Tổng trấn Gia Định Nguyễn Văn Nhơn và khu mộ cổ ở Sa Đéc ( Đồng Tháp)
Danh tướng Nguyễn Văn Nhơn
Nguyễn Văn Nhơn 阮文仁 (1753-1822) là công thần thời Nguyễn sơ, thờ 2 đời vua Gia Long, Minh Mạng. Người làng Tân Đông, tổng An Thạnh, huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang (làng Tân Đông nay thuộc Thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp). Tên thật là Nguyễn Văn Sáng, còn gọi là Sen, tước Thái bảo Quận công, thuỵ Trung Cẩn. Cao Hoàng đế (Gia Long) sắc ban tên là Nhơn, từ đó sách sử và dân gian thường gọi là Nguyễn Văn Nhơn. Nguyễn Văn Nhơn có con trai là Nguyễn Văn Thiện làm Phò mã của Công chúa Ngọc Khuê con gái thứ 12 của vua Gia Long và con gái là Nguyễn Thị Trọng gả làm Lệnh phi của vua Thiệu Trị.
Tổ tiên Nguyễn Văn Nhơn vốn sống ở Cửa Hàn (nay là cửa khẩu Đà Nẵng), theo Nguyễn Ánh vào Nam ở dinh Trấn Biên, thôn Bình Chánh (nay thuộc Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai), sau đó lập quê quán tại làng Tân Đông. Cha Nguyễn Văn Nhơn là Nguyễn Văn Quang (1705-1764) có 3 bà vợ, Nguyễn Văn Nhơn là con trai thứ 2 của bà vợ thứ 2.
Nguyễn Văn Nhơn chính thức bắt đầu binh nghiệp từ năm Giáp ngọ 1774 lúc mới ngoài 20 tuổi. Ông đem 4 đội binh mã theo Tống Phước Hiệp (Trấn thủ Long Hồ) và Nguyễn Khoa Thuyên (giữ chức Cai bạ), được cho giữ chức Đội trưởng, đóng tại xứ Vân Phong, chống quân Tây Sơn đang chiếm đóng xứ Xích Lam thuộc Biên Hoà. Năm Bính thân 1776, sau khi theo Tống Phước Hoà đánh thắng Tây Sơn tại Gia Định, Nguyễn Văn Nhơn được phong chức Cai đội. Sau khi Tống Phước Hoà tử trận (1777), Nguyễn Văn Nhơn theo Dương Công Trừng khởi nghĩa tại Sa Đéc hưởng ứng công cuộc khởi binh của Nguyễn Ánh tại Long Xuyên (khu vực Cà Mau hiện nay). Ông lập nhiều chiến công lớn nên 1 năm sau đó được thăng chức Cai cơ. Năm Nhâm dần (1782), Nguyễn Văn Nhơn bị Tây Sơn bắt tại Thủ Thiêm. Ba năm sau ông trốn thoát sang Xiêm tìm chúa Nguyễn, dọc đường gặp người của chúa sai về, ông liền trở lại khởi binh chiếm giữ Long Xuyên (Cà Mau). Thời gian sau đó, Nguyễn Văn Nhơn nhiều lần lập chiến công lớn, hợp lực đánh chiếm và đóng giữ nhiều vùng đất khác như Phú Yên, Diên Khánh…, được chúa Nguyễn ngợi khen, tin tưởng. Sau khi lấy lại được Gia Định, ông được thăng Vệ uý hữu tiệp Trung quân thuỷ dinh kiêm lãnh Hữu thuận chi, Lưu thủ dinh Trấn Biên kiêm lãnh Trung quân dinh hữu chi Hiệu uý. Trong thời gian tại chức, Nguyễn Văn Nhơn đã gia công đọc sách, học hỏi và áp dụng cách trị dân của người xưa, giúp vùng Trấn Biên trở nên an ninh, trù phú. Dân chúng ngưỡng mộ gọi ông là Quan lớn Sen.
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long phong Nguyễn Văn Nhơn làm Chưởng chấn võ quân, tước Nhơn Quận công, giữ chức Lưu trấn Gia Định trấn đến năm 1805. Năm Gia Long thứ 7 (1808), đổi trấn Gia Định ra thành Gia Định, lệnh Khâm sai chưởng Chấn võ quân Nhơn Quận công Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng trấn, Khâm sai Thượng thư bộ Hộ An toàn hầu Trịnh Hoài Đức làm Hiệp tổng trấn, đồng thời ban cho ấn bạc có núm hình sư tử, được dùng mực son. Như vậy, Nguyễn Văn Nhơn là Tổng trấn đầu tiên của thành Gia Định. Ông làm Tổng trấn đến năm 1813 thì bàn giao cho Lê Văn Duyệt. Đến năm 1819-1820, ông được cử làm Tổng trấn thành Gia Định lần thứ 2.
Ngoài tài năng quân sự, Nguyễn Văn Nhơn còn có nhiều đóng góp về giáo dục, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và một số lĩnh vực khác… Đặc biệt ông là người có tư tưởng cải cách. Cuối năm 1802, sau khi vua Gia Long bình định xong Bắc Hà, Nguyễn Văn Nhơn dâng sớ điều trần gồm 14 điều xin chấn chỉnh, cải cách nhiều lĩnh vực quan hệ đến quốc kế dân sinh như thuế khoá, giáo dục, khoa cử, phong tục… Các điều ông đưa ra, vua đều cho thi hành.
Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Nguyễn Văn Nhơn được triệu về kinh, cùng Trịnh Hoài Đức, Phạm Đăng Hưng được sung chức Tổng tài Quốc sử quán, coi chép bộ Liệt thánh thực lục. Đại Nam thực lục chép về việc này như sau: “Năm Minh Mạng thứ 1 (1820) xuống chiếu tìm sách vở sót, năm thứ 2 mở đặt Sử quán, sai quan vâng chép bộ Liệt thánh thực lục, chia làm Tiền biên và Chánh biên. Lại đặc biệt sai văn võ đại thần là bọn Nguyễn Văn Nhân (Nhơn), Trịnh Hoài Đức, Phạm Đăng Hưng, sung chức Tổng tài, soạn chép từng thời, theo năm ghi việc, tìm nhặt sử cũ, mà ý nghĩa thể lệ đều định đoạt do thánh tâm. Mấy lần sử biên chép dâng trình, vâng theo quyết định, cho nên phép tắc đã rõ rệt, điều mục đã phân minh, nhưng đã tinh còn muốn tinh hơn, đã tường còn muốn tường nữa, thánh tâm vẫn mong chờ như thế.”(1) Nguyễn Văn Nhơn sinh ra và lớn lên vào thời loạn lạc, trưởng thành lại theo nghiệp binh đao phò chúa, không được học hành nhiều. Mãi đến khi làm Lưu thủ Trấn Biên, lúc này đã hơn 40 tuổi, ông mới có thời gian trau dồi chữ nghĩa. Tuy học muộn, không trải qua khoa cử, nhưng chắc chắn ông rất thông minh và chuyên cần, đạt được thành tựu rất cao trong học tập, nên được vua tin cậy giao cho việc chép sử. Tiếc là chỉ một năm sau thì ông qua đời.
Xót thương vị danh thần, vua Minh Mạng bãi chầu 3 ngày, ngự giá đến ban rượu tế và câu đối: 望閣効從龍,直把丹心懸日月; 春城悲去鶴,猶畱正氣作山河 Vọng Các hiệu tùng long, trực bả đan tâm huyền nhật nguyệt; Xuân Thành bi khứ hạc, do lưu chính khí tác sơn hà = “Vọng Các quyết phò vua, mãi rạng lòng son trong trời đất; Thành Xuân buồn mất hạc, vẫn còn nghĩa khí khắp non sông.” Di hài Nguyên Văn Nhơn được đưa về Gia Định an táng. Vua còn ban tự điền, bổng lộc; truy tặng tước (Kinh môn Quận công), cải thuỵ (Mục Hiến); cho thờ ở Thế miếu và Trung hưng công thần miếu. Người dân cũng rất ngưỡng mộ tính cách, tài năng và công trạng của Nguyễn Văn Nhơn. Họ đưa bài vị ông vào phối thờ ở đình Tân Đông, xem ông như vị thần bảo hộ, đến nay vẫn khói hương không dứt. Trong vùng có rạch Sa Nhơn 砂仁 nhưng người dân kiêng huý Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn nên đọc trại thành Sa Nhiên(2).
Khu mộ cổ: Di sản Hán Nôm và những nhân vật liên quan
Khu mộ cổ hiện nằm trong vườn nhà ông Nguyễn Văn Tám (ông Tám Kinh, hậu duệ đời thứ 5 của Nguyễn Văn Nhơn), số 77 đường Chùa, ấp Đông Huề, xã Tân Khánh Đông, Thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Lăng mộ lúc đầu hợp táng gần tả ngạn sông Tiền, qua thời gian dài đất dần bị lở gần đến lăng, nên sau đó được dời đến vị trí hiện tại, khánh táng vào ngày 17 tháng 3 năm Canh dần (1920). Khu mộ gồm 6 lăng mộ lớn và một số mộ nhỏ, trong đó lăng mộ lớn nhất an táng vợ chồng Nguyễn Văn Nhơn, số còn lại an táng người thân của ông gồm cha, con, cháu… Trong các lăng mộ còn bảo lưu một số văn bản Hán Nôm gồm 1 bài vị (chưa kể 1 bài vị chữ Quốc ngữ), 7 bia mộ và 5 câu đối.
Nơi lăng mộ Nguyễn Văn Nhơn có hai bài vị gỗ, một chép chữ Hán, một chép chữ Quốc ngữ. Bài vị chữ Hán: 欽差掌右軍贈翊運同德功臣特進輔國上將軍上柱國太保仁郡公賜謚忠謹阮公尊靈蓮臺座位 “Bài vị đặt trên đài sen thờ Tôn linh Nguyễn Văn Nhơn, chức Khâm sai Chưởng hữu quân, tặng Dực vận Đồng đức công thần, đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân thượng trụ quốc, Thái bảo Nhơn Quận công, ban tên thuỵ Trung Cẩn”. Bài vị chữ Quốc ngữ: “Tổng trấn Gia Định thành Tả vận Trung hưng công thần đặc tấn Tráng võ tướng quân Hữu quân Đô thống phủ Chưởng chấn võ quân Dực vận Đồng đức công thần đặc tấn Trụ quốc Thượng tướng quân Thượng trụ quốc Chưởng phủ sự Thái tử Thái bảo Kinh môn Quận công NGUYỄN VĂN NHƠN thuỵ Mục Hiến thượng đẳng thần 1753-1822”. Bài vị chữ Quốc ngữ có nội dung tương tự cũng được thờ tại đình Tân Đông ấp Đông Quới cùng xã (đình thờ Bổn Cảnh Thành Hoàng, phối thờ Nguyễn Văn Nhơn).
Bia mộ thứ nhất (mộ Nguyễn Văn Nhơn): 皇越掌右軍郡公贈太保阮公之墓 “Mộ ngài Chưởng hữu quân Quận công, tặng tước Thái bảo Quận công”. Bia mộ thứ hai (mộ phu nhân ông Nguyễn Văn Nhơn): 皇越掌右軍郡公贈太保夫人之墓 “Mộ bà phu nhân ngài Chưởng hữu quân Quận công tặng tước Thái bảo Quận công”. Bia mộ Nguyễn Văn Nhơn chỉ ghi chức tước là Chưởng hữu quân Thái bảo Quận công cho thấy bia mộ có thể được lập ngay sau khi mất hoặc muộn nhất là trước khi Nguyễn Văn Nhơn được vua Minh Mệnh truy tặng tước Kinh môn Quận công, cải thuỵ Mục Hiến, tức là trước năm Nhâm thìn 1832. Bài vị chữ Hán nói trên có lẽ cũng được lập trước năm này vì trong đó chỉ ghi tên thuỵ Trung Cẩn. Gia phả có chép bài mộ chí chữ Hán của Nguyễn Văn Nhơn viết năm Canh thìn 1820 nói về cha mẹ, anh em cùng việc được truy tặng, ban thưởng sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi.
Bia mộ phu nhân ông Nguyễn Văn Nhơn không ghi rõ họ tên, tước hiệu. Nguyễn Văn Nhơn có tất cả 12 bà vợ, trong đó 5 bà không sinh con. Trong số 7 bà vợ có sinh con với ông chỉ có 1 người được phong tước phẩm Phu nhân là bà chánh thất Nguyễn Thị Kim (?-1852), những người còn lại được phong Cung nhân, Đoan nhân. Bà Nguyễn Thị Kim được phong Chánh Nhất phẩm Phu nhân, thuỵ Trinh Liệt.
Bia mộ thứ ba (mộ Nguyễn Văn Đức): 皇阮驃騎都尉德潤候諱儼字德之墓 “Mộ ông Phiêu kỵ Đô uý Đức Nhuận hầu, tên huý là Nghiễm, tên tự là Đức”. Bia mộ thứ tư (mộ phu nhân ông Nguyễn Văn Đức): 皇阮驃騎都尉德潤候阮候正室誥封郡君諱玉端之墓 “Mộ bà chánh thất ông Phiêu kỵ Đô uý Đức nhuận hầu họ Nguyễn, cáo phong Quận quân, tên huý là Ngọc Đoan”. Hai bia mộ này do cháu ngoại ông Nguyễn Văn Đức (1791-1886) là Nguyễn Thành Gia lập nhân dịp trùng tu năm 1920, lạc khoản ghi rõ: 庚申年叁月拾柒日重修,外孫帮佐副縂阮成家拜立 “Trùng tu ngày 17 tháng 3 năm Canh thân (1920), cháu ngoại là Bang tá Phó tổng Nguyễn Thành Gia kính lập.” Nguyễn Văn Đức thuộc đời thứ 6 (kể từ Đôn Hậu phủ quân), con trai cả của Nguyễn Văn Nhơn với bà vợ thứ Trần Thị Xuân (1774-1857). Gia phả có chép bài văn chữ Hán của Nguyễn Văn Đức viết năm Tự Đức thứ 6 (1853) nói về cha mẹ, anh em và các bà vợ khác của cha. Phu nhân ông tên Nguyễn Thị Ngọc Đoan, tên chữ là Tịnh, tên thuỵ Nhu Thục, tước phẩm Quận quân. Trước nay tên bà bị con cháu trong dòng họ chép và đọc nhầm thành [玉]瑞 “[Ngọc] Thuỵ”, do tự dạng gần giống. Về niên canh bà Ngọc Đoan, thần chủ tại nhà thờ ghi sinh năm Kỷ dậu, mất năm Mậu thìn. Đối chiếu với năm sinh ông Nguyễn Văn Đức, năm Kỷ dậu ở đây là 1789, năm Mậu thìn là 1868, tức là bà Ngọc Đoan lớn hơn chồng 2 tuổi, mất trước chồng 18 năm, thọ 80 tuổi.
Nói thêm về chức Phiêu kỵ Đô uý của Nguyễn Văn Đức: Mở đầu bài viết của mình, Nguyễn Văn Đức tự xưng “Phiêu [驃] kỵ Đô uý”; khoảng giữa bài viết có nhắc lại chức này một lần nữa. Nhưng trong gia phả, mục đời thứ 6 chép “Nguyễn Văn Đức […] nhận chức Kiêu [驍] kỵ Đô uý Phấn dũng tướng quân khinh quân uý”. Có sự không thống nhất giữa gia phả với bài viết của Nguyễn Văn Đức. Vào đời Trần, chỉ có Hoàng tử mới được đảm nhiệm chức Phiêu kỵ, cho thấy đây là chức vụ vô cùng đặc biệt. Chưa rõ quan chế nhà Nguyễn chức vụ này có gì thay đổi, nhưng cũng khó có khả năng ban cho ông Đức. Một cứ liệu đáng tin cậy hơn, trong sắc phong của vua Gia Long ban ngày 13 tháng 8 năm thứ 16 (1817) ghi chức vụ của Nguyễn Văn Đức là “Kiêu kỵ Đô uý”. Đương nhiên, sắc phong của vua có độ tin cậy cao hơn. Vậy chắc chắn Nguyễn Văn Đức không phải được phong chức Phiêu kỵ, chưa rõ vì sao ông lại ghi cho mình chức ấy, chắc do viết nhầm chăng? Đến khi Nguyễn Thành Gia lập bia mộ, có lẽ căn cứ vào bài viết của ông Đức mà ghi lại như trên.
Bia mộ thứ năm không ghi tên cụ thể mà chỉ ghi chức tước: 皇越贈掌奇阮矦之墓 “Mộ ông Chưởng cơ họ Nguyễn, phong tước Hầu”. Đọc gia phả, chúng tôi thấy trong gia tộc Nguyễn Văn Nhơn chỉ có một người được ban chức Chưởng cơ, tước Hầu: 第四世顯曾祖考光進鎭國大將軍錦衣衞掌衞事掌奇明德候謚威勇諱光號明府君 “Ông tằng tổ Quang, tiến Trấn quốc đại tướng quân Cẩm y vệ Chưởng vệ sự Chưởng cơ, tên thuỵ Uy Dũng, tên huý Quang, tên hiệu Minh(3), tước Minh đức hầu”. Đây là ông Tổ đời thứ tư (kể từ Đôn Hậu phủ quân, thế kỷ 17), cũng chính là thân phụ của Nguyễn Văn Nhơn, tức Nguyễn Văn Quang. Theo bài mộ chí do Nguyễn Văn Nhơn viết, sinh thời Nguyễn Văn Quang còn giữ chức Đội trưởng Cai đội. Về thời điểm Nguyễn Văn Quang được phong tước, bài mộ chí chép: 及克復嘉定之後,帝委以留鎮之用。定鼎初酬功進爵,追贈三代,於先考贈是爵 “Sau khi lấy được Gia Định, vua cho ta làm Lưu trấn. Định ngôi khen thưởng tổ tiên ba đời, Tiên khảo được ban tước ấy.” Trước khi làm Tổng trấn thành Gia Định, Nguyễn Văn Nhơn từng có thời gian làm việc ở nơi này: năm 1797 lãnh việc vận lương (kiêm việc ở Hộ bộ), năm 1802-1805 giữ chức Lưu trấn. Thời điểm “định ngôi khen thưởng” nói trên diễn ra sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802, thời điểm này cũng phù hợp với lúc Nguyễn Văn Nhơn làm Lưu trấn Gia Định. Điều này cho thấy Nguyễn Văn Quang được truy tặng tước Hầu sau khi qua đời ít nhất 38 năm.
Bia mộ thứ sáu: 皇越贈掌奇阮矦夫人之墓 “Mộ phu nhân ông Chưởng cơ họ Nguyễn phong tước Hầu”. Đây là bia mộ phu nhân ông Nguyễn Văn Quang. Bà tên huý Thị Áo (1716-1797), thuỵ Trinh Thục, lấy chồng năm 20 tuổi, giữ vẹn đạo tòng phu. Từ khi Nguyễn Văn Quang qua đời, bà một lòng thủ tiết, nuôi dạy con cái nên người. Bà mất vì bệnh tại làng Tân Đông.
Bia mộ thứ bảy bị mất mấy chữ cuối: 皇朝襲廕飛騎尉該隊… “[Mộ ông]… tập ấm chức Phi kỵ uý Cai đội”. Đây là phần mộ ông Nguyễn Văn Vĩnh (?-1894) đời thứ 8 kể từ Đôn Hậu phủ quân, gọi Nguyễn Văn Nhơn là tằng tổ (ông cố nội). Nguyễn Văn Vĩnh, tên tự là Thuật, con trai đầu của Nguyễn Văn Chân (1813-1883, tên tự là Cư, Minh nghĩa Đô uý Phó quản cơ, tước Kinh môn bá, thuỵ Tráng Dực) với người vợ thứ Trần Thị Kiều (còn gọi là Nga). Ông Vĩnh được tập ấm chức Phi kỵ uý Cai đội và Võ công Đô uý hộ quân hiệu, tước Kinh môn tử, thuỵ Tráng Nhuệ. Vợ ông là người tôn thất, tên Tôn Nữ Thị Thiện (1847-1903), con gái Chánh sứ Hộ lăng Tôn Thất Trụ, phong Tứ phẩm Cung nhân. Con cháu trong dòng họ cho biết, mộ ông Vĩnh được cháu nội và chắt nội ông xây lại vào tháng 4 năm 1992, bia mộ chữ Hán vẫn được bảo tồn nguyên dạng như trên, đồng thời dựng thêm bia mộ chữ Quốc ngữ ở phía sau mộ ghi rõ họ tên, chức tước, ngày tháng năm mất và người lập bia.
Ngoài 6 bia mộ trên, khu mộ cổ còn có một số câu đối chữ Hán. Trước mỗi lăng mộ đều có 1 câu đối, tổng cộng 5 câu. Chúng tôi giới thiệu câu đối ở lăng mộ Nguyễn Văn Nhơn: 不朽勲名留故國;無窮載月奠新阡 Bất hủ huân danh lưu cố quốc; Vô cùng tải nguyệt điện tân thiên = “Nước xưa muôn đời lưu danh tiếng; Mồ mới ngàn năm vững đất trời.” Nội dung câu đối ca ngợi tài đức, công ơn của danh tướng Nguyễn Văn Nhơn, nói lên lòng ngưỡng vọng của người đới đối với vị tướng trung dũng, đồng thời cũng nói về việc chuyển dời lăng mộ từ vị trí cũ sang vị trí mới, điều này cho thấy câu đối này được viết năm 1920. Về văn tự cần đính chính rằng, qua quá trình trùng tu, vế thứ nhất (bên phải) của câu đối này bị làm lại sai hai chữ do nhầm lẫn về tự dạng: chữ thứ nhất (chữ 不 “bất” bị làm sai thành 衣 “y”) và chữ thứ năm (chữ 留 “lưu” bị làm sai thành 宙 “trụ”).
Khu mộ cổ ở Sa Đéc là nơi lưu giữ dấu ấn của danh tướng Nguyễn Văn Nhơn, một trong những người có công giúp Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn dựng nên đại nghiệp, cùng một số nhân vật khác là cha, vợ, con, cháu của ông; cũng là nơi gìn giữ, phát huy truyền thống đáng tự hào của gia tộc họ Nguyễn. Điều đáng mừng là khu mộ cổ được các thế hệ con cháu quan tâm bảo quản, tôn tạo hàng năm. Các bia mộ, bài vị đều được giữ gìn trọn vẹn, chữ viết sắc sảo còn đọc được rất rõ ràng. Các câu đối cũng đều được sơn phết lại qua những đợt trùng tu, nền đỏ chữ đen rất nổi bật. Nhưng cũng có điều đáng tiếc là hai điểm nhầm lẫn khi con cháu đọc gia phả và trùng tu khu mộ mà chúng tôi đã nói trên: tên bà [Ngọc] Đoan bị chép và đọc nhầm thành [Ngọc] Thuỵ; hai chữ Hán trong câu đối ở lăng mộ Nguyễn Văn Nhơn bị làm sai trong quá trình trùng tu. Hy vọng qua bài viết này, hai điểm nhầm lẫn trên sẽ sớm được khắc phục.