Về chuyện nhà Tây Sơn :
Chúa Nguyễn Võ vương mất năm 1765, Trương Phúc Loan chuyên quyền, đưa Nguyễn Phúc Thuần (12 tuổi) lên ngôi, Quan lại nhũng nhiễu đó là thuận lợi. Tây Sơn là một gia tộc bình thường mà ta hay gọi là áo vải, có 3 anh em giỏi Võ, lanh lợi. Khi thời cơ đã đến, kỷ cương lỏng lẻo, Họ liên kết anh hùng nhân sĩ dựng cờ.
Tây Sơn, đứng đầu là Nguyễn Nhạc nguyên là dòng dõi Hồ Quý Ly, đứng lên tranh đấu cũng vì quyền lợi gia đình, sau thất thế thì yên phận nhường Ngôi, chí thú quanh thành Quy Nhơn. Về công tội đất nước thì vô thưởng vô phạt.
Riêng Nguyễn Huệ là bậc anh tài quân sự, có khí phách nhưng quá Độc đoán chuyên chế mà có chế độ khắc nghiệt, nóng vội, tận dụng quá sức dân làm họ sợ hãi, oán than hơn là phục. Công lớn nhất Của Nguyễn Huệ là đánh thắng 30 vạn quân của nhà Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu xâm lược nước ta. Nhưng xét kỹ thì Ông cũng gián tiếp là nguyên nhân cuộc xâm lược này do đánh đuổi Vua Lê Chiêu Thống (được nhà thanh bảo hộ phong vương), khiến Vua Lê bỏ chạy sang Nhà Thanh cầu cứu, xin binh chinh phạt. Cũng may là Càn Long không hiếu chiến, ham vui và không tham lam như quân Nguyên, Minh.
Nguyễn Huệ có chí lớn, giỏi Quân sự xứng đáng là anh hùng, Do định mệnh, nên Ông bạo bệnh mất sớm, con là Vua Quang Toản lại kém tài, dẫn đến Tây Sơn thua trận, cả Gia Tộc Tây sơn bị tàn sát !
Thương thay! Vì cảm phục nên một số nơi nhân dân ta vẫn có đền thờ Ông.
Trích:
...Làng Tây Sơn có thể coi như một tiền đồn di dân Việt về phía Tây, sâu vào xứ người Thượng. Là một tiền đồn di dân theo chính sách khai phá cổ truyền. Kiên Thành cũng ở trên bờ sông Côn như các sông nhỏ miền Trung khác, Chúng là con đường giao thông trao đổi phẩm vật trên rừng, dưới biển.
Trong khung cảnh hàng hoá lưu chuyển như vậy, Nguyễn Nhạc chọn lấy một phẩm vật quan trọng là trầu nguồn được khắp mọi giới ưa chuộng. Nguyễn Nhạc hình như đóng vai trò đầu nậu này và chính nhờ sự giao thiệp khi gom, chuyển giao hàng hoá, tính toán lời lỗ, mà ông đã có thói quen tổ chức, óc chỉ huy và sự quảng giao rất cần cho về sau. đồng thời với Nhạc cũng có Quen Châu Văn Tiếp, Nguyễn Long (dân Đồng Xuân, Phú Yên), Phạm Văn Sĩ (dân Phù Mỹ, Bình Định, đồng xứ với Tiếp), nên lúc đầu khởi loạn phục theo Nhạc, và khi phản kháng thì chỉ tụ tập được đám người Thượng trên một vùng núi thôi. Gọi là Nguyễn Nhạc có lực lượng phối hợp lớn là căn cứ vào cư dân trong vùng. Những người Thượng là lực lượng quý báu cho Nhạc lúc đầu. Những người Thượng này còn có liên hệ chủng tộc gần với nhóm người Chàm ở Thạch Thành Phú Yên 23 . Nữ chúa Thị Hoả của họ đã hưởng ứng Nguyễn Nhạc ngay từ lúc đầu.
Vùng này còn khối di dân Trung Hoa tự trị, nhưng vẫn chịu dưới quyền nhà Nguyễn. Chính quyền tập họp họ thành từng "thuộc": có 6 thuộc như vậy ở Quy Nhơn vào năm 1799 và 3 thuộc trước đó. Phần lớn họ là Minh dân lưu vong, nằm trong các tổ chức hội kín (Thiên Địa hội) ít chịu dung hợp với chính quyền. Ngay cả đám người Việt cũng có phần lớn ra ngoài kỷ cương của Triều đình: những người lên rừng, xuống biển đổi phẩm vật, người làm thuê, gặt hái theo vụ mùa , những kẻ trốn xâu lậu thuế... Vào những lúc rảnh rỗi, tất cả gặp nhau quanh chiếu bạc, nơi đám hát. Triều đình không thể nào kiểm soát được đám dân "vong mạng" này. Cho nên không nên lấy làm lạ rằng dưới quyền Nguyễn Nhạc có bọn liên quan cướp Nhưng Huy, Tứ Linh ở nguồn An Tượng. quân của Tập Đình, Lý Tài "người cao lớn, gọt đầu kết tóc, giả làm người Thanh, khi đánh giặc, uống rượu say, ở trần, đeo giấy vàng bạc xung trận liều mình" 25 .
....
Triều Chúa thật ở vào thế suy yếu nhất trong khi Tây Sơn càng ngày càng lớn mạnh. Tháng giêng năm Nhâm Thìn (1772), Vua sai Chưởng cơ Tôn Thất Văn đi tuyển xét ở Quy Nhơn 33 . Báo cáo về việc Tây Sơn lập 6 đồn trên vùng Thượng đạo từ năm trước (1771) 34 có đến tai Triều đình rồi không? Tình hình nghiêm trọng hơn khi vào đầu tháng 4-1773, Tây Sơn đã kéo nhau từng toán xuống các chợ ngay lúc ban ngày, lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo, đe dọa đốt nhà cửa để bắt người tuân theo. Họ họp từng nhóm khoảng 300 người, riêng vùng Douhau (Đồng Hươu, Đồng Hào?) có đến 600 người và họ quấy nhiễu suốt 7 tháng ròng ở Phú Yên, Quy Nhơn. Tổ chức của họ cứ theo thắng lợi mà trở thành lớn lao, có quy củ hơn. Lúc đầu họ võ trang giáo mác, cung tên và cả súng tay nữa. Họ đi bộ, nhưng sau đó, khoảng tháng 8, họ đi ngựa, cáng và võng. Để bày tỏ vị trí phương nam và tính cách bạo động của quân khởi nghĩa, họ mang mỗi đội một lá cờ đỏ dài độ 9 aunes (khoảng 1m) 35 . Thanh thế lớn lên, Nguyễn Nhạc dời quân xuống Kiên Thành tự xưng làm đệ nhất trại chủ coi 2 huyện Phù Ly và Bồng Sơn, cho Nguyễn Thung làm đệ nhị trại chủ coi Tuy Viễn, Huyền Khê làm đệ tam trại chủ coi quân lương 36 . Có thể là đạo quân của Châu Văn Tiếp và quân Nữ chúa Thị Hoả đã chia nhau khống chế Phú Yên.......
NHÀ TÂY SƠN TỪNG CẦU VIỆN NHÀ THANH ĐỂ CHỐNG CHÚA NGUYỄN
***
“阮光纘還希望藉助清朝的力量對抗舊阮,派遣阮登為使者,前往清朝求援。但阮福映已在其之前派遣鄭懷德出使清朝,獻上繳獲的西山朝印綬,並將被俘虜的海盜首領莫官扶、梁文庚、樊文才三人移交清廷。兩廣總督吉慶將三人的供詞送呈嘉慶帝。嘉慶帝得知西山朝包庇華南海盜之事後大怒,逐出了西山朝使者”[1]
“Nguyễn Quang Toản còn hi vọng sự trợ giúp của Nhà Thanh để chống lại chúa Nguyễn, phái Nguyễn Đăng (Nguyễn Đăng Sở) làm sứ giả, đến cầu viện Nhà Thanh. Nhưng Nguyễn Phúc Ánh cũng đã phái sứ giả Trịnh Hoài Đức đến trước, đưa ấn tín thu được của Nhà Tây Sơn và bắt các thủ lĩnh cướp biển Mạc Quan Phù, Lương Văn Canh, Phàn Văn Tài nộp cho Nhà Thanh. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Cát Khánh đã dâng biểu tấu về ba người này đến Hoàng đế Gia Khánh. Hoàng đế Gia Khánh biết được Nhà Tây Sơn từng dung túng cho cướp biển Hoa Nam nên rất phẫn nộ, liền trục xuất sứ giả của Nhà Tây Sơn về” [1]
“西 山 朝 倾 覆 之 际 , 阮 光 缵 曾 遣 使 入 广 东 求 援 , 但 嘉 庆 帝 吸 取 前 几 次 扶 黎 失 败 的 教 训 , 拒 绝 接 纳 , 而 与 阮 福 映 的 阮 朝 政 权 缔 结 了 宗 藩 关 系 。”[2]
Vào thời điểm Nhà Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Quang Toản từng phái sứ giả đến Quảng Đông cầu viện, nhưng Hoàng đế Gia Khánh đã rút ra bài học từ lần thất bại “phù Lê”, nên đã từ chối. Ngoài ra Gia Khánh lại còn thiết lập quan hệ với chính quyền Triều Nguyễn của Nguyễn Phúc Ánh. [2]
Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh và vua Càn Long
Một cơ duyên may mắn hết sức kỳ lạ là tôi mua được trong hàng sách cũ một bộ Encyclopedia Brittannica in lần thứ nhất trùng thời với những kiến thức mà giám mục Pigneau đem về cho chúa Nguyễn. Qua bộ sách ba volumes (tập) này, tôi đã đào sâu vào những mục xây thành, đúc súng, huấn luyện hải quân … là căn bản văn minh Tây phương mà người ngoại quốc giúp cho chúa Nguyễn khiến thực lực của ông gia tăng vượt trội trong một thời gian ngắn. Đó chính là những cơ sở đưa Nguyễn Ánh tới thành công.
Trước đây, Bá Đa Lộc(i) vẫn bị nhìn dưới con mắt thiếu thiện cảm vì người ta cho rằng sự tham gia của ông có manh tâm đưa đường cho thực dân vào chiếm nước ta. Bỏ ra ngoài lý do chính trị, những nỗ lực trong vấn đề kiến thiết và đường lối tổ chức theo khuôn mẫu Tây phương còn nhiều điểm phải đào sâu thêm ở những hướng mới.
Điều đáng nói là chính triều Nguyễn vì muốn nâng cao “thiên mệnh” cho vua Gia Long nên hầu như không muốn đề cập đến những điểm theo chốt này, coi những người Âu chỉ như một số “lính đánh thuê” chứ không phải như “cố vấn kỹ thuật”. Khi thành công, vua Gia Long chỉ trả ơn họ bằng chức tước bổng lộc chứ không hơn, nếu không nói rằng cố tình giam lỏng họ trong lớp áo lễ nghi phù phiếm của triều đình. Trong một thời gian ngắn, những người Âu bỏ đi gần hết. Do đó chúng ta biết về họ rất ít qua một số tường thuật mặt ngoài.
Cũng trong thời kỳ mà chúa Nguyễn đang nỗ lực canh tân, Nguyễn Quang Bình (
Nguyễn Huệ) lại vướng mắc vào cái vòng kim cô của Trung Hoa, từ giải trừ tính chính thống của Lê triều (cuộc chiến Thanh Việt 1788-9, cầu phong năm 1789 đến qua Bắc Kinh dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ năm 1790) sang việc làm nhiệm vụ của một phiên thuộc. Sau khi về nước, vua Quang Trung đã mau mắn thi hành những yêu cầu của nhà Thanh (sai Ngô Văn Sở làm thuỷ sư đô đốc tiễu trừ giặc bể) để chứng tỏ khả năng “vỗ an” phương Nam. Trong cùng một lúc, ông tung ra nhiều chiến dịch như đánh sang Lào, dẹp Lê Duy Chỉ, truy sát cướp biển … đồng thời dồn sức xây dựng kinh đô mới như để “khoe võ công” với Trung Hoa như triều Nguyễn nhận xét. (1)
Năm 1792, khi thấy chúa Nguyễn đột nhiên vươn lên thành một địch thủ đáng ngại, nhất là chỉ trong một trận thử lửa đã đốt sạch toàn bộ chiến thuyền của vua Thái Đức ở cửa Thị Nại,
Nguyễn Huệ mới tỉnh giấc vội vàng quay xuống đối phó với phương Nam. Trận hỏa công kinh hoàng đó đã khiến vua Thái Đức phải viết thư cầu cứu nên vua Quang Trung lập tức gửi hịch cho dân chúng thuộc vùng Quảng Ngãi để trấn an và thông báo việc đem quân chinh thảo.
Tuy nhiên, cơn bệnh thương hàn ngã nước – tái phát hay mới nhiễm sau khi thân chinh đánh sang Lào ?? – đã đưa ông đến cái chết khá mau chóng ở tuổi 39. Người kế vị ông Quang Toản không được như cha, triều đình lại chia ra nhiều phe phái, kẻ ủng Thùng, người ủng Trát(2), đánh giết lẫn nhau. Nhiều công thần lỗi lạc bị loại trừ đưa đến nạn ngoại thích Phạm Văn Hưng, Bùi Đắc Tuyên, Trần (Nguyễn?) Quang Diệu, Bùi Thị Xuân … thâu tóm quyền hành trong tay.
Tôi tự hỏi, nếu như Nguyễn Huệ nghe lời vua anh chỉ phát triển thực lực để làm chúa phương Nam, không đánh ra Bắc và tập trung nỗ lực vào việc loại trừ dư đảng nhà Nguyễn, thì vương triều kế tiếp sẽ là nhà Nguyễn Tây Sơn chứ không phải là Nguyễn Gia Miêu. Đúng như dự tính của Nguyễn Nhạc, vương triều Tây Sơn sẽ bành trướng thế lực sang Chân Lạp và Xiêm La, hình thành một quốc gia “tròn trịa” hơn, đất đai phì nhiêu hơn đóng vai một cửa ngõ quốc tế và nhất là không tiếp cận với Trung Hoa, tránh được những đe doạ trực tiếp từ phương Bắc.
a) Chiến dịch Việt – Thanh, hay đúng hơn trận đánh Tết Kỷ Dậu cần được xét đến dưới nhiều khía cạnh mới, trong đó sự can thiệp của Thanh đình có những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Chiến thắng năm ngày đó chỉ là một khúc nhạc dạo (prelude) mở đầu cho tương quan Thanh – Việt khắng khít năm năm kế tiếp cần nghiên cứu kỹ càng hơn.
Từ trước đến nay, việc ca tụng chiến thắng luôn luôn được ưa chuộng. Tuy nhiên, thắng lợi đó chưa hẳn đã mang lại những hậu quả tốt đẹp khi chúng ta lùi ra xa một chút để nhìn vấn đề cho được rộng rãi. Để được công nhận làm chủ nước Nam, vua Quang Trung phải tuân thủ những yêu cầu của nhà Thanh trong mô hình thiên triều – phiên thuộc. Cái danh vị “An Nam quốc vương” trở thành một hệ lụy nên trong suốt hai năm liền (1789-1790) triều đình Tây Sơn chỉ thuần túy lo việc nghi lễ cho phù hợp với tình hình mới. Mặt ngoài, vua Quang Trung được coi như một phiên thuộc (chư hầu) hàng đầu, bản thân
Nguyễn Huệ không khác gì một người con yêu của vua Càn Long nhưng nhìn vào đại thể, An Nam đã thành một hành tinh quay chung quanh mặt trời và cũng lún theo sự suy bại của Trung Hoa.
Càn Long
Giới nho sĩ miền bắc, trong tâm tư hướng về nhà Thanh trở thành cuồng nhiệt và hào hứng khi được “du học” Bắc Kinh. Tuy đã bị xoá mờ trong thời nhà Nguyễn, thơ văn về những chuyến “như Thanh” (sang nước Thanh) thời Tây Sơn vẫn chiếm một mực độ phong phú đáng ngạc nhiên so với các thời kỳ khác. Chính số lượng vượt trội về nhân sự và mật độ những chuyến đi trong thời kỳ triều Quang Trung khiến chúng ta phải đánh giá lại nhiều vấn đề, kể cả việc “Quang Trung thật, Quang Trung giả”.
Chỉ vài năm, liên hệ giữa nước ta và Trung Hoa đã lên đến đỉnh cao đưa tới việc
Nguyễn Huệ ướm lời cầu hôn một hoàng nữ(3) và
tự ý xin Thanh triều nâng cấp từ ba năm lên hai năm một lần triều cống,(4) một động thái ngoại giao đưa đến những hậu quả kèm theo. Trong gần một trăm năm triều Nguyễn, vì tuân thủ với qui chế này (Do TS đề nghị đời trước đó) đã làm nước ta hao tốn thêm bao nhiêu của cải chưa bao giờ được tính đến.(5)
b) Về cuộc đời vua Lê Chiêu Thống, đại diện cho sự bạc nhược sau khi hệ thống quyền lực của họ Trịnh tan rã. Lê triều sau cùng chỉ là một cây tầm gửi không đủ sức tự tồn. Khi đổ tội cho vua Lê làm tay sai, bán nước, người chép sử đã đơn giản hóa quá đáng một tình trạng chính trị phức tạp.
Thực ra, trong mô hình thiên triều – phiên thuộc, nước ta đối với Trung Hoa không chỉ hạn chế vào việc ủng hộ hay giúp đỡ một cá nhân mà dưới quan điểm vĩ mô, lợi và hại. Mục tiêu tối hậu của Thanh triều là một phương nam ổn định thần phục và tuân thủ những gì họ yêu cầu nên dù Lê Duy Kỳ,
Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh thì cũng không có gì khác.
Năm 1802, khi Nguyễn Ánh đang trên đà thắng thế vua Gia Khánh (TQ) đã không cho sứ giả của Nguyễn Quang Toản lên Bắc Kinh cầu viện để tránh một tình huống khó xử, cũng chẳng lên tiếng yêu cầu vua Gia Long cho phép thân nhân của Nguyễn Quang Bình được an tháp ở Trung Hoa như vua cha Càn Long từng cứu giúp Lê Duy Kỳ. Nếu vua Càn Long còn sống, có thể anh em vua Cảnh Thịnh cũng sẽ đi vào vết xe của vua Chiêu Thống và Tây Sơn cũng sẽ bị lên án nghiêm khắc còn tệ hơn cả triều Lê.
Một trong những điều kiện để viết sử cho “thực” là nếu nghiên cứu về một giai đoạn nào mà chúng ta lại có một hoàn cảnh tương đồng với thời đại đó thì cũng dễ thông cảm. Có điều ngày hôm nay, những người ra nước ngoài không đến nỗi phải tủi hổ như cổ nhân vì không phải “gióc tóc, đổi áo” mà vẫn có quyền tự do, muốn làm gì thì làm. Vậy mà sau nhiều năm chúng ta vẫn còn nghe tiếng oán hờn thì vua Lê và tòng vong chắc chắn không thể ít nước mắt.
Khi bị truy vấn về việc có liên lạc với trong nước để “phiến loạn”(6) hay không, vua Chiêu Thống đã khai rất mủi lòng:
" Duy Kỳ từ khi đến kinh đô, được ơn trời của đại hoàng đế, cho gia nhập vào kỳ binh, cho chức vụ bổng lộc. Duy Kỳ vì nhầm lẫn nghe lời Hoàng Ích Hiểu xin được an tháp ở Cao Bằng, Lạng Sơn các nơi đó đến nỗi bị cách cả chỏm mũ và đai (chức tước của nhà Thanh, phân biệt theo chỏm mũ và màu đai) cùng bổng lộc, bị cấm cố không cho đi đâu, do đô thống của chúng tôi (Lê Duy Kỳ bị nhập vào kỳ binh của đô thống) là Kim đại nhân (Kim Giản) quản thúc cực kỳ nghiêm mật.Những người được trả về An Nam đều khởi hành cách biệt, Duy Kỳ chưa từng được gặp họ bao giờ, cũng chẳng được biết việc họ được trở về An Nam thì làm thế nào mà lén lút dặn dò họ đưa tin về. Ðến như năm trước Duy Kỳ vì một lúc hồ đồ nghe lời Hoàng Ích Hiểu nên mạo muội trình xin, tới nay hối hận không kịp thì đâu còn dám vọng tưởng gì nữa. Việc Duy Kỳ ám thông tin tức hoàn toàn không có thật, chỉ mong minh sát cho".(7)
Trở lại với nghiên cứu về bang giao Thanh – Việt thời Tây Sơn, việc đặt trọng tâm quá cao vào trận đánh ở Thăng Long đã khiến cho sử quan của chúng ta mất công bằng. Cho đến nay, với tất cả những gì tôi đã biết, triều đình Quang Trung cũng phải đi theo những thông lệ mà nước ta phải chấp nhận: thần phục làm phiên thuộc trong khung cảnh “thờ nước lớn” như mọi triều đại khác.
Liệt kê lại diễn tiến tái lập hòa bình, việc bang giao giữa Trung Hoa và Đại Việt được tiến hành sớm và nhanh chóng vì cả hai đều có nhu cầu xích lại gần nhau: vua Quang Trung cần giải quyết vấn đề chính danh để lo nội trị, đối phó những đe dọa từ phía Tây và phía Nam, Thanh triều cũng cần có một phiên thuộc gần gũi để đáp ứng được mong đợi là một phiên vương đích thân sang chúc thọ vua Càn Long năm 80 tuổi.
Trong khi phái đoàn Nguyễn Quang Hiển lên Bắc Kinh nhận sắc ấn thì sứ thần nhà Thanh thúc giục triều đình Tây Sơn chuẩn bị làm lễ phong vương. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử mà sứ thần Trung Hoa phải chờ ở Nam Quan để nghe ngóng tin tức, lại phải trì hoãn nhiều lần vì
Nguyễn Huệ bị bệnh bất ngờ không ra kịp, đưa đến những câu hỏi còn lưu lại đến ngày nay.
Chú thích :
(1) Nguyễn Huệ theo đề nghị của Ngô Thì Nhậm áp dụng chính sách “hộ khẩu”, bắt dân đeo tín bài. Chính sách này được bãi bỏ khi vua Cảnh Thịnh lên nối ngôi.
(2) Nguyễn Quang Thùy được gọi nôm na là ông hoàng Thùng, Nguyễn Quang Toản là ông hoàng Trát mà có người cho rằng chính là Trớt vì ông ta có môi trề.
(3) Theo nội dung các lá thư của vua Quang Trung thì quả ông có ý nhắm đến một công chúa nhà Thanh nhưng có lẽ ông không biết rằng khi đó vua Càn Long không còn một người con gái nào chưa gả chồng.
(4) Triều Lê, nước ta ba năm một lần triều cống Trung Hoa, sáu năm gộp hai lần làm một cho người đem sang. Từ năm Quang Trung thứ 5, lệ thay đổi thành hai năm một lần, bốn năm sai sứ đem sang.
(5) Theo các văn thư chính thức thì ngày mồng 2 tháng Năm Càn Long 57 (1792), trước khi qua đời chừng vài tháng
Nguyễn Huệ đã tâu lên xin đổi lệ triều cống. Cống vật của nước ta trước đây là: Lư hương bằng vàng, bình hoa bốn cái tất cả tổng cộng nặng 209 lượng. Vàng vụn 21 thoi (mỗi thoi 10 lượng). Chậu bằng bạc 12 cái, nặng tổng cộng 691 lượng. Bạc vụn 69 thoi (690 lượng). Trầm hương 960 lượng. Tốc hương 2368 lượng. Trong văn thư trả lời chấp thuận, nhà Thanh không nói gì đến việc thay đổi số lượng và tra trong điển lệ đời Nguyễn, danh số mỗi lần triều cống vẫn giữ nguyên.
(6) Phiến loạn (扇亂) nguyên nghĩa là quạt bùng lên để gây rối
(7) An Nam Đáng, tài liệu 3 (bản dịch NDC). Văn Hiến Tùng Biên (Đài Bắc, Quốc Phong, 1964) tr. 412
Một cơ duyên may mắn hết sức kỳ lạ là tôi mua được trong hàng sách cũ một bộ Encyclopedia Brittannica in lần thứ nhất trùng thời với những kiến thức mà giám mục Pigneau đem về cho chúa Nguyễn. Vua Quang Trung và chiến mã...
khoavanhoc-ngonngu.edu.vn