các bang phía đông của Mỹ đều nằm ở gần các thác nước. New York và thủ đô Washington cũng không phải là ngoại lệ.

Năm 1783, Anh thất bại trong chiến tranh độc lập, ngoài 13 bang phía đông, Anh còn thừa nhận toàn bộ vùng đất phía tây núi Appalachian, phía nam Ngũ Hồ, phía bắc sông Mississippi thuộc về Mỹ. Lãnh thổ Mỹ vượt qua dãy núi Appalachian, diện tích mở rộng gấp đôi. Năm 1803, Mỹ bỏ ra 15 triệu USD, mua lại Louisiana với diện tích hơn 2 triệu km2 từ tay Napoléon. Trong vòng 20 năm ngắn ngủi, Mỹ đột nhiên biến thành một nước lớn với lãnh thổ 5 triệu km2. Vì vậy người Mỹ có rất nhiều đất đai miền tây cần khai khẩn. Con người đi khai phá miền tây còn phải có công cụ, vật tư đi theo.

1200px-Map_of_USA_highlighting_Great_Lakes_region.svg.png


Từ vùng Ngũ Hồ muốn ra biển phải đi qua sông Saint Laurent của Canada, một thuộc địa của Anh. Để cướp đường ra biển qua sông Saint Laurent, Mỹ đưa 1.500 quân tấn công Canada, tháng 4/1838 chiếm được thủ đô Canada là Toronto hiện nay. Sau đó Napoléon chiến bại, người Anh rảnh tay đối phó Mỹ, đưa 12.000 quân sang Canada đánh thốc xuống, Washington thất thủ, cả nhà Quốc hội lẫn Nhà Trắng bị thiêu hủy. Nhưng quân Anh không có hứng thú gì với Washington, sau khi chiếm 26 tiếng liền rút về Canada.

Chính là bởi vì đánh không lại quân Anh ở Canada, vùng Ngũ Hồ không có đường ra biển, Mỹ phải thi công kênh đào Erie, đồng thời bỏ ý định mở rộng lên bắc, quay sang bắt nạt Mexico ở hướng tây nam.

Khi đó chưa có tàu hỏa, đi đường bộ từ Buffalo đến New York, chở một tấn hàng mất 120 USD. Chi phí này quá cao, thế là Mỹ quyết định làm kênh đào Erie dài 584 km trong vòng 8 năm. Tổng đầu tư xây dựng kênh đào Erie là 7 triệu USD, một con số cực cao lúc bấy giờ. Để huy động tài chính, Mỹ phát hành công trái Erie tại phố Wall, New York. Sau khi xây xong, giá thành vận chuyển từ 120 USD giảm xuống còn 6 USD/tấn. Trái phiếu lên giá, các nhà đầu tư châu Âu cũng đổ về phố Wall, phố Wall dần dần trở thành trung tâm tài chính thế giới. Cảng New York cũng trở thành trung tâm logistics. Năm 1800, toàn Mỹ chỉ có 6% hàng hóa đi qua New York. Năm 1860, tăng đến 62%. Dân số New York cũng từ 120 nghìn tăng đến hơn 1 triệu, vượt qua Philadelphia và Boston, trở thành thành phố lớn nhất nước Mỹ. Nhờ hệ thống kênh đào, khu vực Ngũ Hồ giao thông thuận lợi hơn nhiều, trở thành khu công nghiệp đầu tiên của Mỹ, các thành phố Chicago, Detroit, Cleveland, Pittsburgh lần lượt hình thành.

Mỹ ngày càng phát triển, đất đai rộng rãi, từ năm 1842, mỗi năm có ít nhất 100 nghìn người từ châu Âu đến Mỹ kiếm ăn. Sau khi Anh chinh phục Ireland, nạn đói lan rộng làm hơn 1 triệu người Ireland chết đói. Mẫu quốc Anh không những không cứu mà còn nhân cơ hội thu mua nhà cửa, ruộng đồng tại Ireland. Người Ireland lang bạt khắp nơi, trong đó đại bộ phận đi đến Mỹ với 1,2 triệu người. Đến nay có 40 triệu người Mỹ là hậu duệ của người Ireland, trong đó có Clinton và Obama.
Từ năm 1852 đến 1854, 500 nghìn người Đức đến Mỹ để tránh loạn trong nước. Người Pháp và Italia cũng di cư đến Mỹ để né tránh cách mạng trong nước. Trong thời gian ngắn, Mỹ nhận thêm hơn 2 triệu người di cư.

Người da trắng cũng có đẳng cấp phân chia. Hạng nhất là người Anglo-Saxon, hạng nhì là người Pháp - Đức, hạng ba là Tây - Bồ - Ý, hạng bét là người Ireland và Đông Âu.

Tự dưng hơn 2 triệu người tràn vào miền đông, quá chật chội, phải làm sao bây giờ? Đơn giản: Đi miền tây khai phá. Nhưng bây giờ mới chỉ có đường thủy đi đến Ngũ Hồ, làm sao đi đến miền tây? Cũng đơn giản: Làm đường sắt.

Miền tây vốn là một thế giới hoang vu, trên danh nghĩa là thuộc địa của Pháp, trên thực tế vẫn là địa bàn của người Anh điêng và dã thú. Sau khi làm xong hai tuyến đường sắt chính, đường sắt nam bắc từ Chicago xuống New Orleans, đường sắt đông tây từ New York sang Los Angeles, người Đức, người Ireland đã có thể đi khắp miền tây. Đến nay người Mỹ gốc Đức có 58 triệu, là sắc tộc lớn nhất, còn hơn cả người Mỹ gốc Anh. Người gốc Đức vốn còn muốn giữ lại ngôn ngữ và văn hóa, nhưng trong WWI, Mỹ tuyên chiến với Đức, người Anglo-Saxon ở Mỹ cũng chèn ép người gốc Đức, đập phá cửa hàng của người gốc Đức, cấm nói tiếng Đức ở nơi công cộng, cuối cùng toàn bộ phải đổi sang nói tiếng Anh (nghe quen quen?). Những người Mỹ gốc Đức nổi tiếng Eisenhower, Nimitz thời WWII, Pershing thời WWI, đều cầm quân đánh Đức sụm xương sống, không còn luyến lưu gì cố quốc.

Để khai khẩn miền tây hoang dã, năm 1800, Mỹ quy định giá bán đất ở miền tây là 2 USD một mẫu, nhưng không ai thèm mua. 20 năm sau, giá giảm xuống 1,25 USD một mẫu Anh, vẫn không có người mua. Năm 1832, giá còn 0,5 USD một mẫu, nhưng không ai chịu đi làm dã nhân. Năm 1863, Mỹ cắn răng phá giá, 10 USD 160 mẫu. Lần này vừa khéo có rất nhiều người Ireland, Đức, Pháp, Ý tràn vào, không đi cũng phải đi.

Lịch sử khai phá miền tây của Mỹ là một lịch sử đẫm máu. Các thị trấn nhỏ được xây dựng bên đường ray, đường ray là liên hệ duy nhất giữa thị trấn với bên ngoài. Pháp luật cũng chỉ tồn tại trong phạm vi thị trấn, ai phạm tội liền chạy ra khỏi thị trấn là xong. Ai muốn bắt thì bỏ tiền thuê thợ săn tiền thưởng ra đời. Cảnh sát chỉ phụ trách an ninh trong thị trấn, nhưng nếu có người bỏ tiền thuê, cảnh sát cũng có thể trở thành thợ săn tiền thưởng.

Ra khỏi thị trấn chính là miền tây hoang dã mênh mông, với thung lũng, thảo nguyên, núi cao, tuyết trắng, có kẻ cướp, người Anh điêng, thú dữ, bò cạp. Từ ngày đầu tiên đổ bộ lên Bắc Mỹ, người châu Âu (cũng chính là người Mỹ sau này) đã cần súng để xua đuổi người Anh điêng và thú dữ, xây dựng thành phố đầu tiên, sau đó cầm súng chống lại mẫu quốc để tuyên bố độc lập, đến khi tây tiến lại cầm súng để xâm lược và tự vệ. Lúc này ở miền tây không có pháp luật và cơ quan chấp pháp hoàn thiện, chỉ có súng mới có thể cho người Mỹ cảm giác an toàn.

Năm 1787, Hiến pháp Mỹ quy định công dân có thể sở hữu và mang theo súng. Súng không phải là để bảo vệ tự do hay dân chủ, mà để bảo vệ tài sản tư nhân và an toàn tính mạng của người Mỹ. Từ châu Âu xa xôi vạn dặm đến đây, dùng súng xây dựng 13 bang miền đông làm bàn đạp, lại dùng súng đến miền tây chiếm lĩnh đất đai, trồng lúa mì, chăn bò, làm bạn với dã thú, xung quanh không làng không quán, đất hoang biến thành ruộng đồng màu mỡ, tất cả những thứ này là của họ, là tài sản tư hữu của họ. Ai dám động vào, trước hết phải hỏi khẩu súng trong tay họ có đồng ý hay không.


Từ năm 1607, tổ tiên của người Mỹ tới Jamestown, từng bước đi về phía tây, đến thác nước, qua dãy núi Appalachian, xây kênh đào Erie, phát triển khu vực Ngũ Hồ, tiếp tục đi mãi về tây, cuối cùng hình thành nước Mỹ ngày nay. Trong quá trình này, chính phủ Mỹ làm gì? Đào kênh, làm đường sắt, chấm hết. Toàn bộ là do những người Mỹ với khẩu súng trong tay, giết người Anh điêng, xua đuổi dã thú, chống lại kẻ cướp, tự phát định cư, khai khẩn, xây dựng thị trấn, thành phố, thành lập các bang. Tài sản của bố mày là do tổ tiên bố mày đổ máu đánh đổi, do bố mày đổ máu bảo vệ, ai cũng đừng hòng động vào, kể cả có là liên bang. Súng là để bảo vệ tài sản tư hữu của bố mày, liên bang được thành lập cũng là để bảo vệ tài sản tư hữu của bố mày. Liên bang có thể không cần, nhưng súng thì nhất định phải có.

Thế nên, súng ống đã là một phần không thể thiếu của lịch sử Mỹ, văn hóa Mỹ. Bất kể xảy ra bao nhiêu vụ nổ súng nữa, bất kể có bao nhiêu người chết vì súng, Mỹ cũng tuyệt đối không bao giờ cấm súng!
Cụ bổ sung thêm phần Hiệp hội súng của Mỹ bây giờ nữa đi, em được biết là Hiệp hội này nó ủng hộ rất nhiều cho các ứng viên, nó đóng góp cho nguồn thu ngân sách của Mỹ cũng siêu nhiều tiền.
 

meotamthe

Xe cút kít
Biển số
OF-140186
Ngày cấp bằng
30/4/12
Số km
17,467
Động cơ
102,103 Mã lực
Nơi ở
đảo không hoang
Lên tiki mà mua cho yên tâm cụ. Nếu phần 5 là Tương lai tiền tệ thì là có đủ 5p rồi.
Song Hong Bing
Tập 1 – Ai thật sự giàu nhất thế giới?
Tập 2 – Sự Thống Trị Của Quyền Lực Tài Chính
Tập 3 – Biên giới Tiền tệ - Nhân tố bí ẩn trong các cuộc chiến kinh tế
Tập 4 - Siêu cường Tài chính
Tập 5 - Tương lai của tiền tệ thế giới – Bình yêu trước giông bão
Cám ơn cụ, chắc tại em lâu không ở nhà, nên không cập nhật hết, để em xem thử :)
 

Đông86

Xì hơi lốp
Biển số
OF-801021
Ngày cấp bằng
21/12/21
Số km
2,720
Động cơ
97,388 Mã lực
Câu cuối cùng của cụ gây tranh cãi đấy. bọn Mỹ là bọn làm việc rất điên cuồng - nghiện việc, có lẽ chỉ sau bọn Hàn, bọn Nhật.
Bạn em đi Mỹ về kể lại như cụ, người nhà em ở bển cũng bảo ở Mỹ sôi động còn châu Âu nhàn nhã (lười) hơn.
 

Tứ Vô Lượng

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-554568
Ngày cấp bằng
19/2/18
Số km
5,820
Động cơ
250,960 Mã lực
Bạn em đi Mỹ về kể lại như cụ, người nhà em ở bển cũng bảo ở Mỹ sôi động còn châu Âu nhàn nhã (lười) hơn.
Mình nhớ láng máng có 1 bộ phim lâu lắm rồi ko nhớ tên, có một bạn TQ nhập cư vào Mỹ sau thời gian vật lộn kết luận 1 câu: (New York) nước Mỹ ko phải là thiên đường hay thương trường mà là chiến trường :) mức độ cạnh tranh rất cao tưởng thưởng cho người giỏi như Obama xuất phát thấp, da đen lên làm Tổng thống là 1 đạng giấc mơ Mỹ đúng như câu nói của Martin Luther King? Như câu cửa miệng các cụ mình hay nói: động lực của phát triển là đấu tranh :P chứ chăn ấm nệm êm trong vùng an toàn thì khó
 
Chỉnh sửa cuối:

thanhgamo

Xe container
Biển số
OF-120503
Ngày cấp bằng
14/11/11
Số km
6,436
Động cơ
451,250 Mã lực
Mình nhớ láng máng có 1 bộ phim lâu lắm rồi ko nhớ tên, có một bạn TQ nhập cư vào Mỹ sau thời gian vật lộn kết luận 1 câu: (New York) nước Mỹ ko phải là thương trường mà là chiến trường :) mức độ cạnh tranh rất cao tưởng thưởng cho người giỏi như Obama xuất phát thấp, da đen lên làm Tổng thống là 1 đạng giấc mơ Mỹ? Như câu cửa miệng các cụ mình hay nói: động lực của phát triển là đấu tranh :P chứ chăn ấm nệm êm trong vùng an toàn thì khó
Rõ ràng Obama đã làm tổng thống Mỹ.
Nếu năm ấy mà người thân Obama di cư sang VN thì chức tổ trưởng tổ dân phố cũng không có cửa cho ông ấy.
 

Tứ Vô Lượng

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-554568
Ngày cấp bằng
19/2/18
Số km
5,820
Động cơ
250,960 Mã lực
Rõ ràng Obama đã làm tổng thống Mỹ.
Nếu năm ấy mà người thân Obama di cư sang VN thì chức tổ trưởng tổ dân phố cũng không có cửa cho ông ấy.
Đang nói chuyện Trai khôn chọn vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân chứ tổ trưởng dân phố tính làm gì :)
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top