Em đang làm nông nghiệp đây các cụ ạ. Nghĩ mà chán cho nông dân mình, giờ làm thì ít, lại làm biếng. Khi hỗ trợ giống, kỹ thuật, đầu ra thì hăm hở làm. Vô làm thì ko theo qui trình. Đến khi gò vô qui trình, có sản phẩm thì đem ra ngoài bán phần ngon, còn lại mới để cho cty thu mua là em. Làm quần quật cả năm, tạo được mô hình sản xuất mới mà cứ như bị phản bội, đâm sau lưng, ức không chịu nổi. Vốn bỏ ra cứ như thả gà ra đuổi. Em nghĩ nước mình nghèo, dân mình nghèo ko phải chỉ do khách quan đâu ạ, phải 80% là do tính cách của dân mình đấy ạ. Em mà biết vậy, em chả về nước lăn lộn với dân mình như giờ đâu.
Vấn đề cụ nêu là phổ biến, tôi làm về phát triển nông thôn gần 20 năm nay, xin thưa thớt phân tích mấy việc cụ đưa:
Nông dân với cái tập quán "ngon thì bán trộm, còn lại thì giao cho công ty": Không phải là dân nói chung mà đa số chúng ta sẽ nghĩ cách làm vậy. Động cơ làm "tối đa hóa thu nhập bằng tiền"
Để có giải pháp với vấn đề này cần một tư duy xuyên suốt, minh bạch và thực sự đôi bên cùng có lợi theo sát với dân. Doanh nghiệp thì ông nào cũng như ông nào "càng có lợi càng tốt, càng phải bỏ ra ít càng tốt, nông dân ép được thì tốt, cắt bỏ được khâu nào tốt khâu đó".
Đặc tính chung của nông dân là đều thiếu lòng tin vào mối quan hệ với doanh nghiệp trong khi đó doanh nghiệp cũng ít tìm các nỗ lực đa dạng và toàn diện hơn để thúc đẩy niềm tin đó. Hợp tác sản xuất với nông dân cũng tương tự như vấn đề đã nói trên đây về sự thất bại của mô hình hợp tác xã đó là tư tưởng sở hữu, làm chủ. Hiện trạng bây giờ đang có mấy hình thức hợp tác với nông dân mà tôi biết như sau:
+ Hợp đồng bao tiêu (1): Doanh nghiệp hỗ trợ, vốn, giống, phân bón, kỹ thuật và mua đầu ra theo mức giá nào đó (thường là định trước vào đầu vụ với giá có thể điều chỉnh chút ít khi thu hoạch để thu hẹp khoảng cách với giá thị trường);
+
Hợp đồng cổ phần (2): Dân góp đất, lao động tham gia vào sản xuất cùng doanh nghiệp, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, chia lãi theo cổ phần, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất, sơ chế, đóng gói...vv;
+
Thuê & mua quyền sử dụng đất sản xuất (3): và công lao động của nhân dân trên chính diện tích đất của họ.
...
Cả 3 hình thức này đều đang tồn tại và không có cái nào hoàn toàn thắng thế, cái nào cũng có vấn đề.
Hình thức 1 (hình thức cụ đang làm) được dân tham gia nhiều nhất nhưng lại hay đổ bể do ràng buộc không chặt chẽ và bị ảnh hưởng bởi thị trường, nhất là khi cách định giá của doanh nghiệp tạo ra khoảng cách quá lớn (hơn 15%-20%) so với thị trường;
Hình thức 2: Dân không quan tâm mấy vì không hiểu biết về lợi ích và cũng không được tạo dựng lòng tin đầy đủ vì doanh nghiệp cũng giữ miếng nhiều quá (minh bạch thông tin, chi phí, cơ chế quyết định giá và sự tham gia của dân vào các quyết định đó). Mô hình này bản chất rất giống dạng hợp tác xã ngày trước nhưng có lợi điểm hơn hẳn là sản xuất theo thị trường (có doanh nghiệp đi cạnh). Tuy vậy, làm được theo thì cần đầu tư nhiều của doanh nghiệp - nó bản chất là một dự án Nông nghiệp xã hội;
Hình thức 3: Doanh nghiệp thích làm nhất nhưng tốn kém - tôi không bàn ở đây.
Phân tích về thất bại:
+ Thứ nhất - không nên ám ảnh với chữ "Dân thì gian, lười biếng ...vv". Một khi đã làm với Nông dân thì phải xác định đó là
dự án dài hơi và dự án
tạo dựng lòng tin (không tin các cụ về Sơn La và Băc Giang mà hỏi mấy doanh nghiệp họ đang làm Xoài, Vải Thiều). Và phải đảm bảo được câu chuyện minh bạch - đôi bên cùng có lợi thực sự;
+ Thứ 2 - Dân không nghĩ phức tạp như chúng ta nghĩ. Họ chỉ quan tâm: Việc này có ra tiền ngay không? Có tốn lao động không? Có làm ta mất thời gian nhiều không?: Hiện tại, đa số bà con ta vẫn chỉ coi nông nghiệp là nghề phụ và chú tâm đi kiếm việc làm thêm khác (phụ hồ, xây dựng, buôn bán lung tung...) để có tiền ngay - đó là vấn đề tư duy. Muốn thế - thiết kế dự án với nông dân phải tính đến cách để có tiền ngay hoặc chí ít thì cảm giác sớm có tiền nó thường trú cũng như việc họ không quá bị o ép về các loại khái niệm quy trình...vv, cần phải có sự mềm dẻo. Họ chỉ cảm thấy ít thua thiệt nếu thu nhập có được tương xứng với cái họ bỏ ra (thời gian, lao động). Với nhân dân mà cứ "trưa nắng" (theo giờ, theo quy định kỹ thuật) họ đi ra làm theo quy trình là họ không thích rùi cụ ợ. Cái này đòi hỏi các cụ phải nghĩ nhiều để xây dựng giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế, tập quán của dân;
+ Thứ 3 - Quan điểm Chi phí/ lợi ích phải ở mức cân bằng, không khai thác tối đa và phải công khai để dân cùng nắm bắt thì sẽ nhận được sự đồng thuận của họ: Các công trình cộng đồng thi công mà giao cho họ quyết, họ làm, họ xây dựng bảo quản đều rất tốt và bền, thậm chí đóng góp của dân còn gấp đôi gấp 3 giá trị ta góp vào;
+ Thứ 4 - đa dạng hóa các cơ hội tham gia vào nông nghiệp: du lịch, sản phẩm phụ ...vv. Nhiều khi với bà con, chỉ cần làm cho đời sống tinh thần của họ tốt, họ sẵn sàng tham gia một cách nhiệt tình vào dự án của ta.
Với các doanh nghiệp không có điều kiện làm dự án như vậy thì họ nên xác định vòng đời dự án phù hợp (5 năm) và thiết kế cho chuẩn với các nội dung để thúc đẩy sự tham gia và quan tâm của dân. Chẳng hạn nên học cách các dự án phát triển cộng đồng đã làm ở ta từ 20-30 năm, và giờ vẫn đang làm:
Giai đoạn 1: 1-2 năm: Truyền thông, mô hình, tập huấn, tham quan học tập, làm thử;
Giai đoạn 2: 2 năm - lan rộng;
Giai đoạn 3: Mở rộng bền vững
Các dự án phát triển cộng đồng thì thường kết thúc sau vài năm nhưng dự án dân - doanh nghiệp này sẽ tiếp tục kéo dài sau giai đoạn chuần bị ban đầu (3-5 năm). Kinh phí cho một dự án chuẩn bị như vây thường không quá lớn nhưng nó là bước chuẩn bị tốt cho các dự án dài hơi hơn của doanh nghiệp.
Nếu làm được như thế (các cụ chắc sẽ chê cười, doanh nghiệp sao làm được) nhưng tôi tin sẽ thành công vì nó đặt vai trò người dân làm nguồn lực phát triển cho doanh nghiệp và họ cũng hưởng lợi từ điều đó. Tuy nhiên, sẽ tốn kém cả thời gian và tiền bạc, và với tâm lý hiện tại doanh nghiệp (nhanh thu hồi vốn) thì sẽ không bao giờ làm được hoặc phải chờ đợi dân trí đi lên (và lúc đi lên đó, họ cũng chả cần các anh nữa).
Xin có vài dòng lỗ mỗ. Nếu có thời gian, tôi sẽ viết thêm về câu chuyện Nông nghiệp.
Kính cụ!