- Biển số
- OF-806509
- Ngày cấp bằng
- 4/3/22
- Số km
- 3,197
- Động cơ
- 193,895 Mã lực
TỪ CUỘC XUNG ĐỘT NGA - UKRAINE NHÌN LẠI LỊCH SỬ QUAN HỆ HAI NƯỚC
I. BỐI CẢNH ĐỊA LÍ
1. Vị trí địa lí
Ukraine là quốc gia thuộc khu vực Đông Âu có diện tích 603.700km2, lớn thứ hai ở châu Âu; thủ đô là Kyiv (tiếng Nga là Kiev); dân số hiện nay là khoảng 50 triệu người. Các khu vực hành chính có 24 vùng, 1 nước cộng hòa tự trị1, 2 thành phố tương đương vùng2 (gồm: Cherkaska, Chernihivska, Chernivetska, Dnipropetrovska, Donetska, IvanoFrankiv-ska, Kharkivska, Khersonska, Khmelnytska, Kirovohradska, Kyiv, Kyyivska, Luhanska, Lvivska, Mykolayivska, Odeska, Poltavska, Cộng hòa tự trị Crimea, Rivnenska, Sevastopol, Sumska, Ternopilsk, Vinnyts, Volinska, Zakarpatska, Zaporizka, Zhytomyrska).
Ukraine giáp với Nga về phía Đông và phía Bắc, giáp với Belarus về phía Bắc, giáp với Ba Lan, Slovakia và Hungary về phía Tây, giáp với Rumani và Moldova về phía Tây Nam và giáp với Biển Đen và Biển Azov về phía Nam. Nước này có vùng biển giáp với Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria và Georgia. Hiện nay, biên giới trên bộ của Ukraine dài 6.993km, trong đó với Nga là 1.974km.
Tên Ukraine có nghĩa là vùng đất biên giới. Điều này có nghĩa là biên giới với thảo nguyên, ranh giới phân chia giữa người định cư và người du mục. Đây là nơi sinh sống của người Cossack, những người đóng một vai trò vượt trội trong lịch sử Ukraine. Theo cách hiểu hiện đại, Ukraine xuất hiện như một vùng đất biên giới theo ý nghĩa trung gian giữa Đông và Tây, giữa Chính thống giáo và thế giới Công giáo La Mã. Lãnh thổ của Ukraine là một phần của vùng đất thấp ở Đông Âu và không có ranh giới tự nhiên trên một dải đất dài. Các trường hợp ngoại lệ duy nhất là Biển Đen ở phía Nam và vùng đồi núi Carpathians ở phía Tây. Biên giới của Ukraine phần lớn là mang tính chất rộng mở. Do đó, nó luôn là khu vực trung chuyển và là hiện trường của các cuộc xung đột vũ trang.
Sông ngòi là một yếu tố cấu trúc quan trọng, trước hết là sông Dnepr (tiếng Ukraine: Dnipró), chia đôi Ukraine. Kể từ đầu thời Trung cổ, Dnepr đã là một tuyến đường thương mại quan trọng giữa Biển Baltic và Biển Đen, với thành phố Kyiv là điểm trung chuyển quan trọng nhất. Đây chính là nơi cư trú chính của những người Cossack thuộc Ukraine, do đó họ có tên là Zaporozhere Cossack.
Hầu hết các khu vực của Ukraine có đất đen màu mỡ, rất tốt cho các loại cây trồng như lúa mì, ngô, hoa hướng dương. Khí hậu lục địa ôn đới, lượng mưa tương đối ít ở các vùng thảo nguyên. Các tài nguyên khoáng sản quan trọng nhất là các mỏ than đá ở lưu vực Donetsk (Donbass) và các mỏ quặng sắt ở hạ lưu sông Dnepr, vốn là động lực chính trong quá trình công nghiệp hóa của đế chế Nga.
2. “Tù nhân địa lí”
Vì Ukraine có vị trí chiến lược rất quan trọng, được mệnh danh là “cửa ngõ” giữa Đông và Tây Âu, từ lâu đã diễn ra sự giao lưu văn minh giữa phương Đông và phương Tây. Đây là con đường huyết mạch để phương Tây có thể tiến sâu về phía Đông, còn Nga có thể vươn mạnh về phía Tây. Từ xưa tới nay, cả Nga và phương Tây đều kiên quyết trong việc duy trì ảnh hưởng của mình ở Ukraine.
Ukraine mang số phận một vùng đất nằm giữa các đế chế lớn, trở thành “tù nhân địa lí”. Vùng đất này luôn là nơi diễn ra các cuộc tranh giành quyền thống trị hoặc ít ra cũng là tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn từ xưa đến nay. Nơi đây đã liên tục bị nhìn ngó, thống trị và chia cắt bởi khối thịnh vượng chung Balan - Litva ở hướng Bắc, Áo - Hung ở hướng Tây, Ottoman ở hướng Nam và Nga ở hướng Đông.
Ukraine đã nhiều lần trở thành chiến trường của các phe phái quốc tế, từ trước thế kỷ 20, trong Chiến tranh thế giới thứ Nhất, sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất và trong Chiến tranh thế giới thứ Hai. Lãnh thổ Ukraine theo đó mà bị chia cắt, sáp nhập nhiều lần. Tuy nhiên, mỗi cuộc xung đột giữa các đế chế lại là một cơ hội để Ukraine bứt ra khẳng định danh tính độc lập của mình.
Ukraine trong WW2
Vì thế, lịch sử vùng đất này là lịch sử của các sắc dân Ukraine liên tục nổi dậy và hòa hoãn, thần phục và phản kháng các đế chế cầm quyền. Cuộc giằng co để khẳng định danh tính văn hóa Ukraine luôn âm ỉ, bất chấp việc vùng đất này về mặt chính danh luôn là một phần của nhiều đế chế khác nhau.
II. SỰ KHAI SINH RA NGA, BELARUS VÀ UKRAINE
1. Lịch sử ban đầu - huyền thoại sáng lập Kievan Rus hay cội nguồn của Nga, Ukraine, Belarut
Khối dân tộc đồng nhất mà Tổng thống Nga V.Putin nhắc tới bắt nguồn từ một liên bang ở Đông và Bắc Âu, với tên gọi là Kievan Rus4 - nhà nước Đông Slav đầu tiên, gồm nhiều dân tộc, như: Đông Slav, Norse, và Finnic. Đế chế này được lập bởi bộ tộc Viking bắt nguồn từ khu vực Bắc Âu. Từ “Rus” trong tiếng Slavic có nghĩa là người Bắc Âu tóc đỏ.
Theo Biên niên sử sơ cấp, trong thế kỷ thứ 9, hầu hết lãnh thổ Ukraine ngày nay là nơi sinh sống của các bộ tộc người Rus. Vào cuối thế kỷ thứ 9, các chiến binh và thương nhân Norman, gọi là người Rus từ phía Bắc tràn xuống vùng đất Đông Slavơ. Họ nhanh chóng chinh phục người dân địa phương và thành lập một liên đoàn thống trị ở trung lưu sông Dnepr, lấy tên là nước Kievan Rus, thủ đô ở Kyiv.
Người cai trị đầu tiên, cũng là người thống nhất các vùng đất Đông Slavơ thành Kievan Rus là vương công Oleg (879-912) xứ Novgorod. Kievan Rus, trải dài từ Baltic đến Biển Đen, nằm trên một phần đất hiện tại của Ukraine, miền Tây nước Nga, cùng một số nước Bắc Âu và Baltic khác. Vì vậy, trong số những quốc gia này, ba nước Ukraine, Belarus và Nga đều coi Kyiv8 (thủ đô hiện nay của Ukraine) là quê hương đất tổ. Và tên nước của Belarus và Nga (Russia) cũng đều bắt nguồn từ chữ “Rus” trong Kievan Rus. Còn thủ đô của Ukraine hiện nay là Kyiv, tiếng Nga là Kiev cũng bắt nguồn từ chữ Kievan.
Về chữ “Rus”, nó bắt nguồn từ chữ “Ruotsi” có nghĩa là “Thụy Điển”. Và chữ “Ruotsi” lại bắt nguồn từ chữ “Rōþin” có nghĩa là “chèo thuyền”. Người Thụy Điển xưa là dân biển (Viking). Dân Viking cũng là thủy tổ của người Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy hiện nay. Người Viking có tài đi biển. Họ rất giỏi trong việc dong buồm ra khơi để khai phá các vùng đất mới, thiết lập nên các dòng chảy buôn bán và các khu vực thương mại. Vượt biển sang phía Tây, họ đặt chân lên châu Mỹ hàng trăm năm trước cả Christopher Columbus. Vượt biển sang phía Đông, họ men theo các con sông tiến sâu vào vùng Đông Âu, trở thành những thương nhân đầu tiên đặt nền móng cho các thị trấn sầm uất ở Kievan Rus.
Trong quá trình mở rộng lãnh thổ, người Viking từ phương Bắc tiến hành xâm chiếm các vùng đất do các bộ tộc Slavic quản lý và sau đó kết hôn với tầng lớp quý tộc của những bộ tộc này. Vì vậy, có sự đan chéo về quyền quản lý các vùng đất giữa những người trong bộ tộc Slavic và Viking. Khi đế chế Kievan Rus ra đời, Kyiv đã được lập là thủ đô. Kyiv trở thành một trung tâm thương mại lớn của thế giới lúc đó. Còn Moscow lúc đó chỉ là một ngôi làng hẻo lánh.
Như vậy, Kievan Rus được thành lập bởi người Viking chứ không phải những người dân bản địa
sống ở đó.
2. Kỉ nguyên vàng của Kievan Rus
Trong thế kỷ 10 và 11, Kievan Rus trở thành nhà nước lớn nhất và hùng mạnh nhất ở châu Âu. Kievan Rus gồm một số vương quốc được cai trị bởi các tộc người Rurikid, họ thường chiến đấu với nhau để chiếm hữu Kyiv. Thời kỳ hoàng kim của Kievan Rus bắt đầu với triều đại của Vladimir Đại đế (980-1015). Năm 988, Vladimir Đại đế chuyển sang theo Cơ đốc giáo Chính thống, đặt nền móng cho giáo hội Nga sau này.
Đến nửa đầu thế kỷ 13, Nhà nước Kievan Rus bị quân Mông Cổ chinh phục, nhiều thành phố bị phá hủy, đến năm 1240, Kyiv thất thủ. Kievan Rus tan rã, đã phân chia người Đông Slavơ thành nhóm sắc tộc gồm người Nga, người Ukraine, người Belarus, rồi trở thành ba quốc gia riêng biệt: Nga , Ukraine và Belarus ngày nay. Như vậy, Kievan Rus có tuổi thọ chừng 5 thế kỷ, từ cuối thế kỷ 9 (năm 879) đến giữa thế kỉ 13 (năm 1240).
3. Bị thống trị bởi nước ngoài
a) Ukraine trong Vương quốc Ba Lan - Litva (thế kỷ 14-18) - hướng về phía Tây
Bị Mông Cổ thống trị, nhưng người dân ở đây đã nổi dậy chống lại người Mông Cổ. Khi người Nga vẫn nằm dưới sự cai trị của Mông Cổ, thì trong suốt thế kỉ 14, ở phía Tây Ukraine ngày nay, Ba Lan và Litva đã tiến hành các cuộc chiến tranh chống lại quân xâm lược Mông Cổ. Cuối cùng phần lớn lãnh thổ Ukraine được chuyển sang quyền cai trị của Ba Lan và Litva. Người Ukraine và người Belarus trở thành thần dân của Litva và Ba Lan.
Người Mông Cổ xâm chiếm Ukraine
Theo đó, các vùng đất ở phía Bắc và Tây Bắc thuộc quyền cai trị của Litva, trong đó có thủ phủ Kyiv. Các phần đất phía Tây Nam (Công quốc Galicia ) thuộc quyền kiểm soát của Ba Lan.
Năm 1490, không chấp nhận sự áp bức ngày càng tăng của người Ba Lan, một loạt cuộc nổi dậy của người Ukraine còn gọi là cuộc nổi dậy của Mukha do anh hùng Ukraine Petro Mukha lãnh đạo, cùng sự tham gia của những người Ukraine khác, như Cossacks, Hutsuls, Moldavians (người La Mã). Đây là một trong những cuộc nổi dậy sớm nhất được biết đến của người Ukraine chống lại sự áp bức của Ba Lan.
Petro Mukha
Đến năm 1569, hình thành Liên minh Lublin. Liên minh này thành lập Khối thịnh vượng chung Ba Lan - Litva11, thì hầu hết các vùng đất cũ của Ruthenia (gồm các vùng của Nga, Belarus và Ukraine ngày nay) được chuyển từ Litva cho Vương quốc Ba Lan. Như vậy, Ba Lan và Litva thay nhau thống trị Ukraine hàng trăm năm.
Liên minh Lubin
b) Thời đại của người Cossack Ukraine
Dưới sự cai trị của Ba Lan, rất nhiều nông nô Ukraine và người dân thị trấn đã chạy trốn đến hạ lưu sông Dnepr, thành lập một căn cứ “bên kia ghềnh thác”, Zaporozher Sich, từ đó lấy tên là “Cossack Zaporozher”. Người Cossack phục vụ nhà vua Ba Lan với tư cách là lính biên phòng và lính đánh thuê, đồng thời tiến hành các cuộc đột kích chống lại những người Ottoman “vô đạo”.
Trong nửa đầu thế kỷ 17, người Cossack Zaporozher liên minh với giới tinh hoa chính thống của Kyiv và tiếp thu những ý tưởng quốc gia của họ. Từ đây, đã bắt đầu hình thành lên ý thức quốc gia dân tộc của người Ukraine. Những người nông dân Ukrainee (khi đó gọi là Ruthenians) hay còn gọi là Cossacks bắt đầu nổi dậy chống lại áp bức. Đến giữa thế kỷ 17, dưới sự lãnh đạo của Hetman Bohdan Khmelnytskyi (1595-1657) người Cossack đã nổi dậy mạnh mẽ hơn chống lại sự cai trị của Khối thịnh vượng chung Ba Lan – Litva; từ năm 1648 đến năm 1654, người Cossack đã giải phóng gần như toàn bộ Ukraine khỏi sự cai trị của Ba Lan.
Hetman Bohdan Khmelnytskyi
Nhà nước Cossack được thành lập ở khu vực tả ngạn sông Dnepr của Ukraine, gọi là Cossack Hetmanate, thường được coi là tiền thân của Ukraine. Họ thiết lập chính quyền theo mô hình chính quyền quân sự Cossack, nhưng nông nô được thừa nhận là người Cossack tự do. Trong thời gian này, đế chế Nga cũng lớn mạnh.
c) Nhờ Nga bảo hộ để rồi mất nước
Nhận thấy mình đang ở trong tình thế đối đầu quân sự và ngoại giao ba mặt với người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman ở phía Nam, Khối thịnh vượng chung Ba Lan - Liva ở phía Tây, Sa hoàng Nga ở phía Đông. Những người lãnh đạo Cossack Hetmanate đã tìm kiếm một hiệp ước bảo hộ với Nga vào năm 1654. Trong khi người Cossack coi mối liên hệ với Nga như một quốc gia bảo hộ tạm thời, thì Sa hoàng Nga coi đó là sự phục tùng đối với sự cai trị vĩnh viễn của mình. Những cách giải thích trái ngược này vẫn tồn tại cho đến ngày nay: trong tự sự quốc gia Ukraine họ luôn nhấn mạnh sự độc lập của Cossack Hetmanate (được coi là quốc gia đầu tiên của Ukraine), thì trong truyền thuyết Nga coi thỏa thuận năm 1654 là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất trong quá trình “tái thống nhất” với đất nước kể từ khi cuộc xâm lược của Mông Cổ chia cắt Ukraine ra khỏi Nga. Khi nhờ Nga bảo hộ, ban đầu, Cossack Hetmanate vẫn duy trì chính phủ tự trị của họ do họ bầu chọn.
Nga đảm bảo các quyền hạn và ưu đãi của người Cossack, cùng các nhóm sắc tộc khác. Nga triển khai quân đội ở Ukraine và giữ tiếng nói quyết định trong quan hệ đối ngoại. Sau một cuộc chiến tranh kéo dài, giữa Nga với Ba Lan - Litva, Ukraine lại bị chia cắt vào năm 1667: Cossack Hetmanate ở tả ngạn Dnepr với Kyiv làm đầu cầu, ở phía bên kia thuộc về Nga. Người Cossack Ukraine đến định cư ở Sloboda - Ukraine và pháo đài Kharkiv mới được xây dựng nằm dưới quyền cai trị của Nga.
Ukraine 1667
Đến năm 1686, Thủ đô Kyiv bị Tòa Thượng phụ Moscow sáp nhập thông qua Thư Thượng Hội đồng của Thượng phụ Đại kết Constantinople Dionysius IV.
Năm 1709, một lãnh đạo quân sự Cossack là Ivan Macepa (1639- 1709) đào thoát sang Thụy Điển chống lại Nga trong cuộc Đại chiến phương Bắc(1700-1721). Cũng trong năm 1709, Sa hoàng Nga Peter Đại đế đã đánh bại vua Thụy Điển cùng Masepa trong trận Poltava. Peter Đại đế đã đối xử nghiêm khắc với người Cossack phản bội. Bắt đầu từ đây và đến hiện nay, ở Nga và Ukraine có những đánh giá khác nhau về Masepa. Ở Nga Masepa được coi là nguyên mẫu của kẻ phản bội và những người Ukraine bị nghi ngờ là bất trung. Nhưng ở Ukraine, Masepa lại được tôn sùng như một vị anh hùng dân tộc.
Ivan Macepa (1639- 1709)
Chiến thắng của Sa hoàng Nga trước Charles XII của Thụy Điển trong trận Poltava (1709) đã phá hủy quyền tự trị của Cossack. Cuối cùng Sa hoàng Peter nhận ra rằng, để củng cố quyền lực chính trị và kinh tế của Nga, cần phải loại bỏ quyền tự chủ của Cossack Hetmanate cũng như nguyện vọng tự trị của người Ukraine.
Trận Poltava (1709)
Sau nhiều nỗ lực, văn phòng của Cossack Hetman cuối cùng đã bị Chính phủ Nga bãi bỏ vào năm 1764 và hợp nhất Cossack Hetmanate vào đế chế Nga. Đặc biệt đến thời trị vì của Nữ hoàng Nga Catherine II, quyền tự trị của Cossack Hetmanate càng bị “phá hủy” nặng nề hơn.
Vào ngày 7/5/1775, Nữ hoàng Catherine II đã ra lệnh rằng, Zaporozhian Sich phải bị tiêu diệt. Và ngày 5/6/1775, pháo binh và bộ binh Nga tiến công thủ phủ Sich và san bằng nó. Quân đội Nga đã tước vũ khí của quân Cossack. Những người lãnh đạo Cossack Hetmanate bị bắt và bị tống giam. Tầng lớp thượng lưu Cossack, buộc phải vào giới quý tộc của đế chế Nga và sau đó phần lớn bị Nga hóa.
Zaporozhian Sich
Trong những năm 1764-1781, Nữ hoàng Nga Catherine Đại đế còn tiến hành sáp nhập phần lớn miền Trung Ukraine vào đế chế Nga. Đến năm 1783, Crimea, các vùng đất mới giành được (ngày nay được gọi là Novorossiya) cũng được sáp nhập vào Nga, và người Nga được đưa đến đây định cư. Chế độ chuyên chế của Nga hoàng đã thiết lập chính sách Nga hóa, ngăn chặn việc sử dụng ngôn ngữ Ukraine và hạn chế bản sắc dân tộc Ukraine. Phần phía Tây của Ukraine ngày nay, cũng bị chia cắt giữa Nga và Habsburg - Áo, sau khi Khối thịnh vượng chung Ba Lan - Litva sụp đổ vào năm 1795.
Điều này đánh dấu sự kết thúc của Nhà nước Cossacks Ukraine. Trong đế chế Nga, 44% là người gốc Nga, 18% người Ukraine, 11% người theo đạo Hồi, 7% người Ba Lan, 5% người Belarus, 4% người Do Thái, và 11% các nhóm thiểu số khác. Có thể thấy, người Ukraine là nhóm dân tộc thiểu số lớn nhất, chỉ đứng sau người Nga chiếm đa số. Các Nga hoàng liên tiếp coi vùng lãnh thổ của Ukraine mà họ chiếm giữ là “nước Nga nhỏ”. Trong ý thức của các Nga hoàng, dân tộc Nga là một dân tộc “toàn Nga”, trong đó bao gồm những người anh cả Nga/Nga lớn (Russia), Nga nhỏ/người em (Ukraine) và người Nga trắng (Belarus).
............
I. BỐI CẢNH ĐỊA LÍ
1. Vị trí địa lí
Ukraine là quốc gia thuộc khu vực Đông Âu có diện tích 603.700km2, lớn thứ hai ở châu Âu; thủ đô là Kyiv (tiếng Nga là Kiev); dân số hiện nay là khoảng 50 triệu người. Các khu vực hành chính có 24 vùng, 1 nước cộng hòa tự trị1, 2 thành phố tương đương vùng2 (gồm: Cherkaska, Chernihivska, Chernivetska, Dnipropetrovska, Donetska, IvanoFrankiv-ska, Kharkivska, Khersonska, Khmelnytska, Kirovohradska, Kyiv, Kyyivska, Luhanska, Lvivska, Mykolayivska, Odeska, Poltavska, Cộng hòa tự trị Crimea, Rivnenska, Sevastopol, Sumska, Ternopilsk, Vinnyts, Volinska, Zakarpatska, Zaporizka, Zhytomyrska).
Ukraine giáp với Nga về phía Đông và phía Bắc, giáp với Belarus về phía Bắc, giáp với Ba Lan, Slovakia và Hungary về phía Tây, giáp với Rumani và Moldova về phía Tây Nam và giáp với Biển Đen và Biển Azov về phía Nam. Nước này có vùng biển giáp với Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria và Georgia. Hiện nay, biên giới trên bộ của Ukraine dài 6.993km, trong đó với Nga là 1.974km.
Tên Ukraine có nghĩa là vùng đất biên giới. Điều này có nghĩa là biên giới với thảo nguyên, ranh giới phân chia giữa người định cư và người du mục. Đây là nơi sinh sống của người Cossack, những người đóng một vai trò vượt trội trong lịch sử Ukraine. Theo cách hiểu hiện đại, Ukraine xuất hiện như một vùng đất biên giới theo ý nghĩa trung gian giữa Đông và Tây, giữa Chính thống giáo và thế giới Công giáo La Mã. Lãnh thổ của Ukraine là một phần của vùng đất thấp ở Đông Âu và không có ranh giới tự nhiên trên một dải đất dài. Các trường hợp ngoại lệ duy nhất là Biển Đen ở phía Nam và vùng đồi núi Carpathians ở phía Tây. Biên giới của Ukraine phần lớn là mang tính chất rộng mở. Do đó, nó luôn là khu vực trung chuyển và là hiện trường của các cuộc xung đột vũ trang.
Sông ngòi là một yếu tố cấu trúc quan trọng, trước hết là sông Dnepr (tiếng Ukraine: Dnipró), chia đôi Ukraine. Kể từ đầu thời Trung cổ, Dnepr đã là một tuyến đường thương mại quan trọng giữa Biển Baltic và Biển Đen, với thành phố Kyiv là điểm trung chuyển quan trọng nhất. Đây chính là nơi cư trú chính của những người Cossack thuộc Ukraine, do đó họ có tên là Zaporozhere Cossack.
Hầu hết các khu vực của Ukraine có đất đen màu mỡ, rất tốt cho các loại cây trồng như lúa mì, ngô, hoa hướng dương. Khí hậu lục địa ôn đới, lượng mưa tương đối ít ở các vùng thảo nguyên. Các tài nguyên khoáng sản quan trọng nhất là các mỏ than đá ở lưu vực Donetsk (Donbass) và các mỏ quặng sắt ở hạ lưu sông Dnepr, vốn là động lực chính trong quá trình công nghiệp hóa của đế chế Nga.
2. “Tù nhân địa lí”
Vì Ukraine có vị trí chiến lược rất quan trọng, được mệnh danh là “cửa ngõ” giữa Đông và Tây Âu, từ lâu đã diễn ra sự giao lưu văn minh giữa phương Đông và phương Tây. Đây là con đường huyết mạch để phương Tây có thể tiến sâu về phía Đông, còn Nga có thể vươn mạnh về phía Tây. Từ xưa tới nay, cả Nga và phương Tây đều kiên quyết trong việc duy trì ảnh hưởng của mình ở Ukraine.
Ukraine mang số phận một vùng đất nằm giữa các đế chế lớn, trở thành “tù nhân địa lí”. Vùng đất này luôn là nơi diễn ra các cuộc tranh giành quyền thống trị hoặc ít ra cũng là tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn từ xưa đến nay. Nơi đây đã liên tục bị nhìn ngó, thống trị và chia cắt bởi khối thịnh vượng chung Balan - Litva ở hướng Bắc, Áo - Hung ở hướng Tây, Ottoman ở hướng Nam và Nga ở hướng Đông.
Ukraine đã nhiều lần trở thành chiến trường của các phe phái quốc tế, từ trước thế kỷ 20, trong Chiến tranh thế giới thứ Nhất, sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất và trong Chiến tranh thế giới thứ Hai. Lãnh thổ Ukraine theo đó mà bị chia cắt, sáp nhập nhiều lần. Tuy nhiên, mỗi cuộc xung đột giữa các đế chế lại là một cơ hội để Ukraine bứt ra khẳng định danh tính độc lập của mình.
Ukraine trong WW2
Vì thế, lịch sử vùng đất này là lịch sử của các sắc dân Ukraine liên tục nổi dậy và hòa hoãn, thần phục và phản kháng các đế chế cầm quyền. Cuộc giằng co để khẳng định danh tính văn hóa Ukraine luôn âm ỉ, bất chấp việc vùng đất này về mặt chính danh luôn là một phần của nhiều đế chế khác nhau.
II. SỰ KHAI SINH RA NGA, BELARUS VÀ UKRAINE
1. Lịch sử ban đầu - huyền thoại sáng lập Kievan Rus hay cội nguồn của Nga, Ukraine, Belarut
Khối dân tộc đồng nhất mà Tổng thống Nga V.Putin nhắc tới bắt nguồn từ một liên bang ở Đông và Bắc Âu, với tên gọi là Kievan Rus4 - nhà nước Đông Slav đầu tiên, gồm nhiều dân tộc, như: Đông Slav, Norse, và Finnic. Đế chế này được lập bởi bộ tộc Viking bắt nguồn từ khu vực Bắc Âu. Từ “Rus” trong tiếng Slavic có nghĩa là người Bắc Âu tóc đỏ.
Theo Biên niên sử sơ cấp, trong thế kỷ thứ 9, hầu hết lãnh thổ Ukraine ngày nay là nơi sinh sống của các bộ tộc người Rus. Vào cuối thế kỷ thứ 9, các chiến binh và thương nhân Norman, gọi là người Rus từ phía Bắc tràn xuống vùng đất Đông Slavơ. Họ nhanh chóng chinh phục người dân địa phương và thành lập một liên đoàn thống trị ở trung lưu sông Dnepr, lấy tên là nước Kievan Rus, thủ đô ở Kyiv.
Người cai trị đầu tiên, cũng là người thống nhất các vùng đất Đông Slavơ thành Kievan Rus là vương công Oleg (879-912) xứ Novgorod. Kievan Rus, trải dài từ Baltic đến Biển Đen, nằm trên một phần đất hiện tại của Ukraine, miền Tây nước Nga, cùng một số nước Bắc Âu và Baltic khác. Vì vậy, trong số những quốc gia này, ba nước Ukraine, Belarus và Nga đều coi Kyiv8 (thủ đô hiện nay của Ukraine) là quê hương đất tổ. Và tên nước của Belarus và Nga (Russia) cũng đều bắt nguồn từ chữ “Rus” trong Kievan Rus. Còn thủ đô của Ukraine hiện nay là Kyiv, tiếng Nga là Kiev cũng bắt nguồn từ chữ Kievan.
Về chữ “Rus”, nó bắt nguồn từ chữ “Ruotsi” có nghĩa là “Thụy Điển”. Và chữ “Ruotsi” lại bắt nguồn từ chữ “Rōþin” có nghĩa là “chèo thuyền”. Người Thụy Điển xưa là dân biển (Viking). Dân Viking cũng là thủy tổ của người Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy hiện nay. Người Viking có tài đi biển. Họ rất giỏi trong việc dong buồm ra khơi để khai phá các vùng đất mới, thiết lập nên các dòng chảy buôn bán và các khu vực thương mại. Vượt biển sang phía Tây, họ đặt chân lên châu Mỹ hàng trăm năm trước cả Christopher Columbus. Vượt biển sang phía Đông, họ men theo các con sông tiến sâu vào vùng Đông Âu, trở thành những thương nhân đầu tiên đặt nền móng cho các thị trấn sầm uất ở Kievan Rus.
Trong quá trình mở rộng lãnh thổ, người Viking từ phương Bắc tiến hành xâm chiếm các vùng đất do các bộ tộc Slavic quản lý và sau đó kết hôn với tầng lớp quý tộc của những bộ tộc này. Vì vậy, có sự đan chéo về quyền quản lý các vùng đất giữa những người trong bộ tộc Slavic và Viking. Khi đế chế Kievan Rus ra đời, Kyiv đã được lập là thủ đô. Kyiv trở thành một trung tâm thương mại lớn của thế giới lúc đó. Còn Moscow lúc đó chỉ là một ngôi làng hẻo lánh.
Như vậy, Kievan Rus được thành lập bởi người Viking chứ không phải những người dân bản địa
sống ở đó.
2. Kỉ nguyên vàng của Kievan Rus
Trong thế kỷ 10 và 11, Kievan Rus trở thành nhà nước lớn nhất và hùng mạnh nhất ở châu Âu. Kievan Rus gồm một số vương quốc được cai trị bởi các tộc người Rurikid, họ thường chiến đấu với nhau để chiếm hữu Kyiv. Thời kỳ hoàng kim của Kievan Rus bắt đầu với triều đại của Vladimir Đại đế (980-1015). Năm 988, Vladimir Đại đế chuyển sang theo Cơ đốc giáo Chính thống, đặt nền móng cho giáo hội Nga sau này.
Đến nửa đầu thế kỷ 13, Nhà nước Kievan Rus bị quân Mông Cổ chinh phục, nhiều thành phố bị phá hủy, đến năm 1240, Kyiv thất thủ. Kievan Rus tan rã, đã phân chia người Đông Slavơ thành nhóm sắc tộc gồm người Nga, người Ukraine, người Belarus, rồi trở thành ba quốc gia riêng biệt: Nga , Ukraine và Belarus ngày nay. Như vậy, Kievan Rus có tuổi thọ chừng 5 thế kỷ, từ cuối thế kỷ 9 (năm 879) đến giữa thế kỉ 13 (năm 1240).
3. Bị thống trị bởi nước ngoài
a) Ukraine trong Vương quốc Ba Lan - Litva (thế kỷ 14-18) - hướng về phía Tây
Bị Mông Cổ thống trị, nhưng người dân ở đây đã nổi dậy chống lại người Mông Cổ. Khi người Nga vẫn nằm dưới sự cai trị của Mông Cổ, thì trong suốt thế kỉ 14, ở phía Tây Ukraine ngày nay, Ba Lan và Litva đã tiến hành các cuộc chiến tranh chống lại quân xâm lược Mông Cổ. Cuối cùng phần lớn lãnh thổ Ukraine được chuyển sang quyền cai trị của Ba Lan và Litva. Người Ukraine và người Belarus trở thành thần dân của Litva và Ba Lan.
Người Mông Cổ xâm chiếm Ukraine
Theo đó, các vùng đất ở phía Bắc và Tây Bắc thuộc quyền cai trị của Litva, trong đó có thủ phủ Kyiv. Các phần đất phía Tây Nam (Công quốc Galicia ) thuộc quyền kiểm soát của Ba Lan.
Năm 1490, không chấp nhận sự áp bức ngày càng tăng của người Ba Lan, một loạt cuộc nổi dậy của người Ukraine còn gọi là cuộc nổi dậy của Mukha do anh hùng Ukraine Petro Mukha lãnh đạo, cùng sự tham gia của những người Ukraine khác, như Cossacks, Hutsuls, Moldavians (người La Mã). Đây là một trong những cuộc nổi dậy sớm nhất được biết đến của người Ukraine chống lại sự áp bức của Ba Lan.
Petro Mukha
Đến năm 1569, hình thành Liên minh Lublin. Liên minh này thành lập Khối thịnh vượng chung Ba Lan - Litva11, thì hầu hết các vùng đất cũ của Ruthenia (gồm các vùng của Nga, Belarus và Ukraine ngày nay) được chuyển từ Litva cho Vương quốc Ba Lan. Như vậy, Ba Lan và Litva thay nhau thống trị Ukraine hàng trăm năm.
Liên minh Lubin
b) Thời đại của người Cossack Ukraine
Dưới sự cai trị của Ba Lan, rất nhiều nông nô Ukraine và người dân thị trấn đã chạy trốn đến hạ lưu sông Dnepr, thành lập một căn cứ “bên kia ghềnh thác”, Zaporozher Sich, từ đó lấy tên là “Cossack Zaporozher”. Người Cossack phục vụ nhà vua Ba Lan với tư cách là lính biên phòng và lính đánh thuê, đồng thời tiến hành các cuộc đột kích chống lại những người Ottoman “vô đạo”.
Trong nửa đầu thế kỷ 17, người Cossack Zaporozher liên minh với giới tinh hoa chính thống của Kyiv và tiếp thu những ý tưởng quốc gia của họ. Từ đây, đã bắt đầu hình thành lên ý thức quốc gia dân tộc của người Ukraine. Những người nông dân Ukrainee (khi đó gọi là Ruthenians) hay còn gọi là Cossacks bắt đầu nổi dậy chống lại áp bức. Đến giữa thế kỷ 17, dưới sự lãnh đạo của Hetman Bohdan Khmelnytskyi (1595-1657) người Cossack đã nổi dậy mạnh mẽ hơn chống lại sự cai trị của Khối thịnh vượng chung Ba Lan – Litva; từ năm 1648 đến năm 1654, người Cossack đã giải phóng gần như toàn bộ Ukraine khỏi sự cai trị của Ba Lan.
Hetman Bohdan Khmelnytskyi
Nhà nước Cossack được thành lập ở khu vực tả ngạn sông Dnepr của Ukraine, gọi là Cossack Hetmanate, thường được coi là tiền thân của Ukraine. Họ thiết lập chính quyền theo mô hình chính quyền quân sự Cossack, nhưng nông nô được thừa nhận là người Cossack tự do. Trong thời gian này, đế chế Nga cũng lớn mạnh.
c) Nhờ Nga bảo hộ để rồi mất nước
Nhận thấy mình đang ở trong tình thế đối đầu quân sự và ngoại giao ba mặt với người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman ở phía Nam, Khối thịnh vượng chung Ba Lan - Liva ở phía Tây, Sa hoàng Nga ở phía Đông. Những người lãnh đạo Cossack Hetmanate đã tìm kiếm một hiệp ước bảo hộ với Nga vào năm 1654. Trong khi người Cossack coi mối liên hệ với Nga như một quốc gia bảo hộ tạm thời, thì Sa hoàng Nga coi đó là sự phục tùng đối với sự cai trị vĩnh viễn của mình. Những cách giải thích trái ngược này vẫn tồn tại cho đến ngày nay: trong tự sự quốc gia Ukraine họ luôn nhấn mạnh sự độc lập của Cossack Hetmanate (được coi là quốc gia đầu tiên của Ukraine), thì trong truyền thuyết Nga coi thỏa thuận năm 1654 là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất trong quá trình “tái thống nhất” với đất nước kể từ khi cuộc xâm lược của Mông Cổ chia cắt Ukraine ra khỏi Nga. Khi nhờ Nga bảo hộ, ban đầu, Cossack Hetmanate vẫn duy trì chính phủ tự trị của họ do họ bầu chọn.
Nga đảm bảo các quyền hạn và ưu đãi của người Cossack, cùng các nhóm sắc tộc khác. Nga triển khai quân đội ở Ukraine và giữ tiếng nói quyết định trong quan hệ đối ngoại. Sau một cuộc chiến tranh kéo dài, giữa Nga với Ba Lan - Litva, Ukraine lại bị chia cắt vào năm 1667: Cossack Hetmanate ở tả ngạn Dnepr với Kyiv làm đầu cầu, ở phía bên kia thuộc về Nga. Người Cossack Ukraine đến định cư ở Sloboda - Ukraine và pháo đài Kharkiv mới được xây dựng nằm dưới quyền cai trị của Nga.
Ukraine 1667
Đến năm 1686, Thủ đô Kyiv bị Tòa Thượng phụ Moscow sáp nhập thông qua Thư Thượng Hội đồng của Thượng phụ Đại kết Constantinople Dionysius IV.
Năm 1709, một lãnh đạo quân sự Cossack là Ivan Macepa (1639- 1709) đào thoát sang Thụy Điển chống lại Nga trong cuộc Đại chiến phương Bắc(1700-1721). Cũng trong năm 1709, Sa hoàng Nga Peter Đại đế đã đánh bại vua Thụy Điển cùng Masepa trong trận Poltava. Peter Đại đế đã đối xử nghiêm khắc với người Cossack phản bội. Bắt đầu từ đây và đến hiện nay, ở Nga và Ukraine có những đánh giá khác nhau về Masepa. Ở Nga Masepa được coi là nguyên mẫu của kẻ phản bội và những người Ukraine bị nghi ngờ là bất trung. Nhưng ở Ukraine, Masepa lại được tôn sùng như một vị anh hùng dân tộc.
Ivan Macepa (1639- 1709)
Chiến thắng của Sa hoàng Nga trước Charles XII của Thụy Điển trong trận Poltava (1709) đã phá hủy quyền tự trị của Cossack. Cuối cùng Sa hoàng Peter nhận ra rằng, để củng cố quyền lực chính trị và kinh tế của Nga, cần phải loại bỏ quyền tự chủ của Cossack Hetmanate cũng như nguyện vọng tự trị của người Ukraine.
Trận Poltava (1709)
Sau nhiều nỗ lực, văn phòng của Cossack Hetman cuối cùng đã bị Chính phủ Nga bãi bỏ vào năm 1764 và hợp nhất Cossack Hetmanate vào đế chế Nga. Đặc biệt đến thời trị vì của Nữ hoàng Nga Catherine II, quyền tự trị của Cossack Hetmanate càng bị “phá hủy” nặng nề hơn.
Vào ngày 7/5/1775, Nữ hoàng Catherine II đã ra lệnh rằng, Zaporozhian Sich phải bị tiêu diệt. Và ngày 5/6/1775, pháo binh và bộ binh Nga tiến công thủ phủ Sich và san bằng nó. Quân đội Nga đã tước vũ khí của quân Cossack. Những người lãnh đạo Cossack Hetmanate bị bắt và bị tống giam. Tầng lớp thượng lưu Cossack, buộc phải vào giới quý tộc của đế chế Nga và sau đó phần lớn bị Nga hóa.
Zaporozhian Sich
Trong những năm 1764-1781, Nữ hoàng Nga Catherine Đại đế còn tiến hành sáp nhập phần lớn miền Trung Ukraine vào đế chế Nga. Đến năm 1783, Crimea, các vùng đất mới giành được (ngày nay được gọi là Novorossiya) cũng được sáp nhập vào Nga, và người Nga được đưa đến đây định cư. Chế độ chuyên chế của Nga hoàng đã thiết lập chính sách Nga hóa, ngăn chặn việc sử dụng ngôn ngữ Ukraine và hạn chế bản sắc dân tộc Ukraine. Phần phía Tây của Ukraine ngày nay, cũng bị chia cắt giữa Nga và Habsburg - Áo, sau khi Khối thịnh vượng chung Ba Lan - Litva sụp đổ vào năm 1795.
Điều này đánh dấu sự kết thúc của Nhà nước Cossacks Ukraine. Trong đế chế Nga, 44% là người gốc Nga, 18% người Ukraine, 11% người theo đạo Hồi, 7% người Ba Lan, 5% người Belarus, 4% người Do Thái, và 11% các nhóm thiểu số khác. Có thể thấy, người Ukraine là nhóm dân tộc thiểu số lớn nhất, chỉ đứng sau người Nga chiếm đa số. Các Nga hoàng liên tiếp coi vùng lãnh thổ của Ukraine mà họ chiếm giữ là “nước Nga nhỏ”. Trong ý thức của các Nga hoàng, dân tộc Nga là một dân tộc “toàn Nga”, trong đó bao gồm những người anh cả Nga/Nga lớn (Russia), Nga nhỏ/người em (Ukraine) và người Nga trắng (Belarus).
............
Chỉnh sửa cuối: