[Funland] Quảng Trị

Trạng thái
Thớt đang đóng

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực



Đêm 6 rạng 7-2-1968, hai Trung đoàn Bắc Việt Nam và 16 xe tăng lội nước PT-76 tấn công Trại LLĐB Làng Vei (cách Khe Sanh 8 km về phía tây) và chiến thắng sau 3 giờ chiến đấu. Ảnh: hai trong số 4 xe tăng PT-76 trúng mìn



 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Một trong 4 xe tăng lội nước PT-76 bị trúng mìn khi tấn công Trại Lực lượng Đặc biệt Làng Vei đêm 6 rạng 7-2-1968




Một trong 4 xe tăng lội nước PT-76 bị trúng mìn khi tấn công Trại Lực lượng Đặc biệt Làng Vei đêm 6 rạng 7-2-1968, bị Mỹ lôi về triển lãm

 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
LAW (Light Anti-armor Weapon)

Ảnh: Lính Mỹ với M-72 trong chiến tranh Việt Nam



Theo một số tài liệu, trong trận đánh Làng Vây, trước xe tăng PT-76, súng chống tăng M72 đã thể hiện rất tồi. Hơn 100 phát đạn bắn ra, hoặc bắn trượt, hoặc trúng vào lớp giáp nghiêng của PT-76 và … bật ra ngoài.
Vậy tại sao một loại vũ khí diệt tăng của nền quốc phòng tiên tiến bậc nhất thế giới lại thua thảm hại trước xe tăng bọc giáp dày 20mm PT-76.
Tại sao M72 LAW vô dụng?
Sự tệ hại của súng chống tăng M72 LAW nằm ở cơ cấu điểm hỏa, điểm hỏa từ dưới lên. Trong khi đó, súng chống tăng B-41 sử dụng trạm truyền nổ chữ U.
Với trạm truyền nổ chữ U trên đạn B41, khi nổ thì khối vật chất năng lượng cao tạo bởi tấm tích năng lượng nổ được dồn thành một hình cầu nhỏ, tập trung năng lượng ở cả chiều ngang và chiều dài. Khối vật chất nén có mật độ rất cao, với tấm tích năng lượng bằng đồng, có mật độ 20-30 tấn/m3. Chính vì vậy, nó tạo lỗ khoan nhỏ (xuyên vào giáp xe), ít tốn năng lượng cho mỗi đơn vị chiều sâu và nhờ đó xuyên sâu hơn. Điều này cũng lí giải vì sao ngay cả xe tăng M1 Abrams hiện đại nhất của Mĩ cũng bị đạn B41 xuyên thủng.
Còn với loại đạn có trạm truyền nổ từ dưới lên như M72, phản ứng nổ vượt trước khối vật chất năng lượng cao, vì tốc độ nổ là 9km/s, trong khi đó tốc độ dòng vật chất năng lượng cao chỉ đạt cao nhất 2km/s. Điều này khiến việc nổ phía trước cản trở chuyển động của vật chất năng lượng cao đi chậm hơn.
Với cơ cấu truyền nổ này, khối vật chất năng lượng cao không dồn thành một hình cầu như trạm truyền nổ chữ U, mà kéo dài thành hình “que đũa”. Mỗi đoạn của “que đũa” dài có năng lượng thấp, sẽ bị giáp nghiêng đẩy ra ngoài phần lớn năng lượng, và cả “que đũa” không tập trung sẽ có các đoạn lần lượt bị đẩy ra ngoài. Đây chính là điều đã “hạ nhục” M72, khiến nó trở thành “thùng rỗng kêu to” khi tính năng được cho là tương đương B-41, nhưng không xuyên qua nổi giáp dày 20mm của xe tăng PT-76.
Không chỉ có sức xuyên kém mà tầm bắn hiệu quả của M72 cũng rất thấp. Do đây là loại súng dùng một lần, không có kính ngắm. Trong khi đó, xạ thủ B-40, B-41 lại phải nắm rất nhiều công thức ước lượng tầm, ước lượng cự li, có yếu lĩnh bắn nên đương nhiên súng phải chính xác hơn.
Tuy nhiên, M72 lại có một mặt mạnh về chiến thuật. Đây là một súng dùng một lần, dễ sử dụng. Với B-41 thì cả tiểu đội mới có một khẩu, còn M72 thì bất cứ lính bộ binh nào cũng có thể mang theo như một vũ khí dùng thêm. Trong chiến đấu, khi xe tăng địch vào gần thì đồng loạt khai hỏa, hỏa lực của tiểu đội sẽ tăng lên rất mạnh. Nếu cần, cũng có thể sử dụng nhiều M72 bắn đồng loạt như một dàn hỏa tiễn, để áp chế đội hình địch.
Nhìn chung, M72 LAW là một “nỗi xấu hổ” với nền công nghiệp quốc phòng Mỹ. Khẩu súng tự cho là tương đương súng chống tăng B-41, nhưng không bắn xuyên được giáp của xe tăng hạng nhẹ PT-76.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Sau khi bị bộ đội Bắc Việt Nam vây hãm Khe Sanh, Mỹ tung Chiến dịch Pegasus giải vây cho Khe Sanh



Từ 4-1968 - lính Mỹ vẫn đóng ở Làng Vây đến khi họ phải rút khỏi Việt Nam



Tháng 2-1967, bộ đội Bắc Việt Nam từng bao vây và tấn công Trại Lực lượng Đặc biệt Làng Vây
Ngày 2-3-1967, máy bay F-4H Phantom của Mỹ ném bom xuống trận địa ta, do nhầm nhọt rơi trúng Trại Làng Vây làm 100 "quân mình" chết và 175 bị thương

 

binhsu7273

Xe cút kít
Biển số
OF-191532
Ngày cấp bằng
26/4/13
Số km
15,069
Động cơ
479,101 Mã lực
Tiếp đi Cụ.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Vì sao Mỹ chọn Khe Sanh

Trước 1964, chỉ có đồn Làng Vây của Lực lượng Đặc biệt để tung biệt kích thâm nhập Lào. Từ sau 1964 thấy đường vận tải qua Lào phát triển, Mỹ bắt đầu chú ý xây dựng Khe Sanh, nhưng cũng chỉ ở mức nhỏ.
Vì nằm gần biên giới và giáp ranh đường số 9, trục lộ giao điểm của ba quốc gia Nam Việt, Bắc Việt, Lào, nên Khe Sanh đã trở thành một trong những cứ điểm quan trọng nhất trên bản đồ của cuộc chiến Việt Nam.
Trong hồi ký trên của mình, Westmoreland viết:

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Khe Sanh là giữa năm 1964, sau khi tôi được cử giữ chức Tư lệnh MACV. Ngay từ buổi đó, tôi đã phát hiện thấy cao nguyên Khe Sanh giữ một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng ở chỗ, có thể:
- Cắm ở đây một cái chốt, khoá chặt con đường thâm nhập của Cộng sản từ Lào qua đường 9 vào Nam Việt Nam;
- Dựng ở đây một tiền đồn bảo vệ dải đất hẹp phía nam giới tuyến quân sự;
- Thiết lập một trại biệt kích phục vụ cho những hoạt động phá hoại các hậu cứ của địch đặt ở bên kia biên giới Lào. Khe Sanh có thể coi như chiếc cầu “bập bênh” tung biệt kích vào Lào rồi lại nhanh chóng rút về (để tránh sự lên án là vi phạm biên giới Lào);
- Xây dựng một căn cứ mặt đất, chặt đứt đường mòn Hồ Chí Minh;
- Xây dựng một sân bay thường trực, làm nhiệm vụ thường xuyên quan sát, giám sát mọi hành động đi lại, vận chuyển của đối phương trên đường mòn từ Bắc vào Nam để đưa bộ binh tới tiến công tiêu diệt;
- Trong trường hợp Việt cộng đánh lớn thì chiến đấu với địch ở Khe Sanh vẫn có lợi hơn là ở Quảng Trị”…

Westmoreland viết tiếp:

Trước khi hạ lệnh chiếm lĩnh nơi này, tôi đã nghiên cứu kỹ những điểm có thể so sánh giữa Khe Sanh và Điện Biên thông qua một sĩ quan cấp cao của Pháp đã từng tham gia cuộc chiến tranh Đông Dương là Đại tá PaulVannuxem, hiện đang nghỉ hưu. Qua nhiều buổi thảo luận, tôi nhận thấy:
- Điện Biên là một thung lũng nên dễ bị tiến công. Ngược lại, Khe Sanh nằm trên một cao nguyên, đối phương khó tiến đánh.
- Tại Điện Biên, quân Pháp không chiếm lĩnh được bất kỳ một điểm cao nào vây quanh thung lũng nên dễ bị khống chế. Ngược lại, tại Khe Sanh, lính thuỷ đánh bộ kiểm soát được tất cả bốn điểm cao vây quanh là mỏm 558 và mỏm 950 ở phía tây bắc, mỏm 861 và mỏm 881 ở phía nam.
- Tại Điện Biên, quân Pháp không có pháo binh đặt ở bên ngoài thung lũng để yểm trợ cho các cứ điểm nằm ở bên trong. Ngược lại, tại Khe Sanh, ngoài các khẩu đội pháo 105mm, 155mm và khẩu đội cối 4,2ins đặt ở ngay bên trong vị trí, lính thuỷ đánh bộ còn được yểm trợ bằng 16 khẩu pháo cực mạnh 175mm đặt ở bên ngoài, tại căn cứ pháo Ca-rôn, cách Khe Sanh 14 dặm.
- Tại Điện Biên, quân Pháp không có xa lộ nối liền từ hậu phương đến tập đoàn cứ điểm đặt trong thung lũng. Ngược lại, từ những nơi đóng quân của lính thuỷ đánh bộ trong vùng chiến thuật 1, có xa lộ quen thuộc gọi là Đường 9, có thể hành quân ngay cả trong thời tiết mưa phùn.
- Tại Điện Biên, quân Pháp chỉ có sân bay nhỏ và khi bị cắt đứt sân bay cũng chỉ thả dù được trên một diện tích hẹp. Ngược lại, tại Khe Sanh, vì nằm trên một cao nguyên nên máy bay vận tải cỡ lớn C.130 có thể hạ cánh dễ dàng, bãi thả dù cũng rất rộng.
- Trong cuộc chiến tranh Đông Dương, người Pháp không có máy bay lên thẳng vũ trang, ngoài một số ít chỉ có thể sử dụng để chở thương binh rất hạn chế. Lực lượng không quân Pháp cũng yếu. Ngược lại, Mỹ có rất nhiều máy bay lên thẳng kể cả loại máy bay lên thẳng khổng lồ dùng để chở quân nhu, vũ khí tới Khe Sanh. Lực lượng không quân yểm trợ cho Khe Sanh cũng rất mạnh, trong đó có cả máy bay chiến lược B-52 ném bom rải thảm.
- Tại Điện Biên, người Pháp không có con đường nào thuận tiện để di tản quân lính khi cần thiết. Ngược lại, từ Khe Sanh lính thuỷ đánh bộ có thể di tản, nếu cần, bằng cả đường bộ lẫn đường không”.


Rồi Westmoreland kết luận:

“Tôi chỉ thấy có một điểm giống nhau giữa Điên Biên với Khe Sanh, đó là: từ Điện Biên đến Khe Sanh đối phương đều có thể sử dụng pháo để bắn phá ác liệt. Nhưng ta cũng có thể dùng pháo để bắn trả, dùng máy bay ném bom để phá hoại, thậm chí còn có thể dùng cả bom nguyên tử để huỷ diệt”.

Dựa vào “địa lợi” cùng một lực lượng quân sự mạnh như vậy, nên khi Khe Sanh bị đối phương bao vây, uy hiếp, bị xe tăng tiến công, bị “giã giò” bằng pháo và súng cối suốt ngày đêm, gây thương vong nặng nề cho lính Mỹ, thì Westmoreland vẫn khẳng định “Khe Sanh là bất khả xâm phạm”, “Khe Sanh không thể trở thành một Điện Biên Phủ thứ hai”. Thậm chí ngay cả khi cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của quân và dân ta đã bùng nổ khắp miền Nam và cố đô Huế bị quân giải phóng chiếm, thì Westmoreland vẫn ngoan cố “cắm chân” một lực lượng lớn quân Mỹ tại Khe Sanh để cố thủ “cái chốt chiến lược”, không rút về hoặc rút một phần về đánh chiếm lại Huế.

Ngày 7-2-1968 khi nói chuyện qua điện thoại vô tuyến với Tổng thống Mỹ Johnson, Westmoreland vẫn “thề sẽ giữ vững” Khe Sanh.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Tổng thống Johnson lo sốt vó về Khe Sanh



 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Cắn răng gửi thêm quân đến Nam Việt Nam theo yêu cầu của Westmoreland



 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Khe Sanh có một vị trí quan trọng khiến Westmoreland phải xây dựng thành cứ điểm tiền tiêu

 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đã nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ, mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ kế hoạch Operation Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà trắng, các phụ tá quân sự đã nhiều lần trấn an Johnson về khả năng rải thảm ở mọi điều kiện thời tiết của B-52), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của hải quân, không lực của thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nhìn zero (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm.
Khe Sanh còn được yểm trợ bởi trực thăng: 3.300 chiếc (Operation Niagara II); các tổ hợp radar kể cả loại hiện đại như SKY SPOT; 16 bộ pháo tự hành 175mm bố trí tại trại Carroll ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh Rock Pile, 18 lựu pháo 105mm, 8 lựu pháo 155mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân…
Được đặc biệt tin tưởng còn có đạn pháo 105mm COFRAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi (Cluster Bomb Unit), chủ yếu được để dành, nhằm tạo bất ngờ lớn một khi Khe Sanh bị tràn ngập; cũng như đạn pháo “tổ ong” (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một hình nón 30 độ, rất hữu hiệu chống chiến thuật biển người…
Bảo đảm kỹ thuật - hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MedVac); và phương thức tiếp tế LAPES (thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, qui mô đến mức hoàn hảo trên các máy bay trọng tải lớn C-130, C-132.
Westmoreland có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày, trong khi Navarre chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn là cùng.
Từ 19 đến 25-1-1968, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ.
Còn phải kể đến lực lượng cơ động chiến lược gồm sư đoàn kỵ binh bay số 1 và sư đoàn không vận 101, đã hiện diện ngay trước Tết ở vùng Chiến thuật I, để sẵn sàng từ ngoài đánh vào để cứu Khe Sanh.
Tại cao điểm của chiến trường Khe Sanh, 15-3-1968, tướng Westmorland tăng cường lực lượng cho vùng Chiến thuật I từ 38 tiểu đoàn Mỹ khi quân Bắc Việt Nam bắt đầu phong tỏa Khe Sanh lên 54 tiểu đoàn, tức là hơn một nửa số quân Mỹ viễn chinh ở Nam Việt Nam.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
1948- biên giới Việt Lào nhìn từ đồn Khe Sanh (dưới thời Pháp thuộc)

 

IFAW50

Xe tải
Biển số
OF-401416
Ngày cấp bằng
17/1/16
Số km
263
Động cơ
232,764 Mã lực
Tuổi
50
Nơi ở
Tobe or not Tobe!
Em ngó sơ thì chưa thấy bức ảnh nào chụp về tấm bia (trong lúc bí từ em xin dùng tạm nv ạ) ở phía bắc cầu Hiền Lương cũ, những năm cuối 90 em thường đi qua đây nên nhớ tương đối rõ nội dung ghi trên tấm bia này "Sông núi nước Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi". Thời điểm này các cụ có đi qua thì đi cầu HL mới nên hiếm có dịp nhìn đc tấm bia này, mong cụ chủ bổ xung thêm để các cụ các mợ và em nhìn rõ hơn về lịch sử ạ, e xin cảm ơn các cụ.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
1967 - Khe Sanh trước ngày nổ ra trận đánh





 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực






 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực








 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
1967 - Trực thăng của TQLC Hoa Kỳ ở Khe Sanh




 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực


 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực


 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Các cụ cứ bình tĩnh, sẽ đến đoạn đánh nhau gần 400 hình cơ ạ

2-1968 – Chỉ huy Căn cứ Khe Sanh, Trung tá David Lownds



 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Đêm 2-1-1968, gần hàng rào phòng thủ phía tây Khe Sanh, một toán Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã phục kích và bắn hạ 5 sĩ quan Bắc Việt Nam. Giấy tờ tịch thu cho biết họ là những sĩ quan cao cấp, trong đó có cả một người là Trung đoàn trưởng, và hai người kia là cán bộ cao cấp về ngành truyền tin và hành quân. Tình báo Hoa Kỳ lo ngại một lực lượng hùng hậu của Bắc Việt đã có mặt tại vùng này.
Trung đoàn 26 thủy quân lục chiến tại Khe Sanh lập tức được lệnh phải bổ sung quân số.

Ngày 20-1-1968, một trận đánh dữ dội đã xảy ra trên đồi 881 nam. Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của tiểu đoàn 1/3 thủy quân lục chiến, gồm Bộ chỉ huy của đại đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của đại đội K.

Lúc trời vừa sáng còn dầy đặc sương mù, một toán quân của đại đội I lục soát vòng quanh khu vực. Mọi vật trong không gian và thời gian đang lắng đọng yên lành. Nhưng đến trưa khi sương mù tan biến. Nét lặn yên của buổi sáng bị giao động dữ dội. Hai trung đội đi đầu lọt vào ổ phục kích của Bắc Việt Nam. Trong vòng chưa đến một phút mà đã có 20 binh sĩ Hoa Kỳ ngã gục. Những người còn lại nằm rạp xuống tránh đạn. Họ vừa bắn trả, vừa hét vào máy truyền tin xin hỏa lực pháo binh tiếp cứu.

Ngay lập tức, các căn cứ hỏa lực ở gần đó đã mau chóng phản ứng. Những khẩu đại bác được quay nòng về hướng đồi 881 nam và tác xạ mạnh mẽ. Một rừng đạn pháo bay đến cày nát chiến trường. Máy bay xuất hiện ném bom napalm xuống cản được đợt tấn công của Bắc Việt Nam. Đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ bị thiệt hại nặng. Họ phải lui về vị trí cũ trên đồi 881 nam.
 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top