Cánh đồng ma Pursat:
Cuối mùa mưa 1983, có lẽ khoảng tháng 10 hay tháng 11. Lúc này cuộc chiến đã rời về phía biên giới Campuchia - Thái lan. Các tỉnh giáp VN và trong nội địa đã im tiếng súng. Dân Kh'mer dần dần ổn định cuộc sống. Một số nhỏ dân chúng thường đi tìm những hố chôn người tập thể thời Polpot đào lên tìm vàng. Vàng ở đây là răng vàng, trang sức còn sót lại hoặc giấu được...
Một buổi sáng, ông chánh văn phòng của BNG Campuchia đến SQ xin gặp chú NĐ. Họ thông báo : Dân ở tỉnh Pursat có tìm được vài hố chôn tập thể ở một cánh đồng gần tỉnh lỵ. Em nhớ hôm đó là thứ 6 hoặc thứ 7.
Ngay lập tức một kế hoạch tuyên truyền được vạch ra. Thông báo với tất cả các nhà báo và tổ chức quốc tế đang làm việc tại Campuchia ( lúc đó có rất nhiều tổ chức phi chính phủ đang làm công tác cứu trợ tại Campuchia). Mời toàn bộ các sứ thần tại Campuchia đi tham quan ( chủ yếu là đại sứ các nước XHCN như Liên xô, Đức, Hung, Cu ba, Lào...)
Và sáng sớm chủ nhật một đoàn xe vài chục chiếc rời Phnom Penh tiến về Pursat. Vì chú NĐ cũng ở trong đoàn, nên em cũng khoác bộ quân phục lính Heng Somrin lên đường.
Pursat là một tỉnh nhỏ nằm cách Phnom Penh hơn 200 km về phía tây bắc. Thời Polpot nơi đây cũng là nơi có trại tập trung, Polpot gọi là "Công xã" bắt dân thành phố làm thủy lợi, trồng lúa...
Do đường xá cũng đã được tu sửa lại nên chỉ buổi trưa mọi người đã đến nơi. Hơn một đại đội lính cảnh vệ của đoàn 478 đã đến từ trước với hơn chục xe bọc thép M113. Họ bố trí cảnh giới rất chu đáo và nghiêm túc. Thấy tình hình vậy em cũng yên tâm và không cần thiết phải bám sát mục tiêu. Đoàn xe tập kết trên một con lộ, chạy dọc theo con lộ là một cánh đồng lúa lớn. Toàn bộ gần 2 chục ngôi mộ tập thể đều nằm trên cánh đồng này. Mỗi ngôi mộ đều có trên dưới chục người dân đang tiếp tục đào bới. Những chiếc xe bọc thép ghé vào sát ven lộ để chở các quan chức và phóng viên ra khu vực mộ để quay phim, chụp ảnh... Mấy chiếc xe lội đi lội lại trên ruộng bùn mấy chuyến mới chở hết người cần ra.
Gần mỗi ngôi mộ dân đốt một đống lửa lớn chắc để xua tan tử khí. Dù vậy em vẫn cảm thấy khu vực này rất lạnh lẽo, âm u. Có lẽ do cảm giác thôi. Vì vậy em cũng không leo lên xe để ra tận nơi như mọi người. Đưa mắt nhìn quanh quẩn em thấy một ngôi nhà nhỏ bên phía đường bên này, ngôi nhà nằm cách đường khoảng 50 m trong một khu vườn có mấy cây dừa, xoài và vú sữa. Nghĩ bụng các cụ còn ngắm nghía lâu, sau đó lên bờ có khi còn tổ chức họp báo tại chỗ ( vì mấy ông lính 478 đang dựng một cái lều bạt lớn). Em liền đi vào khu vườn có căn nhà nhỏ. Chắc chắn có dân ở đó vừa ngồi nghỉ vừa luyện tiếng Kh'mer. Giữa vườn là một ngôi nhà sàn cũ kỹ với cái cầu thang gỗ ọp ẹp. Em leo lên cầu thang và gọi :
- Xin chào, có ai ở nhà không ?
Nhìn thấy trước hiên nhà có một dẫy gáo dừa hơn chục cái, cái nào cũng có ít cơm, có cái đựng nước như nước gạo. Một lúc từ trong nhà bước ra một cụ ông khoảng trên dưới 60 tuổi. Thấy em mặc quân phục Heng Somrin đeo khẩu súng ngắn, ông cụ liền chắp tay cúi chào :
- Chào ông lớn.
- Không phải ông lớn. Bộ đội tình nguyện VN. Cụ có nước uống cho bộ đội xin một ly.
Ông cụ không nói gì, đi vào trong nhà lấy ra một cái ấm nhôm đen sì và một cái ca quân dụng và rót nước mời em.
Vừa uống nước em vừa hỏi chuyện:
- Mọi người trong nhà đi làm hết rồi ạ ? Gia đình mình ở đây lâu chưa ? Nhà có bao nhiêu người ?
Nhìn anh " cong tóp VN" mặt mũi cũng hiền lành, cụ già bớt vẻ nghi ngại trả lời:
- Nhà chỉ có mình tôi. Hồi xưa nhà tôi ở đây. Khi thằng Polpot vào thì mỗi người đi một ngả. Giờ chỉ còn một mình, những người khác không biết sống hay chết mà chưa thấy quay về.
- Cụ về đây được mấy năm rồi ?
- Tôi về từ năm 1980 và ở đây từ ngày ấy đến giờ.
- Vậy mà cụ không biết ngoài kia có những hố chôn người à ?
- Tôi biết chứ. Họ thường vào đây xin cơm xin nước hàng đêm. Có cả trẻ con nữa.
Nghe cụ già nói em cũng dựng tóc gáy hỏi lại :
- Cụ nói những người chết ngoài kia à ?
Cụ già thủng thẳng đáp :
- Đúng vậy. Ở Campuchia khi chết thì hỏa thiêu và đưa lên chùa. Ở đó họ được nhà chùa cho ăn uống. Còn ở đây họ vất vưởng không có gì ăn. Hàng đêm họ kéo nhau vào đây xin ăn.
Cụ chỉ tay vào những cái gáo dừa xếp thành hàng trên sàn.
- Đấy, ngày nào tôi cũng đặt cơm nước ở đó cho họ và cả một ít sữa cho trẻ con nữa.
- Sao cụ biết họ đến xin ăn ?
- Đêm nào họ cũng gào khóc từ nửa đêm đến sáng. Tôi nghe được, từ khi có cơm nước thì họ không khóc nữa. Chỉ lặng lẽ đến và đi. Chú không tin thì ngủ lại đây một đêm với tôi.
- Cụ có nhìn thấy họ không ?
- Chưa bao giờ nhìn thấy. Nhưng mùa mưa thì thấy vết chân của họ đi lên. Họ lội ruộng đi lên cầu thang, sáng ra cầu thang vẫn dính vết chân bùn của họ, cả vết chân trẻ con.
Cụ già thấy mặt em lộ vẻ nghi hoặc liền kéo tay em ra cầu thang chỉ vào những vết bùn đã khô trên cầu thang.
- Đấy vết chân họ về đêm qua đó.
Nhìn kỹ thì cũng có vẻ giống vết chân, lúc nãy đi lên em không để ý. Vết chân từ cầu thang đi đến mấy cái gáo dừa là hết. Xung quanh không còn vết bùn nào khác.
- Vậy bây giờ đào họ lên hết thì họ còn ở đây không cụ ?
- Nếu hỏa táng tất cả rồi đưa lên chùa thì hết. Còn không thì họ sẽ ở đây mãi mãi dù xương cốt họ chuyển đi đâu.
Không muốn tiếp tục mạch chuyện âm u với cụ già. Em chuyển sang hỏi thăm cuộc sống của cụ thời Sihanouk, thời Lon nol...
Ngồi chém gió hơn 1h em quay ra. Các quan chức đã vào bờ và đang uống nước trong lều bạt. Ngoài kia cánh nhà báo vẫn chụp choẹt và phỏng vấn những nông dân đào bới.
Một chiếc M113 nổ máy chuẩn bị ra đón người vào. Em liền nhảy lên ra xem thế nào ? Đến một ngôi mộ gần nhất có mấy cậu phóng viên SPK (TTX Campuchia) mấy cậu này quen em từ 1978 tại tu viện Đa Minh - Thủ Đức. Em hỏi :
- Mộ này có khoảng bao nhiêu người ?
- Gần 3 chục người chú ạ.
- A, ông cháu hôm nay cũng xuống đây à ?
- Cháu đang đi tập làm mấy cái phóng sự ảnh.
Rồi chỉ tay về phía đống xương sọ chất bên miệng hố, ông cháu nói :
- Hố này có cả trẻ con. Chú nhìn kìa cái sọ bé tẹo.
Em bỗng rùng mình nghĩ tới lời cụ già trong nhà sàn.
Em cùng ông cháu phóng viên leo lên xe về bờ. Ông cháu nói :
- Lâu lắm mới lại gặp chú. Chú cháu mình chụp tấm ảnh kỷ niệm.
Ông cháu vác cái máy ảnh ra loay hoay một hồi. Rất tiếc là ảnh hỏng hết. Vài hôm sau ông cháu đưa cho một tấm này