"Mổ xẻ" tàu hộ vệ tàng hình Sigma 9814 của Việt Nam
(Kienthuc.net.vn) - Tàu hộ vệ tàng hình Sigma 9814 dành cho Hải quân Việt Nam có thể có lượng giãn nước khoảng 2.000 tấn, trang bị hệ thống vũ khí châu Âu.
Theo phương tiện truyền thông Hà Lan, nhà máy đóng tàu Damen của nước này đã đạt được thỏa thuận đóng 2 tàu hộ vệ tên lửa tàng hình Sigma 9814 cho Hải quân Nhân dân Việt Nam. Theo một số nguồn tin, tổng giá trị hợp đồng vào khoảng 660 triệu USD. Dự kiến, hợp đồng sẽ được ký kết chính thức vào cuối năm nay.
Đây thực sự là tin vui đối với Hải quân Nhân dân Việt Nam, khi mà chỉ trong vòng vài năm tới chúng ta sẽ có 4 tàu Gepard 3.9 (2 tàu đang đóng tại Nga) và 2 tàu Sigma 9814 cùng 12 tàu tên lửa Project 12418 (10 chiếc đang đóng) cùng một số tàu tên lửa Project 1241RE sẽ giúp hải quân ngày càng mạnh hơn để bảo vệ vững chắc biển, đảo tổ quốc.
Câu hỏi đặt ra là các tàu Sigma 9814 dành cho Hải quân Nhân dân Việt Nam có kích thước như thế nào, cấu hình hệ thống vũ khí, radar ra sao? Bởi hiện nay trong các biến thể của tàu hộ vệ lớp Sigma không có loại nào gọi là Sigma 9814. Điều đó có nghĩa đây là thiết kế hoàn toàn mới dành cho Việt Nam, phù hợp với các yêu cầu của Việt Nam.
Tàu hộ vệ tên lửa Sigma 9113 của Hải quân Indonesia.
Báo chí Hà Lan cũng đã hé lộ một phần cấu hình của loại tàu chiến này, theo đó Sigma 9814 sẽ có chiều dài 98m, rộng 14m. Có thể thấy là hai con số dài, rộng này tương ứng với số “9814”, đây là cách định danh của Damen dành cho các biến thể thuộc lớp tàu Sigma.
Ví dụ, như Sigma 9113 dành cho Hải quân Indonesia, thì số 9113 tương đương với việc chiều dài khoảng 91m, rộng 13m. Hay biến thể Sigma 9813 xuất khẩu cho Morocc có chiều dài 98m, rộng 13m.
Sở dĩ Damen có thể tùy ý biến đổi kích thước của con tàu theo yêu cầu khách hàng nhờ một phần vào việc Sigma thiết kế đóng hoàn toàn theo công nghệ module. Người ta có thể dễ dàng kéo dài nó thêm hoặc thu ngắn chiều dài tùy theo hợp đồng với khách hàng.
Biến thể Sigma 9814 dành cho Việt Nam có kích thước khá gần với Sigma 9813 của Morocc (chỉ khác về chiều rộng). Nếu như Sigma 9813 có lượng giãn nước vào khoảng 2.075 tấn thì có thể đoán định Sigma Việt Nam vào khoảng trên 2.000 tấn một chút (có thể là 2.100 tấn), mớn nước khoảng 3.7-3,8m.
Pháo hải quân tốc độ cao OTO Melara 76mm.
Về mặt trang bị vũ khí, báo chí Hà Lan hé lộ một số thông tin cho biết, tàu Sigma 9814 của Việt Nam sẽ sử dụng pháo hải quân OTO Melara, hệ thống ống phóng thẳng đứng trang bị tên lửa MICA và tên lửa hành trình chống tàu.
Riêng về trang bị pháo hạm, khả năng cao cỡ pháo trang bị là loại 76mm do Công ty OTO Melara Italy sản xuất. Pháo hải quân OTO Melara 76mm có tốc độ bắn rất cao phù hợp cho tác chiến phòng thủ điểm chống tên lửa tầm ngắn, chống máy bay, tàu mặt nước và đất liền (pháo kích bờ biển).
Loại pháo này có thể bắn nhiều loại đạn khác nhau (đạn xuyên giáp, đạn nổ phá mảnh và thậm chí là đạn tự dẫn), tốc độ bắn 120 phát/phút, tầm bắn xa 16km với đạn nổ phá mảnh hoặc 40km với đạn tự dẫn tăng tầm (đang phát triển).
Về hệ thống tên lửa phòng không, Sigma 9814 sẽ được thiết kế với hệ thống ống phóng thẳng đứng. Nếu thông tin này là chính thức thì Việt Nam lần đầu tiên có tàu chiến được trang bị kiểu ống phóng đứng.
Sigma 9814 có thể là tàu chiến Việt Nam đầu tiên trang bị hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng.
Hệ thống tên lửa phòng không được sử dụng là loại tên lửa VL MICA, biến thể dùng trên hạm của tên lửa không đối không MICA do tập đoàn MBDA (Pháp) thiết kế sản xuất.
Đạn tên lửa VL MICA nặng 112kg, dài 3,1m, lắp đầu đạn nổ phá nặng 12kg, trang bị động cơ đẩy nhiên liệu rắn SNPE cho phép đạt tầm bắn 1-10km (theo một số nguồn tin khác thì tầm bắn khoảng 20km), độ cao diệt mục tiêu 11km. Về hệ thống dẫn đường, VL MICA có 2 biến thể gồm: VL MICA RF dùng đầu tự dẫn radar chủ động và VL MICA IR lắp đầu tự dẫn hồng ngoại.
Ngoài những “hé lộ” ban đầu về pháo hải quân và tên lửa phòng không, báo chí Hà Lan tuyệt nhiên không nhắc tới loại tên lửa hành trình chống tàu mặt nước nào sẽ trang bị cho Sigma 9814. Dường như, việc này vẫn chưa được 2 bên quyết định.
Vấn đề ở chỗ, hiện nay Hải quân Nhân dân Việt Nam chỉ dùng tên lửa chống tàu do Nga sản xuất, mà rộng rãi nhất là loại Kh-35 Uran E. Trong khi đó, Sigma 9814 lại là thiết kế của Hà Lan, việc tích hợp một hệ thống tên lửa khác nhà thiết kế, chế tạo là điều không dễ dàng, bởi ngoài bệ phóng tên lửa người ta còn phải tính đến hệ thống radar điều khiển hỏa lực của tàu. Đó là chưa kể tính tương thích với các hệ thống quản lý chiến đấu trên Sigma.
Việt Nam sẽ dùng Kh-35 Uran E hay Exocet MM40 trên Sigma 9814?
Trước đây, Indonesia từng tính toán tới việc tích hợp hệ thống tên lửa hành trình chống tàu C-802 của Trung Quốc lên Sigma 9113. Tuy nhiên, rốt cuộc không rõ vì sao con tàu sau này được chuyển giao với hệ thống tên lửa Exocet MM-40 Block 2 của Pháp.
Đây cũng có thể là một giải pháp dành cho Sigma 9814 của Việt Nam, những năm qua mối quan hệ hợp tác quốc phòng với Pháp ngày càng được mở rộng, cũng có khả năng Pháp sẽ chấp nhận cung cấp tên lửa Exocet MM-40 (tốc độ cận âm, tầm bắn 70km) cho Việt Nam. Tóm lại, câu trả lời về liệu Sigma 9814 dành cho Việt Nam trang bị hệ thống tên lửa nào chỉ có thể biết được chính xác nhất trong những năm tới.
Ngoài tên lửa chống tàu, báo chí Hà Lan cũng không nói rõ việc liệu Sigma 9814 có trang bị hệ thống vũ khí chống tàu ngầm hay không? Vấn đề này có lẽ chủ yếu tùy thuộc vào yêu cầu từ phía Việt Nam.
Bởi hiện nay, các biến thể Sigma mà Hà Lan xuất khẩu cho Indonesia và Morocc thiết kế với hệ thống định vị thủy âm để phát hiện tàu ngầm và hệ thống ngư lôi cỡ 324mm trang bị ngư lôi hạng nhẹ MU90 đạt tầm bắn khoảng 12-25km (tùy tốc độ hành trình), xuyên sâu xuống mặt nước khoảng 1.000m.
Anten (trên đỉnh) của hệ thống radar giám sát tầm xa SMART-S Mk2.
Đối với hệ thống điện tử hàng không, các biến thể Sigma đều được trang bị hệ thống radar giám sát vùng trời, vùng biển SMART-S Mk2. Hệ thống radar này có 2 chế độ hoạt động: nếu anten quay tốc độ 13,5 vòng/phút thì có tầm xa tới 200km; nếu quay tốc độ 27 vòng/phút thì có tầm xa tới 150km với tổng số mục tiêu theo dõi là 500 (trên không và trên biển). Theo Thales, SMART-S Mk2 có thể phát hiện máy bay tàng hình ở cự ly 50km.
Ngoài ra, tàu còn trang bị hệ thống quản lý chiến đấu hiện đại Thales TACTICOS cùng hệ thống radar định vị, điều khiển hỏa lực pháo, tên lửa khác và hệ thống đối phó điện tử với mồi bẫy, pháo sáng…
Nếu Việt Nam quyết định lựa chọn hệ thống radar giám sát như SMART-S Mk2 thì thực sự đây là tin rất vui đối với Hải quân Nhân dân Việt Nam, khi mà các tàu chiến sẽ có khả năng đối phó được cả máy bay tàng hình.
Về mặt hệ thống động lực, tàu chiến lớp Sigma 9814 có thể trang bị 2 động cơ diesel cho phép đạt tốc độ tối đa khoảng 28 hải lý/h, tầm hoạt động tới 6.000-8.000km, thủy thủ đoàn khoảng 90-100 người.
Tàu khu trục phòng không tàng hình Sachsen frigate (xài chung radar SMART-L anh em với radar SMARL-S Sigma)
F124 Sachsen là lớp tàu khu trục phòng không tàng hình mới nhất của Đức .Thiết kế của các tàu khu trục nhỏ lớp Sachsen là dựa trên lớp Brandenburg F123 nhưng với tính năng tàng hình được nâng cao có khả năng lẩn tránh bất kỳ radar của đối phương và cảm biến âm thanh. Các hệ thống radar tiên tiến đa năng APAR kết hợp radar SMART-L tầm xa trên F124 Sachsen được cho là có khả năng phát hiện máy bay tàng hình và tên lửa tàng hình. Mặc dù được xem như là tàu khu trục nhỏ, nhưng F124 Sachsen có các khả năng và kích thước tương đương với tàu khu trục lớn
Đây cũng là dự án khá đắt đỏ đối với Hải quân Đức, chỉ với 3 chiếc đã ngốn hết 2,1 tỷ Euro. F124 Sachsen tương tự như tàu khu trục nhỏ lớp Provinciën của Hà Lan. Cả hai lớp Sachsen và lớp De Zeven Provinciën đều được dựa trên việc sử dụng một hệ thống phòng không chính được xây dựng xung quanh các radar APAR và SMART-L, tên lửa đất đối không SM-2 IIIA và Evolved Sea Sparrow.
Thông số kỹ thuật của tàu:
Trọng lượng: 5.690 tấn
Chiều dài: 143.0m
Ngang: 17.44m.
Tốc độ: 29 knots
Tầm hoạt động: Trên 4.000 hải lý tại 18 kn (Trên 7.400km tại 33 km / h)
Thủy thủ đoàn: 230 người.
Động cơ: CODAG (kết hợp diesel và khí )
2 trục cánh quạt, kiểm soát cánh quạt
2 động cơ diesel V20 MTU, mỗi cái 7,4 MW
1 tua bin khí General Electric LM2500
2 hộp số Renk ASM 195 F (đối với các động cơ diesel)
1 hộp số Renk AS 2 / 290 (tuabin khí và kết nối chéo)
4 1.000 kW 16/628 Deutz diesel-điện.
Vũ khí trang bị:
Phòng không: Các vũ khí phòng không chính là 32 Tên lửa phòng thủ gần Evolved Sea Sparrow và 24 tên lửa phòng thủ khu vực SM-2 IIIA, được bắn từ một bệ phóng VLS Mk-41:
-2 bệ Sea Ram với 21 tên lửa phòng không tầm ngắn mỗi bệ.
Pháo hạm: F124 được trang bị một súng Oto Melara 76mm và hai pháo Rheinmetall MLG 27mm điều khiển từ xa:
Rheinmetall MLG 27mm:
Chống ngầm: 2 bệ x 3 ống phóng ngư lôi EuroTorp MU90.
Sàn đáp và nhà chứa máy bay: 2 Sea Lynx Mk.88A hoặc 2 NH90 helicopters mang torpedoes, air-to-surface missiles Sea Skua, and/or heavy machine gun
Bộ cảm biến: Bao gồm các radar giám sát tầm xa Thales Nederland SMART-L , radar đa chức năng Thales Nederland APAR , và hai radar bản đồ chuyển hướng STN 9.600-M ARPA.Những tàu này đã được tối ưu hóa cho vai trò phòng không. Tàu được trang bị một bộ cảm biến tiên tiến và vũ khí. Các cảm biến chính cho vai trò phòng không là radar giám sát tầm xa SMART-L và radar đa chức năng APAR . SMART-L hoạt động tần số D-band, giám sát phạm vi rất xa trong khi APAR là một radar I-band theo dõi mục tiêu chính xác, có khả năng tìm kiếm khả năng, và hướng dẫn tên lửa theo kỹ thuật Interrupted Continuous Wave Illumination (ICWI)
SMART-L radar:
Radar mạng pha SMART-L (phía sau tháp pháo cao tốc Goalkeeper) hiện đại có khả năng phát hiện mục tiêu máy bay cách xa 400km và tên lửa cách xa 65km (đối với máy bay tàng hình) , theo dõi cùng lúc 1.000 mục tiêu trên không hoặc 100 mục tiêu trên mặt biển.
APAR radar:
Điểm nhấn khi nói loại tàu này là nó trang bị hệ thống radar mạnh mẽ, đa năng. Trong ảnh là tháp radar đa năng mạng pha chủ động APAR có khả năng theo dõi cùng lúc 200 mục tiêu trên không cách xa 150km hoặc 150 mục tiêu trên biển trong phạm vi 32km. APAR làm nhiệm vụ chiếu dọi mục tiêu cho tên lửa đối không tầm xa SM-2 Block IIIA.
Tàu cũng được trang bị hệ thống giám sát hồng ngoại tầm xa Nederland Thales Sirius IRST và bộ cảm biến theo dõi . Hệ thống quang-điện điều khiển hỏa lực STN Atlas MSP 500 theo dõi mục tiêu và điều khiển súng chính. Sonar là STN Atlas Elektronik DSQS-24B.
Biện pháp đối phó điện tử bao gồm một hệ thống điện tử quốc phòng FL1800 SII ECM và sáu máy phóng Sippican Hycor SuperRBOC với pháo sáng chống nhiễu. Các biện pháp hỗ trợ điện tử được cung cấp bởi hệ thống Điện tử EADS Maigret CESM (Truyền thông ESM).