[Funland] Những hồi ức của CCB chiến trường K !

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Nào, tiếp nhé ! Thời đó quân tân binh huấn luyện chúng ta học chính trị những gì? Xem nào: Tất nhiên là 10 lời thề danh dự của QQĐNDVN, các bài hành khúc quân đội...Rồi các bài giảng về kẻ thù lâu dài là đế quốc Mỹ, kẻ thù trực tiếp là bọn bá quyền bành trướng TQ cùng tay sai là bè lũ Pôn Pốt - Iêng Sa ry. Nhiều kẻ thù lắm...Rồi đụng độ hàng nguội, căng thẳng biên giới phía Bắc; anh hùng CAVT Lê Đình Chinh; đánh địch lấn chiếm biên giới Tây nam; người Hoa, người Việt gốc Hoa bỏ nhà cửa, công việc ùn ùn kéo về biên giới Lạng Sơn...Bác gái tôi, gọi bà ngoại tôi bằng dì ruột lấy chồng là người Hoa, cũng bỏ nhà ở ngõ Phất Lộc, theo con trai đi đợt này...Tóm lại, một bầu không khí làm xáo động mọi người lớn trong gia đình tôi, hơi pha chút âu lo.

Một tấm ảnh cũ nhé! Trong ảnh là ( những người bạn tác giả....) mà trong lớp tụi nó gọi là nhóm VAT. Mặt còn non choẹt. Hai thằng ngồi đã có hơi hướng "lính" thấy rõ, do thích nghe nhạc "vàng" lá xa cành anh xa em mơ màng 18 tuổi. Đi bộ đội thì có ý kiến trốn về trước. Một cái áo lính gabađin hồi đó cũng khá đắt



Thêm cái này nữa này: Dưới mái trường thân yêu. Ảnh các em lớp 9D, lớp dưới, sau khi chúng tôi đã nhập ngũ thì lên thành lớp 10D.




Hồi đó, dù đã đi bộ đội, có lẽ chúng tôi vẫn còn "hơi sữa" thời học sinh nên cũng chẳng thấy lo lắng gì sất. Mình với TQ chỉ dậm dọa thế thôi chứ đời nào nó dám tẩn mình? Còn bọn Pôn Pốt nó ở đâu đó xa lắm. Chỉ cần vài loạt bom hay pháo của kho vũ khí tối tân Mỹ nó để lại đầy tổng kho Long Bình là chúng nó tan xác pháo. Chuyện chủ quan hay tâm lý tự mãn ấy là có thật đấy! Trong các câu chuyện thời sự vỉa hè mọi người rỉ tai nhau cũng hay bàn nhiều đến các vũ khí này. Và bọn lính mới tò te, như một lẽ tự nhiên, nghĩ rằng có đánh nhau cũng chẳng đến lượt mình. Có đánh thì một phát nó tan ngay... đời lính đẹp và hào hùng như các tác phẩm văn học chiến tranh dạy trong nhà trường.

Thế thì các "em" lớp dưới_ lớp 9D trường Phan Đình Phùng thấy chúng tôi đi bộ đội, cũng theo không khí chung thời đó, ra hiệu ảnh thuê quân phục làm phát cho nó thỏa mơ ước quân hành. Hặc hặc, quân phục thuê đắt ngang áo dài cưới đấy! Hội này nghe pháo Miên nó đề pa phát chắc chạy phọt guốc. Trường sáng về muộn, cố rình trường chiều xem đứa nào ngồi cùng chỗ, viết thư tình để trong ngăn bàn của mình. Cũng có một đôi nên duyên chồng vợ. Đó là thằng 16 phát B41/ ngày với cô bạn ngoài cùng bên phải tấm hình. Chẳng biết khi giải ngũ nó có bắn nổi 2 phát/ngày không ?

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Những tối tập báo động di chuyển ! Kẻng báo động chiến đấu thì keng keng keng_ keng keng keng...giật hồi ba tiếng một. Báo động di chuyển hình như năm tiếng một hay sao ấy nhẩy? Quên rồi ! Nhưng tối có báo động di chuyển thì thể nào tôi cũng biết vì có thằng cu Trung liên lạc nó thông báo trước. Ăn cơm chiều xong. Lên gửi nhà chủ những đồ linh tinh và cái chăn dạ cho đỡ phải đeo nặng. Nhưng cái chiếu gập đôi lồng cồng bên ngoài vẫn phải có để không bị lộ là bỏ lại đồ. Tập trung ở sân kho. Cán bộ phổ biến mệnh lệnh hành quân, tốc độ hành quân, hướng hành quân...là lên đường.

Đi dọc mương ra đường đất lớn. Cắt qua mấy mảnh ruộng khô. Qua bãi tha ma xứ đạo có những ngôi mộ to, những cây thập ác khổng lồ lạnh lẽo dưới trăng rồi vọt ra phố Động. Cái phố này bây giờ chuyên làm đồ đá, bán non bộ, tạc tượng Phật tượng Chúa đủ loại... Thỉnh thoảng điên lên cán bộ hô chạy! Thế là chạy hồng hộc một đoạn như một bọn phát rồ. Tôi còn nhớ là có lần hành quân đêm qua trại thương binh, lúc anh em vừa tan buổi chiếu phim tối, đưa gái làng về. Mấy thằng lính Hà Nội nghịch ngợm đi qua, trêu "mẻng" của các đàn anh chiến trận. Họ gom lại vung tó chiến đấu quên mình nhưng cũng không lại với mấy thằng tân binh đầu gấu. Cứ mũ cối gia công Đội Cấn chúng nó lao vào đập, chẳng kiêng dè các đàn anh gì cả.

Trận hỗn chiến cuối cùng thành cuộc rút quân mau lẹ của đại đội tôi. Vì trong số thương binh đó có anh chạy được về trại, gọi thêm quân cứu viện. Thế là chúng tôi chạy. Cán bộ cũng chạy. Không chạy thì họ vớ được thịt ngay. Đừng có dại. Ở đó họ nhiều lần quậy tưng mà xã huyện còn không dám nói gì nữa là! Quân số bổ sung ra đến nơi thì chúng tôi chân lành rút lâu rồi. Trại thương binh hôm sau tuyên bố sẽ sang ăn gỏi mấy thằng lính mới. Chúng tôi cũng chuẩn bị tinh thần tiếp đón, nhưng không thấy các anh ấy sang...

Sau thời gian đó, chúng tôi được chuyển ra phía ngoài Mậu Chử. Vào đúng cái làng mà lão ( tên bạn tác gi ) ở. Cái làng có cây cầu xi măng bắc qua ao đầu làng. Lúc đó đơn vị Votmuoi chắc đã hành quân vào Nam. Đêm nằm nghe tiếng còi tàu rít u u ...Chẳng biết bao giờ đến lượt đơn vị mình lên đường
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Chúng tôi chuyển đơn vị ra Mậu Chử, gần đường cái (QL1) hơn. Một lần, nhân dịp hội thao trung đoàn, đơn vị cho chúng tôi vượt cầu phao sông Đáy sang trung đoàn bộ xem bóng đá. Trận đấu Thể Công gặp Quân khu Tả ngạn. Cũng như truyện "Tinh thần thể dục" của cụ Nguyễn Công Hoan. Chúng tôi dậy từ lúc gà gáy, ăn cơm, điểm danh, lục suc cờ quạt khẩu hiệu để hành quân. Tôi chẳng nhớ gì tỷ số trận đó cả. Chỉ nhớ chúng nó hô: Bền ! Bền ! Các bác mê bóng đá, mê Thể Công có nhớ anh Thái Nguyên Bền tóc xoăn trắng trẻo đẹp giai lai Pháp đá hay không ạ? Anh ấy trước đá Thể công, sau hình như bị kỷ luật gái gú gì gì đó nên phải sang đá cho Quân khu Tả ngạn. Đó là chúng nó giải thích cho tôi thế! Tôi không biết gì chuyện đó. Nhưng biết rất rõ là hôm đó trời đổ cơn mưa lớn. Chúng tôi ướt như chuột lột. Về đơn vị tôi bị trận sốt to mấy ngày mới khỏi. "Ốm tha già thải" là chế độ quân đội ta, được lính thành ngữ hóa. Ốm trong đơn vị cũ còn có vẻ có lợi chứ ở đơn vị mới này thì khỏe cũng nghỉ mà ốm cũng nghỉ. Chắc là gần đến ngày đi nên chẳng ai bắt chúng tôi tập tành gì nhiều nữa. Chỉ lo đảm bảo quân số đã là một thành công lớn vì độ này tụi nó bùng nhiều lắm!

Đêm cuối thu càng lúc càng lạnh. Tiếng chó sủa ong óc lúc xóm gần, lúc làng xa như có động vì lính trốn, vì quân cảnh đuổi bắt. Một số tiểu đoàn đã lục tục lên đường. Cái dự cảm lên đường hồi hộp nao lòng, bắt đầu từ những tiếng chó sủa đêm đêm. Từ những đoàn gia đình nhà lính vào thăm ngày càng nhiều. Bố mẹ tôi cũng vào thăm một lần. Tôi gửi lại cây guitar mang theo vào đơn vị cho bố mang về. Cây đàn này nay vẫn còn, đang treo trên tường. Chiều hôm đó song thân ra về. Tôi tiễn ra đến đường cái quan. Nhớ mãi hình ảnh bố gò lưng đạp cái xe nam ngược gió ra ga Phủ Lý, đèo mẹ đằng sau tay chống cây đàn...

Bố mẹ tôi là viên chức nghèo nên không có tiền nhiều để cho. Nhưng một số anh em gia đình buôn bán, "phe phẩy" (!?), hay có nghề phụ gia công... thì được cho khá nhiều. Chúng tôi gom tiền, mua hàng mũ trứng vịt luộc ăn với nhau. Rồi Chủ nhật đụng luôn con chó gié nhà chủ. Bác chủ nhà đứng ra gọi người làm hộ, vì bọn tôi có biết thịt chó bao giờ đâu? Bên bờ ruộng khô trắng vì gió bắc đầu mùa, anh ba toa rút những nắm rơm nhỏ, đốt quạt phành phạch, lật đi lật lại con chó để thui lại những chỗ còn da trắng. Chúng tôi lui cui vây xung quanh, nghịch đốt những cây muồng khô. Qủa muồng nổ lốp đốp trong lửa. Da chó dần vàng rộm, căng rồi nứt ra vì quá lửa. Mùi rơm đốt, mùi quả muồng cháy, mùi chó thui bên bờ ruộng quẩn quanh rặng bạch đàn...Ôi chao là chủ nhật làng quê !
 

TaiMV

Xe điện
Biển số
OF-136764
Ngày cấp bằng
1/4/12
Số km
2,426
Động cơ
391,562 Mã lực
Nơi ở
Sáng ở Đồ Sơn & tối về Quất Lâm.
.

Thêm cái này nữa này: Dưới mái trường thân yêu. Ảnh các em lớp 9D, lớp dưới, sau khi chúng tôi đã nhập ngũ thì lên thành lớp 10D.

Các bác nhà mềnh ngày xưa đi học sách cặp cứ như là cán bọ đi họp ý nhỉ.:D
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
......................................
Có lẽ đó là ngày Chủ nhật cuối cùng yên bình nhất. Mấy ngày hôm sau, các “tham mưu con” đoán già đoán non, phấp phỏng. Tôi thì nghĩ đơn giản là nếu được vào miền Nam thì cũng tốt. Một vùng đất mới chỉ biết qua sách vở vừa được quân ta giải phóng. Vào đó may có khi được đi Sài Gòn xem dinh Độc Lập, đi Cà Mau xem sân chim hay xuống Cần Thơ chỗ anh Phát tôi đóng quân, ăn trái cây “một bụng” ngon hết sảy như anh ấy kể…Hoàn toàn không có một khái niệm gì về cuộc chiến tranh biên giới Tây nam. Các vụ lấn chiếm lẻ tẻ của Pôn Pốt mà báo đài đưa tin không gây một ấn tượng gì. Dẹp mấy vụ đó có các sư đoàn thiện chiến hùng mạnh, cùng một đống vũ khí tối tân của Mỹ chúng ta vừa thu được. Liệu bọn nó sức mấy? Đơn vị mình vào đó có khi chỉ làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế là cùng. Ấy, hồi đó không chỉ tôi mà nhiều thằng cứ nghĩ như thế đấy!

Sáng hôm 18/11/78, cả tiểu đoàn huấn luyện báo động chiến đấu, hành quân ra thị trấn Phủ Lý. Từ Mậu Chử đến thị xã chỉ khoảng 6 km, nên đến gần trưa đã tới đó. Đến nơi thì thấy các tiểu đoàn khác trong trung đoàn huấn luyện (E104) đã tập kết đầy đủ trong sân vận động. Tiểu đoàn tôi vào nốt. Cổng sân vận động được đóng chặt lại. Trưa hôm đấy, trung đoàn ăn bánh mỳ trừ bữa. Đến khoảng 2h chiều, một đoàn văn công bắt đầu đến biểu diễn trên sân khấu. Lòng dạ đâu mà nghe hát lúc này? Một số thằng lính nghịch tinh, ngồi gần sân khấu còn ném xương khẩu mía nhai dở lên ầm ầm...

Đến 4h chiều, đơn vị hành quân ra ga Phủ lý, giữa hai hàng vệ binh lưỡi lê tuốt trần. Từ sân vận động ra ga tàu chỉ khoảng 1 km. Tôi vừa đi trong đội hình hành quân, vừa ngoái lại. Nhìn thấy con em gái với mẹ thằng Thắng Hàng Bè, gia đình thằng Lâm và một số gia đình khác đuổi theo hàng quân. Thằng Thắng học khác lớp nhưng cùng trường với tụi tôi. Họ xông vào thì vệ binh gạt ra ngay. Mấy thằng lính Hà Nội nổi khùng vặc lại. Họ quấn túm lấy nhau. Chao ôi là nước mắt...!

Thành ra bây giờ cứ xem lại đoạn đầu đặc tả cảnh tòng quân trong phim "Đàn sếu bay qua" thì cổ họng tôi nó như nghẹn lại…Một cô gái váy trắng lớ ngớ, len lỏi tìm người yêu tòng quân giữa hai hàng thiết giáp. Tiếng kèn vang vọng lên hành khúc. Và hộp bánh bích-quy sinh nhật tặng người yêu của cô đổ òa, tan vụn dưới xích xe tăng, tan vụn dưới những gót quân hành.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
CHUYẾN TÀU QUÂN SỰ

Có bốn đứa cùng lớp, cùng đơn vị thì bị tách thành hai nhóm. Khi lên tàu yên vị, tôi với thằng T.Anh ngồi cạnh nhau. Còn thằng Bình với thằng Hiệp ngồi hình như ở toa khác. Các cửa toa đóng lại. Lát sau con tàu bắt đầu chuyển bánh. Hàng lính cảnh vệ, và những người thân hôm đó vô tình lên thăm bộ đội, ráng ở lại đến cuối chiều chờ phút chia ly trên sân ga… lùi dần, lùi dần…

Đến ga Nam Định, tàu dừng một lát ngắn. Rất đột ngột, bố T.Anh xuất hiện ở ngay đầu toa. Chúng tôi cùng chạy đến. Ông đã từng học ngành đường sắt ở Bắc Kinh. Lúc đó, ông làm cán bộ điều độ tại ga Hàng Cỏ nên biết rõ hành trình của các chuyến tàu. Chỉ ông mới có đủ trách nhiệm và quyền hạn cần thiết để lên toa quân sự này. Người cho chúng tôi một ít tiền và dặn rằng: anh em chúng mày, dù ở đâu cũng phải phải bao bọc lấy nhau.

Bố nó cũng như bố tôi thôi! Mấy tháng trước, khi vừa thi xong nghỉ hè. Chúng tôi toàn đạp xe lang thang ngoài đường, đi chơi về muộn. Chổng mông tắm ở máy nước công cộng cho khỏi nóng. Khuya mới về nhà nó lục cơm nguội ăn, rồi lăn ra nền ngủ. Sự hiện diện của ông tại toa này, như nhắc rằng những ngày hè cuối cấp đó còn tươi rói. Rồi ông xuống tàu, lên chuyến tàu tránh ngay tại đó ngược trở lại Hà Nội. Tôi vẫn nhớ lúc đó trời còn chưa tối hẳn, mặc dù đèn hành lang trên ga đã sáng. Nước mắt anh em tôi giàn giụa…


Đêm đó là một đêm thật buồn. Đồng bằng tối đen. Có những chấm vắng đèn đêm xa lắc, trôi ngược chầm chậm qua cửa sổ, trong tiếng bánh xe lăn ù ù...Cây đàn guitar thằng Bình Hàng Giấy mới đưa cho tôi trên sân vận động còn nguyên trên xích đông kia. Cây đàn này đã cùng chúng tôi đã hát bài Guantanamera, với bộ trống do con trai ông Cát Huyền Minh số 11 Hàng Giấy chơi trong hội diễn cuối cấp. Hy vọng là thằng Bình còn giữ hình ảnh cây đàn đó trong những tấm hình học sinh sót lại. Nếu còn thì tôi sẽ đưa lên đây như một tri ân. Nhưng từ nay, cây đàn này sẽ sống một cuộc sống khác. Để rồi nó vỡ tan hoang trong một cú đập mà tôi, trong một lúc tuyệt vọng, đã vạng không thương tiếc vào cái cột nhà sàn bên bờ sông của một đất nước khác: bờ sông Niếc Lương.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
.........Quãng chừng khuya, tàu đang chạy chậm, chuẩn bị vượt cầu Hàm Rồng thì rầm rầm dồn toa, khựng lại bất ngờ. Có tiếng hô, tiếng quát mấy toa dưới. Đó là mấy ông lính đào ngũ sử dụng phanh khẩn cấp trong toa để dừng tàu. Họ quăng ba lô qua cửa sổ, cũng theo cửa đó tuồn ra rồi mất hút trong bóng đêm. Không ai truy đuổi theo cả. Nhốn nháo một lúc rồi tàu lại chuyển bánh… Đến sáng hôm sau thì tất cả cái sự buồn vỡ bích quy hôm trước tan biến. Khung cảnh bên đường luôn thay đổi. Tàu chạy qua những vùng đất trước tôi chỉ biết qua sách vở, khiến lòng người háo hức. Đường sắt Quảng Bình có những đoạn chạy lút giữa những đồi gianh cao ngập đầu người. Những đoạn đường đất heo hút cắt ngang, có những em bé chỉ mặc áo mà không mặc quần, nheo nhóc đứng trông theo đoàn tàu. Những cầu sắt nhỏ, bắc qua những lạch nước bỗng réo lên ù ù khi tàu vượt qua. Sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu xanh biếc. Chỉ có những con ngòi sâu vùng thượng du mới có cái màu xanh thủy tinh đặc biệt ấy… Chắc mọi người còn nhớ là hồi đó chúng ta thường có những cuốn lịch bỏ túi xinh xắn. Bìa thường in cành đào hay hình một cô gái đẹp. Trong cuốn lịch đó có một mục thống kê các ga trên tuyến đường sắt Thống nhất từ Hà nội đến Sài gòn và độ dài từng cung đường.

Tôi chúi mũi vào đó để tra tên ga xép, biết mình đang đi qua đâu. Năm ngoái, chuyến đi xa nhất về phương nam theo cơ quan bố đi nghỉ mát là mới chỉ đến Sầm Sơn, Thanh Hóa. Vậy nên tôi gần như ôm chặt cái cửa sổ, mắt hút hết cảnh vật trên đường…
Một phác thảo theo ấn tượng còn lại:

Cầu Hiền Lương bé tí.
Cửa Tùng bên tay trái xa kia.
Nơi đó cách đây 18 năm,
Nửa đêm bố đạp xe ra Hồ Xá.
Đánh điện về nhà đặt tên cho mình.

Lịch kịch! Rình rình…
Quảng Trị cát trắng...
Những ruộng ớt đỏ.
Những con đường vắng.
Những nhà tôn tạm bợ không người.

“Đây là ga Huế!”.
Các công tằng tôn nữ mập và hơi đen.
Vị trà đá uống chưa quen.
Lăng Cô: năm hào được một đống ghẹ luộc.

Hải Vân
Đệ nhất hùng quan

Hổn hển hai đầu tàu kéo đẩy.
Chui hầm tối.
Lính mồm reo...
Mắt chợt khóc vì đầy bụi.
..............................
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
CĂN CỨ LONG BÌNH

[FONT=&amp]Hành trình xuyên Việt băng xe lửa kết thúc ở ga Hố Nai.

Xe tải đón về Long Bình. Ấn tượng nhất là cái cổng lớn ghép bằng những tấm ghi thô sơ, trông xấu thậm tệ. Sau mấy ngày đi tàu, mồ hôi chua loét. Cả đoàn tranh nhau ra cái giếng to tắm giặt. Lần đầu tiên biết nhai bo bo toàn tòng. Những hạt bo bo màu nâu nấu cứng, nhai lép bép trong miệng. Vậy mà mỗi đứa cũng chỉ kịp hớt hai bát là nhẵn nhụi. Ở ngoài Bắc chúng tôi ăn cơm độn ngô vàng. Còn trong này là bo bo. Lương thực cho lính như vậy là có khác nhau theo từng vùng.

Chúng nó bảo ở đây gần Sài gòn lắm rồi. Những đứa có họ hàng, người nhà, gửi đồ lại cho nhóm cạ rồi tếch đi chơi luôn. Không biết có đứa nào tếch thẳng không? Tôi không có ai quen biết nên nằm lại. Vét mấy đồng còn lại theo ra cổng ăn đậu phụng chiên da cá, uống nước rau má.

Cái nước rau mà hàn tính đó, nó xỏ tôi một vố sau này. Kể luôn là thế này: Hồi ra viện sư đoàn, trốn về Sài gòn cùng thằng Trung thì có đến ở nhà bác nó tá túc chờ tàu. Nhà chật, lại đông người. Gồm có hai bác, hai cô con gái trạc tuổi tôi. Lại thêm tôi với thằng Trung thành 6 người trong một diện tích khoảng 10m2. Tôi với thằng Trung ngủ trên gác lửng cùng ông bác. Còn bác gái với hai cô ngủ tầng trệt. Hồi cơm chiều xong, ra ngõ làm ly rau má mát lạnh cho khoái khẩu. Đến đêm thì bụng đau quặn, sôi ùng ục. Cá mắm Căm pu chia tẩn nhau với nước rau má lạnh Sài thành dữ dội. Đành ôm bụng đi xuống nhà cầu. Lối đi lại phải qua giường các quý bà. Thế mới bất tiện.


[FONT=&amp]Đêm đó tôi diễu qua diễu lại cái giường đó không dưới 5 lần...Nhưng điều đó không tệ bằng cái thứ âm thanh trung thực, lại không phải tiếng vĩ cầm do tôi, đúng hơn là do rau má, phát ra từng đợt qua cái cửa tạm kề giường ngủ bằng tấm ri đô. Mặc dù tôi đã cố gắng vận hết sức để giảm thiểu volume. Báo hại là hình như càng cố gắng, khi buột ra thì nó càng vang vọng đến tàn tệ. Bây giờ nghĩ lại vẫn thấy xấu hổ nhục nhã. Huống hồ là khi đó mới hai chục tuổi đời sĩ diện chứ mấy. Khổ quá! Ở Sài gòn cũng có cái khổ của Sài gòn. Đâu cũng có những nỗi khổ riêng.[/FONT]

[FONT=&amp]Thôi tiếp câu chuyện cho chóng quên. [/FONT]

[FONT=&amp]Được mấy bữa thì xe quân sự đến đón. Cái xe ca trong này cũng khác xe ngoài Bắc. Nó dài ngoẵng và xanh xanh đỏ đỏ rất vui mắt. Lúc đó cũng chẳng biết mình được đón đi đâu. Chỉ biết xe thẳng hướng Sài gòn là thấy sướng. Nhưng nó chỉ chạy đến Thủ Đức thì rẽ phải. Chẳng thấy hòn ngọc Viễn đông trong mong ước đi qua. Dần dần thì chỉ thấy rừng cao su mút mắt. Cảm giác nữa là đường quá nhẵn, quá tốt, khác hẳn những con đường thơ ấu đầy ổ gà ngoài Bắc. Hồi nhỏ đi sơ tán theo viện bố, tôi hay được ngồi ké ghế trước cái com- măng- ca *** vuông của ông. Đường Hà nội lên Vĩnh phúc có 50 km mà nó chạy mất đến 3 tiếng lận. Đây thì xe cứ vù vù lướt êm cuốn mù bụi vàng. Bên đường thoáng qua, những quán nước có những nải chuối tây treo lủng lẳng. Thêm một nhận xét là chuối rẻ như cho, và toàn một loại chuối tây.[/FONT]

[FONT=&amp]CĂN CỨ TRẢNG LỚN[/FONT]
[FONT=&amp]
Cho đến khi chuyển từ trạm Long Bình về cứ của Sư đoàn 9 ở Trảng Lớn, Thị xã Tây Ninh năm 1978, tôi - một binh nhì 18 tuổi đời vẫn chưa có hình dung nào về chiến tranh trên bộ, về những ngày tháng mình sẽ đi qua cùng trung đoàn mình được bổ sung vào. [/FONT]

[FONT=&amp] Thị xã Tây Ninh, một thị xã biên giới xinh xắn và xanh ngắt nằm yên tĩnh giữa một vùng đất đỏ. Đoàn xe quân sự vừa dừng bánh, các dì, các em chìa tận cửa xe mời mua những bịch nước mía đá, những gói kẹo đậu phộng... “Mía ghim! Mía ghim....Năm hào một cây mía ghimm...”. Xe lôi, xe thổ mộ ngược xuôi. Toà Thánh Cao Đài, chợ Long Hoa người đi lại nhộn nhịp. Đám đông dân chúng thỉnh thoảng điểm sắc lính áo xanh. Trong một vài quán cóc, dăm ba thương binh chống nạng hoăc băng tay trắng toát, phì phèo điếu thuốc rê trên môi, nhìn theo đoàn lính mới ra chiều thông cảm...[/FONT]

[FONT=&amp]Chúng tôi được gom vào tiểu đoàn 31, một tiểu đoàn với chức năng huấn luyện bổ sung của sư đoàn tại căn cứ . Nhưng những ngày ở đó, cũng không có huấn luyện được thêm gì. Quanh khu căn cứ, có một đội quân đầu nậu thu gom "ve chai" các đồ thải, vật dụng chiến tranh, quân cụ...Tôi thấy hồi đó toàn các anh em lính cũ nằm trông cứ ở Trảng Lớn suốt ngày đi kiếm đồ trong căn cứ, giấu gom một chỗ. Đêm mang qua lỗ thủng hàng rào bán. Tấm ghi lót đường băng có giá nhất. Kế đến là tôn, cọc rào thép gai có các tai móc, cát tút đạn 105mm...Sau mót hết rồi thì đào dây điện. Thỉnh thoảng bị vệ binh rượt, bắn đùng đùng, quăng cả ghi mà chạy. Vệ binh phục ở các đường rào thủng "dân sinh" này là chắc ăn. Thu lại được thì cũng bán nhậu nốt.[/FONT]
[FONT=&amp]
Tiểu đoàn trưởng vệ binh sư 9 năm 78 tên là đại uý Thanh Nga. Ông này lúc nào cũng có mùi rượu. Nhớ cả anh Lan đội trưởng vệ binh cổng Trảng Lớn nữa... Một hôm, tôi đang ngồi uống nước mía, cái áo mút mang đi từ ở nhà khoác buộc trên cổ thì ông ấy với mấy thằng lính vệ binh xộc vào. À! Thằng này định bán quân trang! Bắt nhốt cho tao! Tội nghiệp cái thời đó! Cái áo mút cũng phải được mấy chục. Và nó không phải là quân trang mà ở nhà mang đi mặc trong quân phục cho khỏi lạnh. Thế là mình vào "boong ke", vốn là cái thùng dù tiếp vận Mỹ, chật và nóng điên người. Còn cái áo thu được thì tụi nó bán, nhậu ngay lúc đó. Cà tưng cà tưng lên rồi thì ném đá hoặc lấy thanh sắt đập vào thành boong ke làm chói ù hết tai. Nhậu tàn thì chúng nó thả tôi ra. Ông Thanh Nga lại còn ca mấy câu vọng cổ nữa, rồi chúng nó cười ầm cả lên...Tôi lủi thủi đi về tiểu đoàn huấn luyện. Ức nghẹn họng, nước mắt cứ giàn giụa vì từ bé đến lớn chưa bao giờ bị cư xử bất công như thế.[/FONT]

[FONT=&amp]Cái nhớ nữa ở Trảng Lớn là ổ bánh mỳ suất buổi sáng của lính. Cái bánh mỳ nho nhỏ thơm dậy mùi men đặc biệt. Nhất là khi nó vừa được dỡ ra từ bao tải còn nóng hôi hổi. Suất sáng điểm tâm này chúng nó liếm một phát hết nửa cái. Còn mình cứ dè dặt nhấm nháp. Cái bánh mỳ thơm, bột trắng và vỏ giòn tan, hơn loại bánh mỳ mậu dịch mà chúng tôi gặm suốt những năm thơ ấu. Nhớ sang cả cái lúc tụi tôi 4 đứa Tùng, Vinh, Anh, Thọ trong năm học lớp 9, trong một lần trốn tiết. Đổi 8 cái tem lương thực 250g lấy 8 cái bánh mỳ sừng bò, rồi lên hàng cây cơm nguội trụi lá mùa đông trên khách sạn Thắng Lợi gặm. Từ đó kết giao thành hội VAT. Bây giờ, cả bốn đứa đều vào vùng biên giới Tây nam này.[/FONT]
[/FONT]
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
[FONT=&amp]Trảng Lớn là căn cứ cũ của sư đoàn 25 QLVNCH trước đây, nằm ngoài rìa thị xã Tây Ninh, bao gồm nhiều phân khu độc lập. Các phân khu giới hạn bởi các hàng rào thép gai phủ đầy cỏ Mỹ, vạch ngang dọc những lối chồn đi. Bấy giờ đang là mùa khô. Ngày nắng, bụi, nhưng đêm về gió chướng lùa qua lỗ vách tròn, vốn là những tấm ghi lột lên từ đường băng dã chiến cũ, lạnh gai người. Bình minh mùa khô phương nam thật lạ. Chân trời đỏ rực với những dải mây thấp, loang lổ xám. Chưa đến giờ tập thể dục. Tôi còn đang ngái ngủ bỗng dỏng tai nghe. “Vi vi vuuut.....Oành! Oành...! Tất cả chạy nháo ra sân. Trung đội trưởng hét lên: “Tản ra! Nằm xuống! Pháo 130 ly nó giã đấy! Mấy quả nữa bắn trúng dãy nhà tôn bỏ không mé bên trái, giật tung mái bay xoang xoảng. Tôi không còn thấy sợ nữa nhưng bắt đầu hiểu rằng: Chiến tranh thực sự rồi! Nó bắn thêm mấy quả nữa rồi ngưng, chắc sợ ta dò toạ độ phản pháo hoặc oanh tạc không quân. Cỏ Mỹ khô bắt lửa cháy giần giật. Tàn lửa bay tung toé trong khói cuồn cuộn.

[FONT=&amp]Ngày 25/11/1978, buổi tối, trong khi đang điểm danh đơn vị, bầu trời thị xã đột nhiên sáng bừng bởi hàng trăm vệt đạn vạch đường xé toạc màn đêm yên tĩnh. Lính mới nhốn nháo cả lên. Đại trưởng hô: “Giữ nghiêm hàng ngũ! Các đơn vị phòng không đang diễn tập đánh máy bay địch! Tiếp tục điểm danh đi”.[/FONT]

[FONT=&amp]Đêm đó, tôi đã cảm thấy hơi thở của những ngày báo động cũ đang phả nóng tai mình. Đã sáu năm trôi qua, kể từ cuối năm 1972, bây giờ mới lại nhìn thấy đạn cao xạ vạch đỏ trời đêm.[/FONT]

[FONT=&amp]HAI CÂY ĐÀN GUITARS[/FONT]

[FONT=&amp]Đại đội có hai cây đàn guitar. Thằng Long Hàng Giấy có một cây, thằng Bình nhóm tôi có một cây. Thằng Long là học trò thầy Văn Vượng. Như tôi đã nói ở phần trước, nó chơi cổ điển bài bản. Các bản Vũ khúc Tây Ban Nha, Arabia, Bài ca hy vọng, Cô gái vót chông….đâu ra đó. Kỹ thuật t’remolo hai ngón của nó rất nhuyễn. Tôi thì tự đọc giáo trình Maloloff cùng các thế tay, các hợp âm đơn giản ở nhà. Chủ yếu học chuyền tay mô-đẹc đường phố là chính. Nhưng khi là lính, nhất là đã nhậu sừng sừng thì “chát bùm bùm” có vẻ thích hợp hơn là “t’remolo”. Văn hóa bình dân quần chúng, ca khúc chính trị chiếm ưu thế với âm nhạc hàn lâm a ca đe my con sớt. Điều đó được thể hiện hùng hồn qua số nhóm khán giả của tôi đông hơn gấp nhiều lần. Khi thằng Long đàn thì chỉ mỗi mình nó nghe. Còn khi tôi đàn, đúng hơn là bật bông phừng phừng phừng…thì chúng nó lăn vào vỗ thùng đàn thay trống bass. Nhiều thằng gõ thìa theo phách. Các loại khác thì gào lên một cách đáng sợ. Thế mới biết cạnh tranh nghệ thuật thật là khủng khiếp! Tôi thật khoái chí về điều này, mặc dù vẫn vừa nể, vừa ghen tức với cái thằng đàn một mình lặng lẽ kia. Có lẽ tôi đã đi đúng với định hướng dòng chảy văn nghệ thời chiến. Đàn đi liền với hát, vừa mồm vừa tay. Tay chẳng ra gì thì đã có cái mồm kia nó giúp đỡ. Thế cũng tốt![/FONT]

[FONT=&amp]Một buổi tối, C bộ sau cữ nhậu gọi tôi xách đàn sang. Tôi chẳng ngần ngại gì mà không thể hiện. Xem nào? Cuộc đời vẫn đẹp sao này; Hạnh phúc ơi, mau đưa ta về chốn cũ xa xôi, mà thời gian trôi đi ta có thấy đâu…này. Rồi là: Hoàng hôn buông xuống bên sông êm đềm…mờ xa thành phố lung linh ánh đèn…Khúc ca mùa hè, nắng trong chiều về…Các bạn chắc còn nhớ những bài hát hay hay, trữ tình… trong thời gian cả nước hát hành khúc đó. Mặc dù không phát trên đài, không in các bướm nhạc, nhưng bằng cách nào đó, nó vẫn được các tay chơi nghiệp dư và không nghiệp dư hát, đàn ở các nơi không chính thống.[/FONT]

[FONT=&amp]Chát phình phình…! C bộ ngày càng bốc. Một đám lính B tôi nữa kéo qua. Thủ trưởng ơi nhảy đi! Được! Mấy thằng em nhảy đi. Thế là chúng nó nhảy giật đùng đùng không khách khí. Sân đất bụi mù dưới trăng suông. Thằng liên lạc té nước ra sân cho khỏi bụi. Lính Hà nội lăn vào nhảy tiếp. Thủ trưởng ở đây không giống thủ trưởng ngoài Bắc, hay thật! Tàn cuộc vui, C trưởng (tệ thật, không nhớ tên) bảo tôi ở lại. Sau khi hỏi han tên tuổi trích ngang…anh ấy bảo tao sẽ gửi mày lên đội văn nghệ Sư đoàn. [/FONT]

[FONT=&amp]Hai hôm sau, tôi khoác ba lô, đội nắng lội bộ lên đội văn nghệ đang tập trung, chuẩn bị biểu diễn cho ngày 22/12. Ối giời là giời! Mừng khấp khởi. Thằng Bình tặng cây đàn của nó cho tôi. Từ nay chia tay mấy đứa cùng lớp cũ Phan Đình Phùng. Chúng nó cũng mừng cho tôi, nhưng chắc cũng khá buồn.[/FONT]

[FONT=&amp]Lên đến nơi thì đội đang tập. Tạm dừng mươi phút để chú phụ trách xem các giấy tờ tôi trình. Gọi là chú vì tóc chú ấy cũng có những sợi bạc rồi. Nào chơi thử một bản đi. Thế là tôi chơi bản Danube waves đúng giáo trình của F. Ianovici. Được rồi! Thử hát một bài nhé! Tôi hát: …Cả tình yêu, mang cho ta nhiều nỗi xót thương đau. Giờ đây không biết em ở phương nào…Được rồi! Đội tập tiếp nào! Còn em xuống bếp báo cơm nhé![/FONT]

[FONT=&amp]Ăn cơm trưa xong thì anh Đoàn, tay trống trong dàn nhạc, gọi tôi vào buồng riêng của anh ấy. Anh ấy cũng người Hà nội. Câu chuyên lan man ca khúc. Anh ấy cũng thuộc nhiều bài hát “Nhạc trẻ” thời đó. Một thời để yêu, Tình ca hồng, Trong nắng trong gió… các bài trong băng Thanh Lan, Nhạc trẻ 2… đang thịnh hành. Cuối cùng, anh ấy hỏi tôi là có vàng không? Hai chỉ thôi! Em làm gì có vàng, và để làm gì? Không có à? Được rồi, chú em có năng khiếu đấy! Để anh nói giúp cho.[/FONT]

[FONT=&amp]Buổi chiều. Tôi được thông báo chính thức là đội văn nghệ sư đoàn đã đủ biên chế rồi. Đến khi khác có dịp thì sẽ gọi lên. Ngay chiều tối hôm đó, tôi lại vác ba lô cùng cây đàn về tiểu đoàn 31. Lòng không buồn lắm, vì lại được sum họp với mấy thằng cùng lớp. Cười lên đi em ơi! Dù nước mắt rớt trên vành môi. Hãy ngước mặt nhìn đời…Bạn có biết ca khúc này của Lê Hựu Hà không?[/FONT]

[FONT=&amp]Cuối cùng thì âm nhạc hàn lâm và ca khúc chính trị, “t’remolo” lẫn “chát phình phình” , đàn nào thì cũng đều lên đường ra chốt biên giới hết! [/FONT]
[/FONT]
 

Picnic

Xe tải
Biển số
OF-116537
Ngày cấp bằng
12/10/11
Số km
376
Động cơ
389,350 Mã lực
...
Đến 4h chiều, đơn vị hành quân ra ga Phủ lý, giữa hai hàng vệ binh lưỡi lê tuốt trần. Từ sân vận động ra ga tàu chỉ khoảng 1 km. Tôi vừa đi trong đội hình hành quân, vừa ngoái lại. Nhìn thấy con em gái với mẹ thằng Thắng Hàng Bè, gia đình thằng Lâm và một số gia đình khác đuổi theo hàng quân. Thằng Thắng học khác lớp nhưng cùng trường với tụi tôi. Họ xông vào thì vệ binh gạt ra ngay. Mấy thằng lính Hà Nội nổi khùng vặc lại. Họ quấn túm lấy nhau. Chao ôi là nước mắt...!

Thành ra bây giờ cứ xem lại đoạn đầu đặc tả cảnh tòng quân trong phim "Đàn sếu bay qua" thì cổ họng tôi nó như nghẹn lại…Một cô gái váy trắng lớ ngớ, len lỏi tìm người yêu tòng quân giữa hai hàng thiết giáp. Tiếng kèn vang vọng lên hành khúc. Và hộp bánh bích-quy sinh nhật tặng người yêu của cô đổ òa, tan vụn dưới xích xe tăng, tan vụn dưới những gót quân hành.
CHUYẾN TÀU QUÂN SỰ


Đến ga Nam Định, tàu dừng một lát ngắn. Rất đột ngột, bố T.Anh xuất hiện ở ngay đầu toa. Chúng tôi cùng chạy đến. Ông đã từng học ngành đường sắt ở Bắc Kinh. Lúc đó, ông làm cán bộ điều độ tại ga Hàng Cỏ nên biết rõ hành trình của các chuyến tàu. Chỉ ông mới có đủ trách nhiệm và quyền hạn cần thiết để lên toa quân sự này. Người cho chúng tôi một ít tiền và dặn rằng: anh em chúng mày, dù ở đâu cũng phải phải bao bọc lấy nhau.

Bố nó cũng như bố tôi thôi! Mấy tháng trước, khi vừa thi xong nghỉ hè. Chúng tôi toàn đạp xe lang thang ngoài đường, đi chơi về muộn. Chổng mông tắm ở máy nước công cộng cho khỏi nóng. Khuya mới về nhà nó lục cơm nguội ăn, rồi lăn ra nền ngủ. Sự hiện diện của ông tại toa này, như nhắc rằng những ngày hè cuối cấp đó còn tươi rói. Rồi ông xuống tàu, lên chuyến tàu tránh ngay tại đó ngược trở lại Hà Nội. Tôi vẫn nhớ lúc đó trời còn chưa tối hẳn, mặc dù đèn hành lang trên ga đã sáng. Nước mắt anh em tôi giàn giụa…


Đọc đoạn này xúc động quá cụ ạ !
 

Chã Nhỏ

Xe điện
Biển số
OF-115758
Ngày cấp bằng
6/10/11
Số km
4,107
Động cơ
425,516 Mã lực
Nơi ở
Lương Sơn, Hoà Bình
hồi ấy lớp 10 = lớp 12 bây h mà
vấy cả hồi ấy đói khổ con ng nó cũng khác không đỏ da thắm thịt như bạn của cậu bây h chứ sao
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
RA CHỐT

Ở căn cứ thêm mấy ngày nữa, ngày 8/12/1978, chúng tôi lên đường ra chốt.

Lại lên xe. Nhưng không phải xe ca nữa, mà là xe REO, loại xe vận tải quân sự của Mỹ. Chạy về hướng Sài Gòn à? Ai cũng thắc mắc, mặt trận ở hướng Tây kia mà? Lại qua những xóm ấp yên bình, những cánh đồng, trảng mía ngút tầm mắt, sông Vàm Cỏ đông nước xanh ngăn ngắt, thị trấn Gò Dầu hạ tấp nập... Chóp núi Bà Đen uy nghiêm chầm chậm xoay mình theo hướng xe lăn....

Bây giờ thì chóp núi ấy đã ở phía sau chúng tôi, hơi chếch về tay phải. Có nghĩa là trước mặt là hướng chính Tây...Đường bắt đầu vắng teo. Cánh đồng không cày cấy cỏ dại dày rịt, vàng úa. Một con đê thấp nằm chắn ngang cánh đồng, đùn lên là mấy ụ đất bao quanh mấy khẩu pháo tự hành lừng lững. Dãy lều bạt lụp xụp nửa chìm nửa nổi. Đơn vị pháo chiến dịch 175mm (pháo Mỹ) đấy! Cửa khẩu Mộc Bài đấy! Biên giới đấy! Ôi chao biên giới là thế này đây...! Nó không như hình dung của tôi. Đoàn xe bình thản vượt qua ranh giới vô hình ấy. Chúng tôi ngoái lại nhìn nước Việt một lần nữa. Ôi đất nước mẹ tôi em tôi! Có lẽ nhiều nghìn ngày nữa, trên những con đường đầy khói bụi của chiến tranh, có thể tôi sẽ gặp, hoặc không gặp lại Người!

Cầu Gò Dầu hạ bây giờ. Không còn cây cầu sắt nữa. Ảnh tôi chụp trên đường về thăm lại chiến trường xưa



Đồng không mông quạnh. Thốt nốt mọc theo những bờ ruộng thành từng cụm hoặc đơn lẻ. Xe chạy nhanh và xóc lắm. Cả bọn bám thành xe, nghiêng ngả. Gần đến ngã ba Chi Phu, đoàn xe rẽ trái xuôi về hướng nam theo con đường đất chừng 1.5 km rồi dừng lại. Bộ đội xuống xe, tập trung dưới một chòm thốt nốt khá rộng. Đã có một số các “thủ trưởng” nhốn nháo chờ sẵn đón chúng tôi ở đó. Một cha gầy nhẳng, thấy tôi xách cây đàn gọi nhắng lên:”Tuấn ơi! Tuấn ơi! Lấy thằng này!”. Các anh ấy là cán bộ tiểu đoàn 4 lên thẳng trung đoàn chọn quân rôì dẫn về. Tôi và nhiều anh em Hà Nội khác được điều về tiểu đoàn 4, trung đoàn 2, sư đoàn 9 thuộc quân đoàn 4. Anh Tuấn - hỗn danh Tuấn “còi” , trung đội phó thông tin tiểu đoàn dẫn tôi và đoàn lính mới tò te băng đồng về chốt. Bố này muốn doạ , hoặc ra điều ta đây lính cũ thỉnh thoảng lại nhắc: “Bảo đi khom là đi khom, bảo chạy là chạy rõ chưa! Không 12.8 mm nó quất cho bỏ mẹ!”. Tiếng thì eo ** như con gái, nghe vừa tức, vừa buồn cười.

Biên giới ngày xưa bây giờ như thế này. Trận địa pháo 175mm ở bên tay phải, cách có khoảng 100m




Xế chiều hôm đó, chúng tôi về đến chốt Long An. Địa bàn chốt giữ của tiểu đoàn nằm trọn trong vùng Mỏm Vẹt, phía nam cách ngã ba Chi Phu chừng 4 km.

Tiểu đoàn bố trí đội hình hàng ngang theo chiều dài một con đê thẳng tắp. Đại đội 2 nằm ngoài cùng, gần phum chùa có cái mái ngói đỏ. Tiếp đó là đại đội 1. Đại đội 3 nằm nhô lên phía trên đội hình tiểu đoàn chừng 350m trong một cụm nhà cũ đã bị phá huỷ. Đại đội 4 - đại đội hoả lực nằm gần tiểu đoàn bộ, hơi chếch về bên trái. Đã bắt đầu mùa khô nhưng những căn hầm nửa nổi nửa chìm tựa vào bờ đê vẫn toát lên mùi mốc ẩm. Thôi nhé từ nay vĩnh biệt thời huấn luyện! Ah ha! Cái phản lính dài dằng dặc trại Trảng Lớn trở thành niềm mơ ước. Còn cốc chè đậu đường đen thị xã Tây Ninh, trong tiếng hát ma mị Khánh Ly chừng thuộc một thế giới xa mờ. Thôi tiến lên nào, anh lính chiến!...

Con đường ra chốt năm xưa trống bốc. Không có nhà cửa phum sóc như thế này (3/2011)



Chập tối. Các cán bộ lục tục về hội ý tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng lúc đó là anh Huỳnh Ngọc Sơn. Chính trị viên là anh Sông. Các anh ấy gọi tên hiệu anh ấy là “già như Sông”

Đêm đầu tiên lính mới về thì được nghỉ, không phải gác. Hầm thông tin thêm 6 người nên chật. Tuấn còi B phó bảo tôi ra ngoài hầm truyền đạt ngủ. Hầm này nằm ngoài cùng, cách hầm gác có 5-6m. Tôi ôm mùng ra đó nằm luôn một mình. Nửa đêm thấy lục sục trong mùng, rồi có con chết tiệt gì nằng nặng, ngồi chồm hỗm trên ngực mình. Bật quẹt lên mới thấy con chuột to kinh khủng. Nó phải to bằng bụng chân người lớn. Thấy ánh sáng, nó cuống lên nhảy tứ tung phá chạy nhưng vướng mùng không ra được. Bực cả mình! Tôi mới rình chụp tấm chăn dạ đỏ Nam định lên người nó rồi vồ được. Hai tay cứ thế bóp xiết của nợ nần nẫn ấy vì một tay không đủ vòng. Nó chết tươi ằng ặc qua lần chăn dạ. Sau tôi vất xác ra ngoài, kéo chăn ngủ tiếp.

Chuột ở chốt Long An nhiều nhưng anh Ky a phó hữu tuyến nói chưa khủng bằng chốt Ngã tư Nhà Thương. Bọn chuột xơi quen bông băng , máu mủ, thịt cắt lọc thương binh tử sỹ trong trạm phẫu nên con nào con nấy núc ních, thành tinh cả. Thằng Hải cụt dưỡng thương xong mới về đơn vị. Chưa kịp nhận nhiệm vụ thì đêm đó, một con chuột đại tướng, có lẽ là con đầu đàn, ngửi mùi da non chỗ ngón chân cái cụt của nó táp ngay một miếng. Thằng này kêu ré lên, máu tuôn ướt vạt mùng. Hôm sau lại phải cho lên K.23 điều trị tiếp. Trạm phẫu được ưu tiên thực phẩm cho anh em thương binh. Hồi đó đánh gần biên giới nên ngoài thịt hộp, mỳ tôm, rau xanh… thỉnh thoảng còn có trứng tươi do Hội Phụ nữ tỉnh Tây ninh và các má gửi cho. Các anh què đánh chén xong, vỏ hộp thịt, vỏ trứng xả bừa bãi. Đêm chuột kéo vào bãi xả càm vỏ hộp, tha vỏ trứng lục sục ầm ĩ như địch vào. Lia đèn pin, thấy khắp bãi cả đàn chuột chạy rầm rầm.

Tình hình những ngày cuối năm 1978 ở địa bàn đứng chân của trung đoàn 2 khá yên tĩnh. Ta và địch cách nhau một cánh đồng rộng khoảng 1.2km. Ngoại trừ một lần vào lúc chập tối, tiểu đoàn trưởng Sơn lệnh cho đại 3 mang cối 60 tập kích địch để thăm dò. Khẩu đội cối bò lên trước đội hình khoảng 600m, nạp liều 3 bắn chừng hơn chục quả. Địch trả lời bằng 12.8 mm toang toác suốt đêm.

Hầm của trung đội thông tin nằm gần hầm tiểu đoàn. Ban ngày, tiểu đội hữu tuyến củng cố lại dây dợ máy móc. Tiểu đội vô tuyến 2W chúi đầu học bảng mật danh mới. Thằng Vỹ, thằng Mạnh, Thằng Ban trố suốt ngày lầm bầm như cầu kinh: “01 tiểu đội, 02 trung đội, 03 tiểu đoàn, 04 trung đoàn....” Cha Nhương - tiểu đội trưởng 2W suốt ngày càu nhàu vì quân lâu thuộc. Nhưng tôi dám chắc nếu kiểm tra thì chính bố này thể nào cũng tạm tịt nhất. Đã thế lại còn cái tính hay chê, bôi bác người khác. Chẳng hạn kể chuyện anh Hoạch bên hữu tuyến, hồi mới giải phóng Sài Gòn cứ tưởng cái bồn cầu là chậu vo gạo. Thế là cứ tống gạo vào vo. Đến khi giật nước gạo trôi đi sạch cứ thắc mắc um lên. Lại còn luôn mồm chửi tiện nghi của bọn tư bản là thâm độc. Hay chuyện Khương “khàn” dưới đại 1 dẫn lính đi khao. Không biết gọi phin cafe là gì mới e hèm cất giọng khàn khàn: “Này cô em! Cho một số cái nồi ngồi trên một số cái cốc” ! Hết biết!

Chỉ huy sở trung đoàn 2_ Ngã ba Chi phu bây giờ.



Tuy tiểu đoàn bộ nằm lui về sau đội hình nhưng vẫn tổ chức gác ba vọng đề phòng địch bâu bám mật tập. Tôi đã biết định vị sao Tua Rua để căn giờ gác. Trong đêm, nếu ếch nhái đang rỉ rả ầm ĩ mà tự nhiên im bặt, hoặc chim đêm trong chòm cây phía trước bỗng dưng xao xác là phải coi chừng. Luồn hào về bấu tay anh em dậy rồi trở lại vị trí gác ngay. Hãy cúi thật thấp sát mặt đất, dùng nền trời đêm sáng mờ làm phông sẽ dễ phát hiện địch hơn.

Lại còn muỗi mới khiếp. Muỗi Chi Phu có họ với muỗi Đồng Tháp mười, con nào con nấy to như con châu chấu con. Áo ka ki ga ba đin Nam Định không là cái đinh gì. Vòi muỗi xuyên qua hết. Muỗi đốt không ngứa mà đau nhói vì toàn muỗi đói. Muỗi lăn xả cảm tử xông vào đốt người. Không được đập vì sẽ gây tiếng động. Cũng không được dùng dầu gió xoa vì ban đêm trên đầu gió, mùi dầu sẽ lan rất xa. Chỉ được phép vuốt thôi, vuốt đến đâu lép bép đến đó... Có anh (chắc là con bác Ba Phi) còn kể là hồi mùa mưa, mình nằm trong màn. Muỗi bâu kín ngoài màn hết lớp này lớp khác, một lúc thì dây màn (dây dù) đứt phựt. Lỡ để một ngón tay sát chân màn, muỗi châm ngay. Những con khác không châm được thì châm ngay vào bụng con đang hút máu mình thành một dây chuyền dài hàng mét. Tóm lại là cũng biết làm ăn theo kiểu hợp tác xã.

Tôi được điều xuống đại đội 1 cùng với anh Ky. Đại trưởng đại 1 lúc đó là anh Thẩm, người Hà Bắc. Đại đội phó là anh Liêu, người Hà Nam Ninh. Ngay ca gác đầu tiên khi phối thuộc với đại đội 1 ở chốt Long An là tôi đã nổ súng “tiêu diệt địch” rồi. Đang ngồi gà gật lơ mơ trên thành hầm quan sát sở đại đội thì giật mình có tiếng động. Thằng “địch” đen đen ngồi chồm hổm cạnh bờ ruộng. Nó còn chống nẹ, cánh tay áo phất phất...Người tôi túa mồ hôi lạnh, nhưng tay vẫn kịp xiết cò. Khẩu đại liên bên tay trái ăn theo tằng tặc một tràng. Tất cả túa ra hầm. Anh Liêu đại phó hỏi mày phát hiện hướng nào? Sao nó không bắn lại? Tôi nói không biết! Chắc bị tiêu diệt rồi, kia kìa! Lão ấy với thằng Đồng xồng xộc vọt hào lên đấy luôn. Đ...má! Ông ấy chửi ầm ĩ... Tiêu diệt gì bay cái gốc chuối cụt? Lúc đó vừa sợ, vừa ngượng, nhưng cũng thấy thêm yên tâm ấm áp nữa. Vì lúc đó chưa hết ca, chúng nó vẫn còn lục sục thức cùng với mình chán...!
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Những ngày rảnh, mà nằm chốt thì toàn những ngày rảnh. Rất khoái! Không vất vả như thời huấn luyện. Chỉ có mỗi ban đêm khổ vì gác địch. Những ngày như thế, tôi xách AK đi vẩn vơ dọc bờ mương bắn cá. Tháng 12 rồi mà sen hồng, súng hồng vẫn nở. Điều đó quả là lạ với một anh học trò mới đi bộ đội. Nhớ sen hồ Tây, cữ tháng chạp là sen tàn. Chỉ còn những cọng khô, tiêu điều xơ xác. Lá sen tàn, quăn lại trong gió bấc. Đầm sen hiu hắt, lấy chỗ cho những con le le lầm lụi, chổng mông lên lặn hụp kiếm mồi. Ở đây sen, súng vẫn rộ như mùa hè. Nước trong leo lẻo… Đứng rình một lúc, từng đàn cá “mã giáp” to cỡ bàn tay từ từ nổi lên. Thân cá dẹp, lốm đốm chấm hoa, đôi râu vây ngực dài thướt. Đích thị cá mã giáp(!). Tôi há cả mồm ra mà nhìn. Nghĩ thầm sao cá mã giáp ở đây sao nó to khủng thế?

Ngày bé, tôi ham nuôi cá cảnh. Buổi trưa hay mò ra hàng mấy bà bán cá, nơi tiếp giáp giữa chợ Đồng Xuân và chợ Bắc qua. Cá gì mà tôi không lạ? Vạn long, mã giáp, thần tiên, sê can, hồng tử kỳ, kiếm mắt đỏ, mún, ngựa vằn, hắc quần, mây chiều…Rồi chọi hồng, chọi tím than…Rẻ nhất, mắn đẻ nhất là mấy anh khổng tước. Con đực bé tí và đỏm dáng, lúc nào cũng xun xoe quanh con cái, rình húc *** vào cái bụng đầy trứng. Cái giống khổng tước cái, động tí là chửa... Tóm lại không thiếu loại gì tôi không biết. Nhưng quả thực cá “mã giáp” to như bàn tay thì chưa thấy bao giờ.

Bụp! Cá láng trắng nước. Tôi lội ào xuống vớt được mấy con chạy về khoe ầm lên. Các anh ấy ôm bụng lăn ra cười. Mày bảo gì? Cá mã giáp hả? Mã giáp là cá gì? Ối giời ơi…! Mấy con sặc bông mà bày đặt mã giáp.

Lại học được thêm một từ mới :”bày đặt”. Đơn vị năm đó toàn lính Bắc, từ quan tới lính. Nhưng ngôn từ thì điển hình rặc Nam bộ, tuy vẫn giữ giọng Bắc. Từ đó, tôi quen dần với những từ :”cà chớn”, “dễ nóng”, “bầy hầy”, “siêng nhác”, “nói nam nam”…Và cũng học thêm một điều nữa là bắn cá xong phải lấy miếng mùng rách vớt ngay.. Vì nó bị sức ép, bị choáng thôi. Chỉ một lát sau là nó hồi lại. Cá mang về đun với lá, với đài hoa cây chân vịt chua cọng tím là món ăn hàng ngày của lính chốt.

Bố Nhương lại có kiểu bắt cá khác. Không biết anh ấy kiếm đâu được quả đạn B.40 lép liền tháo ngòi nổ ra. Buộc vào một thanh tre cứng dài chừng 2m rồi vác xuống cái đìa cạn gần đại đội 4. Vào xin ít liều cối tọng vào đầu đạn đốt. Thuốc nổ TNT bắt lửa cháy thổi ra đen kịt. Thế là cha ấy gí cái dụng cụ bắt cá quái dị ấy xuống đìa. Rà đi rà lại một lúc như đi cày cho thuốc cháy hết rồi lội ào xuống. Quờ quạng, quăng liên tiếp lên bờ những con cá lóc đen bị say thuốc to cỡ bắp tay. Tôi ngán cái dụng cụ nghề cá ấy quá. Kinh bỏ mẹ! Thôi! Để em xách cá về cho nào...

Ăn cá mãi cũng phát chán. Có thằng còn đập chết con chuột đồng. Phanh bỏ ruột, ướp ngũ vị hương, kẹp tre tươi nướng vàng lên chén ngay. Lần đầu tiên tôi mới thấy người ta ăn thịt chuột. Dù đọc hồi bé, biết rằng ở làng Đình Bảng bên Bắc Ninh, cỗ chỉ đóng tư. Và chỉ có cỗ nào to mới có thịt chuột đồng hấp, ép lá chanh dưới cối đá.

Buổi trưa nằm hầm, thiu thiu nửa ngủ nửa thức. Vẫn nhớ in cái nóng âm âm, giữa không gian tịch mịch, giữa cánh đồng chỉ nghe tiếng gió lào thào... Tịch lặng đến mức có thể nghe tiếng lá thốt nốt đang nỏ dần, cựa mình tí tách trên mái lá nóc hầm…Loạt xoạt loạt xoạt…Một cái đuôi đen dài thòng xuống, rồi cái lườn xanh bóng loáng duyên dáng ườn ra. Cái đầu nhỏ tí lại rúc vào phía trong mái. Phần thân béo núc lồ lộ. Chết mẹ mày con rắn mối! Ai cho ỉa lên đầu chúng ông? Mà phân của loài này thì rất khó ngửi. Thằng Đồng với cái que thông nòng, lấy cái thùng đại liên kê đứng lên. Roạt…! Vô mánh rồi! Cái đuôi tự rụng, văng ra giãy giãy. Nhặt lấy nốt! Nó để nguyên con kẹp cây, xuống anh nuôi cời than nướng luôn cả vỏ. Đó là kiểu nướng mọi: thơm phức, và thịt rất ngọt. Chấm muối ớt ăn thôi rồi ngon.

Bố trí đội hình phòng ngự tiểu đoàn 4, trung đoàn 2 tại chốt "Bờ đê", còn gọi là chốt Long An:

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Cả trận địa phòng ngự chúng tôi dàn hàng ngang, tựa vào bờ đê. Nhìn về phía địch thấy một rặng cây xa mờ. Buổi trưa tan sương, thấy rõ bên đó một mái chùa đỏ ngói. Còn ban đêm, đôi khi thấy những vệt đèn pha chấp chới rồi tắt ngấm. Chúng tôi đào khoét vào thân đê những cái hố chiến đấu hình móng ngựa. Những bụi cây ráy, cây điên điển lúp xúp che khuất những bờ đất mới đắp trên ụ. Còn ngủ thì trong những cái lán nửa nổi nửa chìm. Phần nổi đắp đất dày ba mặt chống đạn nhọn. Mái lán thì úp đủ các loại: chằm lá thốt nốt, che tôn hoặc lợp rạ sơ sài. Hầm và ụ hoàn toàn không có nắp đắp như hầm phòng không thời đi sơ tán máy bay Mỹ. Hẳn là hỏa lực cối pháo địch ở đây không đáng kể. Mọi hoạt động của đơn vị hoàn toàn diễn ra sườn bên này con đê.

Có một lần, tôi không biết gì, mới mặc nguyên cái áo lót có tay còn trắng ra chỗ cây xoài cổ thụ. Chỗ đó là đài trinh sát 27 của sư đoàn. Trên đó, tổ đài làm một cái sàn nhỏ. Họ nằm cả ngày trên đó quan sát binh tình địch. Điện đàm lúc nào cũng léo nha léo nhéo. Tính leo lên theo cái thang làm bằng thân cây tre buộc vào thân, lên đó xin các ông ấy cho nhòm qua ống nhòm xem địch nó thế nào. Các anh ấy chửi um lên, bắt tôi leo xuống. Đ…má, mầy mặc áo trắng nó tỉa cho phọt óc bây giờ! Nghĩ lại thấy đúng là điếc không sợ súng. Rồi cuộc đời nó sẽ còn dạy cho nhiều bài học nữa. Thể tích hình cầu, đạo hàm f(x) bậc 2 cùng đồ thị, hay những công thức tính lượng giác của các góc đặc biệt…ở đây chẳng có ý nghĩa gì hết. Phải nghe những người lính đi trước! Phải sống! Phải giết chết nó trước khi nó kịp giết mình là bài học có ý nghĩa nhất của chiến tranh.

Ở đại đội 1, tôi hay mò xuống trung đội 2 chơi. Ở đấy có thằng T và thằng Căn là bạn cùng đoàn. Anh Khương khàn, lính 75 quê ở Hà tây là trung đội trưởng. Anh ấy thường lọ mọ lấy xẻng bộ binh đi đào khoai nước ven đê, tống vào thùng đại liên để luộc ăn chơi. Tiếng anh ấy nói khíu khíu như tiếng ngỗng kêu. Không tinh thì chẳng nghe được câu nào. Chắc biết thế nên anh Khương ít nói. Chỉ cười hiền, khoe hàm răng ám khói thuốc rê vàng khè. Cán bộ đơn vị chiến đấu khác hẳn cán bộ đơn vị huần luyện. Ở Phủ Lý, cỡ trung đội trưởng như anh ấy thì cứ gọi là thét ra lửa.

Một hôm, tiểu đoàn gọi xuống, lệnh cho mỗi đại đội 5 người đi lấy gạo và thực phẩm. Thằng T cùng trong quân số được phân công. Nó đi qua chỗ tôi, dúi cho cái bàn chải với túyp thuốc đánh răng Ngọc lan còn mới. Nó kéo tôi ra, thì thầm bảo là tao biến luôn đây. Tao vẫn để cái chăn sợi Nam định với bộ quần áo đang phơi lại lán để chúng nó khỏi nghi. Mai mày xuống mà lấy nốt. Nói rồi nó khoác cái ba lô lép, chạy ù theo đám vận tải về trung đoàn. Tôi không biết nói một lời nào. Chỉ mong sao cho nó đi được thuận, chứ vệ binh họ tóm được thì khổ. Mà đã trông thấy thằng địch nào đâu mà bảo sợ, bảo hèn? Đến đêm, khi anh em trở về đại đội thì không thấy nó đâu nữa. Cũng chẳng thấy ai quát nạt, kiểm điểm những người còn ở lại. Bởi có lẽ còn bao nhiêu việc phải làm.

Thằng bạn thân nhất cùng lớp đã trốn đi. Mấy đứa kia thì đã sang tiểu đoàn 6. Từ nay lớp cũ còn mỗi mình tôi. Đêm đó thật buồn! Mé đất Việt, một quầng sáng hắt lên mây một màu vàng đục. Anh Ky bảo đấy là thị trấn Mộc Hóa. Nhìn thấy cái quầng sáng mà thèm, mà nhớ quê nhà. Cái quầng sáng ấy gần lắm! Tưởng chừng chỉ băng qua cái cánh đồng đầy cỏ lác này chừng hơn tiếng là đến nơi…Trời ơi là cái cánh đồng chó ngáp. Ban ngày xanh cỏ, loáng nước chói chang nhưng yên tĩnh. Ban đêm sôi động tiếng cá ăn móng, tiếng ếch nhái côn trùng, tiếng rắn trườn hay chuột chạy bùm bũm…Những âm bè lạc điệu ấy bị nhấn chìm trong một bè chính vĩ đại, là tiếng vĩ cầm của triệu triệu con muỗi đang rung cánh vu vu…Ca gác ban đêm, thấy cái gì cũng to ra, cái gì cũng kỳ quái như chứa đầy hiểm họa…

Cỏ lác trên đồng

 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Ngày 22/12/1978 - ngày Tết Quân đội đầu tiên. Ngoài tiêu chuẩn mà xe hậu cần B3 chở từ nước sang, chúng tôi còn tổ chức hun đìa, đánh cá cải thiện thêm. Từ “Tết Quân đội” cũng mới biết trong thời gian này. Với tôi, khái niệm tết là chỉ dành cho tết Nguyên đán, tết Trung thu. Từ nay, trong bộ đồ xanh của lính, tôi có thêm một cái tết nữa để mà mong đợi…

Tôi giúp anh Ky đánh vảy con cá “sộp” đen trũi, lớn hơn bắp tay. Cả đời chưa thấy con cá sộp nào to như thế. Các anh hẳn còn nhớ cái ngõ nối chợ Đồng Xuân với phố Hàng Chiếu? Cái ngõ hẹp ướt át, lúc nào cũng tỏa mùi tanh, thông ra ngay cạnh rạp Bắc Đô, nay nhiều quán bán bún ốc. Ở đó, các bà buôn toàn loại cá cao cấp. Trong các thúng sơn xâm xấp nước, những con cá quả *** hơi tròn, mình vàng hoa đen, những con cá sộp đầu nhọn vằn vện, thỉnh thoảng lên cơn giãy đùng đùng. Có con còn vọt ra, toài được xuống cống…Trong đám cá siêu hạng thời bao cấp khốn khó đó, chẳng có con nào bự như những con cá “sộp” này. Giờ tốt nhất hãy gọi tên nó là cá lóc. Không có các anh ấy lại chửi cho. Hết cá “mã giáp” lại đến cá “quả”. Đừng làm khổ chúng tao! Thực ra, khi còn đi cày, đi học ở quê nhà, các anh ấy cũng vẫn gọi là cá chuối, cá quả, cá sộp, cá tràu mà thôi. Ở Phúc Yên, nơi tôi sơ tán còn gọi con cá quả bé là con cá chõn. Nhưng ngôn ngữ phương xa nó có gì đó hấp dẫn mới mẻ, nó chứng minh sự từng trải. Hẳn vì thế mà người ta ưa dùng. Hết xảy!

Đã sạch vảy, tôi nhứ nhứ con dao, định mổ bụng moi ruột thì các lão đại đội rú lên rằng thằng Ky đâu? Xem nó kìa! Thằng này đ…biết làm cá! Anh Ky cười hề hề giằng lấy dao. Hắn khứa ngang thân con cá cả hai bên những đường chéo rất ngọt. Xát hành tím khô băm nhỏ, bột ngũ vị hương, tiêu, ớt lên thân cá…Sau đó, hắn đặt cá trong nhiều lớp bẹ chuối. Phía trong có lót đầy rau ngổ hái ở bờ đê rồi bó chặt lại. Xong rồi! Mày nướng đi! Thế là tôi nướng. Trở đi trở lại trên lửa than, bẹ chuối cháy đen vỏ ngoài vỏ trong. Thế là được!

Và cũng lần đầu tiên trong cái Tết quân đội đó, tôi biết uống rượu xoay vòng bằng bát sắt của lính. Được ngồi luôn với cán bộ đại đội. Rượu các anh ấy gửi mua từ Tây Ninh. Cái men cay và đắng của rượu mía Vàm cỏ đông đó ùa ngập hồn trong thằng trai mười tám, trong buổi trưa một ngày cuối năm nắng lồng lộng. Chẳng biết là tua thứ bao nhiêu nữa? Mái hầm luyênh loang chao nghiêng, bay bổng lên… Tôi nhớ mẹ, nhớ em, nhớ nhà... Lãng đãng đâu đó, có tiếng cười xa xăm của ai đó: “Thằng này xỉn rồi….! Ha ha…!”. “Khiêng nó vứt mẹ vào góc kia..Ha ha…!”

Tôi giàn giụa nước mắt. Tôi khóc.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN – TRẬN RỪNG TRÀM

Điểm qua thực binh và trang bị của trung đoàn 2 trước chiến dịch giải phóng Phnom Penh:
- Trung đoàn trưởng: Thiếu tá Nguyễn Như Thạnh.
- Các ban Tác chiến, ban Chính trị, ban Hậu cần
- 3 tiểu đoàn bộ binh gồm D4, D5, D6 (tiểu đoàn anh hùng) - tổng quân số khoảng 700 người
- Đại đội 16: Cối 120mm
- Đại đội 17: DKZ 75mm
- Đại đội 18: 12.8 mm
- Đại đội 19: Công binh - trang bị nhẹ.
- Đại đội 20: 1 B Thông tin vô tuyến máy 15W, 1 B hữu tuyến, 1 B truyền đạt
- Đại đội 21: Trinh sát - Trang bị nhẹ
- Đại đội 22: Vận tải - xe REO, xe Hoàng Hà, trực thuộc B3
- Đại đội 23: Trạm phẫu, bệnh xá trung đoàn
- Đại đội 24: Vệ binh - trang bị như đại đội bộ binh, bảo vệ sở chỉ huy trung đoàn ,trực thuộc ban Tác chiến.

Thống kê như thế để thấy rằng tại thời điểm đó, quân số dù đã được bổ sung vẫn còn lâu mới đủ quân số theo biên chế chính thức của một trung đoàn bộ binh chủ lực. Quân số cả sư đoàn thương tử vãn sau mùa mưa ác liệt năm 1978, trong chiến dịch Prasaut. Chúng ta đã từng xem rất nhiều phim về chiến tranh. Theo tôi, có bộ “Giải phóng châu Âu” của Liên xô có những cảnh quay chiến tranh tạm coi là thành công nhất. Còn mấy bộ phim chiến đấu nước nhà, muốn chân thực hơn có lẽ phải cho mấy bố làm phim cầm súng choảng nhau vài năm hãy cho về cầm máy quay. Làm quái gì mà đạn pháo bắn trùm lửa, khói cuộn lên như bom nấm tại điểm nổ? Đúng là đẹp như trong phim! Chớp nháng cái, đất đá chưa kịp rơi xuống hết thì đã có thằng toi rồi. Chiến tranh giản dị đến khắc nghiệt vô cùng. Diễn tiến tâm lý cũng chẳng lằng nhằng phức tạp trong thời điểm cận chiến. Mày sống tao chết hoặc ngược lại. Huy động và sử dụng tối đa các kỹ năng sống sót của con thú. Lăn đi! Nằm xuống! B.41 đâu? Bịt mồm khẩu đại liên! Mẹ kiếp!....Không sủa, không gầm gừ được thì văng tục!..... Có thế thôi! Sau này lắng lại, các xúc cảm con Người trở về, và được sự giúp đỡ của các nhà văn nhà báo lãng mạn mới hay mình đã chiến đấu vì Đất nước.

Cái thời điểm vừa chờ đợi hồi hộp, vừa sợ hãi rồi cũng đã đến. Đó là trận đánh đầu tiên.

Cán bộ tiểu đoàn đi họp quân chính về vào những ngày cuối cùng của năm 1978. Các đại đội cho người lên tiếu đoàn bộ nhận thêm một cơ số đạn. Hữu tuyến tổ chức thu dây ngay trong trưa 31/12/1978. Thông tin 2W nhận pin mới rồi xuống các đại đội nhưng cấm lên sóng. Mọi thông tin tạm thời dùng tiểu đội truyền đạt chạy bộ cho đến khi có lệnh mới. Kiểm tra toàn bộ vũ khí trang bị trước 14h. Đúng 16h30, toàn tiểu đoàn rời chốt hành quân theo dọc bờ đê về vị trí quy định. Tiểu đoàn bộ hành quân trước. Các đại đội lục tục đi sau.

Chiều hôm đó tôi đi với thằng Thống trung đội vận tải, thuộc đoàn Hải Hưng bổ sung vào đơn vị tháng 5/1978. Nó mới 17 tuổi, bé kẹ nhưng đi trước tôi ba tháng. Anh Sông thương nó nhỏ, kéo nó về làm liên lạc, sau lại thôi nên cho về B vận tải. Nắng chiều ửng sáng, gió mùa khô thổi mát mặt. Hai thằng tụt lại giữa khoảng C4 và D bộ, vừa đi vừa bắn bậy bì bọp vào những cái lá sen. Phấn khởi vô tư lắm, không biết coi địch là cái gì. Hồi vào chốt đến giờ, có biết mồm ngang mũi dọc thằng Pốt nó thế nào đâu? Đài và báo tuyền thông tin quân ta chiến thắng, giáng cho bọn lấn chiếm những đòn chí tử. Mai là trận vận động chiến. Cả sư đoàn, quân đoàn cùng nổ súng. Khoái lắm! Dần dần chúng tôi lại dấn lên bắt kịp đoàn quân. Anh Nhương chửi đ…má chúng mày bắn bậy nhưng tôi cứ phớt lờ. Nhìn tiểu đoàn dằng dặc, B.40, B.41, DK.82, 12.8, cối 8 cối 6 lích kích, ăm ắp đạn thế kia…trông oai hùng lắm! Lòng thầm ước giá cô bạn mến thương cùng lớp được thấy tôi hành quân trong đội hình này.

Nhiệm vụ nghe lỏm từ BCH: Tiểu đoàn 6 chủ công, tiểu đoàn 5 dự bị tấn công hướng chính dọc theo lộ 1, con lộ từ Sài Gòn đi Pnom Penh. Tiểu đoàn 8 (trung đoàn 3 - trung đoàn Hoa Lư) với tiểu đoàn 4 chúng tôi hộ công luồn sâu vu hồi cánh trái.

Tại vị trí tập kết, sau khi ăn tối, anh nuôi phát cho mỗi người một vắt cơm và gói bột gia vị là khẩu phần ăn ngày mai. Bữa tiệc tất niên năm 78 hoành tráng như thế đấy. Lính nằm ngồi thao thức hoặc gà gật dưới những tán cây phượng tây cổ thụ chờ lệnh xuất phát. Một cán bộ tác chiến sư đoàn được phái xuống đi cùng với mũi của chúng tôi. Lính bâu vào hỏi: “Thủ trưởng ơi! Năm nay ăn Tết ở đâu đây?” “Có thể sẽ ở tây S'vay Riêng!”. Anh ấy có cái đài bán dẫn mở nho nhỏ, đang phát đi bản tin báo gió mùa đông bắc...Chao ôi là nhớ nhà. Những giờ khắc cuối cùng của năm này, những người thân yêu của tôi đang làm gì?

Buồn ngủ quá! Muỗi lại lắm, nên tôi túm bốn góc nilon trùm lên đầu, tựa vào đống rơm ướt ngủ ngồi. Khoảng 2h30 sáng 1/1/1979, anh Ky tiểu đội trưởng vỗ mọi người dậy. Thì ra tôi cũng ngủ được một giấc. Tiểu đoàn 8 đang vượt qua đội hình chúng tôi. Kế đó đến đại đội 2 , đại đội 1.....Im lặng! Lầm lũi đi! 2W mở máy nhưng chỉ thông tin ám hiệu bằng cách bóp công tắc… Bùn lép nhép ngập cổ chân. Thỉnh thoảng đội hình dừng lại. Trinh sát đang bám địch. Lại tiếp tục đi xuyên vào một rừng tràm non cao đến ngực. Lá tràm toả mùi thơm hăng hắc. Nhưng rễ tràm nhọn hoắt mọc ngược, đâm vào đế giày đau điếng. Chả hiếu sao quân nhu hồi đấy sản xuất loại giày chết tiệt mỏng như vỏ trứng như thế!

Tiểu đoàn 8 đã sát địch rồi. Lệnh dừng lại, triển khai công sự tại chỗ. Đằng đông, sao Mai đã mọc. Đất bùn yếu nên chỉ sau 10 phút là tôi và thằng Thiệu “mù” - quê Đông Anh , Hà Nội đã khoét được một cái hố cho hai thằng nằm. Khoét sâu nữa thì nước nó rỉ ra lấp xấp. Cái hố nông, lủng củng rễ tràm. Trời sáng dần. Đã có thể quan sát thấy trước mặt chúng tôi là một cái phum rộng. Trong phum thấp thoáng mấy mái ngói đỏ khuất sau hàng cây ngoài rìa.

Lúc 5h30 - Phía bên lộ 1 hướng D6, D5, pháo 105mm của sư đoàn bắt đầu bắn chuẩn bị. Tiếng dề pa nghe ùng ùng. Cả đơn vị chộn rộn. Anh Sơn bảo truyền đạt lùa các đại đội lên máy. Dây không phải dải lên tiền tiêu. Tôi nằm im cạnh chỉ huy sở, nghe lỏm diễn biến. Cối 82 của D8 và D4 cũng lập tức lên tiếng. Địch giã lại ngay sau một lát ngắn. Cối 60 địch nện vài quả giữa đội hình tiểu đoàn tôi. Cứ mỗi lần nghe những tiếng “phọp, phọp” nhỏ xíu, khó mà nhận thấy ở đâu đó, lẫn trong nhiều tiếng nổ khác, anh Ky lại quay sang tôi hất hàm:”Nó đấy!” rồi chúi hố. Chúng tôi làm y hệt anh ấy. Nó “oành” xong phát lại ngoi đầu dậy. Trung đội thông tin không có ai bị làm sao. May nó chỉ phọp độ chục quả vào tiểu đoàn tôi, rồi thu tầm theo hướng phát triển của D8 đang xung phong.

Trinh sát đã cắt nhầm hướng. Đáng lẽ phải vòng qua sau phum này thì chúng tôi lại đâm đầu đúng vào nó. Bộ đội tiểu đoàn 8 không lên nổi vì sát phum là bãi mìn chống bộ binh dày đặc. Đạn 12.8mm và đại liên địch quất ràn rạt. Đại đội 2 tiểu đoàn 4 được lệnh xuất kích đánh vào sườn nhưng cũng bị vướng mìn không phát triển được. Địch mới được trang bị loại mìn KP.2 (còn gọi là K.978) hình trụ. Đường kính khoảng 8 cm, cao 15 cm. Dây bẫy vướng nổ sơn màu xanh lá cây nên lẫn hoàn toàn với cỏ cây. Khi vướng dây tụt chốt, liều phóng phía dưới đẩy mìn nhảy cao lên ngang ngực mới phát nổ. Văng nhiều mảnh nên gây sát thương rất lớn. Đã thế mấy thằng lính mới C1 thấy cối nó bắn lại nhảy lung tung mới bỏ mẹ. Nghe tiếng B trưởng Khương gào nghe như rít khản giọng: “Chạy đi đâu...? Nằm xuống...! Chết mẹ chúng mày hết bây giờ!”.

Lúc bắt đầu nghe tiếng nổ súng, tay tôi tự nhiên run bắn, nhưng một lúc thì cũng hết sợ. Bấy giờ, thằng Thiệu mù tư dưng dở chứng bảo tôi dịch ra cho nó đi ỉa. Tôi bảo nó bò ra đằng kia mà làm cái việc không đúng lúc ấy, chứ ai lại bĩnh vào cái công sự chung của tao với mày. Nhưng nó cứ phớt lờ đề nghị của tôi, lóng ngóng tụt quần. Tôi tức quá bò ra chỗ khác đào một lỗ khác nông choèn rồi nằm xuống. Đạn nhọn địch roàn roạt tước những mảnh lá tràm. Gí đầu những thằng lính mới chúng tôi xuống mặt công sự.

Đánh nhau cũng có “hiệp” của nó. Đến trưa nắng chang chang thì cả ta lẫn địch đều im tiếng súng để…ăn trưa. Chỉ còn vài phát súng lẻ tẻ.

Thương binh bắt đầu được cáng về. Chiều hôm đó lại đổ cơn mưa trái mùa. Mưa không to nhưng làm bọn chúng tôi khốn khổ. Vận tải cáng thương nửa nằm nửa bò, kéo trượt võng thương binh trên mặt bùn non như trâu kéo cộ. Bùn và máu bết đầy đáy võng. Về đến D bộ mới đứng dậy đi khom. Một số không có võng thì chắc chắn đó là lính mới. Không đủ võng thì bọn cáng thương buộc chân, tay thương binh treo xỏ trên đòn cáng, như người ta khiêng heo. Những thằng còn tỉnh rên la nghe thật não nề. Thương vong khoảng gần 3 chục, chủ yếu do mìn. Tôi nhìn thấy thằng Đức “vịt” Hàng Lược nằm trong số đó. Nó bị miểng mìn chém bàn tay và mảnh găm đầy ngực.

Cũng may hoả lực địch ở hướng này không mạnh. Cả đơn vị nằm cứng giữa rừng tràm non. Lá tràm che phủ chúng tôi. Địch cũng thôi không bắn nữa. Hướng chính D5, D6 cũng thấy nghe im im. Đến chiều tối có lệnh rút quân. Tiểu đoàn 4 đi sau rút trước. Nhưng lính tiểu đoàn 8 cứ chạy tràn qua đội hình chúng tôi. Nhiều anh lính cũ bên này quay sang chửi chúng nó là “tiểu đoàn mày là tiểu đoàn chạy à” thì bị chúng nó chửi lại. Lộn xộn không ra đội hình gì cả. Quân trang đợt cuối năm phát toàn loại quần “xanh gioóc”, tụi nó cũng rục đầy mặt ruộng. Địch phát hiện nên đồng loạt khai hoả hoả lực các loại. Nghe rõ lính nó gào truy kích: “Trô..! trô..! trô..!.” Chúng tôi dừng lại cho anh em D8 đi qua trước. Anh Sơn hô 2 khẩu đội 12.8mm giá súng đứng, kiểu bắn phòng không, bắn thẳng vào phía địch. Nó chỉ hô thế thôi chứ cũng không dám đuổi theo. Thế là D4 đâm ra rút sau cùng. Mệt mỏi, bết bát… chúng tôi về lại đúng vị trí xuất phát. Tập hợp đội hình xong rồi hành quân về đội hình trung đoàn ngay trong đêm...

Đêm ấy, nằm gom sau đội hình trung đoàn nên lần đầu tiên không phải gác. Để nguyên quần áo chua loét, toàn bùn khô đóng vảy, tôi quay ra kiếm mấy cái cọc đóng 4 góc. Rồi giăng mùng trắng tinh trên mặt ruộng, trải nilon ngủ một mạch. Bất kể cuộng rạ đâm nhói cả lưng. Hôm sau mở mắt trời đã sáng rõ. Kiếm được một con lạch mùa khô nước lờ lờ đục, bộ đội ào xuống tắm giặt. Lại có mỳ tôm và rau cải xanh mới chở từ bên nhà sang nên lính tráng được một bữa nóng sốt tỉnh cả người. Buổi trưa lăn ra ngủ bù tiếp. Chiều cán bộ đi nhận nhiệm vụ về phổ biến mai đánh tiếp hướng lộ 1. Không còn hồi hộp gì nữa, cũng chẳng còn ảo tưởng gì nữa. Trận ngày hôm qua, như nó đã từng quen xảy ra nghìn lần. Cái gì đến sẽ đến, cái gì đi sẽ đi. Mặc kệ đời!
 

Grey_owl_wild

Xe buýt
Biển số
OF-10681
Ngày cấp bằng
5/10/07
Số km
812
Động cơ
508,003 Mã lực
Website
www.cuadep.3-a. net
xin được vinh danh các anh lính tình nguyện Việt Nam trên chiến trường biên giới tây nam
http://www.youtube.com/watch?v=EpBe7Ior0NU

cụ Likecar&trip không đi phượt với Galloper nữa à mà vẫn lang thang trên này :D
 

Axe

Xe tải
Biển số
OF-8838
Ngày cấp bằng
25/8/07
Số km
253
Động cơ
539,230 Mã lực
Văn bác này giản dị và mộc mạc, đọc tưởng tượng đc ra cả làng quê bắc bộ như nào.
Cụ chủ nhớ up thường xuyên nhé :D
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top