[Funland] Sơ lược về lực lượng tên lửa thông thường của hàng xóm

Muon_biet

Xe cút kít
Biển số
OF-186880
Ngày cấp bằng
25/3/13
Số km
19,860
Động cơ
544,893 Mã lực
Nơi ở
Đống Đa, Hà Nội
Bác ơi
Kệ nó, cho nó chạy thi với Mỹ, Nhật, Nga... Hy vọng nó sẽ tự ngã
Chứ cứ nhìn thấy nó thế, thực hư thế nào ko biết, mấy anh yếu bóng vía sợ quá là ko ổn
Về số lượng thì anh hàng xóm luôn lợi thế. Còn chất lượng thì chắc vẫn ở nhoam lấy thịt đè người thôi
Vào cuộc mới biết
Hồi trc hình như có ông chuyên gia quân sự của phương Tây phát biểu rằng: TQ chưa đủ trình đọ tích hợp các lực lượng chỉ huy điều khiển để sử dụng tên lửa tầm xa tấn công TSB, do TSB luôn di chuyển và tốc độ di chuyển cũng khá lớn
TQ ko có khả năng tiếp cận thì chỉ ngồi ở Bắc Kinh để vãi đạn qua báo chí thôi
Máy bay thì lại càng không...
Cho nên lực lượng tên lửa mà Tàu nó gọi là Nhị pháo thì cũng chỉ dọa VN, Đài Loan, Ấn Độ...
Thôi thì kệ nó
VN không lo, mi có tầm xa thì ta giáp lá cà: lấy đoản khắc trường!
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

5. Hải quân Australia

a. Tổ chức biên chế


TT
Tổ chức
Biên chế
I
Quân số
14.000
II
Tổ chức lực lượng
1​
Bộ Tư lệnh Yểm trợ
1
2​
Bộ Tư lệnh Huấn luyện
1
3​
Bộ Tư lệnh Hỗ trợ bảo vệ biển
1
4​
Bộ Tư lệnh Tác chiến
1
- Biên đội tàu ngầm
1​
- Biên đội tàu tuần tiễu
2​
- Biên đội tàu quét mìn
1​
- Biên đội tàu đổ bộ
1​
- Biên đội tàu khảo sát - phục vụ
1​
- Biên đội tàu huấn luyện
1​
- Phi đội trực thăng chống ngầm
2​
- Phi đội trực thăng chống tàu nổi
1​
-Phi đội trực thăng bảo đảm
1​
+ Phi đội trực thăng huấn luyện
2​

TT
Kiểu loại
Biên chế
I
Tàu, xuồng
1​
Tàu chiến đấu
50
- Tàu ngầm lớp “Collins”
6​
- Tàu hộ vệ tên lửa lớp Adelaide (FFG)
2​
- Tàu hộ vệ lớp Anzac (FFH)
8​
- Tàu khu trục tên lửa lớp Hobart (DDG)
3​
- Tàu vận tải đổ bộ lớp Bay (LSD)
1​
- Tàu đổ bộ tiến công lớp Canbeưa (LHD)
2​
- Tàu tuần tra lớp Armidele (ACPB)
13​
- Tàu rải-quét mìn lớp Huon (MHC)
6​
- Tàu hậu cần lớp Durance (AOR)
1​
- Tàu hậu cần lớp Sirius (AO)
1​
- Tàu huấn luyện đa năng (MATV)
1​
- Tàu khảo sát lớp Leeuwin (AGS)
2​
- Tàu khảo sát lớp Paluma (SML)
4​
1638780040618.png


1638780070958.png

1638780110908.png

1638780143810.png

1638953317066.png

Tàu ngầm lớp “Collins”

Có trụ sở tại Căn cứ Hạm đội West ở Tây Úc, HMAS Collins là chiếc đầu tiên trong số 06 tàu ngầm lớp Collins được đưa vào phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Úc. Các tàu ngầm này là một nhân tố đáng gờm trong khả năng phòng thủ của Australia.
Collins được hạ thủy tại Adelaide, Nam Úc bởi phu nhân của Phó Đô đốc Sir John Collins, Phu nhân Phyllis Collins vào ngày 28 tháng 8 năm 1993 và được đưa vào hoạt động tại Adelaide vào ngày 27 tháng 7 năm 1996.
Đặc điểm hoạt động và phạm vi hoạt động của HMAS Collins đã được thiết kế đặc biệt cho vai trò phòng thủ và giám sát hai đại dương của Hải quân Hoàng gia Úc. Được thiết kế để hoạt động êm ái với công nghệ tiên tiến có thể đạt được, tàu ngầm lớp Collins được phát triển từ 5 thế hệ tàu ngầm do Hải quân Thụy Điển thiết kế và chế tạo.
Là một trong những tàu ngầm đầu tiên được thiết kế hoàn toàn bằng máy tính, HMAS Collins tự hào có một loạt các tính năng. Chúng bao gồm dạng thân tàu giảm sức cản của nước, điều khiển tự động hóa cao, tỷ lệ sai hỏng thấp, khả năng chống va đập cao, triệt tiêu tiếng ồn tối ưu và hệ thống điều khiển và phóng vũ khí hiệu quả.
Tàu ngầm di chuyển yên lặng nhờ năng lượng điện được cung cấp cho động cơ đẩy bởi các khối pin không chì công nghệ mới. Pin được sạc bởi ba tổ máy phát điện diesel trên tàu.

1638780226381.png

1638780275829.png

1638780340850.png

Tàu hộ vệ tên lửa lớp Adelaide (FFG)

HMAS Adelaide (II) (FFG-01) là khinh hạm hộ tống tầm xa với các vai trò bao gồm phòng không khu vực, tác chiến chống tàu ngầm, giám sát, trinh sát và đánh chặn. Con tàu có thể đồng thời chống lại các mối đe dọa từ trên không, trên mặt nước và dưới mặt nước.
Được chế tạo tại Hoa Kỳ, Adelaide (II) được đưa vào hoạt động vào ngày 15 tháng 11 năm 1980 và là chiếc đầu tiên trong số 06 khinh hạm tên lửa dẫn đường Lớp Adelaide được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Úc. Adelaide (II) là con tàu thứ hai trong RAN mang tên này. Chiếc đầu tiên là một tàu tuần dương hạng nhẹ phục vụ từ năm 1922 đến năm 1945.
Adelaide (II) được trang bị một số cảm biến bao gồm radar tầm xa để giám sát trên không và bề mặt, chiến tranh điện tử và hệ thống giám sát quang học, một sonar tầm trung và một hệ thống chỉ huy và điều khiển, kết hợp dữ liệu mục tiêu nhận được bằng liên kết dữ liệu từ các tàu và máy bay.
Các loại vũ khí chính được lắp đặt ở Adelaide (II) là tên lửa phòng không tầm trung Standard và tên lửa chống tàu Harpoon. Cả hai tên lửa đều được phóng từ bệ phóng Mk 13. Một khẩu pháo 76mm để chống lại các mối đe dọa trên không và trên mặt đất được lắp ở mũi tàu. Một hệ thống phòng thủ tầm gần Phalanx 20mm, hệ thống mồi nhử Nulka và hệ thống tác chiến điện tử được trang bị để phòng thủ chống tên lửa. Adelaide (II) có sức chứa hai trực thăng S-70B-2 Seahawk và được trang bị hai bộ ba ống phóng ngư lôi Mk 32 để chống tàu ngầm.

1638780389788.png

1638780426679.png

1638780479397.png

1638780506128.png

Tàu hộ vệ lớp Anzac (FFH)

HMAS Anzac (III) là tàu dẫn đầu trong số 8 khinh hạm Lớp Anzac do Tenix Defense Systems tại Williamstown, Victoria đóng cho Hải quân Hoàng gia Úc. Thiết kế dựa trên khinh hạm Meko 200 của Đức.
Anzac là một khinh hạm tầm xa có khả năng phòng không, tác chiến trên mặt nước và dưới biển, giám sát, trinh sát và đánh chặn. Khả năng chiến đấu của Anzac đã được cải thiện đáng kể theo chương trình nâng cấp Phòng thủ Tên lửa Chống Tàu, một chương trình hiện đại hóa vũ khí hải quân cung cấp khả năng hệ thống vũ khí và cảm biến mới. Việc nâng cấp thể hiện khả năng tích hợp và thiết kế của Úc, với công nghệ Radar mảng pha mới do CEA Technologies ở Canberra thiết kế, nâng cấp cho các hệ thống chiến đấu do Saab Systems ở Nam Úc thực hiện và thiết kế tích hợp hệ thống của BAE Systems ở Victoria.
Anzac được trang bị một hệ thống radar giám sát trên không và trên biển tiên tiến; Thân tàu gắn các hệ thống sonar và hỗ trợ điện tử đa hướng giao tiếp với hệ thống dữ liệu chiến đấu 9LV453 Mk3E tối tân. Con tàu có thể chống lại các mối đe dọa đồng thời từ máy bay, tàu nổi và tàu ngầm.
Vũ khí chính của tàu bao gồm một pháo Mark 45 có khả năng bắn 20 phát/phút, hệ thống phóng ngư lôi Mark 46 và hệ thống phóng thẳng đứng Mark 41 cho tên lửa Evolved Sea Sparrow. Anzac cũng có 8 tên lửa chống hạm. Các hệ thống phòng thủ khác của tàu bao gồm hệ thống mồi nhử tên lửa chủ động Nulka, hệ thống đối phó ngư lôi.

1638780552890.png

1638780584197.png

1638780641135.png

Tàu khu trục tên lửa lớp Hobart (DDG)

HMAS Hobart (III) là chiếc đầu tiên trong số ba chiếc tàu khu trục tên lửa dẫn đường Lớp Hobart. Các tàu cùng loại là HMAS Brisbane (III) và HMAS Sydney (V). Keel của Hobart được hạ thủy vào ngày 6 tháng 9 năm 2012 và con tàu được hạ thủy vào ngày 23 tháng 5 năm 2015. HMAS Hobart (III) được đưa vào hoạt động vào ngày 23 tháng 9 năm 2017.
Hobart dựa trên khinh hạm F100 do Navantia thiết kế và được kết hợp với Hệ thống chiến đấu Aegis. Hobart được lắp ráp tại Úc.
Hobart cung cấp khả năng phòng không cho các tàu đi cùng bên cạnh lực lượng trên bộ và cơ sở hạ tầng ở các khu vực ven biển, và để tự bảo vệ trước tên lửa và máy bay. Hệ thống chiến đấu Aegis kết hợp radar mảng pha hiện đại AN / SPY 1D (V), kết hợp với tên lửa SM-2, cung cấp cho Hải quân một hệ thống phòng không tiên tiến có khả năng tấn công máy bay và tên lửa của đối phương ở phạm vi ngoài 150 km.
Hobart mang theo một máy bay trực thăng để giám sát và hỗ trợ tác chiến. Chức năng tác chiến trên mặt nước sẽ bao gồm các tên lửa chống hạm tầm xa và một khẩu pháo hải quân có khả năng bắn đạn dược tầm xa để hỗ trợ lực lượng trên bộ. Hobart cũng có thể tác chiến chống ngầm và được trang bị hệ thống sonar hiện đại, mồi nhử, ngư lôi phóng từ mặt nước và một loạt vũ khí phòng thủ tầm gần hiệu quả.

1638780697125.png

1638780759533.png

1638780809230.png

1638780846507.png

Tàu vận tải đổ bộ lớp Bay (LSD)

HMAS Choules (L100) là một tàu đổ bộ lớp Bay phục vụ cho Lực lượng hậu cần Hạm đội Hoàng gia (RFA) từ năm 2006 đến năm 2011, trước khi được Hải quân Hoàng gia Úc (RAN) mua. Con tàu được chế tạo với tên gọi RFA Largs Bay bởi công ty Swan Hunter ở Wallsend, Tyne và Wear. Nó được đặt theo tên của Vịnh Largs ở Ayrshire, Scotland, và đi vào hoạt động vào tháng 11 năm 2006. Trong sự nghiệp của mình với RFA, Vịnh Largs từng là tàu của Anh được giao nhiệm vụ hậu cần, tiếp vận tại Quần đảo Falkland năm 2008 và cung cấp hàng cứu trợ sau trận động đất Haiti năm 2010 .
Vào cuối năm 2010, tàu bị loại khỏi biên chế khỏi RFA. Nó đã được chào bán, RAN đấu thầu thành công vào tháng 4 năm 2011. Sau khi sửa đổi để phù hợp hơn với các điều kiện hoạt động của Úc, con tàu được đưa vào hoạt động vào tháng 12 năm 2011 với tên gọi HMAS Choules, được đặt theo tên của Hải quân Hoàng gia và Chỉ huy trưởng Hải quân Hoàng gia Úc, Đô đốc Claude Choules.

1638780901425.png

1638780979141.png

1638955401932.png

1638780936778.png

1638955429745.png

1638955239637.png

Tàu đổ bộ tiến công lớp Canbera (LHD)

Trong số các chiến hạm được Australia điều tới Biển Đông phải kể đến soái hạm HMAS Canberra (L02). Đây cũng là một trong hai tàu chiến lớn nhất và uy lực nhất của nước này. HMAS Canberra (L02) thuộc lớp tàu đổ bộ tấn công với lượng choán nước đầy tải lên tới 30.000 tấn, tàu có thể mang theo 18 trực thăng, 110 xe thiết giáp, 12 xe tăng và hơn 1.000 binh sĩ. Đáng chú ý, khi cần thiết HMAS Canberra (L02) hoàn toàn có thể triển khai chiến đấu cơ tàng hình F-35B của Mỹ nhờ đường băng được thiết kiểu "nhảy cầu" dốc 13 độ. HMAS Canberra (L02) được chế bảo bởi liên doanh giữa Australia và Tây Ban Nha thông qua nhà thầu BAE Systems Australia. Tàu được chế tạo cho nhiệm vụ triển khai binh lính, trang thiết bị quân sự trong các nhiệm vụ đổ bộ và hỗ trợ nhân đạo. Phần vỏ tàu được đóng tại Tây Ban Nha, sau đó chuyển đến Australia vào năm 2011 để hoàn thiện. HMAS Canberra (L02) bắt đầu thử nghiệm trên biển vào năm 2013. HMAS Canberra (L02) được bàn giao cho Hải quân Hoàng gia Australia (RAN) vào tháng 11/2014. Tàu được trang bị hệ thống động lực kết hợp động cơ diesel và tua bin khí, tốc độ tối đa 20 hải lý/giờ, dự trữ hành trình 9.000 hải lý. Dù được chỉ định là tàu đổ bộ có sàn đáp cho trực thăng, HMAS Canberra (L02) có thiết kế như một tàu sân bay hạng nhẹ, tương tự tàu sân bay Juan Carlos I của hải quân Tây Ban Nha. Các chuyên gia quân sự dự đoán HMAS Canberra (L02) có thể được cấu hình thành tàu sân bay hạng nhẹ trong tương lai bằng việc đặt mua tiêm kích tàng hình F-35B, tương tự như Nhật Bản đã làm với tàu đổ bộ JS Izumo.
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

1638950320748.png

1638950295505.png

1638950360633.png

1638950336423.png

Tàu tuần tra lớp Armidele (ACPB)
Các tàu tuần tra Lớp Armidale đã được thiết kế và đóng cho Hải quân Hoàng gia Úc để hỗ trợ hải quân cho các cơ quan dân sự trong các nhiệm vụ như bảo vệ nghề cá, tuần tra hải quan và chống nhập cư bất hợp pháp.
Các tàu tuần tra lớp Armidale được sử dụng để thay thế 15 tàu tuần tra cỡ lớn Lớp Freemantle được đưa vào trang bị từ năm 1980 đến năm 1984 và sắp kết thúc vòng đời hoạt động của chúng.
Vào tháng 12 năm 2003, Bộ Quốc phòng Australia đã trao hợp đồng cho Cơ quan Hàng hải Quốc phòng (DMS) về việc cung cấp và hỗ trợ 12 tàu tuần tra Lớp Armidale. Chính phủ Úc sau đó đã đặt hàng thêm hai tàu Armidale vào tháng 6 năm 2006.
DMS đã ký hợp đồng phụ thiết kế và đóng tàu tuần tra cho Austal và chúng được đóng tại xưởng đóng tàu Austal’s Henderson gần Freemantle. Hợp đồng trị giá 553 triệu USD bao gồm việc thiết kế, đóng và cung cấp các tàu tuần tra cũng như hỗ trợ và bảo trì trong 15 năm.

1638950433441.png

1638950580262.png

1638950622665.png

Tàu rải-quét mìn lớp Huon (MHC)
Là một tàu quét mìn lớn theo tiêu chuẩn thế giới, MHC nặng 720 tấn, 52,5 mét, được đẩy bằng động cơ diesel V8. Tàu có 4 chân vịt, 01 chân vịt có thể chuyển hướng được khi di chuyển và 03 chân vịt có thể thu vào trong khi quét mìn.

1638950725181.png

1638950759619.png

1638950834467.png

1638950962160.png

Tàu hậu cần lớp Durance (AOR)
Tàu hậu cần Lớp Durance ban đầu được thiết kế và chế tạo cho Hải quân Pháp. 05 chiếc được đóng cho Hải quân Pháp và 01 chiếc được đóng cho Hải quân Hoàng gia Australia (RAN). Con tàu thứ sáu trong lớp, HMAS Success (AOR 304), được đóng tại Nhà máy đóng tàu Cockatoo Island ở Australia. Nó được đặt đóng vào tháng 8 năm 1980, hạ thủy vào tháng 3 năm 1984 và đưa vào biên chế RAN vào tháng 4 năm 1986. 02 tàu hậu cần Lớp Durance được sửa đổi có tên 902 Boraida và 904 Yunbou hiện đang phục vụ cho Hải quân Hoàng gia Ả Rập Xê Út.

1638951742982.png

1638951883343.png

1638951943035.png

Tàu hậu cần lớp Sirius (AO)
HMAS Sirius (O 266) (trước đây là MT Delos) là một tàu chở dầu thương mại được Hải quân Hoàng gia Úc mua và chuyển đổi thành tàu bổ sung của hạm đội để thay thế HMAS Westralia. Tàu được đóng tại Hàn Quốc vào năm 2004 và được chuyển đổi ở Úc, Sirius được đưa vào hoạt động năm 2006;

1638952093729.png

1638952244319.png

1638952486800.png

Tàu huấn luyện đa năng (MATV)
Tàu MATV Sycamore do Damen chế tạo, hạ thủy tại Hải Phòng, Việt Nam, là một tàu biển dân dụng, có khả năng tiếp nhận máy bay trực thăng, được đăng ký để thực hiện các hoạt động huấn luyện quân sự và các nhiệm vụ khác cho RAN và các cơ quan Khối thịnh vượng chung.
MATV được sử dụng cho các vai trò sau: bay trực thăng và huấn luyện boong, huấn luyện Cảnh sát biển, huấn luyện hoa tiêu, hỗ trợ lặn để huấn luyện tác chiến mìn, cứu kéo, nhiệm vụ phối hợp và thực hành thu hồi vũ khí.

1638952562985.png

1638952586572.png

1638952719000.png

Tàu khảo sát lớp Leeuwin (AGS)
HMAS Leeuwin và tàu HMAS Melville thay thế các tàu HMA Ships Moresby (II) và Flinders hiện đã ngừng hoạt động vào năm 2000. Cả hai con tàu đều lấy tên từ những địa danh nổi tiếng trên bờ biển Australia. Leeuwin được đặt theo tên của Cape Leeuwin, ở mũi phía tây nam của Tây Úc. HMAS Leeuwin được hạ thủy vào giữa năm 1997. Các con tàu được NQEA đóng ở Cairns, Bắc Queensland.

1638953055628.png

1638952795750.png

1638953008299.png

1638953020973.png

Tàu khảo sát lớp Paluma (SML)

Các tàu AGSC HMA Tàu HMAS Paluma (IV), HMAS Mermaid, HMAS Shepparton (II) và HMAS Benalla (II), thường hoạt động theo cặp và được thiết kế cho các hoạt động khảo sát thủy văn ở vùng nước nông phía bắc Australia. Hai thân tàu của chúng mang lại sự ổn định tốt trong điều kiện biển động, các bãi cạn. Ngoài ra, thân tàu nổi hẳn lên khỏi mặt nước, con tàu chỉ dài 2,2 mét - một đặc điểm thuận lợi trong các vùng nước có bãi đá ngầm và rạn san hô nơi tàu thường phải hoạt động. Mỗi SML đều mang những thiết bị hỗ trợ hàng hải mới nhất, thiết bị khảo sát và xử lý dữ liệu thủy văn trên máy tính. Tất cả dữ liệu do con tàu thu thập được lưu trữ và được chuyển đến Văn phòng Thủy văn Úc để xuất bản tiếp theo trong các bản đồ hàng hải, từ giấy đến hải đồ điện tử.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

II
Máy bay
1​
Máy bay trực thăng
42
- Chống ngầm (S-70B2, Mk-50A, MH-60R...)
24​
- Chiến đấu (AS-350BA)
4​
- A-109E Agusta
3​
- SH-2G/A (trên tàu hộ vệ Anzac)
11​
2​
Máy bay trực thăng vận tải (NH-90, H-135, Bell429)
25

1639192414516.png

1639192457344.png

1639192469139.png

1639192655715.png

Máy bay trực thăng S-70B2

S-70B-2 Seahawk là một phiên bản khác của trực thăng SH-60F, nhưng được Sikorsky thiết kế để đáp ứng các thông số kỹ thuật của RAN cho tác chiến chống tàu ngầm (ASW) và các hoạt động khảo sát và xác định mục tiêu tàu nổi (ASST).
Seahawk là một phần không thể thiếu trong vũ khí và trinh sát, phát hiện mục tiêu của tàu chiến. Với bộ cảm biến độc đáo và hệ thống vũ khí tích hợp, trực thăng đã mở rộng bán kính chiến đấu của tàu bằng cách tìm kiếm, xác định vị trí và tấn công ở những nơi thích hợp, các mục tiêu trên mặt nước hoặc tàu ngầm, độc lập hoặc kết hợp với các lực lượng khác.
Seahawk mang bộ cảm biến, liên lạc và điều hướng có khả năng cao, khiến nó trở thành một chiếc trực thăng đáng gờm trong tác chiến chống tàu ngầm và chống tàu mặt nước. Các cảm biến bao gồm radar Super Searcher, máy dò dị thường từ tính, xử lý sóng âm cho cả hợp kim chủ động và thụ động, tia hồng ngoại hướng tới tương lai (FLIR) và các biện pháp hỗ trợ điện tử. Vũ khí chính của Seahawk là ngư lôi chống ngầm Mk46 và nó cũng có thể được trang bị súng máy đa năng 7,62 mm gắn cửa.
Seahawk thường hoạt động với phi hành đoàn 3 người. Phi công với tư cách là cơ trưởng điều khiển máy bay trực thăng và chịu trách nhiệm về hoạt động an toàn chung của nó. Điều phối viên chiến thuật (TACCO) là một quan sát viên chịu trách nhiệm về việc sử dụng chiến thuật của máy bay. Người vận hành ra đa (SENSO) chịu trách nhiệm vận hành thiết bị cảm biến của máy bay. Họ cũng vận hành bộ điều khiển tời và móc khi thực hiện các hoạt động cứu hộ,đổ bộ.

1639192852264.png

1639192892562.png

1639192921248.png

1639193166667.png

1639192956571.png

1639192792548.png

Máy bay trực thăng Mk-50A

1639193308967.png

Máy bay trực thăng MH-60R mang ngư lôi MK-54

1639193352718.png

Máy bay trực thăng MH-60Rđa thả thiết bị thủy âm dò tìm tàu ngầm

1639193376699.png

Sĩ quan Hải quân Hoàng gia Úc, Trung úy Benjamin Martin (trái), RAN, và sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ, Trung úy Katie Stewart (phải) lái trực thăng MH-60R Seahawk trên Cảng Sydney trong một cuộc tập trận chụp ảnh vào ngày 18 tháng 9 năm 2019.

1639193392392.png

Phi công Dylan Skipsey vận hành bảng điều khiển ra đa hỏa lực MH-60R Seahawk ở phía sau máy bay trong một cuộc tập trận chụp ảnh vào ngày 18 tháng 9 năm 2019.

MH-60R Seahawk là máy bay trực thăng săn ngầm và tác chiến chống mặt nước thế hệ tiếp theo của Hải quân Hoàng gia Australia và sẽ là một phần rất quan trọng trong các hoạt động của lực lượng này trong nhiều năm tới.
MH-60R được trang bị hệ thống tác chiến cực kỳ hiện đại được thiết kế để sử dụng tên lửa đất đối không Hellfire và ngư lôi chống ngầm Mark 54. Các nhiệm vụ chính của trực thăng 'Romeo' là tác chiến chống tàu ngầm và tác chiến chống mặt nước. Các nhiệm vụ khác bao gồm tìm kiếm và cứu hộ, hỗ trợ hậu cần, vận chuyển nhân sự và sơ tán y tế.
Chính phủ Australia đã thông qua việc mua lại 24 trực thăng chiến đấu hải quân MH-60R Seahawk ‘Romeo’ với chi phí hơn 3 tỷ USD. Các máy bay trực thăng này do Sikorsky và Lockheed Martin chế tạo và được mua lại thông qua quy trình Bán thiết bị quân sự cho nước ngoài (FMS) từ Hải quân Hoa Kỳ.

1639193874583.png

1639195559708.png

1639195607838.png

Máy bay AS-350BA

1639195973294.png

1639195795911.png

1639195867290.png

Máy bay A-109E Agusta

1639196014175.png

1639196250759.png

Máy bay SH-2G/A

Kaman SH-2G Super Seasprite là một máy bay trực thăng do Hoa Kỳ thiết kế và chế tạo được sử dụng để chống tàu ngầm / các mối đe dọa trên mặt đất và nhắm mục tiêu ngoài đường chân trời. Các nhiệm vụ khác bao gồm sơ tán y tế hàng không, tìm kiếm và cứu nạn, chuyển nhân sự và hàng hóa, ngăn chặn tàu nhỏ, hỗ trợ đường không tấn công đổ bộ...
Vào đầu những năm 1990, Hải quân Hoàng gia Úc đã vận hành S-70-B Seahawk từ các khinh hạm Lớp Adelaide, mặc dù dựa trên khinh hạm Lớp Oliver Hazard Perry của Hải quân Hoa Kỳ nhưng tất cả đều có sàn đáp mở rộng để chứa Seahawk. Các khinh hạm lớp Anzac mới có thể vận hành trực thăng Seahawk, nhưng với một tàu tuần tra xa bờ 1350 tấn mới được đề xuất, để thay thế các tàu tuần tra Lớp Fremantle, Hải quân yêu cầu một máy bay trực thăng nhỏ hơn để mở rộng phạm vi tác chiến của cả hai tàu.
Yêu cầu đấu thầu cho 14 chiếc trực thăng mới được đưa ra vào tháng 10 năm 1995 và đến tháng 3 năm 1996, có hai ứng cử viên - Westland Super Lynx và Kaman Super Seasprite. Do vấn đề ngân sách, số lượng cần mua đã giảm xuống còn 11. Liên quan đến chương trình Seasprite là việc mua sắm tên lửa Kongsberg Penguin Mk 2 làm hệ thống vũ khí chính cho trực thăng.

1639196296908.png

1639196398782.png

Máy bay trực thăng vận tải NH-90

1639196414218.png

Các học viên Cứu hộ Hàng không thực hành các thao tác điều khiển bằng máy bay trực thăng MRH-90

1639196424656.png

Một thủy thủ của Hải quân Hoàng gia Úc được hạ xuống tàu ngầm HMAS Collins từ Trực thăng Hỗ trợ Hàng hải MRH-90 trong tập trận AUSINDEX 2019 ở Vịnh Bengal.

Máy bay trực thăng đa năng MRH-90 đã thay thế các phi đội trực thăng Black Hawk và Sea King hiện có của ADF với khả năng và năng lực đáp ứng các yêu cầu mới. 46 máy bay MRH-90 đã được mua cho Hải quân và Lục quân.
Hai chiếc máy bay đầu tiên đã được đưa vào trang bị tại Brisbane vào ngày 18 tháng 12 năm 2007 trong một buổi lễ có sự tham dự của Nghị sĩ Hon Greg Combet, thành viên Hội đồng về Mua sắm Quốc phòng.
Khả năng MRH-90 có nhiều tính năng an toàn tích hợp hơn đáp ứng yêu cầu của ADF và sử dụng công nghệ mới nhất bao gồm vật liệu composite và hệ thống dây dẫn sẽ cung cấp khả năng bảo trì hiệu quả hơn.

1639196883997.png

1639196904216.png

1639196920178.png

Máy bay trực thăng vận tải H-135

Đơn vị Thử nghiệm Chuyến bay và Bảo trì Máy bay của Hải quân Hoàng gia Úc (AMAFTU) đã bắt đầu các chuyến bay thử nghiệm đầu tiên (FOCFT) cho máy bay trực thăng huấn luyện mới của Airbus Helicopters EC135 và tàu huấn luyện hàng không MV Sycamore.
Các cuộc thử nghiệm của Hệ thống đào tạo phi hành đoàn trực thăng (HATS) EC135 đang được tiến hành ban đầu ở Vịnh Jervis trên bờ biển phía nam NSW gần căn cứ HATS tại Nowra, và sau đó sẽ chuyển tiếp đến vùng biển ngoài khơi Cairns ở Queensland.

1639197038786.png

1639197069244.png

1639197108574.png

Máy bay trực thăng vận tải Bell429

Hải quân Hoàng gia Australia đã ký một hợp đồng mới với Raytheon Australia để cung cấp ba máy bay trực thăng Bell 429 nhằm duy trì và phát triển các kỹ năng của phi hành đoàn trực thăng Hải quân cấp cơ sở.
Các máy bay trực thăng được vận hành bởi Phi đội 723 của Hải quân ở Nowra từ tháng 4 năm 2012.
Bell 429 cho phép các phi công của Hải quân duy trì và trau dồi kỹ năng của họ trước khi bay MH-60R Seahawk hoặc trực thăng MRH-90.
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Một số nét lớn về chiến lược quân sự
Mục tiêu quốc phòng được xác định trong “Sách trắng quốc phòng - 2016” của Australia, gồm: (1) Bảo vệ lợi ích quốc gia, sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công và ngăn chặn các mối đe dọa từ bên ngoài;
(2) Đóng góp hiệu quả về quân sự, hỗ trợ bảo đảm an ninh hàng hải ở khu vực;
(3) Tích cực tham gia hoạt động tác chiến liên minh để bảo đảm lợi ích cốt lõi quốc gia.
Thực hiện mục tiêu trên, Australia tập trung xây dựng “quân đội quy mô nhỏ, tinh nhuệ, trang bị hiện đại”, có khả năng vượt trội về tác chiến trên biển, tác chiến trên không, tiến công chiến lược và tác chiến điện tử; phát triển lực lượng hải quân có khả năng độc lập kiểm soát biển và tác chiến xa bờ; bảo đảm khả năng tác chiến dài ngày; đẩy mạnh hợp tác quân sự với Mỹ, tăng cường “can dự” quốc phòng trong các liên minh và đối tác khu vực; sẵn sàng tham gia các hoạt động quân sự và hỗ trợ bảo đảm an ninh toàn cầu; tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.

1639276743077.png

1639276760479.png

1639276795210.png

1639276837509.png

1639276883971.png

1639276905468.png

1639276929158.png


Phương hướng tới
Mục tiêu xây dựng lực lượng quốc phòng có cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; trong đó, tập trung hiện đại hóa khả năng tác chiến cho lực lượng hải quân; có kế hoạch thành lập Lực lượng hỗ trợ Thái Bình Dương, 01 hạm đội tàu ngầm, 01 hạm đội tàu khu trục; mua 09 tàu chống ngầm, 12 tàu tuần tra ven bờ, 04 tàu rải - quét mìn, 27 máy bay trinh sát chống ngầm (P-8A, MH-60R); xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng Tây, Nam Australia và nâng cấp xưởng đóng tàu Osbome.
Năm 2019, Australia đã đưa vào biên chế 01 tàu khu trục lớp Hobart, 01 tàu tuần tra ven bờ Cape; loại khỏi biên chế 02 tàu quét mìn lớp Hion.

Tính năng chủ yếu của một số loại trang bị

- Tàu ngầm lớp Collins

Hải quân Australia hiện sở hữu 6 tàu ngầm lớp Collins, gồm: Collins, Ranking, Farnkomb, Waller, Deschenes và Sheehan. Lớp tàu ngầm Điêzen-điện này của Australia được đóng mới dựa trên công nghệ của tàu ngầm Type 417 Vesteretland của Thụy Điển.
Tàu ngầm lớp Collins đã phục vụ trong Hải quân Australia từ năm 1996, trong đó chiếc cuối cùng hoàn thiện vào năm 2003, đây được xem là một trong những lớp tàu ngầm thông thường đáng sợ nhất thế giới nhờ khả năng hoạt động yên tĩnh cùng giàn vũ khí uy lực.
Tàu ngầm lớp Collins có chiều dài 67,73m, chiều rộng 8,4m, lượng choán nước (2.350 tấn khi nổi, 2.650 tấn khi lặn); tốc độ 13 hải lý/giờ khi nổi, 20 hải lý/giờ khi lặn; độ sâu 300m; thủy thủ đoàn 55 người.
Vũ khí và hệ thống kiểm soát, điều khiển hỏa lực gồm:
Hệ thống cảm biến và xử lý: Rađa dò tìm khi nổi: Signaal/Racal ZW 07.
Hệ thống sóng âm: Thomson Sintra TSM 2272 Eledone Octopus, hệ thống định vị thủy âm nối cáp GEC Avionics Type 2026, Thomson Sintra DUUX 5 thụ động và chủ động.
Hệ thống vũ khí: 04 ống ngư lôi 533mm; 20 ngư lôi Honeywell Mk 48 hay Honeywell NT 37; thủy lôi, tên lửa hạm đối hạn SubHarpoon.

1639277263262.png

1639277316663.png

1639277275426.png

1639277561940.png

1639277620120.png

1639277721298.png

1639277741249.png

1639277760104.png

1639277809553.png

1639277470992.png

1639277170850.png

1639277202780.png

1639277694856.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

- Tàu khu trục tên lửa lớp Hobart

Tàu khu trục tên lửa lớp Hobart do Australia nghiên cứu, phát triển trên nền tảng nâng cấp từ tàu chiến F-104 của Tây Ban Nha. Tham gia dự án có các công ty đến từ các nước đồng minh thân cận của Australia như Mỹ, Anh, Tây Ban Nha.

1639908848478.png

1639908863337.png

1639908878186.png

1639908890926.png

1639908903132.png

1639908921427.png

Tàu chiến lớp F-104

Tàu khu trục tên lửa lớp Hobart có chiều dài 147m, chiều rộng 18,6m, lượng choán nước 7.000 tấn; trang bị 2 động cơ tua bin khí General Electric 7LM2500 và hai động cơ Điêzen Caterpillar; tốc độ 32 hải lý/giờ, tầm hoạt động hơn 9.000km; độ sâu 300m; thủy thủ đoàn 153 người.
Tàu được trang bị hệ thống tác chiến điện tử Aegis 7.1, đây là một hệ thống chiến đấu công nghệ cao tích hợp đồng nhất các loại vũ khí Aegis, hệ thống dữ liệu và kiểm soát Aegis, hệ thống rađa Aegis.

1639909171016.png

1639909135596.png

1639909275076.png

1639909301470.png

1639909333845.png

1639909237833.png

1639909354027.png

Tàu khu trục tên lửa lớp Hobart

Loại rađa quét mạng pha điện tử chủ động AN/SPY-1D(V) trang bị trên tàu lớp "Hobart" có khả năng phát hiện và theo dõi tới 200 mục tiêu cùng lúc, với tất cả các loại tên lửa của đối phương, kể cả tên lửa đường đạn ở phạm vi hơn 300km.

1639909839322.png

1639909904279.png

1639909938803.png

1639910027537.png

1639909766350.png

Rađa quét mạng pha điện tử chủ động AN/SPY-1D(V)

Khu trục hạm lớp “Hobart” được trang bị tên lửa phòng không “Sea Sparrow” phiên bản cải tiến và tên lửa đánh chặn các mục tiêu trên không siêu chính xác như tên lửa SM-2 và SM-3 block 1A của Mỹ.
Tên lửa SM-3 block 1A có khả năng bắn hạ các tên lửa đạn đạo liên lục địa ở phạm vi tới 500km và ở độ cao tới 160km, còn tên lửa đối không SM-2 có tầm bắn 170km và tầm cao là 24km chuyên tiêu diệt các loại máy bay.

1639909411049.png

1639909430618.png

Tàu khu trục Hobart phóng tên lửa phòng không RIM-66

1639909590457.png

1639909607271.png


Ngoài ra tàu khu trục lớp “Hobart” còn được trang bị một số loại vũ khí chống hạm và chống ngầm tối tân, bao gồm 8 hệ thống với 48 ống phóng thẳng đứng tên lửa MK41, pháo chính cỡ nòng 127mm MK45 Mod4, ống phóng ngư lôi MK32 Mod 9.

1639910210062.png

1639910169431.png

1639910242436.png

Pháo 127mm MK45 Mod4

1639910478371.png

1639910357957.png

1639910320707.png

1639910401665.png

Ống phóng ngư lôi MK32 Mod 9

Hệ thống phòng thủ tầm gần của tàu lớp Hobart gồm 01 hệ thống MK-15 Phalanx CIWS lắp ở phía đuôi tàu, 02 hệ thống Rafael Typhoon 25mm lắp 2 bên thân tàu.


1639911403443.png

1639911455065.png

1639911491123.png

Hệ thống Rafael Typhoon 25mm

1639911600366.png

1639911630322.png

1639911547431.png

1639911574184.png

Hệ thống MK-15 Phalanx CIWS
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

6. Hải quân Nhật Bản

1640335425304.png

1640335296874.png


a. Tổ chức biên chế

TT
Tổ chức
Biên chế
I
Quân số
45.347
II
Tổ chức lực lượng
1​
Bộ Tư lệnh Hạm đội
1​
2​
Bộ Chỉ huy Phát triển hạm đội
1​
3​
Bộ Chỉ huy Tình báo hạm đội
1​
4​
Bộ Tư lệnh vùng Hải quân
5​
5​
Bộ Chỉ huy Huấn luyện
1​
6​
Bộ Tư lệnh Huấn luyện không quân của hải quân
1​
- Lữ đoàn hải quân đánh bộ
1​
- Lực lượng hộ tống hạm đội
4​
- Liên đội không quân hạm đội
7​
7​
Căn cứ hải quân
2​
8​
Cụm tàu hộ tống
4​
9​
Cụm tàu ngầm
2​
10​
Cụm tàu quét mìn
2​
11​
Đội tàu ngầm chiến đấu
2​
12​
Đội tàu ngầm huấn luyện
1​
13​
Đội tàu quét mìn
5​
14​
Phi đội máy bay chống ngầm
5​
15​
Phi đội máy bay trinh sát
1​
16​
Phi đội máy bay quét mìn
1​
17​
Phi đội máy bay tìm kiếm-cứu nạn
3​
18​
Phi đội máy bay vận tải
1​
19​
Phi đội máy bay huân luyện
4​
b. Trang bị chủ yếu


TT
Kiểu loại
Biên chế
I
Tàu, xuồng
1​
Tàu ngầm
20
- Lớp Oyashio
11​
- Lớp Soryu (SS-510)
9​
2​
Tàu sân bay trực thăng
4​
- Lớp Hyuga
2​
- Lớp Izumo
2​

1640335610729.png

1640335738756.png

1640335760069.png

1640335774940.png

1640335814654.png

1640335843952.png

Tàu ngầm lớp Oyashio

1640336199512.png

1640335939861.png

1640336039877.png

1640336089806.png

1640336165728.png

1640336287352.png

1640335999212.png


Tàu ngầm lớp Soryu

1640336604694.png

1640336643790.png

1640336443796.png

1640336516770.png

1640336673585.png

1640336543489.png

1640336716890.png

Tàu sân bay trực thăng lớp Hyuga

1640336872626.png

1640336996944.png

1640337010069.png

1640336825289.png

1640336847858.png

1640337150286.png

1640337332032.png

1640337200330.png

1640337234817.png

Tàu sân bay trực thăng lớp Izumo
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

3​
Tàu khu trục
34​
- Lớp Asagiri
8​
- Lớp Akizuki
4​
- Lớp Asahi
2​
- Lớp Murasame
9​
- Lớp Takanami
5​
- Lớp Hatakaze
2​
- Lớp Kongou
4​
1640448546968.png




1640448566913.png

1640448819050.png

1640449211533.png

1640448909388.png

Tàu khu trục lớp Asagiri

1640449901155.png

1640449926250.png

Tàu khu trục lớp Akizuki

Tàu khu trục lớp Akizuki (Nhật: あきづき型護衛艦?), hay còn được gọi là lớp 19DD, là một lớp tàu khu trục (DD) được phát triển bởi Mitsubishi Heavy Industries (MHI) cho Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Dự án lớp tàu khu trục Akizuki được phát triển nhằm thay thế cho các tàu khu trục lớp Hatsuyuki kiểu cũ được bắt đầu trang bị hàng loạt từ thập niên 1970.
Năm 2007, MHI đã tiến hành chương trình phát triển lớp tàu khu trục mới dựa trên cơ sở tàu khu trục lớp Takanami và định danh là lớp Akizuki. Về cơ bản, tàu khu trục lớp Akizuki có phần boong sau và cách bố trí hệ thống động lực tương tự như tàu lớp Takanami, các thay đổi tập trung ở hệ thống điện tử, vũ khí và khu vực boong trước của tàu. Hệ thống điện tử và vũ khí của tàu có nhiều cải tiến lớn so với các lớp tàu trước. Cấu trúc thượng tầng của tàu được thiết kế lại hoàn toàn để tăng cường khả năng tàng hình. Phần thượng tầng của tàu cao hơn và cột buồm hơi nghiêng ra phía sau hơn so với tàu Takanami. Toàn bộ bề mặt tàu được phủ một lớp sơn đặc biệt có khả năng hấp thu sóng điện từ, thiết kế này làm giảm tới 60% diện tích phản hồi radar, giúp cự ly phát hiện Akizuki giảm đi rất nhiều nếu so sánh với các chiến hạm tương đương. Phía trên tháp chỉ huy được bố trí hai mảng anten của radar băng tần kép.

1640449953280.png

1640449975370.png


Tháng 7 năm 2009, chiếc tàu đầu tiên của lớp, JDS Akizuki (DD-115), được đặt ki. Tàu được hạ thủy vào tháng 10 năm 2010. Tháng 3 năm 2012, JDS Akizuki (DD115) chính thức được đưa vào phục vụ trong biên chế của JMSDF. Trong giai đoạn 2010-2014, ba tàu còn lại của lớp Akizuki cũng đã được Nhà máy đóng tàu đóng tàu Nagasaki của MHI, Nhà máy đóng tàu Tamano của Mitsui Engineering & Shipbuilding tiến hành đóng mới và đưa vào hoạt động.
Tàu có chiều dài 150,5 mét, rộng 18,3 mét, mớn nước 5,3 mét, lượng giãn nước tiêu chuẩn 5.050 tấn, đầy tải 6.800 tấn. Biên chế thủy thủ đoàn của tàu là 200 người.
Tàu khu trục lớp Akizuki được trang bị thông tin chỉ huy chiến đấu ATECS do Nhật Bản tự phát triển, hệ thống này được các chuyên gia quân sự Mỹ đánh giá là một hệ thống Aegis "phiên bản Nhật". ATECS được thiết kế để đối phó với một loạt các mục tiêu khác nhau, nó thiết lập một khu vực phòng thủ nội địa (Local Area Defense-LAD) giúp các tàu hoạt động bên trong khu vực này được an toàn hơn.
Hệ thống thông tin liên lạc của tàu ngoài hoạt động trên tần sóng ngắn thông thường (HF), tần số rất cao (VHF) và tần số cực cao (UHF), còn có thể tham gia vào mạng dữ liệu tích hợp (JDN) và Hệ thống dữ liệu chiến thuật Hải quân (NTDS). Được liên kết thông qua hệ thống thông tin liên lạc cấp chiến thuật Link 11 và Link 16. Đối với liên lạc vệ tinh, tàu đươc trang bị hệ thống liên lạc vệ tinh NORA-1C (hoạt động trên băng tần X) dùng để kết nối với vệ tinh SUPERBIRD B2, NORQ-1 (hoạt động trên băng tần Ku), NORC-4B kết nối với vệ tinh dân sự Immarsat và AN/USC-42 kết nối với UHF-SATCOM của quân đội Liên bang Mỹ.
Trong tác chiến phòng không, tàu khu trục lớp Akizuki được trang bị hệ thống phóng thẳng đứng 32 ống phóng Mk-41 Mod 29 dùng để phóng tên lửa hải đối không tầm gần RIM 162 ESSM và tên lửa chống ngầm Type 07 VL ASROC. 32 ống phóng được chia làm 4 cụm, mỗi cụm 8 ống phóng hình hộp. Tên lửa sẽ bắn theo nguyên tắc "phóng nóng" (kiểu phóng nóng nghĩa là động cơ tên lửa được kích hoạt ngay khi trong ống phóng).

1640450325998.png

1640450052318.png

1640450079488.png


Hệ thống vũ khí đánh gần (CIWS) của tàu là 2 hệ thống Mk-15 Phalanx. Đây vốn là các hệ thống Mk-15 Block 1A thông thường đươc tận dụng lại từ các tàu cũ đã loại biên. Hiện nay, các hệ thống này đã được JMSDF nâng cấp, cải tiến lên phiên bản Block 1B Baseline 2.
Trong tác chiến chống ngầm, tàu được trang bị hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm OQQ-22. Hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm bao gồm sonar kiểu mảng kéo OQR-3 và sonar kết hợp chủ/bị động phát hiện và xác định vị trí tàu ngầm OQQ-21 được gắn cố định trong quả cầu hình giọt nước ở mũi tàu.

1640450264824.png


Để chống ngầm, Akizuki mang theo tên lửa chống ngầm Type 07 VL ASROC. Type 07 VL-ASROC là tên lửa chống ngầm nội địa do Viện Nhiên cứu và Phát triển kỹ thuật Nhật Bản (TRDI) tự sản xuất trong nước. Type 07 VL ASROC có chiều dài 6,5m, đường kính thân 0,45m, trọng lượng 1284 kg và đạt tầm bắn 30 km (tương đương 18 dặm). Tên lửa mang một quả ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ Type 97 hoặc Type 12.
Tàu còn có sự hỗ trợ của 2 cụm phóng ngư lôi với 3 ống phóng 324mm HOS-303 sử dụng ngư lôi Type 97. Ngoài ra, tàu cũng có thể sử dụng các loại ngư lôi khác như Mk-46, Mk-50 hay Mk-54 do Mỹ sản xuất.

1640450213488.png


Tàu còn được trang bị 2 bệ, mỗi bệ 4 ống phóng kiêm bảo quản dùng cho tên lửa chống hạm SSM-1B Type 90. Do được thiết kế nghiêng 45 độ và đặt đối xứng nhau, hệ thống phóng rất cồng kềnh, tốn nhiều diện tích trên tàu. Khi phóng tên lửa, tàu phải xoay ngang làm tăng độ bộc lộ trước đối phương và mỗi lần chỉ phóng được 50% cơ số tên lửa SSM-1B Type 90 mang theo.

1640450371400.png

1640450441695.png

1640451037196.png

Tàu khu trục lớp Asahi

Để hoàn thiện biên đội thì Hải quân Nhật Bản vẫn cần thêm một lớp khu trục hạm chống ngầm chuyên trách, đó là lý do họ sửa đổi lớp Akizuki thành lớp Asahi. Tàu đầu tiên thuộc lớp Asahi mang số hiệu 119 được đặt ky đóng mới ngày 4/8/2018, hạ thủy ngày 19/10/2016 và chính thức vào biên chế Hải quân Nhật Bản ngày 7/3/2018. Chiếc thứ hai thuộc lớp mang tên Shiranui (số hiệu 120) được khởi đóng vào ngày 20/5/2016, hạ thủy ngày 12/10/2017 và vừa được tiếp nhận vào biên chế hôm 27/2/2019. Khu trục hạm lớp Asahi có chiều dài 151 m; chiều rộng 18,3 m; mớn nước 5,4 m; lượng giãn nước tiêu chuẩn 5.100 tấn và lên tới 6.800 tấn khi đầy tải; thủy thủ đoàn 230 người.
àu được trang bị hệ thống động lực COGLAG (kết hợp giữa diesel-điện và turbine khí) trong đó trái tim là động cơ GE LM2500 và 2 trục chân vịt, cho tốc độ tối đa 30 hải lý/h (56 km/h).

1640450794189.png

1640450565679.png

1640450610639.png


Cảm biến chính của khu trục hạm lớp Asahi là radar đa năng GaN - AESA (Gallium nitride - quét điện tử chủ động). Theo Navy Recognition, Asahi là lớp tàu chiến thứ hai của Nhật Bản và thế giới được trang bị công nghệ này. Radar của tàu Asahi dựa trên FCS-3A được sử dụng cho lớp Akizuki nhưng nó dùng Gallium nitride để cải thiện hiệu suất, tạo ra mật độ năng lượng cao, tăng hiệu quả lan truyền và bao phủ, cũng như tiết kiệm điện năng.
Vũ khí trang bị của khu trục hạm Asahi gồm 1 pháo hạm Mk 45 Mod 2 cỡ nòng 127 mm; 8 tên lửa hành trình chống hạm cận âm Type 90 có tầm bắn 150 km; 32 ống phóng thẳng đứng Mk 41 tương thích tên lửa phòng không tầm trung RIM-162 ESSM, tên lửa chống ngầm RUM-139.


1640450644310.png

1640450942111.png

1640450871051.png

1640450674738.png

1640450712607.png

1640450751550.png

1640450969889.png

Ngoài ra trên tàu còn có 2 tổ hợp phòng thủ tầm cực gần Phalanx CIWS cỡ 20 mm, 2 cụm 3 ống phóng ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ HOS-303 cỡ 324 mm, tàu có thể mang theo 1 trực thăng chống ngầm SH-60K trong các chuyến hải trình dài.

1640494272784.png

1640494308200.png

Tổ hợp phòng thủ tầm cực gần Phalanx CIWS


1640494404225.png

1640494426330.png

Ống phóng ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ HOS-303 cỡ 324 mm

1640494199000.png

1640494175502.png

1640494228609.png

Trực thăng chống ngầm SH-60K

1640494705398.png

1640494764747.png

Pháo hạm Mk 45 Mod 2 cỡ nòng 127 mm

1640494875696.png

1640494931141.png

Tên lửa hành trình chống hạm cận âm Type 90

1640494973486.png

1640495012051.png

1640495029082.png

Hệ thống phóng thẳng đứng Mk 41

1640495070335.png

1640495117788.png

Tên lửa phòng không tầm trung RIM-162 ESSM

1640495150339.png

1640495203398.png

1640495166511.png

Tên lửa chống ngầm RUM-139.
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

1640592034413.png

1640592233901.png

1640592149002.png

1640592261128.png

1640592341957.png

1640592286076.png

1640592304890.png

1640592357686.png

1640592424689.png

Tàu khu trục lớp Murasame

Trong năm tài khóa 1991, hãng đóng tàu Ishikawajima Harima Heavy Industries bắt đầu đóng 9 tàu lớp Murasame làm tàu khu trục tên lửa dẫn đường cho JMSDF (Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản). Người ta còn tranh cãi liệu những con tàu này thực sự là tàu khu trục hay khinh hạm cỡ lớn của JMSDF. Con tàu đầu tiên của lớp, Murasame (DD 101) được đặt đóng năm 1993 và đưa vào hoạt động năm 1996.
Các tàu thuộc lớp Murasame là tàu đa dụng, tàu được tự động hóa cao, thủy thủ đoàn xuống là 165 thủy thủ, không gian lưu trú của thủy thủ đoàn được cải thiện đáng kể. Các tàu được trang bị 04 tuabin khí cho tốc độ tối đa trên 30 hải lý.giờ, và ở tốc độ hành trình 18 hải lý / giờ, tầm hoạt động là 8 350 km.
Theo hợp đồng với Lockheed Martin của Mỹ, Mitsubishi Heavy Industries đã lắp ráp và thử nghiệm vũ khí chính cho các tàu lớp Murasame, đó là Hệ thống phóng thẳng đứng Mk 41 (VLS). Được lắp bên dưới boong ở mũi tàu, hệ thống này có khả năng phóng một số loại tên lửa, bao gồm tên lửa hành trình và tên lửa chống ngầm. 08 tàu đầu tiên của lớp được trang bị 02 mô-đun 08 ống phóng, nhưng vào năm 1998, người ta quyết định tăng gấp đôi khả năng này lên 04 mô-đun trên con tàu thứ chín của lớp, Ariake (DD 109).
Tàu được trang bị hệ thống phóng thẳng đứng Mk 48 VLS mang 16 tên lửa đất đối không RIM-7M Sea Sparrow. Một khẩu pháo chính 76 mm OTO Melara Compact được lắp phía trước mũi tàu. 08 tên lửa chống hạm Harpoon được gắn giữa tàu, 06 ống phóng ngư lôi, mỗi cụm 03 ống bắn ngư lôi chống ngầm Mk.46 Mod.5. Để tự vệ, hai Hệ thống vũ khí tầm gần (CIWS) 20 mm được lắp đặt, một phía trước tàu và một phía trên nhà chứa máy bay trực thăng.
Với bãi đáp phía sau và nhà chứa máy bay, mỗi tàu lớp Murasame có thể chở, cất giữ, bảo dưỡng và vận hành một trực thăng SH-60J duy nhất trong vai trò tác chiến chống tàu ngầm.

1640593485208.png

1640593228810.png

1640593630110.png

1640593605422.png

Tàu khu trục lớp Takanami

Takanami là lớp tàu khu trục thế hệ thứ tư được phát triển bởi công nghiệp quốc phòng Nhật Bản kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2.
Tàu được phát triển trên cơ sở tàu khu trục chống ngầm lớp Murasame với nhiều thay đổi về vũ khí và hệ thống điện tử, chính nó lại là tiền đề để phát triển tàu khu trục lớp Akizuki. Mặc dù là quốc gia có tiềm lực kinh tế rất hùng mạnh nhưng Nhật Bản thường sử dụng lại các thiết kế tàu chiến trước. Ngoài vấn đề chi phí thì một lợi ích rõ ràng đó là hoàn thiện năng lực tác chiến từ những thiếu rót của thế hệ vũ khí trước.
Đa phần các tàu chiến của Hải quân Nhật Bản có cách bố trí hệ thống động lực tương đối giống nhau. Lý do là từ tàu khu trục thế hệ thứ 3 trở đi của Nhật Bản đều sử dụng động cơ tuabin khí chỉ khác nhau về công suất.
Tàu khu trục lớp Takanami có thiết kế thủy động lực học tương tự như tàu khu trục chống ngầm lớp Murasame với một số cải tiến ở cột buồm và hệ thống vũ khí. Lượng giãn nước của tàu cũng vì thế mà tăng thêm khoảng 200 tấn so với trước.
Chương trình tàu khu trục lớp Takanami được thực hiện tại nhà máy đóng tàu Nagasaki của tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries. Tàu có chiều dài 151 mét, rộng 17,4 mét, mớn nước 5,3 mét, lượng giãn nước toàn tải 6.300 tấn.

1640593412399.png


Điểm nhấn của tàu khu trục lớp Takanami là được trang bị hệ thống phòng không tiên tiến RIM-162 ESSM bố trí trong 32 hệ thống phóng thẳng đứng Mk41 giúp tàu đối phó hiệu quả hơn với các máy bay của đối phương có ý định tập kích từ trên không. RIM-162 ESSM là biến thể nâng cấp của tên lửa hải đối không RIM-7 Sea Sparrow.

1640593667738.png

1640593727898.png


Pháo hạm 76mm trên tàu khu trục Murasame được thay thế bằng pháo hạm Oto Melara 127mm. Pháo này có tốc độ bắn tối đa 40 viên/phút, tầm bắn 30km, nếu sử dụng đạn pháo có điều khiển Volcano tầm bắn tối đa có thể lên đến 100km.
Vũ khí uy lực nhất của tàu khu trục Takanami là 8 tên lửa chống hạm Type-90 SSM-1B tầm bắn khoảng 200km mang theo đầu đạn nặng 225kg. Bên cạnh đó tàu khu trục Takanami còn được trang bị 2 hệ thống phòng thủ tầm cực gần cùng 2 cụm phóng ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ 324mm.

1640593705588.png

1640593979199.png

Hệ thống điện tử trên tàu bao gồm radar quét mạng pha điện tử chủ động AESA OPS-25B cho nhiệm vụ tìm kiếm mục tiêu đường không, radar tìm kiếm mục tiêu mặt nước OPS-28D, radar hàng hải OPS-20.

1640593752198.png

1640593769865.png


Đuôi tàu có sàn đáp và nhà chứa cho trực thăng chống ngầm SH-60J.
Nhiệm vụ săn tìm tàu ngầm đối phương được thực hiện bởi 2 hệ thống định vị thủy âm tiên tiến OQS-5 gắn ở thân tàu và hệ thống định vị thủy âm kéo theo URQ-2. Bên cạnh đó nhiệm vụ chống ngầm còn được hỗ trợ bởi trực thăng săn ngầm mang theo.

1640593880104.png

1640593921708.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tàu khu trục lớp

Lớp tàu khu trục Hatakaze (tiếng Nhật: はたかぜ型護衛艦, Hatakaze gata goeikan) là một lớp tàu khu trục tên lửa của Lực lượng Tự vệ Biển Nhật Bản. Lớp này gồm 2 chiếc, được chế tạo vào giữa thập kỷ 1980 và hiện vẫn đang phục vụ.

Tàu khu trục tên lửa dẫn đường lớp Hatakaze là tàu thế hệ thứ ba được biên chế cho Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản (JMSDF). Đây là lớp tàu khu trục tên lửa đầu tiên của Nhật Bản được trang bị động cơ turbine khí phương thức COGAC cho phép tàu có thể hoạt động cả viễn dương lẫn cao tốc. Kết cấu của lớp Hatakaze do Nhật Bản tự thiết kế.

Hệ thống vũ khí cơ bản tương tự như của tàu khu trục lớp Tachikaze, nhưng nhiều có cải tiến trong nhiều lĩnh vực. Đáng chú ý nhất là các trang bị cho phép lớp Hatakaze hoạt động như một soái hạm của nhóm. Thông thường nhiệm vụ này thuộc về lớp DDH, nhưng trong trường hợp DDH vắng mặt do sửa chữa, tai nạn hoặc hư hỏng chiến đấu, thiết kế Hatakaze cho phép nó hoạt động như một tàu chỉ huy.

1641089597944.png

1641089614868.png


Các tàu khu trục Hatakaze vận hành hệ thống điều khiển chiến thuật kiểu OYQ-4-1. Hệ thống vũ khí của nó bao gồm tên lửa đất đối không Standard, tên lửa chống tàu ngầm, tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon, hai bệ súng máy phòng thủ tầm gần Mark 15 20 mm CIWS, hai cụm ngư lôi, mỗi cụm 03 ống 5 inch / 54 type 68, pháo hạm Mark 42.

1641089654153.png

1641089729262.png

1641089783524.png


Thông số cơ bản của tàu:
Trọng tải: 4600 tấn;
Chiều dài: 150 m;
Chiều rộng: 16,4m;
Mớn nước: 4,8m;
Động cơ: 2 động cơ turbin khí Kawasaki Rolls-Royce Spey SM1A và 02 động cơ turbin khí Rolls-Royce Olympus (chỉ dùng khi chạy tốc độ cao).
Tốc độ hành trình: 30 hải lý/giờ (~56km/h);

1641089695526.png

1641089711652.png

1641089767547.png

1641089811160.png

1641089829253.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tàu khu trục lớp Kongou

1641224768709.png

1641224788824.png

1641224810072.png


Tàu khu trục lớp Kongō (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo trên nền tảng hệ thống chiến đấu Aegis và cũng là lớp tàu Aegis đầu tiên được chế tạo bên ngoài lãnh thổ Liên bang Mỹ. Đây là một trong những tổ hợp tác chiến hiện đại và phức tạp nhất thế giới, biến khu trục hạm lớp Kongo thành một phần quan trọng trong hệ thống phòng thủ chống tên lửa đạn đạo chiến thuật của Nhật Bản.
Từ năm 1981, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành các cuộc thảo luận với Mỹ trong việc chuyển giao cho Nhật Bản công nghệ Aegis. Vào năm 1984, sau nhiều năm đàm phán liên tục, Nhật Bản đã rất khó khăn mới có thể nhận được sự đồng ý của Chính phủ Mỹ, tháng 8 cùng năm "Dự án Aegis" được thành lập. Sự kiện này đánh dấu Nhật Bản trở thành quốc gia đồng minh đầu tiên của Mỹ được tiếp cận công nghệ mật này.
Từ tháng 5 năm 1986 đấn năm 1987, JMSDF đã tiến hành nghiên cứu, thiết kế lớp tàu khu trục mới cũng như xây dựng các học thuyết, phương pháp tác chiến mới phù hợp với lớp tàu này. Kết quả của các nghiên cứu này đã được Hội đồng An ninh Quốc gia Nhật Bản thông qua vào tháng 12 năm 1987. Tàu khu trục lớp Kongo đã thực sự tạo ra một bước đột phá lớn cho công nghiệp đóng tàu chiến cũng như năng lực tác chiến của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Quá trình nghiên cứu, chế tạo được thực hiện bởi Ishikawajima Harima Heavy Industries và Mitsubishi Heavy Industries. Toàn bộ dự án đóng tàu này có chí phí lên đến 122.300.000.000 Yên. Thân tàu được đóng tại Nhà máy đóng tàu Tokyo số 1 và Nhà máy đóng tàu Nagasaki.
Chiếc đầu tiên mang số hiệu JDS Kongo DDG-173 đã được Nhật khởi đóng vào tháng 05 năm 1990 và được hạ thủy vào tháng 03 năm 1993. Trong giai đoạn 1992-1998, 3 chiếc tiếp theo cũng đã lần lượt được phía Nhật đóng mới và đưa vào sử dụng (JDS Kirishima DDG-174, JDS Myoko DDG-175 và JDS Chokai DDG-176). Cả bốn tàu của Nhật đều được đặt theo tên các tàu chiến lừng danh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Lớp Kongo nằm trong số các khu trục hạm lớn nhất từng được JMSDF chế tạo, cho tới khi tàu khu trục lớp Atago ra đời. Khác với hàng chục tàu khu trục lớp Arleigh Burke "hàng chợ" của Hải quân Liên bang Mỹ, người Nhật đã trang bị cho 4 tàu khu trục hiện đại nhất của mình những trang thiết bị đa dạng, biến chúng thành các tàu khu trục đa năng, đáp ứng nhiều vai trò tác chiến trong mọi hoàn cảnh: tác chiến phòng không (AAW), chống ngầm (ASW) và chống tàu mặt nước (ASuW). Ngoài ra, tàu còn có thể tham gia thực hiện nhiều nhiệm vụ thông thường khác, như đảm bảo an ninh hàng hải, tìm kiếm cứu hộ, hộ tống, đổ bộ và vận tải...
Tàu có cột buồm thẳng đứng thay vì hơi nghiêng ra phía sau như tàu khu trục lớp Arleigh Burke của Mỹ. Cấu trúc thượng tầng của tàu được làm bằng hợp kim nhôm, gia cố thêm nhựa thủy tinh để làm giảm khối lượng, đồng thời có cấu trúc dẹp cao và vát hơn so với nguyên mẫu. Ngoài ra, với việc bổ sung thêm nhiều khoang trên phần thượng tầng, làm Kongo cao hơn so với bản Arleigh Burke Flight I. So với mẫu Arleigh Burke cơ sở, sự bố trí vũ khí trang bị cũng có sự thay đổi, một khẩu pháo hạm 127 mm của Công ty OTO Melara, Italia được lắp thay cho pháo hạm Mk-45 của Mỹ.
Điểm khác biệt lớn nhất của các tàu thuộc lớp Kongo và Atago so với các các phiên bản Arleight Burke của Mỹ là tàu khu trục Nhật Bản không được trang bị tên lửa hành trình Tomahawk, đáp ứng chủ trương phòng thủ, không sử dụng vũ khí tấn công của JMSDF. Tuy nhiên, chính phủ Nhật Bản đang xem xét việc mua tên lửa Tomahawk, chính thức hoàn thiện kho vũ khí cho các chiến hạm mạnh nhất của mình.
Kongo cũng là một trong những chiếc tàu khu trục có kích thước khổng lồ: dài 161m, rộng 21m, mớn nước 6,2m, chiều dài của tàu chỉ kém tàu khu trục lớp Cơ Long của Đài Loan 16.7m. Tàu có tải trọng đầy tải tới 9.500 tấn, tải trọng của tàu đạt gần bằng tải trọng của tàu tuần dương nếu xét theo tiêu chuẩn NATO.


1641225516109.png


Tàu khu trục lớp Kongo được trang bị hệ thống Chỉ huy, kiểm soát, thông tin, máy tính và tình báo (Command, Control, Computer, Communication & Intelligence - C4I). Hệ thống C4I bao gồm các hệ thống thông tin vệ tinh AN/USC-32 (EHF), NORA-1, NORQ-1, hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) và hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm OYQ-102 ASWCS.
Aegis là viết tắt của cụm từ Airbonne Early-waring Ground Intergration Segment (Bộ phận hợp nhất thông tin cảnh báo sớm đường không trên mặt đất). Hệ thống Aegis được Lockheed Martin thiết kế và đưa vào sử dụng lần đầu đầu tiên từ năm 1987 trên tàu tuần dương lớp Ticonderoga, biến thể sử dụng trên các phiên bản tàu khu trục lớp Arleigh Burke của Mỹ và các nước đồng minh được đưa vào sử dụng năm 1991. Hệ thống Aegis là một hệ thống công nghệ phát hiện, theo dõi, tấn công mục tiêu cực kỳ phức tạp. Đến nay, Aegis vẫn là hệ thống chiến đấu có 1-0-2 trên thế giới.
Trong năm 2007, tập đoàn Lockheed Martin đã nhận được hợp đồng trị giá 124 triệu USD để nâng cấp khả năng phòng thủ tên lửa đạn đạo cho 4 tàu khu trục lớp Kongo của JMSDF. Toàn bộ chương trình nâng cấp đã được phía Lockheed Martin hoàn tất vào năm 2010.
Bốn tàu khu trục lớp Kongo sẽ kết hợp cùng với các tàu khu trục lớp Arleight Burke của Mỹ trong khu vực châu Á tạo nên thế trận phòng thủ tên lửa đạn đạo chung giữa 2 nước.
Ngoài khả năng phòng không và tấn công mặt đất, những chiếc lớp Kongo còn đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác, đặc biệt là tác chiến chống ngầm. Chúng được trang bị hệ thống kiểm soát tác chiến chống ngầm OYQ-102 ASWCS, hệ thống này sonar kết hợp chủ/bị động phát hiện; xác định vị trí tàu ngầm OQS-102 và sonar kiểu mảng kéo OQR-2 TASS sau tàu. Anten của OQS-102 được được gắn cố định trong quả cầu hình giọt nước ở mũi tàu, anten được tách rời khỏi các khoang trên tàu bằng bộ phận cách âm, giảm tối thiểu nhiễu thủy âm khi sonar hoạt động.

1641225713884.png

1641225733509.png

1641225750248.png

1641225692122.png


Tàu khu trục lớp Kongo được trang bị hệ thống phóng thẳng đứng VLS Mk-41 mod 6 với 29 ống phía sau và 61 ống phía trước.Việc bố trí phân tán vũ khí đảm bảo tàu khu trục có thể duy trì hỏa lực khi một hệ thống bị trục trặc hoặc một khu vực trên tàu bị tấn công. Trong tác chiến phòng không, tàu trang bị tên lửa phòng không tầm xa RIM-66M-2 Standard SM-2ER Block 3A tầm bắn từ 74–170 km, tầm cao 24 km, tốc độ hành trình Mach 3,5. RIM-66M-2 Standard SM-2ER Block IIIA là một phiên bản nâng cấp của dòng tên lửa SM-2MR do Tập đoàn Raytheon (Mỹ) nghiên cứu phát triển và đưa vào sử dụng trong những năm 1990. Mỗi quả tên lửa SM-2ER Block 3A có giá khoảng 3 triệu đô la. Hệ thống phóng thẳng đứng VLS Mk-41 mod 6 có thể mang được từ 42 - 58 quả tên lửa.

1641225970360.png

1641226038489.png

Tên lửa RIM-66M-2

Chương trình nâng cấp giai đoạn 2007-2010 cho phép lớp tàu Kongo sử dụng tên lửa đánh chặn RIM-161 Standard SM-3 Block 1A ABM cho nhiệm vụ phòng thủ tên lửa đạn đạo. Tên lửa đánh chặn SM-3 nặng 1,5 tấn, dài 6,55m, đường kính thân 0,34m, sải cánh 1,57m. SM-3 được thiết kế với 3 tầng động cơ đẩy nhiên liệu rắn cho phép đạt tốc độ đánh chặn 9.600 km/h (gấp gần 8 lần vận tốc âm thanh), tầm bắn trên 500 km, độ cao bay 160 km. Tháng 2 năm 2008, sau quá trình chuẩn bị, SM-3 Block 1А đã được sử dụng để tiêu diệt vệ tinh mất điều khiển USA-193 ở độ cao 247 km.

1641226159618.png

1641226181600.png

1641226205018.png

Tên lửa RIM-161 Standard SM-3

1641225779285.png

1641225812931.png

1641225835222.png


Trong tác chiến chống ngầm, tàu được trang bị tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC. Tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC được Tập đoàn Lockheed Martin (Mỹ) phát triển vào năm 1983 và chính thức chấp nhận đưa vào trang bị năm 1993. Cấu tạo của RUM-139 tương tự các họ tên lửa chống ngầm của Liên Xô. Nó gồm hai tầng động cơ phản lực nhiên liệu rắn, động cơ tầng thứ nhất là động cơ tăng tốc lấy độ cao, động cơ tầng thứ hai là động cơ hành trình nhiên liệu rắn.
RUM-139 VL ASROC có chiều dài 4,5m, đường kính thân 0,38m, trọng lượng 820 kg và đạt tầm bắn 28 km. Tên lửa mang một quả ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ Mk-46.

1641226283643.png

1641226311034.png

1641226340713.png

Tên lửa RUM-139 VL-ASROC

Trong tác chiến chống hạm, vũ khí chủ lực của tàu khu trục Kongo là tên lửa hành trình chống hạm RGM-84D-4 Harpoon (Block 1C) do Công ty MacDonnell Douglas (hiện nay là thuộc Tập đoàn Boeing, Mỹ) phát triển. Tên lửa được đặt trong 2 bệ phóng, mỗi bệ 4 ống phóng kiêm bảo quản. Do được thiết kế nghiêng 45 độ và đặt đối xứng nhau, hệ thống phóng rất cồng kềnh, tốn nhiều diện tích trên tàu. Khi phóng tên lửa, tàu phải xoay ngang làm tăng độ bộc lộ trước đối phương và mỗi lần chỉ phóng được 50% cơ số tên lửa Harpoon mang theo.

1641226374376.png

1641226436050.png

1641226462608.png

1641226498625.png

Tên lửa RGM-84D-4 Harpoon (Block 1C)

Pháo chính của tàu là pháo hạm Oto Melara 127 mm có chiều dài nòng gấp 54 lần đường kính do Công ty Japan Steel Works sản xuất theo giấy phép của Công ty OTO Melara, Italia. Tốc độ bắn nhanh cùng với khả năng bắn nhiều loại đạn đặc biệt khiến Oto Melara 127 mm thích hợp với nhiều vai trò như tấn công tàu chiến đối phương trên mặt nước, phòng không và pháo kích bờ biển yểm trợ cho chiến dịch đổ bộ, tấn công nhanh.

1641226621653.png

1641226560422.png

1641226592913.png

Pháo hạm Oto Melara 127 mm

Hoả lực phòng không tầm gần (CIWS) của tàu là hệ thống Mk-15 Phalanx. Hệ thống Phalanx gồm pháo 6 nòng bắn nhanh Gatling M61A1 Vulcan cùng một radar hoạt động trên băng tầng K lắp trên một bệ mang duy nhất thay đổi góc tà bằng pittông. Trong điều kiện chiến đấu, radar sẽ rà soát bầu trời, xác định các mục tiêu và lọc ra mục tiêu nguy hiểm nhất. Sau khi xác định được mục tiêu, radar điều khiển hỏa lực sẽ tính toán chính xác vị trí của địch để pháo 6 nòng Gatling M61A1 Vulcan khai hỏa. Radar của hệ thống Phalanx CIWS được chế tạo theo công nghệ chỉ điểm khép kín, có khả năng phát hiện máy bay từ cự ly 18 km, tên lửa hành trình có diện tích phản xạ radar 0,1 m² từ khoảng cách 12 km và bám bắt trong tầm 5 km.

1641226724352.png

1641226752117.png


1641226676556.png

Hệ thống Mk-15 Phalanx

Tàu khu trục Kongo được trang bị 2 cụm phóng ngư lôi với 3 ống phóng 324mm HOS-302 sử dụng ngư lôi Mk-46. HOS-302 là phiên bản do Watanabe Iron Works Co., Ltd. sản xuất trong nước theo giấy phép hệ thống phóng Mk 32 của Mỹ, có khả năng bắn các loại ngư lôi Mk-44/46/50/54 theo chuẩn Mỹ.

1641226948082.png

1641226988003.png

1641227052890.png

Ống phóng ngư lôi HOS-302

Tương tự như các tàu lớp Arleight Burke Flight I, Kongo không có nhà chứa máy bay, nhưng tàu có sàn đáp và hệ thống tiếp nhiên liệu đủ cho 2 trực thăng săn ngầm SH-60K. Ngoài ra, để kết nối với thiết bị xử lý thông tin chiến thuật (HCDS) lắp trong SH-60K , tàu còn được lắp đặt hệ thống liên kết dữ liệu trực thăng ORQ-1.

1641226813167.png

1641226836704.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(tiếp)

4​
Tàu hộ vệ
9​
- Lớp Hatsuyuki
3​
- Lớp Abukuma
6​

Tàu hộ vệ lớp Hatsuyuki

1641388416066.png

1641388433588.png


Tàu khu trục lớp Hatsuyuki (tiếng Nhật: はつゆき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (DD) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Hatsuyuki là một lớp tàu khu trục chống ngầm tương tự như người tiền nhiệm của nó - tàu khu trục lớp Yamagumo. Từ năm 1977 đến năm 1982, 12 tàu thuộc lớp này đã được chế tạo. Đơn giá đóng mới khoảng 30 tỷ yên mỗi tàu (thời giá năm 1977).
Tàu khu trục lớp Hatsuyuki là một phát triển hiện đại hóa hơn nữa trên cơ sở của tàu khu trục lớp Yamagumo. Đảm nhận việc thiết kế và đóng mới các tàu lớp Hatsuyuki đóng mới là Hitachi Zosen Corporation và các tổ hợp tập đoàn, nhà máy đóng tàu như Ishikawajima Harima Heavy Industries, Mitsui Engineering & Shipbuilding, Sumitomo Heavy Industries và Mitsubishi Heavy Industries. Có tất cả 12 tàu lớp Hatsuyuki đã được đóng trong giai đoạn từ 1979 – 1986.
Hatsuyuki là lớp tàu khu trục đa nhiệm đầu tiên của Nhật Bản được được trang bị tên lửa phòng không RIM-7 Sea Sparrow, tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon và trực thăng săn ngầm Sikorsky HSS-2B Sea King. Đồng thời đây cũng là lớp khu trục đầu tiên sử dụng tuabin khí hoặc kết hợp khí (COGOG) và hệ thống động cơ đẩy giúp tàu có thể hoạt động ở tốc độ cao. Vào năm 1982 và 1990, JMSDF quyết định thí điểm triển khai bổ sung hệ thống CIWS Phalanx và sonar kiểu mảng kéo trên 2 tàu JS Matsuyuki DD-130 và JS Hatsuyuki DD-122.

1641388959154.png

1641388978567.png

1641388992875.png


Thân tàu có thiết kế tương tự lớp tàu Isuzu (34DE). Boong phía sau có hình dạng ba tầng, bố trí nhà chứa và sàn đáp cho trực thăng săn ngầm, tầng thứ hai dài 7,5m và là nơi đặt bệ phóng tên lửa RIM-7 Sea Sparrow.
Tàu có lượng giãn nước tiêu chuẩn 3.050 tấn, đầy tải 4.000 tấn; chiều dài 130 m; chiều rộng 13,6 m; mớn nước 4,2 m với biên chế thủy thủ đoàn 200 binh sĩ. Mặc dù gọi là tàu khu trục nhưng kích thước cũng như chức năng của Hatsuyuki chỉ được thế giới xếp vào hạng tàu hộ vệ. Các tàu khu trục lớp Hatsuyuki đều được đặt theo tên các tàu khu trục của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) từng tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Hatsuyuki được lắp đặt hệ thống định hướng chiến đấu OYQ-5, hệ thống OYQ-5 được trang bị hệ thống máy tính điều khiển AN/UYK-20 và máy trạm AN/UYA-194B (OJ-194B). Hệ thống máy tính này cung cấp khả năng tính toán siêu tốc cho phép tàu khu trục lớp Hatsuyuki đối phó hiệu quả với các mục tiêu, đặc biệt là các mục tiêu dưới nước. Hệ thống thông tin liên lạc cấp chiến thuật Link-14 (STANAG 5514) giúp Takatsuki có thể dễ dàng kết nối thông tin với tất cả các tàu chiến cũng như các thiết bị quân sự khác thuộc Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) và đồng minh.

1641389013148.png

1641389043240.png


Các bộ cảm biến của tàu bao gồm radar định vị phát hiện mục tiêu trên không tầm xa OPS-14B (tương đương với radar AN/SPS-49 do Mỹ sản xuất), radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-18, radar điều khiển hỏa lực FCS-2-12 do Nhật tự sản xuất dùng để dẫn bắn tên lửa phòng không chuyên dụng tầm trung RIM-7 Sea Sparrow, radar điều khiển hỏa lực FCS-2-21 dùng để dẫn bắn cho pháo hạm 76mm Mk-75, sonar kiểu mảng kéo OQR-1 TASS và sonar kết hợp chủ/bị động phát hiện và xác định vị trí tàu ngầm OQS-4. Anten của OQS-4 được được gắn cố định trong quả cầu hình giọt nước ở mũi tàu, anten được tách rời khỏi các khoang trên tàu bằng bộ phận cách âm, giảm tối thiểu nhiễu thủy âm khi sonar hoạt động.
Ngoài ra, tàu còn được trang bị radar cảnh báo OLR-9B, các hệ thống chiến tranh điện tử tích hợp ESM NOLR-6C và OLT-3 ECM. Các hệ thống này được kết nối với nhau để thực hiện việc dò tìm tín hiệu vô tuyến phát từ radar tàu và tên lửa đối phương, đồng thời phát tín hiệu gây nhiễu làm nhiễu đầu dò radar của tên lửa chống hạm, khiến chúng bám theo các mục tiêu ảo hoặc giảm tầm hiệu quả của đầu dò, cho phép tàu tránh được tên lửa. Các hệ thống này thường kết hợp với hệ thống mồi bẫy Mk-137 SRBOC (4 giá x18-ống phóng bố trí ở giữa thân tàu).

1641389087705.png

1641389110175.png

1641389131273.png


Hatsuyuki được lắp đặt một hệ thống phóng tên lửa Mk-29 (8 ống phóng) ở phía đuôi tàu, sức chứa 8 tên lửa đất đối không tầm trung RIM-7 Sea Sparrow. RIM-7 Sea Sparrow là thế hệ tên lửa hải đối không được Raytheon và General Dynamics hợp tác phát triển từ những năm 1960 và đi vào hoạt động vào năm 1976. Nó được thiết kế như một loại tên lửa hạng nhẹ phòng thủ điểm, có thể nhanh chóng triển khai tác chiến trên những tàu chiến hiện đại, thường lắp tại vị trí của vũ khí phòng không. Mỗi quả tên lửa RIM-7 Sea Sparrow có giá khoảng 165.400 đô la.
Để thực hiện nhiệm vụ chống hạm, Hatsuyuki được vũ trang tên lửa hành trình chống hạm RGM-84C Harpoon do Công ty MacDonnell Douglas (hiện nay là thuộc Tập đoàn Boeing, Mỹ) phát triển. Tên lửa được đặt trong 2 bệ phóng, mỗi bệ 4 ống phóng kiêm bảo quản. Hệ thống phóng được thiết kế nghiêng 45 độ và đặt song song hai bên thân tàu, hệ thống phóng khá cồng kềnh và tốn nhiều diện tích trên tàu.
Hatsuyuki được lắp đặt một hệ thống 8 phóng Mk-112 (tương thích với 8 tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC) phía sau pháo hạm, trong đó các cụm ống phóng có thể nâng hạ gần thẳng đứng để phóng tên lửa chống ngầm. Tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC do Công ty Honeywell phát triển và sản xuất từ năm 1960 và chính thức được chấp nhận đưa vào trang bị cho các tàu chiến mặt nước của Hải quân Liên bang Mỹ và đồng minh vào năm 1961. Tên lửa ASROC nặng 487 kg, dài 4,5m, đường kính 422mm. ASROC trang bị động cơ rocket nhiên liệu rắn, tầm bắn 22 km, tốc độ hành trình cận âm.
Tàu được trang bị một pháo hạm tự động Mk-75 cỡ nòng 76mm/62 do Công ty Japan Steel Works sản xuất theo giấy phép của Công ty OTO Melara, Italia. Mk-75 có tốc độ bắn nhanh nên chủ yếu được dùng để thực hiện nhiệm vụ tác chiến mặt nước và đối không. Pháo có khối lượng 16,8 tấn, nòng pháo dài 4,7 m, sơ tốc đầu nòng 980 m/s, tốc độ bắn trung bình là 85 viên/phút, ở chế độ bắn nhanh là 120 viên/phút, có khả năng tiêu diệt mục tiêu cỡ nhỏ tầm gần ở cự ly tối đa 16 km và mục tiêu trên không ở tầm bắn lên đến 12 km.

1641389294930.png

1641389191803.png

1641389205236.png


Hỗ trợ phòng không tầm thấp và đánh chặn tên lửa hành trình là 2 hệ thống pháo phòng không tầm gần Mk-15 Phalanx CIWS. Hoả lực phòng không tầm gần (CIWS) của tàu là hệ thống Mk-15 Phalanx. Mk-15 Phalanx là hệ thống khép kín tích hợp bao gồm pháo, đạn và radar lắp trên 1 bệ duy nhất. Hệ thống được Chi nhánh Pomona thuộc Công ty General Dynamics (nay thuộc Tập đoàn Raytheon) phát triển vào cuối những năm 1960. Hệ thống thử nghiệm lần đầu vào năm 1973, bắt đầu sản xuất hàng loạt năm 1978, đến năm 1980 được đưa vào trang bị. Hệ thống Phalanx gồm pháo 6 nòng bắn nhanh Gatling M61A1 Vulcan cỡ nòng 20mm cùng một radar hoạt động trên băng tầng K.
Tàu khu trục lớp Hatsuyuki được trang bị 2 cụm phóng ngư lôi với 3 ống phóng 324mm Type 68 sử dụng ngư lôi Mk-46. Hệ thống phóng được thiết kế có khả năng xoay, điều hướng và bắn từ xa (riêng việc bắn có thể thực hiện tại chỗ bằng tay) nhắm tới mục tiêu cần diệt. Các ống phóng được làm từ vật liệu sợi thủy tinh hoặc kim loại, bên trong ống được bọc một lớp sợi thủy tinh để có thể bảo quản ngư lôi trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Nhật Bản.

1641389238571.png


Đuôi tàu có sàn đáp và nhà chứa cho phép mang theo 2 trực thăng săn ngầm, nhưng thực tế thường chỉ có thể mang được 1 chiếc trong các chuyến hải trình. Ban đầu, trên các tàu được bố trí 1 trực thăng Sikorsky HSS-2B Sea King, nhưng hiện nay loại trực thăng này đã bị rút khỏi biên chế và loại đang được sử dụng là SH-60J Sea Hawk được sản xuất tại Nhật theo giấy phép. Tàu cũng được trang bị các trang thiết bị bảo dưỡng và phụ tùng thiết yếu cho máy bay trực thăng.

1641389331769.png

1641389268254.png

1641389385054.png


Tàu khu trục lớp Hatsuyuki được trang bị hệ thống động lực kết hợp tuabin khí COGAG (tức là kiểu hệ thống động cơ kết hợp 2 tuabin khí để quay một chân vịt) bao gồm: 2 động cơ tuabin khí cỡ lớn Kawasaki-Rolls-Royce Olympus TM3B công suất 22.500 mã lực, 2 động cơ tuabin khí cỡ nhỏ RR Type Kawasaki RM1C công suất 4.620 mã lực, 1 máy phát điện diesel chính công suất 600 kW, 1 máy phát điện diesel dự phòng công suất 300 kW và 1 máy phát điện tuabin khí Kawasaki M1A-02 công suất 1.000 kW. Các động cơ này kết nối với nhau thông qua 3 hộp số và 2 bộ ly hợp, truyền động ra 2 chân vịt 5 lá cung cấp công suất đầu ra tổng cộng 100.000 mã lực. Sự kết hợp này giúp tiết kiệm nhiên liệu, giảm tối đa tiếng ồn khi hoạt động, đồng thời, giảm chi phí, kéo dài thời gian giữa 2 lần bảo dưỡng. 4 động cơ tuabin khí của tàu có khả năng chuyển từ trạng thái nguội sang trạng thái công suất cực đại trong vòng 15 phút. Ngoài ra, tàu còn được lắp đặt bộ tản nhiệt tiên tiến giúp giảm đối đa bức xạ hồng ngoại khi hoạt động, nâng cao khả năng tránh các biện pháp dò tìm bằng hồng ngoại của đối phương. Hệ thống động lực này giúp tàu đạt tốc độ tối đa đạt 30 hải lý/h (56 km/h) phạm vi hoạt động 4.500 hải lý, tốc độ hành trình 18 hải lý/h, tàu có khả năng hoạt động liên tục 50 ngày trên biển.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(tiếp)

Tàu hộ vệ lớp Abukuma

1641460819086.png

1641460843544.png

1641461953045.png


Abukuma là lớp tàu hộ tống do Mitsui Engineering & Shipbuilding và Sumitomo Heavy Industries chế tạo cho Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản. JMSDF đã lên kế hoạch đóng 11 tàu lớp này nhưng chỉ có tổng cộng 6 chiếc đã được đóng, tất cả sáu tàu này đều được đặt tên theo các tàu tuần dương trong Thế chiến II của Nhật Bản. Lớp tàu này là phiên bản nâng cấp của lớp Yubari, với nhiệm vụ chủ yếu thực hiện các hoạt động tuần tra chống tàu ngầm hoặc triển khai tấn công các tàu nổi của đối phương ở khu vực ven biển. Abukuma là tàu chiến đầu tiên trong hạm đội JMSDF sử dụng công nghệ tàng hình. Thiết kế của con tàu kết hợp với thân tàu hình chữ V để giảm tiết diện radar. Cấu trúc thượng tầng gần như giống với thiết kế của các tàu hộ tống trước đây với đặc điểm tàng hình hạn chế. Abukuma là tàu loại tàu hộ tống (DE) đầu tiên được trang bị radar tìm kiếm trên không. Tàu không thiết kế khu vực hạ cánh, nhưng sàn đáp cho trực thăng (VERTREP). Tàu cũng được trang bị hệ thống vũ khí tiên tiến như lửa chống hạm RGM-84 Harpoon, Mk 73 hoặc Mk 46 Mod.5 đi kèm với các hệ thống phòng thủ như Phanlanx và OTO Melara giúp bảo vệ tàu trước các tên lửa chống hạm tầm ngắn.

Thông số kỹ thuật
Loại: Tàu hộ tống
Choán nước: 2,000t
Dài: 109 m
Rộng: 13 m
Mớn nước: 3.7 m
Động cơ: CODOG
*2 × Kawasaki-RR SM1A
*2 × Mitsubishi S12U MTK
Tốc độ: 27 hải lý/h
Thủy thủ đoàn: 120
Vũ khí:
* Tên lửa Harpoon
* Pháo Otobreda 76 mm
* Hệ thống phòng thủ tầm cực gần Phalanx
* Ống phóng ngư 324mm HOS-301

1641461013956.png

1641461038870.png

1641461057837.png

1641461803622.png

Con tàu không được trang bị bãi đáp nhưng có sàn đáp (VERTREP) cho máy bay trực thăng

1641461071835.png

1641461083586.png

1641461111967.png

1641461211107.png

1641461132776.png

1641461415096.png

1641461150087.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

5​
Tàu đổ bộ
11​
- Tàu đổ bộ tiến công Lớp Osumi
3​
- Tàu đổ bộ đa dụng Lớp Yusotei
2​
- Tàu đổ bộ đệm khí
6​

Tàu đổ bộ tiến công Lớp Osumi

1641572014922.png

1641572049929.png

1641572036085.png

Các tàu lớp Oosumi kết hợp khả năng LPD và LST trong một thân tàu

JMSDF cho ra mắt tàu Osumi (LST) 8.900 tấn vào giữa những năm 1990, điều này đã làm dấy lên sự lo lắng của một số quốc gia trong khu vực vì boong phẳng của nó khiến nó trông giống như một tàu sân bay nhỏ. Chương trình này bắt nguồn từ một đề xuất về một tàu sân bay nhỏ cho các mục đích phòng thủ và MCM, nhưng điều này được coi là không thể chấp nhận được về mặt chính trị, và dự án đã được làm lại thành một tàu đổ bộ. Những con tàu nặng 13.000 tấn, 22 hải lý giống như hàng không mẫu hạm nhỏ, nhưng có thể chứa tối đa 4 trực thăng trên boong và các giếng ở đuôi tàu của chúng có thể chứa hai LCAC (xuồng đổ bộ đệm khí). Mặc dù chính thức được xếp vào lớp LST - Tàu đổ bộ - lớp Osumi không có cửa mũi và không nhằm mục đích đi biển. Thay vào đó, nó được coi là Tàu đổ bộ, Dock [LSD], vì nó có thể chứa một cặp LCAC trong hầm tàu dài 60-70 mét, nhưng thiếu chỗ chứa máy bay cho trực thăng.

1641572341174.png

1641572355080.png


Chiếc Oosumi dài 584 foot có một phần trên boong đậu xe dài, không cân đối, bao bọc một cấu trúc thượng tầng "hòn đảo" hình khối phía mạn phải, tạo ra một vẻ ngoài gợi ý cho một số người rằng bằng cách nào đó con tàu được sử dụng làm tàu sân bay trong tương lai. Tuy nhiên, JMSDF khẳng định rằng con tàu chỉ có thể tiếp nhận một cặp trực thăng CH-47 Chinook và 02 trực thăng tuần tra SH-60J. Thang máy nhỏ phía trước được sử dụng để đưa các phương tiện lên và xuống boong chứ không phải để xếp máy bay bên dưới boong.
Thiết kế tàu có boong trên rộng lớn, với chiều dài tổng thể là 160m, rộng 25,8m và chứa một khoang chứa phương tiện ở phía trước và một sàn đáp trực thăng ở phía sau. Mặt trước của thân tàu có một sàn xe dài 100m. Kết hợp với boong phía trên, có thể chở từ 10 đến 20 xe tăng và khoảng 40 phương tiện cỡ lớn.
Ở phía sau thân tàu, có một hầm dài 60m cho hai LCAC (Landing Craft Air Cushions) được đặt ở đầu cuối. Tàu đổ bộ đệm khí đầu tiên của JSDF, LCAC có thể lướt cách mặt nước 1,2m với tốc độ tối đa 40kt (74km/h).

1641572665612.png

1641572697979.png

1641572682518.png

1641572711956.png

1641572934305.png

1641572944412.png


Với tải trọng 50 tấn và chiều dài tổng thể 27m, tàu đổ bộ đệm khí có khả năng chuyên chở 1 xe tăng Type-90 hoặc hơn 10 phương tiện hạng nhẹ. LCAC có thủy thủ đoàn 5 người và cũng có thể chứa 24 lính thủy đánh bộ.
Loại tàu "Ohsumi" cho phép vận chuyển hiệu quả các binh lính đặc nhiệm của JDS đến các địa điểm chiến lược, giải cứu dân chúng trong trường hợp thiên tai quy mô lớn và có khả năng hoạt động như một căn cứ chính thức cho các Hoạt động Giữ gìn Hòa bình của Liên hợp quốc. Thân tàu lớn được bọc thép và boong mở. Phía sau thân tàu có sàn đáp bọc thép cho hai trực thăng CH-47 cỡ lớn.

1641572989929.png

1641572846368.png

1641572861286.png

1641572876214.png

1641572900150.png


1641573517956.png

Tàu đệm khí chuyên chở tổ hợp tên lửa chống tàu Type 88
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

1641700162839.png

1641700138619.png

Tàu đổ bộ đa dụng Lớp Yusotei

Tàu là loại tàu vận tải LCU để vận chuyển nhân sự và vật tư đến các vùng ven biển xa xôi và hải đảo xa xôi. Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản có lớp Yura để sử dụng như một tàu vận tải nhỏ, nhưng loại này được đơn giản hóa và thu nhỏ.
Tàu có thể chở tới 200 lính và 25 tấn vật tư. Đáy tàu bằng phẳng để có thể đổ bộ tại các vùng nước nông và bãi san hô. Phần trước của con tàu là một không gian chất hàng mở, nơi các phương tiện và vật tư được chất lên. Ngoài ra, có thể bố trí thêm 70 lính. Tàu đổ bộ lớp Yusotei có kích thước gần tương đương với tàu đổ bộ cỡ lớn lớp Runnymede của Quân đội Hoa Kỳ, nhưng tải trọng khác nhau, trong khi lớp Runnymede có thể chở 03 xe tăng, mẫu tàu này không hỗ trợ vận chuyển xe tăng do trọng tải hạn chế hơn.
Tàu có 02 cửa đổ bộ ở phía trước và sau tàu. Vũ khí phòng thủ là một khẩu pháo JM61 20 mm.

1641700576793.png

1641700658502.png

1641700916959.png


1641701662729.png

1641701703934.png

1641701874006.png

1641701984437.png

1641702065567.png

1641702020018.png

1641702439485.png

Tàu đệm khí

Tàu đổ bộ đệm khí LCAC có tổng chiều dài 26,4 m, rộng 14,3 m, trọng lượng vào khoảng 89 tấn. Tàu được trang bị 4 động cơ tuốc bin trục Lycoming TF-40B, với tổng công suất 16.000 mã lực. ... Tải trọng thông thường của LCAC là 54 tấn, tối đa đạt 68 tấn.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

7​
Tàu tuần tra ven bờ Lớp Hayabusa
6​
8​
Tàu rải, quét mìn
28​
9​
Tàu hậu cần, bảo đảm
19​
- Tàu phá băng có hầm chứa Lớp Shirase
1​
- Tàu thử nghiệm Lớp Asuka
1​
- Tàu giám sát hải dương Lớp Hibiki
2​
- Tàu thăm dò
3​
- Tàu hỗ trợ chiến đấu nhanh
5​
- Tàu sửa chữa cáp biển
1​
- Tàu cứu hộ tàu ngầm
2​
- Tàu huấn luyện
6​
II
Máy bay
1​
Trinh sát chống ngầm P-3C, P-l
71​
- P-1
9​
- P-3C Orion
62​

Tàu tuần tra tên lửa lớp Hayabusa

1641957221359.png

1641957251977.png


Tàu tên lửa lớp Hayabusa (tiếng Nhật: はやぶさ型ミサイル艇) là một lớp tàu tuần tra mang tên lửa thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF), do Nhà máy đóng tàu Shimonoseki thuộc Mitsubishi Heavy Industries (MHI) chế tạo. 6 tàu đã được đưa vào biên chế JMSDF từ năm 2002 đến năm 2004.
Lớp Hayabusa được thiết kế nhằm mục đích thay thế cho lớp tàu tên lửa cánh ngầm PG 1-go thế hệ trước được đánh giá là không thành công. Đã có 3 tàu PG-1 go được đóng mới trong giai đoạn 1993 - 1995. Tuy nhiên ngay sau khi đi vào hoạt động, hạn chế ở khả năng đi biển và phạm vi hoạt động ngắn khi chạy với tốc độ trung bình của tàu trở nên rõ ràng. Chính vì vậy, đã không có thêm một tàu nào thuộc lớp này được đóng mới và Hayabusa được phát triển để sửa chữa các vấn đề trên.
Thân tàu chiến lớp Hayabusa dùng kiểu thiết kế vỏ đơn, dài và hẹp có đáy chữ V cho phép đạt tốc độ cao và cải thiện sự ổn định ở tốc độ lớn. Thân tàu cũng được tối ưu cho khả năng tàng hình, ngoài ra bề mặt tàu được phủ một lớp sơn đặc biệt có khả năng hấp thu sóng điện từ. Cấu trúc thượng tầng của tàu được làm bằng hợp kim nhôm, gia cố thêm nhựa thủy tinh để làm giảm khối lượng.

1641957626200.png

1641957647444.png

1641957669888.png


Tàu tuần tra lớp Hayabusa được trang bị hệ thống định hướng chiến đấu OYQ-8B. Hệ thống định hướng chiến đấu OYQ-8B bao gồm hệ thống máy tính điều khiển AN/UYK-44 và máy trạm AN/UYQ-21. Máy tính AN/UYK-44 nhỏ hơn nhưng vượt trội hơn rất nhiều so với AN/UYK-20 thế hệ trước. Các máy tính trung tâm với tốc độ xử lý dữ liệu khoảng 10 Mbit/giây sẽ tự động tính toán, đánh giá dữ liệu về mục tiêu và phân bố đến các hệ thống vũ khí. Hệ thống OYQ-8B cho phép Hayabusa đối phó hiệu quả với các mục tiêu, đặc biệt là các mục tiêu dưới nước.

1641957804387.png

1641958135552.png

1641958149886.png

Hệ thống tác chiến điện tử NOLR-9B

1641957738173.png

1641958089776.png

1641958100761.png

Radar điều khiển hỏa lực FCS-2-31C

Tàu còn được trang bị radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-18-3, radar chuyển hướng, dẫn đường OPS-20 hoạt động ở băng tần I (8 đến 10GHz), radar điều khiển hỏa lực FCS-2-31C dùng để đẫn bắn tên lửa chống hạm SSM-1B Type 90 và hệ thống theo dõi và giám sát hồng ngoại OAX-2. Hệ thống thông tin liên lạc trên tàu được kết nối với vệ tinh Superbird B2 thông qua hệ thống liên lạc vệ tinh NORA-1C lắp phía sau bột buồm của tàu. Hệ thống còn có thể cung cấp hai kênh thoại kỹ thuật số.

1641957834749.png

1641958025241.png

1641958044339.png

Hệ thống liên lạc vệ tinh NORA-1C

1641957884716.png

1641957970839.png

1641957990140.png

Radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-18-3

Phương thức "bảo vệ mềm" (soft-kill) của Hayabusa bao gồm hệ thống chiến tranh điện tử NOLR-9B ESM và hệ thống mồi bẫy Mk-137 SRBOC (2 giá x18-ống phóng). Hệ thống chiến tranh điện tử NOLR-9B ESM dùng để dò tìm tín hiệu vô tuyến phát từ radar tàu và tên lửa đối phương, đồng thời phát tín hiệu gây nhiễu làm nhiễu đầu dò radar của tên lửa chống hạm, khiến chúng bám theo các mục tiêu ảo hoặc giảm tầm hiệu quả của đầu dò, cho phép tàu tránh được tên lửa. Hệ thống Mk-137 SRBOC thường kết hợp với hệ thống chiến tranh điện tử NOLR-9B ESM. Cơ chế hoạt động của nó là phóng ra các rocket thả lá nhôm, tạo ra mục tiêu giả, gây nhầm lẫn cho đầu dò của tên lửa đang hướng đến.

1641958333013.png

1641958346617.png

1641958389069.png

1641958272892.png

Tàu tuần tra lớp Hayabusa đang phóng mồi bẫy Mk-137 SRBOC

Các tàu lớp Hayabusa được được trang bị 2 bệ, mỗi bệ 2 ống phóng kiêm bảo quản dùng cho tên lửa chống hạm SSM-1B Type 90, ở đuôi tàu. Bệ phóng được thiết kế nghiêng 45 độ và đặt đối xứng nhau. Do được thiết kế nghiêng 45 độ và đặt đối xứng nhau, hệ thống phóng rất cồng kềnh, tốn nhiều diện tích trên tàu. Khi phóng tên lửa, tàu phải xoay ngang làm tăng độ bộc lộ trước đối phương và mỗi lần chỉ phóng được 50% cơ số tên lửa SSM-1B Type 90 mang theo. Tuy tàu mang được 4 tên lửa Type-90, nhưng JMSDF thường chỉ lắp 3 tên lửa cho các buổi thử nghiệm hoặc trực chiến.
Đầu nổ của đầu đạn Type 90 là loại "bán xuyên giáp". Trước tiên, dựa vào năng lượng vận động khi bay, đầu đạn có thể xuyên thủng mạn tàu đối phương, ngòi đầu nổ tên lửa có thể xuyên thủng mạn tàu địch, sau mấy giây xuyên vào trong tàu, ngòi đầu nổ tên lửa lại dẫn nổ, từ đó làm nổ tung đầu đạn có chứa lượng thuốc nổ cực mạnh ngay trong thân tàu, cộng với lượng chất đốt vẫn chưa cháy hết của tên lửa cùng tung ra theo tiến nổ, khiến cả khoang tàu bốc cháy, làm tàu địch bị phá hủy nặng nề.

1641958557943.png

1641958486264.png

1641958628247.png

1641958467491.png

Tên lửa chống hạm Type-90 trên tàu tuần tra lớp Hayabusa

Pháo chính của tàu là pháo hạm tự động Mk-75 cỡ nòng 76mm/62 do Công ty Japan Steel Works sản xuất theo giấy phép của Công ty OTO Melara, Italia. Mk-75 có tốc độ bắn nhanh nên chủ yếu được dùng để thực hiện nhiệm vụ tác chiến mặt nước và đối không. Pháo có khối lượng 16,8 tấn, nòng pháo dài 4,7 m, sơ tốc đầu nòng 980 m/s, tốc độ bắn trung bình là 85 viên/phút, ở chế độ bắn nhanh là 120 viên/phút, có khả năng tiêu diệt mục tiêu cỡ nhỏ tầm gần ở cự ly tối đa 16 km và mục tiêu trên không ở tầm bắn lên đến 12 km.
Thành phần của pháo hạm này bao gồm 01 module đơn gắn pháo, 01 hệ thống nạp đạn tự động và các thiết bị hỗ trợ. Pháo được trang bị hai loại đạn là đạn xuyên giáp và đạn nổ phân mảnh. Trong đó, đặc điểm nổi bật nhất chính là đạn ART đường kính 42mm, có hình dạng như một quả rocket với cánh đuôi đứng, nặng 3,4 kg, sử dụng lõi kim loại wolfram được bố trí trong vỏ đạn 76mm.

1641958699290.png

1641958753590.png

1641958895664.png

1641958855591.png

Pháo hạm tự động Mk-75 cỡ nòng 76mm/62

Ban đầu, Hayabusa dự kiến được trang bị 2 động cơ chính và có tốc độ tối đa là 32 đến 33 hải lý/giờ. Tuy nhiên, sau đó, tốc độ yêu cầu đã được nâng lên 44 hải lý/giờ để đối phó với hoạt động gián điệp của tàu chiến Bắc Triều Tiên và số lượng động cơ chính cũng được tăng lên ba động cơ .
Động cơ chính của tàu là 3 động cơ tuabin khí LM500-G07 (công suất 5.400 mã lực) do Ishikawajima-Harima (nay là IHI Corporation) chế tạo theo giấy phép của General Electric. Động cơ LM500-G07 của Haybusa tương tự như loại được lắp trên tàu tên lửa cánh ngầm PG 1-go, nhưng công suất cao hơn 400 mã lực. Mỗi động cơ LM500-G07 được kết nối độc lập với một hệ thống bơm nước phản lực MWJ-900A (do MHI sản xuất). Việc sử dụng hệ thống bơm nước phản lực MWJ-900A cho phép tàu hoạt động được ở những vùng biển nông, nhiều vật thể nhân tạo hoặc thực vật dưới bề mặt nước mà không sợ bị vướng, rối chân vịt. MWJ-900A còn có khả năng vận hành với tiếng ồn ít hơn nhiều so với thông thường, khiến tàu khó bị phát hiện hơn.
Ngoài ra, trên tàu còn có 2 tổ máy phát điện được lắp đặt tại phòng thiết bị phía trước phòng máy. Mỗi tổ máy bao gồm 1 động cơ diesel 6NSE-G của Công ty TNHH Kỹ thuật Niigata (380 mã lực) và 1 máy phát điện Toshiba công suất 200 kW. Hệ thống động lực cung cấp công suất đầu ra tổng cộng 16.200 mã lực giúp tàu đạt tốc độ tối đa lên đến 44 hải lý/giờ (85 km/h).

1641959044976.png

1641958980643.png

1641958996823.png

1641959013434.png

1641959030179.png

1641959071248.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tàu phá băng Lớp Shirase

1642386288975.png

1642386423270.png

1642386480766.png

1642386569564.png

1642386533144.png

1642386856841.png

Shirase (しらせ) là một tàu phá băng của Nhật Bản do Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản. Là tàu phá băng thứ tư của Nhật Bản cho các cuộc thám hiểm Nam Cực. Tàu thừa kế tên từ tàu tiền nhiệm Shirase (AGB-5002). Nó được hạ thủy tháng 4 năm 2008 và được biên chế vào tháng 5 năm 2009 với con số thân tàu AGB-5003.

Tàu thử nghiệm Lớp Asuka

1642386954465.png

1642387191564.png

1642387276211.png

1642387337422.png

1642387368768.png

1642387389388.png

1642387434611.png


JS Asuka (ASE-6102) là một tàu thử nghiệm của Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản. Con tàu được đóng bởi Sumitomo Heavy Industries tại Tokyo, Nhật Bản và được hạ thủy vào ngày 21 tháng 6 năm 1994. Asuka được đưa vào hoạt động vào ngày 22 tháng 3 năm 1995 và kể từ đó đã tiến hành các thử nghiệm các hệ thống vũ khí và ra đa của Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản.

Tàu giám sát hải dương Lớp Hibiki

1642387621120.png

1642387878861.png

1642387893746.png

1642387906048.png

1642387859976.png

1642387996660.png

1642387921772.png

1642387977683.png


Mitsui Engineering & Shipbuilding (E&S) đã hạ thủy tàu giám sát đại dương lớp Hibiki thứ ba theo đơn đặt hàng cho Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản (JMSDF) theo báo cáo của Jane's .
Được đặt tên là Aki (với cờ hiệu số AOS 5203), tàu hai thân đã được hạ thủy ngày 15 tháng 1 trong một buổi lễ được tổ chức tại cơ sở của công ty ở thành phố Tamano, tỉnh Okayama của Nhật Bản.
Tháng 5 năm 2018, Bộ Quốc phòng (MoD) ở Tokyo thông báo rằng con tàu dài 67 m đang được đóng với giá 18,3 tỷ Yên (164 triệu USD) theo hợp đồng được trao cho Mitsui E&S cùng năm đó.
Con tàu, có lượng choán nước đầy tải 3.048 tấn, được đưa vào hoạt động vào tháng 3 năm 2021. Nó sẽ trang bị Hệ thống cảm biến mảng pha giám sát (SURTASS) tiên tiến .
Người phát ngôn của MoD nói với Jane's vào tháng 5 năm 2018 rằng con tàu mới này nhằm "nâng cao hơn nữa khả năng thu thập thông tin của Nhật Bản trên các vùng biển trong bối cảnh các nước láng giềng đang gia tăng và mở rộng hoạt động tàu ngầm".
Lớp Hibiki có tầm cao tổng thể là 30 m, tốc độ tối đa 11 hải lý/giờ và tầm hoạt động tiêu chuẩn là 3.800 dặm, theo Jane's Fighting Ships. Tàu có thủy thủ đoàn 40 người, cũng có sàn đáp cho các hoạt động của máy bay trực thăng.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Máy bay trinh sát chống ngầm P-3C

1642472535387.png

1642472636993.png

1642472510009.png

1642472559869.png

1642472610952.png

1642472738588.png


Máy bay tuần tra ASW được trang bị đầy đủ các hệ thống chống tàu ngầm và khả năng xử lý thông tin tiên tiến. Từ năm 1978 đến năm 1997, Kawasaki đã sản xuất 98 chiếc P-3C để thay thế cho mẫu P-2J trước đó. Trong suốt thời gian nó được sản xuất và ngay cả sau khi kết thúc sản xuất, Kawasaki vẫn liên tục nâng cấp các hệ thống điện tử trên tàu và các thiết bị khác của phi đội P-3C. Hiện nay, những chiếc máy bay nâng cấp này có thể được tìm thấy trên tuyến đầu của nhiệm vụ tuần tra, giám sát hàng hải. Nhật Bản đã phát triển và sản xuất các đơn vị sản xuất EP-3, UP-3C và UP-3D bằng kiến thức chuyên môn về sản xuất có được. Hải quân Nhật Bản cũng đã sửa đổi máy bay P-3C thành cấu hình OP-3C.

1642472803251.png

1642472825171.png

1642472837179.png

1642472850712.png

P3-C của lực lượng phòng vệ hàng hải Nhật Bản bắn thử tên lửa đối hạm Harpoon

Máy bay trinh sát chống ngầm P-l

1642473026768.png

1642473175428.png

1642473213011.png


Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản (JMSDF) đã sử dụng Lockheed P-3 Orion trong nhiều thập kỷ làm máy bay tuần tra hàng hải chính của họ. JMSDF vận hành gần 100 máy bay tuần tra hàng hải P-3C do Mỹ chế tạo. 110 chiếc P-3J khác được Kawasaki sản xuất bằng giấy phép. Tuy nhiên, loại máy bay này đã trở nên lỗi thời.
Kawasaki P-1 được thiết kế để thay thế cho P-3 Orion. Nó thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 2009 và thể hiện hiệu suất ấn tượng. Máy bay này đã được thông qua trong JMSDF vào năm 2013, nhằm thay thế phi đội Orion đã già cỗi. Cho đến nay, có 33 chiếc Kawasaki P-1 đang hoạt động và khoảng 60 chiếc nữa đang được đặt hàng. Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh dường như quan tâm đến việc mua vài chục chiếc Kawasaki P-1 để thay thế những chiếc Nimrods đã nghỉ hưu của họ .
Kawasaki P-1 được thiết kế để thực hiện các nhiệm vụ giống như hầu hết các máy bay tuần tra hàng hải. Nó có khả năng tiến hành giám sát và trinh sát tầm xa trên đất liền và trên biển, chống hàng hải, tấn công tàu ngầm, thu thập dữ liệu tình báo và thực hiện tìm kiếm cứu nạn. Nhìn chung, nó tương đương với chiếc Boeing P-8 Poseidon của Mỹ .

1642473258630.png

1642473376220.png

1642473284037.png

1642473303376.png

1642473329303.png

1642473433478.png


Máy bay tuần tra hàng hải này được trang bị 4 động cơ phản lực cánh quạt. Chúng được phát triển đặc biệt cho Kawasaki bởi Tập đoàn IHI Nhật Bản. Mỗi động cơ tạo ra một lực đẩy 60 kN.
Máy bay có rất nhiều chỗ cho vũ khí trang bị. Có 8 điểm cứng cho tên lửa và 8 trạm đặt bom bên trong. P-1 có thể mang tên lửa chống hạm AGM-84 Harpoon của Mỹ hoặc ASM-1C của Nhật Bản, cũng như tên lửa không đối đất AGM-65 Maverick, cũng có thể được sử dụng để chống tàu. Máy bay này cũng có thể mang nhiều ngư lôi khác nhau.
Tuy nhiên, điều khiến Kawasaki P-1 vượt lên trên các đối thủ là hệ thống điện tử hàng không của nó. Công nghệ tiên tiến đã được sử dụng để trang bị cho chiếc máy bay này, từ hệ thống radar của Toshiba cho đến hệ thống tác chiến Shinko Electric, chuyên dùng cho tác chiến chống tàu ngầm.
Máy bay này được trang bị hệ thống trí tuệ nhân tạo tiên tiến. Hệ thống này giúp công việc của sĩ quan điều phối chiến thuật trở nên dễ dàng hơn, có tác động trực tiếp đến hiệu suất chung của máy bay.
Không giống như phần lớn các máy bay tương tự, Kawasaki P-1 không sử dụng công nghệ fly-by-wire thông thường mà là hệ thống đèn fly-by-light. Trên thực tế, P-1 là máy bay sản xuất đầu tiên sử dụng hệ thống điều khiển bay kiểu này.
Chi phí của một chiếc Kawasaki P-1 là từ 140,8 triệu đến 167 triệu USD. Điều đáng chú ý là Lockheed P-3 Orion có giá xấp xỉ 36 triệu USD.

1642473800540.png

1642473815779.png

1642473842246.png

1642473852448.png

1642473866948.png
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,176
Động cơ
654,723 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

7. Hải quân Hàn Quốc

a. Tổ chức biên chế

TT
Tổ chức
Biên chế
I
Quân số
70.000
II
Tổ chức lực lượng
A
Hải quân
1​
Bộ Tư lệnh Hạm đội hỗn hợp
3​
2​
Bộ Tư lệnh biển Tây Bắc
1​
3​
Bộ Tư lệnh tàu ngầm
1​
4​
Lữ đoàn đặc nhiệm hỗn hợp
1​
5​
Lữ đoàn tàu ngầm
1​
6​
Liên đội hàng không
1​
7​
- Căn cứ hải quân
8​
B
Hải quân đánh bộ
1​
Bộ Tư lệnh Hải quân đánh bộ
1​
2​
Sư đoàn hải quân đánh bộ
2​
3​
Lữ đoàn hải quân đánh bộ độc lập
1​
4​
Liên đội không quân chống ngầm
3​
5​
Trung đoàn Tác chiến Đặc biệt
1​

1642574927019.png


1642574958755.png

1642575054556.png

1642575074595.png

1642575092067.png

1642575107275.png

1642575214363.png

1642575256836.png

Lực lượng SEAL của hải quân Hàn Quốc

1642575327260.png

1642575452148.png

Tàu tuần tra lớp Chamsuri của hải quân Hàn Quốc

1642575531504.png

Tàu quét mìn lớp Nampo

1642575591230.png

Tàu tên lửa lớp Ulsan

1642575627503.png

Tàu khu trục lớp Incheon

1642575726505.png

1642575764240.png

Tàu ngầm của hải quân Hàn Quốc
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top