[Funland] Sao nhiều cụ vẫn tin vào độ chính xác của Âm lịch ?

taplai2012

Xe ngựa
{Kinh doanh chuyên nghiệp}
Biển số
OF-150015
Ngày cấp bằng
21/7/12
Số km
27,487
Động cơ
512,216 Mã lực
Có một thực tế là Mặt Trăng không chỉ tạo ra thủy triều mà nó còn là yếu tố chính tạo nên mùa màng và khí hậu cho trái đất ( các cụ xem thêm tác động của mặt trăng giữ cố định trái đất 1 góc nghiêng cố định là 23,4 độ - chính cái này mới tạo nên mùa và thời tiết)

Việc xây dựng nên bộ lịch thì người ta không chỉ căn cứ vào mỗi vị trí của mặt trời ( dương lịch ) mặt trăng ( âm lịch) hay cả 2 ( âm dương lịch) không đâu mà còn cả quan trắc thời tiết nữa sau đó căn cứ vào chu kỳ mà xây dựng nên.

Còn việc sử dụng lịch nào thì do nhu cầu của họ thôi
Vd ông nào làm mà liên quan đến con nước, đánh bắt hải sản (thậm chí ăn hải sản),...thì vác âm lich ra mà soi, chứ vác dương lịch thì lại mất công giở lịch ( không có lại phải đi mua )

Còn liên quan đến lịch sử, ngày làm việc công sở thì sử dụng dương lịch.
Chuẩn đấy cụ. Lich dương dùng số đếm trực quan nên công việc công sở và tra cứu lịch sử rất thuận tiện.
Còn lịch âm có giá trị riêng, rất hữu ích cho các nền văn minh lúa nước.
 

congthuong

Xe điện
Biển số
OF-387066
Ngày cấp bằng
14/10/15
Số km
2,778
Động cơ
271,508 Mã lực
Có một thực tế là Mặt Trăng không chỉ tạo ra thủy triều mà nó còn là yếu tố chính tạo nên mùa màng và khí hậu cho trái đất ( các cụ xem thêm tác động của mặt trăng giữ cố định trái đất 1 góc nghiêng cố định là 23,4 độ - chính cái này mới tạo nên mùa và thời tiết)
Đồng ý là Mặt Trăng hiển nhiên có ảnh hưởng nhất định vào thời tiết của trái đất, nhưng không thể dựa vào vị trí của nó so với trái đất để xác định chu kỳ thời tiết hay mùa màng.

Nên về cơ bản âm lịch không có giá trị theo dõi mùa bằng dương lịch.

PS: Nghiêng 23,4 độ là do cái gì thì còn phải chứng minh, chưa hẳn là không có mặt trăng thì sẽ không nghiêng, và không có mùa. Tất cả vẫn chỉ là giả thuyết.
 
Chỉnh sửa cuối:

Racehorse206

Xe tăng
Biển số
OF-588341
Ngày cấp bằng
4/9/18
Số km
1,956
Động cơ
153,579 Mã lực
Nhật bản cũng là nông nghiệp lúa nước như Việt nam và đã bỏ lịch âm từ năm 1873.

Và nông nghiệp Nhật vẫn ổn thỏa.
Nông nghiệp nước ta xuất khẩu gạo đứng nhất nhì TG , chắc phải do lịch âm mới được như vậy
 

trauxanh

Xe cút kít
Biển số
OF-321342
Ngày cấp bằng
28/5/14
Số km
17,905
Động cơ
427,802 Mã lực
Ở nội dung này, em xin có ý kiến thêm tí:

Các mốc trên Hoàng đạo có vai trò quan trọng trong tính toán, để vẽ ra hoàng đạo thì người TQ cổ xưa căn cứ vào việc xác định cực bắc của lồng vũ trụ mà theo quan sát thiên văn từ 3000 năm TCN họ xác định đâu đó hoán đổi giữa các sao của chòm Tiểu Hùng mà họ đặt là sao Bắc Thần. Bản chất thì hệ thống Hoàng đạo của TQ có sai số hơi cao từ đời Tống về trước do toán lượng giác không giỏi và không có thiên văn kính, đếch tính được tuế sai chính xác nên xác định kinh tuyến qua đỉnh đầu bị ngoáy như con quay đảo. Vì vậy, lịch Tàu mỗi ngày mỗi lệch đến nỗi về sau phải nhờ Tây lông chỉnh lý.
Yes!
Cái đó lại thuộc vào lịch sử thiên văn.
Các phương pháp càng tiến bộ thì sẽ cho kết quả càng chính xác. Nhưng khi chưa có kết quả chính xác hơn thì người ta vẫn sẽ dùng kết quả hiện có thôi. Như ông tỷ phú áng áng tôi có 15 tỷ, còn chưa đếm cụ thể được bao nhiêu.
Tuy nhiên nội dung bên trên để nói rằng là các dữ liệu chu kỳ vận động hành tinh đó, chả phải của Dương lịch hay của Âm lịch!
Nó là quy luật/chu kỳ/dữ liệu khách quan của thế giới này.
Sau ông Lịch Dương lấy 365 ngày làm dữ liệu chính để lập lịch, còn ông Lịch Âm lấy tháng trăng để lập lịch thì nỏ ra như vậy. Cái đúng của ông Dương là chính xác nhất với vòng quanh mặt giời, cái đúng của ông Âm là chính xác nhất với chu kỳ mặt giăng.
Thế thôi, Táo với Lê là như vậy! :D
 

lehahai

Xe tăng
Biển số
OF-1588
Ngày cấp bằng
30/8/06
Số km
1,021
Động cơ
214,398 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Lúc đó cụ đã biết năm có 365 ngày đâu. Phương pháp đơn giản nhất là chọn vị trí ngắm sao cho đỉnh núi thẳng hàng vs một ngôi sao nào đó, càng nhiều ngôi sao và đỉnh núi thì càng chính xác cụ ạ.
Chứ thước cụ kể cả cao đến 100m cũng rất khó chính xác vì chỉ cần ra sớm ra muộn một chút bóng nắng đã thay đổi rồi. Ngắm núi với sao cụ có gần trọn đêm để ngắm và ghi chép luôn 😊
He he, cụ nhầm người ta vì trùng nhau rồi mới coi đó là một năm, rồi tử đó đếm ra được số 365. Tôi với cụ bây giờ chỉ là kiểm chứng ngược lại thôi mà. Còn ngắm sao cụ không thấy là nó phức tạp hơn rất nhiều a? Nội cái vụ phân biệt sao này sao kia, quy chiếu nó vào đỉnh núi là thấy không khả thi rồi. Sao không lấy luôn bóng của đỉnh núi đó có phải nhàn không?
Cụ đọc lại mấy cụ trên về tiết khí và góc của mặt trời đê.
 
  • Vodka
Reactions: XPQ

taplai2012

Xe ngựa
{Kinh doanh chuyên nghiệp}
Biển số
OF-150015
Ngày cấp bằng
21/7/12
Số km
27,487
Động cơ
512,216 Mã lực
Đồng ý là nó có ảnh hưởng nhất định vào thời tiết của trái đất, nhưng không thể dựa vào vị trí của nó so với trái đất để xác định chu kỳ thời tiết hay mùa màng.

Nên về cơ bản âm lịch không có giá trị theo dõi mùa bằng dương lịch.
Tất nhiên là một cái căn theo thời gian mặt trăng quay quanh Trái Đất, một cái căn theo Trái Đất quay quanh Mặt Trời. Hai hệ quy chiếu khác hẳn nhau, ứng dụng cũng khác nhau.
Để giải quyết vấn đề đó người ta mới phải căn chỉnh theo lịch dương cụ ạ.
Giống như việc Trái Đất quay quanh Mặt Trời không chẵn ngày mà là số lẻ. Buộc lịch phải sử dụng phương pháp bù trừ. Phạm vi hẹp sẽ có sai số nhất định, nhưng sau mỗi chu kỳ bù mọi thứ lại dc reset nên về lâu dài ko ảnh hưởng.
 

taplai2012

Xe ngựa
{Kinh doanh chuyên nghiệp}
Biển số
OF-150015
Ngày cấp bằng
21/7/12
Số km
27,487
Động cơ
512,216 Mã lực
He he, cụ nhầm người ta vì trùng nhau rồi mới coi đó là một năm, rồi tử đó đếm ra được số 365. Tôi với cụ bây giờ chỉ là kiểm chứng ngược lại thôi mà. Còn ngắm sao cụ không thấy là nó phức tạp hơn rất nhiều a? Nội cái vụ phân biệt sao này sao kia, quy chiếu nó vào đỉnh núi là thấy không khả thi rồi. Sao không lấy luôn bóng của đỉnh núi đó có phải nhàn không?
Cụ đọc lại mấy cụ trên về tiết khí và góc của mặt trời đê.
Ngắm sao cụ có cả gần 1 tuần để chuẩn bị (khi 3 điểm gần thẳng hàng) .
Còn ngắm bóng nắng sai số nó lên cả chục ngày là ít, mà theo em không khả thi.
Em chưa bao giờ nghe ai nói dùng bóng nắng để xác định được năm cụ ạ. Có cụ nào chuyên thiên văn ở đây ko ạ?
 

congthuong

Xe điện
Biển số
OF-387066
Ngày cấp bằng
14/10/15
Số km
2,778
Động cơ
271,508 Mã lực
Tất nhiên là một cái căn theo thời gian mặt trăng quay quanh Trái Đất, một cái căn theo Trái Đất quay quanh Mặt Trời. Hai hệ quy chiếu khác hẳn nhau, ứng dụng cũng khác nhau.
Để giải quyết vấn đề đó người ta mới phải căn chỉnh theo lịch dương cụ ạ.
Giống như việc Trái Đất quay quanh Mặt Trời không chẵn ngày mà là số lẻ. Buộc lịch phải sử dụng phương pháp bù trừ. Phạm vi hẹp sẽ có sai số nhất định, nhưng sau mỗi chu kỳ bù mọi thứ lại dc reset nên về lâu dài ko ảnh hưởng.
Nhưng lạc đề rồi bạn ơi.
 

lehahai

Xe tăng
Biển số
OF-1588
Ngày cấp bằng
30/8/06
Số km
1,021
Động cơ
214,398 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Ngắm sao cụ có cả gần 1 tuần để chuẩn bị (khi 3 điểm gần thẳng hàng) .
Còn ngắm bóng nắng sai số nó lên cả chục ngày là ít, mà theo em không khả thi.
Em chưa bao giờ nghe ai nói dùng bóng nắng để xác định được năm cụ ạ. Có cụ nào chuyên thiên văn ở đây ko ạ?
Thế cụ hiểu thế nào cái cụm từ "lịch dương là lịch (theo) mặt trời"?
À còn nữa: Năm mặt trời ...
 

vnposh

Xe container
Biển số
OF-412393
Ngày cấp bằng
23/3/16
Số km
5,686
Động cơ
270,607 Mã lực
Lịch Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Điểm qua các lịch đã được sử dụng ở Việt Nam từ xưa đến nay: Việc nghiên cứu, phục hồi cổ lịch vượt ra ngoài nội dung này nên chỉ trình bày một số tóm lược dựa chủ yếu vào các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này của Gs. Hoàng Xuân Hãn và Pgs. Lê Thành Lân - những trích lục từ các nguồn sử liệu khác cũng được lấy lại từ hai tác giả trên. Ngoài ra có một số ý kiến chưa được kiểm chứng kỹ hay nhất trí rộng rãi cũng được đưa vào để bạn đọc tham khảo, hy vọng trong tương lai sẽ có một bức tranh đầy đủ hơn về lịch Việt Nam qua các giai đọan lịch sử .

Lịch trong xã hội xưa:

Lịch giữ một vị trí đặc biệt trong quan niệm của người á đông thời xưa, ở Trung Hoa lịch được xem là lệnh trời bày cho dân để theo đó mà làm nông vụ cũng như tế lễ, còn vua là thiên tử, thay trời trị vì thiên hạ và hàng năm ban lịch cho thần dân và các nước phiên bang. ở Việt Nam mỗi năm lễ ban lịch gọi là Ban Sóc cũng được tổ chức rất long trọng có nhà vua và hàng trăm văn võ bá quan tham dự. Các cơ quan làm lịch ở nước ta trước đây rất quy củ, Thời Lý có Lầu chính Dương, Thời Trần có Thái sử Cục, thời Lê có Thái Sử Viện, thời Lê Trung Hưng có Tư Thiên Giám, thời Nguyễn có Khâm Thiên Giám…Các cơ quan này không chỉ làm lịch mà còn "Coi các việc": suy lượng độ số của trời, làm lịch, báo thời tiết, như thấy việc tai dị hay điềm lành, được suy luận làm khải trình lên’
Trích từ Nguyên sử và Đại việt sử ký toàn thư” thì vào thời trần (1301), Đặng Nhữ Lâm khi đi sứ sang Nguyên đã bí mật vẽ đại đồ Cung Uyển, thành Bắc Kinh, mang sách cấm về, sự việc lộ ra và bị vua Nguyên trách cứ. Có thể trong các sách cấm đó có thư tịch về lịch pháp nên sau này con cháu ông là đặng Lộ ra làm quan Thái sử cục lệnh Nghi hậu lang đã chế ra Lung linh nghi để khảo sát hiên tượng tỏ ra rất đúng và vào năm 1339 đặng Lộ trình vua Trần Hiến Tông xin đổi lịch thụ thời sang lịch Hiệp kỷ đã được vua chấp thuận.
Như vậy các cơ quan làm lịch bao gồm cả chức năng dự báo thời tiết, thiên văn và chiêm tinh học. Tuy nhiên, hiện nay tư liệu về lịch Việt Nam còn lại rất ít nguyên nhân một phần do khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chiến tranh liên miên tàn phá, một phần do lịch pháp gần như là một thứ bí thuật không phổ biến, cộng với việc khoa học nhất là khoa học tự nhiên không được chú trọng phát triển trong thời phong kiến. Điều này gây trở ngại cho việc tìm hiểu về lịch Việt Nam trong quá khứ và đó cũng là lý do khiến các nghiên cứu về lịch ở nước ta rất hiếm hoi.
Các nhân vật nổi tiếng trong lịch pháp thời xưa có Đặng Lộ, Trần Nguyên Đán vào cuối thời Trần (1325-1390) và Trần Hữu Thận (1754-1831), Nguyễn Hữu Hồ (1783-1844) ở thời Nguyễn … Trần Nguyên Đán là người thông hiểu thiên văn , lịch pháp và đã viết sách Bách thế Thông kỷ tiếc rằng đến nay không còn, ông chính là cháu tằng tôn Trần Quang Khải là ngoại tổ Nguyễn Trãi.
Liên quan đến nguồn sử liệu còn có các cuốn lịch cổ đáng chú ý sau: Khâm định vạn niên thư (lưu trữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) in lịch từ năm 1544 đến năm 1903, trong đó các năm từ 1850 trở đi là lịch dự soạn cho thời gian tới, Bách Trúng kinh ( lưu giữ tại Viện hán nôm) in lịch thời Lê Trung HƯng ( Lê - Trịnh) từ năm 1624 đến năm 1785, Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (lưu giữ tại Viện hán nôm ) in lịch từ năm 1740 đến năm 1883, ngoài ra còn cuốn Bách trúng kinh khác thấy ở Hà nội năm 1944, sách này chép lịch từ năm 1624 đến năm 1799 nhưng nay không còn.

Lịch Việt cổ và nguồn gốc Lịch Âm Dương Á Đông:

Lịch âm Dương Á Đông mà Trung Quốc và Việt Nam đang sử dụng hiện nay được xem là lịch nhà Hạ (2140 trước c.n -1711 trước c.n , tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng Lịch Âm Dương là kết quả của sự giao thoa văn hoá giữa hai vùng Hoa Bắc và Hoa NAm của Bách Việt hay Việt cổ. Vùng Hoa Bắc trồng kê mạch và chăn nuôi còn vùng hoa Nam tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước. Lịch với chức năng chính là phục vụ nông nghiệp (tục gọi là lịch nhà nông) nên phải phù hợp với thời tiết khí hậu của vùng hoa Nam là vựa thóc chính của trung Hoa. Mặt khác sử sách cũng ghi lại một số tư liệu về sự tồn tại lịch của người Việt cổ như truyền thuyết về lịch rùa mà Việt Thường thị khi sang chầu đã dâng lên vua Nghiêu đời Đào đường ( Sách Việt sử thông giám cương mục) hoặc theo thư của Hoài Nam Vương Lưu An gửi vua nhà Hán (Thế kỷ 2 trước c.n) thì “ từ thời Tam đại thịnh trị đất Hồ đất Việt không tuân theo lịch của Trung Quốc” (Đại việt sử ký toàn thư).Ngoài ra cũng có những bằng cớ chứng tỏ là từ lâu trước thời kỳ Bắc thuộc cư dân nước Văn Lang đã sử dụng một thứ lịch riêng, chẳng hạn các tư liệu về lịch của dân tộc Mường và nhứng điều được miêu tả trong Đại Nam thống nhất chí: “ Thổ dân ở huyện Bất Bạt và Mỹ Lương, hàng năm lấy tháng 11 làm đầu năm, hàng tháng lấy ngày 2 làm đầu tháng, gọi là ngày lui tháng tiến, lại gọi là ngày nội, dùng trong dân gian, còn ngày quan lịch, thì gọi là ngày ngoại, chỉ dùng khi có việc quan”.

Lịch Việt Nam trong các giai đoạn khác nhau

Các sự kiện lịch sử ở nước ta vốn được ghi chép theo theo Lịch âm Dương Á Đông và để có một niên biểu lịch sử chính xác cần biết rõ loại lịch nào đã được sử dụng trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. tuỳ thuộc vào quan hệ bang giao giữa hai nước trong từng thời kỳ mà lịch Việt Nam có lúc trùng có lúc lại lại khác với lịch Trung Quốc. Mặt khác bản thân lịch Trung Quốc đã trải qua nhiều lần thay đổi, cải cách (tính từ Thế kỷ 14 trước c.n là năm bắt đầu xuất hiện đến nay riêng lịch Trung Quốc đã trải qua hơn 50 cải cách khác nhau), điều này làm cho việc so sánh đối chiếu niên đại lịch sử giữa hai nước thêm phức tạp. Các kết quả khảo cứu của Gs. Hoàng Xuân hãn và pgs. Lê Thành Lân cho biết:
Trong 1000 năm Bắc thuộc (từ khi Triệu Đà đánh bại nhà Thục và xâm chiếm nước ta đến lúc Đinh Bộ Lĩnh lập nên Đại Cồ Việt) lịch dùng chính thức ở nước ta là lịch Trung Quốc hoặc thuộc phần phía nam Trung Quốc bị phân chia (Việt sử ở thời kỳ này được ghi chép rất sơ sài gây khó khăn cho việc khảo cứu).Trong thời kỳ đầu của nền độc lập từ đời Đinh (969) đến hết thời Lý Thái Tông (1054) nước ta vẫn tiếp tục sử dụng lịch nhà Tống ( như lịch Ung Thiên hoặc lịch Sùng Thiên).
Từ đời Lý Thánh tông lên ngôi cuối năm 1054 Việt Nam có lẽ bắt đầu tự soạn lịch riêng, Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt, chấn hưng việc nhà nông, việc học. Lý Nhân Tông nối ngôi năm 1072 và 3 năm sau chiến tranh bùng nổ giữa Đại Việt và Tống ( Lý Thường Kiệt xuất quân đánh Tống đẻ ngăn chặn), bang giao gián đoạn giữa hai nước cho đến năm 1078,trong thời gian này chắc chắn nước ta đã dùng lịch riêng.
Các đời Lý và Trần từ 1080 đến năm 1399; lúc đầu nước ta dùng lịch được soạn theo phép lịch đời tống , sau chuyển sang sử dụng lịch Thụ Thời ( có từ năm 1281 đời Nguyên) và năm 1339 vua Trần Hiến Tông đổi tên lịch Thụ Thpì thành lịch Hiệp kỷ.
Năm 1401 nhà Hồ ( thay nhà Trần tè năm 1399 đổi lịch Hiệp kỷ sang lịch Thuận thiên, không rõ chỉ đổi tên hay phép làm lịch cũng thay đổi.
Năm 1407 nhà Hồ bị mất, nhà Minh đô hộ nước ta và dùng lịch Đại Thống ( nhà Minh lên thay nhà Nguyên năm 1368 và dến năm 1384 thì đổi tên lịch Thụ thời thành lịch Đại Thống, nhưng phép lịch vẫn như cũ. Năm 1428 nước ta được giải phóng nhưng triều Lê tiếp tục sử dụng phép lịch Đại thống cho đến năm 1644 và theo Gs. Hoàng Xuân hãn thì phép lịch này còn tiếp tục được sử dụng cho đến năm 1812 (Gia Long thứ 11 đời Nguyễn) mặc dù từ năm 1644 nhà Thanh đã thay thế nhà Minh và khoảng 3 năm sau thì chuyển sang dùng lịch Thời Hiến.
Gs. Hoàng Xuân hãn rút ra kết luận trên dựa vào sự phục tính lịch Đại Thống từ đời nhà Hồ đến năm 1812 và đem so sánh với quyển Bách trúng kinh do ông sưu tầm được, quyển này in lịch từ năm Lê Thần Tông Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) đến năm Tây Sơn Cảnh Thịnh thứ 7 (1799). Theo một số tư liệu thì vào thời Lê Trịnh( từ năm 1593 đến năm 1788) lịch nước ta có tên là lịch Khâm thụ và Gs. Hoàng Xuân Hãn đồ rằng tên này có từ đầu triều Lê, tên khác nhưng phép lịch có thể vẫn là phép lịch Đại thống nếu như kết quả phục tính của Gs. Hoàng Xuân Hãn ở trên là đúng. Nhà Mạc từ năm 1527-1592 nằm trong khoảng thời gian giữa đầu triều Lê và thời Lê- Trịnh có lễ đã dùng lịch Đại thống do nhà MInh phát hành ít nhất cũng là từ năm 1540.

Về giai đọan từ thời Lê - Trịnh đến năm 1802 có một số ý kiến khác:

Qua khảo cứu cuốn Khâm định vạn niên thư (hiện lưu giữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) Pgs. Lê Thành Lân cho biết trong vòng 100 năm từ năm Giáp thìn 1544 đến năm 1643 lịch Việt Nam và Trung Quốc khác nhau 12 lần, trong đó có 11 ngày Sóc , 1 ngày nhuận và tết. Điều này khác với nhận định của Gs. Hoàng Xuân hãn cho rằng trước năm 1644 vào thời Lê Trinh lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc cùng dùng theo phép lịch Đại thống nên Giống nhau. Cũng theo Pgs. Lê Thành Lân từ năm Tân Mùi (1631)đến năm Tân Dậu (1801)lịch ở đàng trong trong cuốn Khâm Định vạn niên thư khác với lịch Trung Quốc 92 lần. lịch ở đàng trong tồn tại song hành với lịch Lê- Trịnh (hai lịch khác nhau 45 lần) và lịch Tây Sơn ( hai lịch khác nha 5 lần), mặt khác lịch thời Tây Sơn từ năm Kỷ dậu (1789) đến năm Tân Dậu (1801) khác với lịch nhà Thanh nhưng chưa có sử liệu chứng minh điều này. Lịch đàng trong lúc này có tên là lịch Vạn Toàn (hay Vạn Tuyền, phải đổi tên kị huý).
Từ năm 1813 đến năm 1945: Nhà Nguyễn dùng phép lịch thời Hiến ( giống như nhà Thanh)và gọi là lịch Hiệp Kỷ. Sau khi Pháp cai trị nước ta họ cũng lập các bảng đối chiếu Lịch Dương với Lịch âm Dương lấy từ Trung Quốc, trong khi nhã Nguyễn vẫn soạn và ban lịch của mình ở Trung Kỳ.
Việc chuyển sang dùng phép lịch thời Hiến là do công của Nguyễn Hữu Thuận, khi đi sứ sang Trung Quốc ông đã mang về bộ sách có tên là lịch tượng khảo thành và dâng lên vua Gia Long, sau đó vua sai Khâm Thiên Giám dựa vào đấy để soạn lịch mới. Bộ sách về thiên văn và lịch pháp này do vua Khang Hy sai các lịch quan Trung Hoa cùng với các giáo sỹ Tây phương kết hợp biên soạn và vua Ung Chính sai đem khắc vào năm 1723. Vào tháng chạp năm 1812 lịch Vạn Toàn được đổi tên thành Hiệp Kỷ.
Từ năm 1946 đến năm 1967: Trong giai đọan này Việt Nam không biên soạn Lịch âm Dương mà các nhà xuất bản dịch từ lịch Trung Quốc sang.
Từ năm 1968 đến năm 2010: vào năm 1967 Nha khí tượng công bố Lịch âm Dương Việt Nam soạn theo múi giờ 7 cho các năm từ 1968 đến năm 2000 (Sách lịch Thế kỷ XX).Trước đó vào năm 1959 Trung Quốc cũng công bố Lịch âm Dương mới soạn theo múi giờ 8. Sau đó BAn lịch do K.s Nguyễn Mậu Tùng phụ trách tiếp tục biên soạn l Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2010 in trong cuốn lịch n 1901-2010 (xuất bản năm 1992).
(Tổ biên soạn Nha khí tượng được chuẩn bị Thành lập từ năm 1959 dưới sự chỉ đạo cuẩ Gs. Nguyễn Xiển là giám đốc Nha khí tượng. Tổ làm nhiệm vụ quản lý lịch nhà nước và biên soạn, dịch thuật lịch Thiên văn Hàng hải cung cấp cho Hải quân. Đến năm 1967 tổ soạn được 33 năm Âm lịch, thi hành ở miền Bắc từ 1968. Lịch Thiên văn Hàng hải xuất bản đến năm 1989,1990 thì kết thúc. Năm 1979 theo quyết định của Chính Phủ, phòng Vật lý khí quyển và Thiên văn cùng bộ phận tính lịch chuyển từ tổng cục Khí tượng thuỷ văn sang viện khoa học Việt Nam. Bộ phận quản lý lịch nhà nước được đặt trụ sở thuộc Uỷ ban nghiên cứu vũ trụ Việt Nam. Trong các năm từ 1968-1992 Ban lịch đã soạn thêm được một số năm Âm lịch và kết quả thành bảng lịch Việt Nam (1901-2010). từ năm 1993-1997 do thay đổi về tổ chức hành chính (Uỷ ban vũ trụ giải tán ) nên Ban lịch (thực tế chỉ còn một vài người) chuyển về văn phòng thuộc trung tâm KHTN&CNQG. Ngày 16/4/1998 Giám đốc Trung tâm KHTN&CNQG (gọi tắt là ban lịch nhà nước) trực thuộc Trung tâm thông tin Tư liệu.)
Để thống nhất việc tính giờ và tính lịch dùng trong các cơ quan nhà nước và giao dịch dân sự trong xã hội, ngày 8-8-1967 chính phủ đã ra quyết định số 121/CP do cố TTg Phạm Văn Đồng ký (ngày 14-10-2002 Phó TTg Phạm Gia Khiêm đã ký quyết định số 134/2002/QĐ-TTg sửa một vài câu chữ trong Điều 1 của QĐ 121/Cp cho chính xác hơn nhưng về cơ bản tinh thần của QĐ 121/CP không có gì thay đổi). Theo QĐ 121/Cp giờ chính thức của nước ta là múi giờ thứ 7 bên cạnh Dương lịch (lịch Gregorius) được dùng trong các cơ quan với nhân dân thì Âm lịch vẫn dùng để tính năm tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ tết cổ truyền. QĐ 121/Cp cũng nêu rõ Âm lịch dùng ở Việt Nam là Âm lịch được tính theo giờ chính thức của nước ta chư Chỉ thị số 354/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ .trưởng, Thông tư liên bộ số 88-TT/LB ngày 23-11-1970 của Bộ Văn Hoá và Nha Khí tượng, Quyết định 129-CP ngày 26-3-1979 của Hội đồng Chính phủ…


Những thay đổi về giờ pháp định trong Thế kỷ 20 ở Việt Nam:

Mặc dù hầu hết đát liền nước ta nằm dọc theo múi giờ 7 (kinh tuyến 105 độ đông đi qua gần Hà Nội) nhưng trong Thế kỷ 20 này giờ pháp định của nước ta đã bị nhiều lần thay đổi) theo ý định của chính quyền thực dân và hà đương cục. sự biến động chính trị trong Thế kỷ qua ở Việt Nam đã khiến cho giờ pháp định trong cả nước hay từng miền bị thay đổi tới 10lần. Sau đây là các mốc thay đổi giờ pháp định trong 100 năm qua ở nước ta kể từ khi hình thành khái niệm này:

Ngày 1/7/1906
Khi xây dựng xong Đài thiên văn Phủ Liễn, Chính quyền Đông dương ra Nghị định ngày 9/6/1906 (Công báo Đông Dương ngày 18/6/1906)ấn định giờ pháp định cho tất cả các nước Đông Dương theo kinh tuyến đi qua Phủ Liễn (104°17’17” đông Paris) kể từ 0 giờ ngày 1/7/1906
Ngày 1/5/1911
Sau khi nước Pháp ký Hiệp ước quốc tế về múi giờ, theo nghị định ngày 6/4/1911 (Công báo Đông Dương ngày 13/4/1911-trang 803) quy định giờ mới lấy theo múi giờ 7 (tính từ kinh tuyến đi qua Greenwich) cho tất cả các nước Đông Dương bắt đầu từ 0 giờ ngày 1/5/1911.
Ngày 1/1/1943
Chính phủ Pháp ra nghị định ngày 23/12/1942 (Công báo Đông Dương ngày 30/12/1942)liên kết Đông Dương vào múi giờ 8 và do vậy đồng hồ được vặn nahnh lên 60 phút vào lúc 23 giờ ngày 31/12/1942.
Ngày 14/3/1945
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp và buộc các nước Đông Dương theo múi giờ của Tokyo (Nhật Bản) tức là múi giờ 9 nên giờ chính thức lại được vặn nhanh lên 1 giờ vào 23 giờ ngày 14/3/1945.
Ngày 2/9/1945
Sau cách mạng tháng Tám Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lấy múi giờ 7 làm giờ chính thức (Sắc lệnh số năm/SL Của Bộ nội vụ).
Ngày 1/4/1947
Theo nghị định ngày 28/3/1947 của chính quyền thực dân (Công báo Đông Dương ngày 14/10/1947) thì trong các vùng bị tạm chiếm ở Việt Nam, ở Lào và Campuchia giờ chính thức là múi giờ 8 kể từ ngày 1/4/1947. Tuy nhiên trong các vùng giải phóng vẫn giữ múi giờ 7 và sau Hiệp định giơnevơ các vùng giải phóng ở miền bắc cũng theo múi giờ 7 (Hà nội từ 10/1954 và Hải phòng cuối tháng 5/1955); riêng Lào trở lại múi giờ 7 vào ngày 15/4/1955.
Ngày 1/7/1955
Miền Nam Việt Nam trở lại múi giờ 7 từ 0 giờ ngày 1/7/1955.
Ngày 1/1/1960
Chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 362-TtP ngày 30/12/1959 quy định giờ chính thức của Nam Việt Nam là múi giờ 8, đồng hồ phải vặn nhanh lên 1 giờ kể từ 23 giờ đêm ngày 31/12/1959 (tức 0 giờ ngày 1/1/1960)
Ngày 31/12/1967
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra Quyết đinh 121/CP ngày 8/8/1967 khẳng định giờ chính thức của nước ta là múi giờ 7 kể từ 0 giờ ngày 1/1/1968.
Ngày 13/6/1975
Sau khi miền nam được hoàn toàn giải phóng, chính phủ cách mạng Lâm thời đã ra quyết định chính thức trở lại múi giờ 7 và giờ Sài Gòn được vặn chậm lại 1 giờ.

(Theo Lịch Việt Nam Thế kỷ XX-XXI, tác giả Thạc sỹ Trần Tiến Bình, ban lịch nhà nước)
 

fairydream81

Xe hơi
Biển số
OF-383406
Ngày cấp bằng
19/9/15
Số km
187
Động cơ
243,892 Mã lực
Tuổi
43
Nơi ở
Ho Chi Minh
Cụ lại võ đoán rồi. Vì tiết khí có từ lâu đời, song hành với lịch âm nên mọi người cứ lầm tưởng là lịch âm mới tính được tiết khí. Thực tế ngược lại hoàn toàn: tiết khí được tính theo lịch dương, và rất dễ: https://vi.wikipedia.org/wiki/Tiết_khí

Haizz, Tiết khí là cái trụ cột của Âm lịch(Âm-dương lịch) chả vay mượn ở đâu hay nhờ dương lịch mới tính được cả.
Các cụ cần thay đổi quan niệm là Âm lịch chúng ta đang dùng chỉ dựa vào chu kì của mặt trăng đi, người làm ra Âm lịch đưa vào nó cả các qui tắc chuyển động của mặt trời, nên cả âm lịch hay dương lịch đều xác định được các tiết khí vì đều xây dựng trên cơ sở này.
 

rachfan

Xe container
Biển số
OF-365216
Ngày cấp bằng
3/5/15
Số km
5,734
Động cơ
409,325 Mã lực
Nơi ở
Hà nội
Nông nghiệp nước ta xuất khẩu gạo đứng nhất nhì TG , chắc phải do lịch âm mới được như vậy
3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới năm 2019 là 1. Ấn độ, 2.Thái lan và 3. Việt nam.

Trong đó thì nước xuất khẩu gạo lớn nhất là Ấn độ dùng dương lịch.
 

Fabulous

Xe tăng
Biển số
OF-406485
Ngày cấp bằng
24/2/16
Số km
1,928
Động cơ
443,376 Mã lực
Haizz, Tiết khí là cái trụ cột của Âm lịch(Âm-dương lịch) chả vay mượn ở đâu hay nhờ dương lịch mới tính được cả.
Các cụ cần thay đổi quan niệm là Âm lịch chúng ta đang dùng chỉ dựa vào chu kì của mặt trăng đi, người làm ra Âm lịch đưa vào nó cả các qui tắc chuyển động của mặt trời, nên cả âm lịch hay dương lịch đều xác định được các tiết khí vì đều xây dựng trên cơ sở này.
Em không nghiên cứu nên không biết ngày xưa tiết khí được tính như thế nào, có thể nó rất phức tạp, có thể phải mất nhiều ngày mới tính ra được 24 tiết khí cho một năm. Nhưng vấn đề quan trọng: bản chất là gì, và làm thế nào để ra kết quả. Và như vậy cách xác định tiết khí theo dương lịch là rõ ràng và quá đơn giản, chả cần tính toán gì, đúng cho mỗi năm. Lại chả quá thuận tiện sao?
 

fairydream81

Xe hơi
Biển số
OF-383406
Ngày cấp bằng
19/9/15
Số km
187
Động cơ
243,892 Mã lực
Tuổi
43
Nơi ở
Ho Chi Minh
Ở nội dung này, em xin có ý kiến thêm tí:

Các mốc trên Hoàng đạo có vai trò quan trọng trong tính toán, để vẽ ra hoàng đạo thì người TQ cổ xưa căn cứ vào việc xác định cực bắc của lồng vũ trụ mà theo quan sát thiên văn từ 3000 năm TCN họ xác định đâu đó hoán đổi giữa các sao của chòm Tiểu Hùng mà họ đặt là sao Bắc Thần. Bản chất thì hệ thống Hoàng đạo của TQ có sai số hơi cao từ đời Tống về trước do toán lượng giác không giỏi và không có thiên văn kính, đếch tính được tuế sai chính xác nên xác định kinh tuyến qua đỉnh đầu bị ngoáy như con quay đảo. Vì vậy, lịch Tàu mỗi ngày mỗi lệch đến nỗi về sau phải nhờ Tây lông chỉnh lý.
Việc quan sát thiên văn với việc chỉnh lý lịch nó không đi đôi cụ nhé, không phải là người TQ không biết được sự thay đổi của bầu trời qua hàng ngàn năm, nhưng để chỉnh lý lại lịch thuyết phục "lãnh đạo" thời đó ko phải dễ. Cũng lý do tương tự Dương lịch của Tây đến năm 1582 có cuộc đại chỉnh lý khi ban hành Lich Gregorius https://vi.wikipedia.org/wiki/Lịch_Gregory để xác định lại ngày chính xác với thiên văn hơn.
Lý do tương tự Âm lịch chỉnh lý vào năm 1654 để cho chính xác nhờ vào các tính toán thiên văn mới.
 
  • Vodka
Reactions: XPQ

lucifer82

Xe hơi
Biển số
OF-722886
Ngày cấp bằng
30/3/20
Số km
126
Động cơ
77,880 Mã lực
Em thấy nhiều cụ hay lấy lịch âm để giải thích cho thời tiết. Ví dụ như hiện tại trời vẫn đang rét dù ở giữa tháng 4 dương, các cụ giải thích là do nhuận 2 tháng âm. Hoặc dân ta vẫn hay lấy lịch âm để tính toán trong nông nghiệp.
Em thấy như thế là không đúng. Rõ ràng lịch âm không thể chính xác được như lịch dương. Vì lịch dương 4 năm mới nhuận thêm một ngày. Còn lịch âm thì khoảng 2-3 năm nhuận thêm tới 1 tháng. Rõ ràng độ chính xác của lịch âm kém xa lịch dương.
lịch âm là theo mặt trăng, mà mặt trăng ảnh hưởng lớn đến trái đất là đúng. Em nghĩ theo lịch âm thì vẫn đúng chứ
 

tuctuc2010

Xe điện
Biển số
OF-60773
Ngày cấp bằng
3/4/10
Số km
3,690
Động cơ
474,597 Mã lực
Nơi ở
Trên từng cây số
Đúng là bây giờ thời tiết thay đổi nhiều, giờ là tháng 4 mà vẫn lạnh sun người. Lạ thật
Có gì sai đâu cụ, giờ âm lịch đang tháng 3, mà các cụ ngày xưa có câu rét tháng 3 bà già chết cóng đấy thây
 

trauxanh

Xe cút kít
Biển số
OF-321342
Ngày cấp bằng
28/5/14
Số km
17,905
Động cơ
427,802 Mã lực
Haizz, Tiết khí là cái trụ cột của Âm lịch(Âm-dương lịch) chả vay mượn ở đâu hay nhờ dương lịch mới tính được cả.
Các cụ cần thay đổi quan niệm là Âm lịch chúng ta đang dùng chỉ dựa vào chu kì của mặt trăng đi, người làm ra Âm lịch đưa vào nó cả các qui tắc chuyển động của mặt trời, nên cả âm lịch hay dương lịch đều xác định được các tiết khí vì đều xây dựng trên cơ sở này.
Đúng là như vậy, các dữ liệu tham khảo đủ cả và không thể sai lệch.
Có điều là theo phương Đông thì nó chú trọng đến “tính thực tế” nên nó không cần nói đến mặt trời mà nói bằng hiện tượng cảm ứng với đời sống, chẳng hạn như Tiểu thử, Đại thử, Xử thử...đều gián tiếp phản ánh mặt trời.
Âm Dương lịch xét ra mang tính tổng hoà cao hơn lịch Dương, do nó tham chiếu nhiều hơn. Ông Dương lịch tham chiếu mỗi mặt giời. :D
 

tuctuc2010

Xe điện
Biển số
OF-60773
Ngày cấp bằng
3/4/10
Số km
3,690
Động cơ
474,597 Mã lực
Nơi ở
Trên từng cây số
Liệu cái hợp tuổi khắc tuổi vs Kim Lâu theo lịch âm thì ko đc cưới là đúng ko các cụ nhỉ
Em thấy nhiều ng ko hợp tuổi vẫn êm đẹp, mà hợp vẫn tan tành. Như ông Nguyên Vũ cafe Trung Nguyên hợp tuổi vk nhưng vẫn chia tay đó thôi =..=
Ngoài tuổi nó còn mệnh nữa cụ ui, chả thế mà có câu trong xung có hợp, trong hợp có xung cụ ạ
 

quanggialai

Xe điện
Biển số
OF-305258
Ngày cấp bằng
16/1/14
Số km
2,146
Động cơ
460,676 Mã lực
Nơi ở
Gia lai
3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới năm 2019 là 1. Ấn độ, 2.Thái lan và 3. Việt nam.

Trong đó thì nước xuất khẩu gạo lớn nhất là Ấn độ dùng dương lịch.
Ấn độ nó dùng lịch riêng của nó trong nông nghiệp. Lịch ấn có 5 thuộc tính: tithi, vaasara, nakshatra,yoga và karana.
Trong đó tithi là ngày mặt trăng
 

fairydream81

Xe hơi
Biển số
OF-383406
Ngày cấp bằng
19/9/15
Số km
187
Động cơ
243,892 Mã lực
Tuổi
43
Nơi ở
Ho Chi Minh
Em không nghiên cứu nên không biết ngày xưa tiết khí được tính như thế nào, có thể nó rất phức tạp, có thể phải mất nhiều ngày mới tính ra được 24 tiết khí cho một năm. Nhưng vấn đề quan trọng: bản chất là gì, và làm thế nào để ra kết quả. Và như vậy cách xác định tiết khí theo dương lịch là rõ ràng và quá đơn giản, chả cần tính toán gì, đúng cho mỗi năm. Lại chả quá thuận tiện sao?
Tiết khí tính toán qua quan sát chuyển động của Mặt trời ví dụ Đông Chí là ngày mặt trời ở xa nhất về phí nam so với xích đạo trời. Xuân Phân, Thu Phân là thời điểm Mặt trời ở xích đạo trời. Cả Tàu hay Tây đều phải quan sát thiên văn mới xác định được ngày này.

Lịch Phương Tây trên nguyên tắc ngày trong năm hoàn theo chu kì của mặt trời ~ 365 ngày, nhưng ngày lại không có sự tuần hoàn theo tháng. Lịch Âm TQ thì theo nguyên tắc các tiết khí tuần hoàn ~ 365 ngày, ngày tuần hoàn theo tháng ~30 ngày nhưng lại không có sự tuần hoàn của ngày theo năm. Chính vì thế rất khó để biết ngày 1 tháng giêng năm nay với ngay 1 tháng giêng năm sau cách bao nhiêu ngày. Bù lại lịch dương không có sự từan hoàn ngày theo tháng nên những sinh hoạt gắn với sự tuần hoàn của ngày này ví dụ như thuỷ triều không thể xác định được ở dương lịch
Mỗi bộ lịch đều có cái hay của nó phù hợp với văn hoá của vùng vì thế nó mới tồn tại lâu dài như vậy.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top