[Funland] Những hồi ức của CCB chiến trường K !

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Ngày 3/6/1988, đ/c Lê Đức Anh một lần nữa sang CPC làm việc với BCT **** CPC và thoả thuận đến tháng 1/1989 sẽ từng đợt rút hết chuyên gia dân sự ở CPC và lấy ngày 28/6/1988 làm mốc kết thúc giai đoạn **** VN giúp CPC xây dựng ****, bộ máy Nhà nước và đoàn thể quần chúng ở CPC và tháng 6/1988 cũng chấm dứt hoạt động của Đoàn chuyên gia quân sự VN. Tháng 7/1988, Đoàn chuyên gia đối ngoại bên cạnh Bộ Ngoại giao CPC cũng chấm dứt hoạt động.

Với TQ, ngày 20/5/1987, Bộ Ngoại giao kiến nghị với BCT cần sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp đoạn nói về TQ nhưng việc triển khai thực hiện có khó khăn mãi đến ngày 28/6/1988, Quốc hội mới có Nghị quyết thông qua việc này. Ngày 26/6/1987, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch gặp Đại sứ TQ chuyển Message Oral của đ/c Phạm Văn Đồng đề nghị hai nước đàm phán bí mật. Ngày 22/8/1987, Ngoại trưởng TQ Ngô Học Khiêm nói chưa trả lời Message đó vì không muốn chấp nhận sự việc đã rồi ở CPC.

Ngày 14/3/1988, TQ tấn công ta ở Trường Sa. Ta ra tuyên bố bảo vệ chủ quyền ta, không ai ủng hộ kể cả Lào và Liên Xô mặc dù lúc này đang có cuộc họp tư vấn ba nước Đông Dương với Liên Xô ở Phnom Penh và ta đã trực tiếp vận động Liên Xô, mãi đến khi ta đề nghị thương lượng, Liên Xô mới ủng hộ.

Cũng giai đoạn này bắt đầu xuất hiện ý kiến về Giải pháp Đỏ, nhưng việc thực hiện gặp khó khăn.

- Cuối tháng 4/1987, khi đ/c Lê Đức thọ và Lê Đức Anh sang CPC làm việc với lãnh đạo CPC bàn về giải pháp chính trị kể cả Giải pháp Đỏ, CPC không đón tiếp và chiêu đãi; hai đ/c lãnh đạo ăn, ở tại Bộ Tư lệnh 719. Dịp này Sứ quán tổ chức chiêu đãi, nhiều lãnh đạo CPC như Chea Sim, Sai Phuthong lấy cớ “mệt”, ”đau bụng” để từ chối lời mời.

Ngày 22/12/1987, ta và CPC tán thành gợi ý của Liên Xô là Liên Xô gửi Message Oral cho Ngoại trưởng TQ đề nghị Liên Xô và TQ góp phần dàn xếp một cuộc gặp gỡ giữa CHND CPC và Khmer Đỏ, nếu TQ đồng ý, Liên Xô sẵn sàng tiếp xúc 2 nước ở cấp Ngoại trưởng. TQ đã không đáp ứng đề nghị đó.

- Ngày 30/7/1988, Hun Sen nói với đoàn ngoại giao ở Phnom Penh: Bọn Khmer Đỏ là thú chứ không phải là người, chúng không thay đổi bản chất, nhân dân CPC không chấp nhận chúng. Chúng tôi rất hiểu Khmer Đỏ, mong các đ/c hiểu cho, bọn này không chơi được, nếu chỉ CPC không thôi thì không chấp nhận chúng. Nay ta muốn giải pháp nên cần có TQ, do đó mà chấp nhận chúng về chính trị. Riêng CPC không có TQ cũng giải quyết được… nhưng CPC liên quan đến xung quanh. VN cần bình thương hoá quan hệ với TQ.

Ngày 19/9/1988 Hun Sen nói tại Hội nghị tài chính ám chỉ chuyên gia ta là “cộng sản tả khuynh”, là “người điên”.
Ngày 12/10/1988, trao đổi với anh Ngô Điền, sau khi phê phán Liên Xô nhượng bộ TQ, ép CPC thoả hiệp với TQ, Khmer Đỏ đánh đồng “tội phạm và nạn nhân”, và không tôn trọng các nước bạn, Hun Sen nói: “VN cũng có đ/c nói phải nhượng cái gì để giữ thể diện cho Bắc Kinh. Năm 1987, tôi cũng đã tính đến Giải pháp Đỏ, bọn Khmer Đỏ, trừ bọn đầu sỏ, có thể tham gia, xin lỗi với nhân dân rồi hoà hợp dân tộc. Nay tôi đã suy nghĩ nhiều, tiếp xúc với dân ở nhiều nơi, trực tiếp gặp bọn Khieu Samphan, tôi nhận thức rõ dứt khoát không chơi với bọn này được, phải giải tán lực lượng của chúng…”

- Ngày 7/1/1989, Hun Sen xuất bản quyển sách “CPC – con đường 10 năm” dành một đoạn dài nói về Giải pháp Đỏ, phê phán những suy nghĩ về Giải pháp Đỏ, cho quan điểm đó là “sai lầm và nguy hiểm”, là “điều phi lý và trái đạo đức khi đánh đồng bọn tội phạm Pol Pot với nạn nhân của bọn tội phạm” rồi kết luận “Giải pháp Đỏ là con đường nguy hiểm rất lớn cho nhân dân CPC, nó không thể nào hình thành được, bởi vì chúng ta không “Đỏ” như kiểu người ta hiểu là có thể hòa đồng vào với cái “Đỏ” của Pol Pot được”.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
* Thời đoạn 1988 đến đầu 1990: Giai đoạn đàm phán đi vào nội dung thực chất.

Nghị quyết 13 BCT ngày 20/5/1988 chủ trương giải quyết vấn đề CPC trước năm 1990 và phấn đấu bình thường hóa quan hệ với TQ. Nghị quyết BCT nói rõ: “Phấn đấu bình thường hóa quan hệ với TQ là một quá trình đấu tranh gay go, phức tạp, đòi hỏi có thời gian. Sau khi bình thường hóa, quan hệ 2 nước khó trở lại ngay như những năm 50, 60. Cuộc đấu tranh tiếp tục dưới nhiều hình thức khác, không như tình trạng đối đầu như hiện nay… Chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, chuẩn bị tốt về mọi mặt khi bước vào cuộc đấu tranh mới, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn xấu hòng làm suy yếu ta, “diễn biến hòa bình”, chia rẽ, phá hoại nội bộ, chia rẽ 3 nước VN, Lào, CPC“. Cần phòng ngừa, khắc phục những tư tưởng lệch lạc: chỉ thấy giới hạn TQ là bá quyền, không thấy TQ là XHCN hoặc chỉ thấy TQ là nước XHCN mà không thấy bá quyền, bành trướng.

Đối với Lào và CPC: “Việc Lào và CPC sẽ đi lên CNXH hoặc phát triển theo con đường dân tộc, dân chủ nhân dân là do **** và nhân dân 2 nước đó quyết định, phù hợp với điều kiện thực tế và nguyện vọng nhân dân nước đó“… “Vấn đề CPC phải giải quyết với TQ nhưng cho đến nay TQ chưa muốn trực tiếp giải quyết với ta vấn đề CPC. Vì vậy, ta cần tiếp tục kiên trì mở ra nhiều hướng khác nhau (Hun Sen-Sihanouk, VN-Indonesia, VN-Thái Lan, ASEAN- Đông Dương, VN-Mỹ…) để thúc đẩy và kéo TQ vào giải quyết. Dù giải quyết trực tiếp với TQ hay với các đối tượng khác thì việc giải quyết vấn đề CPC cũng phục vụ mục tiêu bình thường hóa với TQ, không nhằm chống TQ“.

Thực hiện Nghị quyết 13 BCT, ta đã có một loạt hoạt động rất quan trọng để thúc đẩy giải quyết vấn đề CPC và phấn đấu bình thường hóa quan hệ với TQ.

Với Trung Quốc

Thực hiện Nghị quyết 32 và nghị quyết đại hội VI từ 1986, ta đã có nhiều hành động thiện chí để giảm căng thăng trong quan hệ Việt-Trung, thôi coi TQ “là kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm“, có nhiều động tác quan trọng để chứng tỏ ta không tiếp tục chống TQ và phấn đấu bình thường hóa với TQ, kiên trì đề nghị đàm phán (từ khi TQ cắt vòng 2 đàm phán Việt-Trung ở Bắc Kinh 6/3/1980 đến cuối 1986 ta đã 16 lần gửi công hàm và thư đề nghị họp lại vòng 3 và đàm phán bí mật) nhưng TQ đều bác bỏ.

- Ngày 28/6/1988, Quốc hội có nghị quyết và ngày 27/12/1988, Quốc hội chính thức thông qua Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi đoạn nói về TQ.

- Ngày 15/7/1988, Ngoại trưởng Nguyễn ‘Cơ Thạch gặp Đại sứ TQ nêu một loạt biện pháp để giảm căng thẳng quan hệ 2 nước; chấm dứt hoạt động vũ trang trên biên giới đất liền và hải đảo, không bên nào đóng ở điểm cao trên đường biên, giảm quân về phía sau để tránh xung đột, ở điểm nóng Vị Xuyên cũng làm như vậy, tạo điều kiện cho dân biên giới qua lại thăm họ hàng, hai bên chấm dứt tuyên truyền chống đối nhau, và đề nghị hai bên đàm phán bất cứ cấp nào kể cả cấp cao, bất cứ lúc nào, ở đâu, bí mật hoặc công khai. Và sau đó, ta đã đơn phương thực hiện những đề nghị nói trên (2/8/1988), Ban Tuyên huấn Trung ương ra thông tư 94 về hướng dẫn tuyên truyền với TQ; mở một số cửa khẩu cho dân biên giới qua lại thăm nhau và trao đổi hàng thiết yếu hàng ngày…

- Ngày 7/10/1989, Đặng Tiểu Bình tiếp đ/c Kaysone [Phomvihan], TBT Lào, sang thăm chính thức TQ để bình thường hóa quan hệ hai ****, hai nước khi đề cập vấn đề bình thường hóa quan hệ với VN, Đặng chỉ nêu điều kiện là VN rút hết quân. Ngày 6/11/1989, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch gặp Đại sứ Trương Đức Duy chuyển thông điệp miệng của TBT Nguyễn Văn Linh gửi Đặng Tiểu Bình mong bình thường hóa quan hệ 2 ****, 2 nước, mong gặp Đặng. TQ không trả lời. Ngày 28/11/1989, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gửi thư cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao [TQ] Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông điệp miệng của TBT Nguyễn Văn Linh và khẳng định VN sẵn sàng gặp lại TQ cấp Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng trong tháng 12/1989. Ngày 12/12/1989, Đại sứ TQ Trương Đức Duy gặp Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch thông báo thông điệp miệng của Đặng Tiểu Bình gửi đ/c Nguyễn Văn Linh: “VN rút quân sạch sẽ, triệt để và lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu là hai vấn đề hạt nhân thiết thực cần đồng thời giải quyết. Phía TQ sẽ suy xét dề nghị của VN về mở vòng thương lượng ở cấp Thứ trưởng, nếu VN chấp nhận một cơ chế giám sát quốc tế do Liên hợp quốc chủ trì có 4 bên tham gia để kiểm chứng VN rút quân và lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu trong giai đoạn quá độ”.

Sau Nghị quyết 13 BCT và điều chỉnh của TQ ở Hội nghị BCT [*** TQ tại] Bắc Đới Hà tháng 9/1988, ta và TQ đã tiến hành hai vòng đàm phán cấp Thứ trưởng ngoại giao ở Bắc Kinh (16/1/1989; 8-10/5/1989). Trong 2 vòng đàm phán này, ta chủ trương chỉ bàn mặt quốc tế của vấn đề CPC còn TQ đòi phải bàn cả mặt nội bộ và đặt điều kiện có giải quyết xong vấn đề CPC mới bàn bình thường hóa quan hệ 2 nước. Đàm phán không kết quả. Như trên vừa nói, tháng 12/1989 ta đề nghị nối lại đàm phán, TQ đặt điều kiện VN rút quân “sạch sẽ”, lập chính phủ 4 bên do Sihanouk đứng đầu, nhận Liên hiệp quốc giám sát thì TQ “sẽ suy xét” đề nghị của VN về nối lại đàm phán cấp Thứ trưởng. Trong tình hình bế tắc đó, từ 3-9/5/1990, Thứ trưởng Đinh Nho Liêm đi Bắc Kinh “kiểm tra công tác sứ quán” và thực chất đã tiến hành vòng 3 đàm phán. Trong lần đàm phán này, ta tỏ mềm dẻo hơn là có thể trao đổi ý kiến về một giải pháp toàn diện nhưng không thể quyết định về vấn đề nội bộ CPC. Đàm phán vòng 3 có một số tiến triển, TQ đòi 4 bên nhưng không đòi ngang nhau, không đòi chính phủ lâm thời nhưng đòi Hội đồng tối cao mang tính chất chính phủ; về diệt chủng, ta tán thành không nói quá khứ nhưng phải đề cập về tương lai; hai bên hẹn gặp tiếp tháng 6/1990 ở Hà Nội.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Về vấn đề Campuchia

- Thực hiện Nghị quyết 13 của BCT, ta và bạn thoả thuận rút hết chuyên gia quân sự dân sự ở CPC về nước, tháng 5/1988 tuyên bố rút 5 vạn quân trong năm 1988 và ngày 5/4/1989 tuyên bố đơn phương rút hết quân vào tháng 9/1989.

Nhân đây cũng nói thêm rằng giữa đ/c TBT Nguyễn Văn.Linh và đ/c Nguyễn Cơ Thạch có ý kiến không hoàn toàn giống nhau về vấn đề rút quân: đ/c Thạch muốn rút quân gắn với giải pháp chính trị, ít nhất là có thỏa thuận quốc tế về chấm dứt viện trơ quân sự cho các bên CPC để làm con bài mặc cả, còn đ/c Nguyễn Văn Linh thấy không cần. Dịp đ/c Linh sang thăm Liên Xô ngày 20/7/1988, đ/c Linh đã nói với Liên Xô rằng VN sẽ rút hết quân vào tháng 9/1989 nhưng không nói điều kiện, Liên Xô đã đưa công khai điều này. Ngày 6/1/1989, sang CPC dự 10 năm giải phóng CPC, cùng đi có đ/c Trần Quang Cơ, đ/c Nguyễn Văn Linh phát biểu trong mít tinh ở Hội trường Bassac:“Hôm nay, VN tuyên bố hoàn toàn nhất trí với CHND CPC về quyết định rút toàn bộ số quân tình nguyện VN còn lại ra khỏi CPC vào tháng 9/1989.
Việc rút hết quân VN khỏi CPC phải đặt song song với việc chấm dứt viện trợ quân sự của nước ngoài cho tất cả các bên CPC, chấm dứt sử dụng lãnh thổ nước ngoài làm đất thánh chống lại nhân dân CPC. Những điều thoả thuận này phải được tiến hành dưới sự kiểm soát quốc tế có hiệu quả“.

Khi đưa tin, ta cố gắn vế rút quân với chấm dứt viện trợ quân sự, thực chất ý Anh Linh không gắn 2 vấn đề này; mãi đến 5/4/1989, Chính phủ ta mới ra tuyên bố rút quân đơn phương vào 9/1989

Việc VN quyết định rút hết quân VN khỏi CPC đã có tác động thúc đẩy đàm phán, tiếp theo mở ra hàng loạt diễn đàn về giải pháp CPC: JIM-1 (7/1988), vòng 3 Hun Sen-Sihanouk (11/1988), Nhóm làm việc của JIM (l0/1988), JIM-2 (2/1989), vòng 4-5-6 Hun Sen- Sihanouk (4 và 7/1989, 2/1990), và các diễn đàn Việt-Mỹ, Việt- Thái, CPC-Thái.

Đỉnh cao của các diễn đàn là Hội nghị quốc tế Paris tháng 7/1989. Tại Hội nghị, phía bên kia đòi VN rút quân, xóa bỏ Nhà nước CPC; phía ta một mực đòi phải loại trừ vĩnh viễn bọn diệt chủng; phía bên kia lên án VN xâm lược CPC, đưa người VN định cư đến xâm chiếm CPC (colons vietnamiens), đòi giải tán nhà nước và quân đội CPC và Hội nghị không đi đến kết quả nào. Hội nghị quốc tế Paris kéo dài từ 30/7 đến 31/8/1989 nhưng không thành công là do nhiều nguyên nhân. TQ và 3 phái CPC chỉ muốn giải quyết vấn đề CPC trên cơ sở xoá bỏ Nhà nước CPC, mặt khác TQ còn hy vọng làm thay đổi tình hình sau khi VN rút hết quân tháng 9/1989. Về phía Nhà nước CPC, sau chuyến đi Thái Lan ngày 25/1/1989 của Hun Sen theo lời mời của Thủ tướng Chatichai và tiếp xúc với nhóm Chaovalít từ tháng 6/1988, CPC có phần ảo tưởng ở Thái Lan và đánh giá không đúng lực lượng của bản thân mình nên Hội nghị Trung ương lần thứ 9 từ 30/6 đến 5/7/1989 ngay trước Hội nghị quốc tế Paris tháng 7/1989 quyết tâm ăn cả bằng một giải pháp quân sự; Nghị quyết nói: “Đối với giải pháp chính trị cho vấn đề CPC, mọi cố gắng của ta đều đặt trong phạm vi không có giải pháp“. Ngày 12/7/1989, đ/c Trần Quang Cơ sang CPC thông báo gợi ý của ta về đấu tranh tới (vòng 5 Hun Sen-Sihanouk; Hội nghị quốc tế Paris), Hun Sen phát biểu trong cuộc họp BCT nghe đ/c Cơ trình bày: “Nghị quyết 9 đã hạ quyết tâm không có giải pháp chính trị nhưng bên ngoài vẫn phải tỏ thiện chí phấn đấu cho một giải pháp về mặt quốc tế. Không ngại nội chiến. Sẽ không nhắc lại việc mở rộng chính phủ mời Sihanouk trở về mà chỉ nêu phương án lập HĐ Hòa hợp Dân tộc và đề nghi lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp chuẩn bị cho Quốc hội tương lai để giữ cầu với Sihanouk trong cuộc gặp tới với Sihanouk“. Lúc này tình hình Đông Âu cũng bắt đầu diễn biến phức tạp mở đầu bằng việc Công đoàn Đoàn kết lên cầm quyền ở Ba Lan, đã làm tăng thêm lực cản của phía ta về việc đi vào giải pháp chính trị cho vấn đề CPC. Ngày 10/8/1989, Hun Sen (ở Phnom Penh) lại điện cho Anh Thạch ở Paris là: Vấn đề mở rộng chính phủ cho Sihanouk trở về là vấn đề sách lược đấu tranh để phân hoá kẻ thù. Nếu Sihanouk chấp nhận thảo luận, chúng ta sẽ đưa ra những đòi hỏi cao hơn nữa, trước hết là xoá Pol Pot và thậm chí đi đến đòi xoá lực lượng Sihanouk và nếu cần thiết sẽ đưa ra những đòi hỏi khác để ngăn chặn vai trò của Sihanouk hoặc ngăn không cho Sihanouk trở về.

Về phía VN, mặc dù có Nghị quyết 13 BCT nhưng khi thực hiện có nhiều trục trặc, ý kiến khác nhau và chúng ta cũng còn ý muốn ăn cả ở CPC như Nghị quyết 13 nói: một giải pháp chính trị về CPC “phải bảo đảm thành quả cách mạng CPC”. Trong đàm phán về giải pháp CPC lúc này, chúng ta giữ 3 nguyên tắc: bảo vệ thành quả cách mạng CPC, kiên quyết loại diệt chủng Pol Pot; không chấp nhận lực lượng gìn giữ hòa bình IPKF. Chúng ta chủ trương mềm dẻo trên 3 điểm: thành phần Chính phủ liên hiệp; giữ nguyên trạng; chấp nhận Uỷ ban quốc tế về kiểm soát giám sát. Mặt khác, trong lúc này chúng ta đánh giá quá cao thành tựu đạt được mỗi khi có những tiến triển nhất định về đàm phán, cụ thể như:

- Gặp gỡ đ/c Nguyện Cơ Thạch và Ngoại trưởng Indonesia ở thành phố HCM 29/7/1987 thoả thuận về “tiệc rượu”. Tại JIM-1 (7/1988), ta đạt được ghi vào Tuyên bố của Chủ tịch là không để diệt chủng trở lại. Chúng ta nhận định với việc rút 5 vạn quân tháng 5/1988, cuộc đấu tranh về CPC “đã thay đổi tính chất từ chỗ đòi VN rút quân sang đòi ngăn chặn nguy cơ diệt chủng trở lại CPC“… “đã đưa đến sự tập hợp lực lượng mới có lợi cho 3 nước“. Đề án đấu tranh từ tháng 9/1988 đến cuối năm 1988 nhận định “có 4 khả năng giải quyết vấn đề CPC: a) Một giải pháp toàn diện bao gồm mặt nội bộ và quốc tế; b) Một giải pháp bao gồm toàn bộ mặt quốc tế và chỉ một phần mặt nội bộ; c) Một giải pháp về mặt quốc tế, mặt nội bộ giải quyết sau; d) VN rút hết quân đơn phương vào năm 1990 và không có giải pháp chính trị. Khả năng nào cũng có mặt lợi, mặt phức tạp. Tuỳ tình hình sẽ tính.”… “Mục tiêu chính của ta là: vấn đề mấu chốt là tăng cường lực lượng cách mạng CPC… làm tan rã trên thực tế liên hiệp 3 phái, cô lập làm suy yếu lực lượng Khmer Đỏ” Ngày 16/10/1988, Đại sứ Nguyễn Xuân trao đổi với đ/c Kaysone Phomvihan về đề án này thì đ/c Kaysone nói: “Điều quyết định là lực lượng cách mạng CPC. Nếu VN rút quân mà CPC đứng vững được thì không cần giải pháp chính trị”.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Lúc này có nhân tố mới là Chatichai lên cầm quyền ở Thái, chủ trương biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường; ngày 28/10/1988, Lào thu xếp để Hun Sen bí mật gặp Tướng Chaovalít26 ở Vientiane (và Chaovalít cũng gặp đ/c Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng), Hun Sen-Chaovalít thoả thuận cơ chế giữ liên lạc 2 bên; tháng 1/1989, Chatichai mời Hun Sen thăm chính thức Thái; VN rút 5 vạn quân nhưng tình hình CPC không thay đổi lớn. Tình hình đó củng cố thêm ý định VN rút quân, không có giải pháp mà CPC vẫn đứng vững.

Ngày 11/2/1989, BCT họp cho ý kiến về đề án đấu tranh ngoại giao trong thời gian tới. Đề án nhận định “hiện nay mặt quốc tế của vấn đề CPC cơ bản đã được giải quyết đồng thời có nhiều thuận lợi gắn việc giải quyết vấn đề CPC với việc lập khu vực hòa bình, tự do, trung lập ở Đông-nam Á“, nhận định về 4 khả năng giải quyết vấn đề CPC (như đề án tháng l0/1988). Khi xin ý kiến, đ/c Phạm Văn Đồng phát biểu với đ/c Nguyễn Dy Niên ngày 10/2/1989 như sau: “Cần tính khả năng rút quân 9/1989. Trong tình hình này phải tính nói chuyện với TQ. Đàm phán VN-TQ lúc này là quan trọng. Ta đừng để nó mất thể diện. Xem có thể đi nhanh về bình thường hóa quan hệ. Ta hiểu TQ, biết họ là bành trướng, biết âm mưu ý đồ của họ. Đã biết thì không ngại“. Tuy nhiên ngày 16/2/1989, đ/c Nguyễn Cơ Thạch sang CPC họp 3 Bộ trưởng ngoại giao chuẩn bị cho JIM- 2, đ/c Thạch đã báo cáo với BCT CPC về chiến lược đấu tranh cho thời gian tới. Đ/c Thạch trình bày:“Tháng 7/1988, chúng ta đánh giá rằng có 4 khả năng, đồng thời nhất trí cho rằng khả năng thứ tư, không có giải pháp, là không có lợi cho chúng ta. Lúc đó cũng thấy rằng tốt nhất là giải quyết mặt quốc tế, còn mặt nội bộ thì giữ nguyên. Bây giờ chúng tôi cũng nghĩ rằng tốt nhất là giải pháp bộ phận, nhưng so với tháng 7/1988 thì bây giờ tình hình có khác. Bây giờ không có giải pháp không phải là xấu. Vì trước kia Thái Lan là đất thánh, nay Thái Lan khác rồi, TQ cũng khác nên nếu không có giải pháp chúng ta vẫn sẽ rút quân mà không sợ. Không có giải pháp thì mình ăn cả. Cho nên bây giờ chúng tôi cho rằng giải pháp bộ phận là tốt, nhưng không có giải pháp cũng không phải là xấu… Sau khi VN rút hết quân mà không có giải pháp chính trị thì Sihanouk và Son San có thể phải xin về tham gia CHND CPC, chứ không phải đòi xóa CHND CPC nữa. Có thể các đ/c nên tính sau khi VN rút hết quân thì Quốc hội CHND CPC nên ra tuyên bố về nền trung lập vĩnh viễn của CPC“… “Hiện nay chúng ta đang chuyển sang giai đoạn đấu tranh mới. Chúng ta phải tranh thủ những nhân tố, đồng thời phải củng cố lực lượng” … “Chúng ta đều hết sức phấn khởi trước những thắng lợi của cách mạng CPC. Một năm trước đây chúng ta không nghĩ được rằng tình hình sẽ thuận lợi như thế này.

Ngày 30/4/1989, Quốc hội CPC ra tuyên bố về nền trung lập vĩnh viễn của CPC và đổi tên từ CHND CPC thành Nhà nước CPC (Etat du Cambodge và State of Cambodia) theo yêu cầu của Sihanouk. Ngày 2/5/1989, tiến hành vòng 3 Hun Sen- Sihanouk tại Jakarta (Indonesia) đạt kết quả, Sihanouk hứa sẽ trở về CPC sau khi VN rút quân, thôi đòi giải tán CHND CPC.

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 9 **** CPC ra nghị quyết ăn cả bằng giải pháp quân sự (5/7/1989) và Hội nghị quốc tế Paris về CPC tháng 7/1989 thất bại.
- Sau thất bại ở Hội nghị quốc tế Paris, để tìm một giải pháp toàn bộ, những cố gắng để đạt giải pháp từng bước (sáng kiến của Chatichai về kiểm chứng rút quân VN (9/1989), nhân chuyến thăm Thái Lan lần thứ 2 của Hun Sen, tuyên bố của Ngoại trưởng Xô-Mỹ ngày 23/9/1989 về moratorium [đình hoãn] việc cung cấp viện trợ cho các bên CPC…) đều không đạt kết quả. Cuộc đọ sức trên chiến trường CPC cho thấy không bên nào ở CPC có thể giành thắng lợi hoàn toàn bằng quân sự. 4 ngày sau khi VN rút quân, lực lượng Son San đã đánh chiếm Thmar Pouk27; ngày 22/1 0/1989, Khmer Đỏ đánh chiếm Pailin28 và uy hiếp thị xã Battambang, ta đã phải đưa lực lượng đặc biệt lên giúp bạn.

Cũng từ thời gian này, nội bộ ta lại bộc lộ ra những khác biệt về nhận định đánh giá tình hình trước những chuyển biến nhanh chóng ở Đông Âu. Nghị quyết 13 chủ trương thúc đẩy giải pháp chính trị cho vấn đề CPC và bình thường hóa quan hệ với TQ được Nghị quyết Trung ương 6 khẳng định lại. Nhưng trong quá trình thực hiện đã gặp không ít khó khăn, đặc biệt là trong thái độ xử lý quan hệ với TQ. Sau sự kiện Trường Sa (14/3/1988) và việc TQ tiếp tục gây căng thẳng trong quan hệ với ta, bác bỏ các đề nghị cải thiện quan hệ của ta, giữa các ngành đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, và không khí chung là không thuận lợi cho việc bình thường hóa quan hệ với TQ theo Nghị quyết 13 của BCT. Một số ý kiến cho rằng, trong khi TQ đang chống ta thông qua vấn đề CPC và tìm cách lấn chiếm biên giới 2 quần đảo của ta, việc ta rút quân khỏi CPC, sứa Điều lệ ****, sửa Hiến pháp… là sự hy sinh chủ quyền lãnh thổ của đất nước, chủ trương của BCT về giảm tuyên truyền chống đối nhau cũng không được thực hiện đầy đủ; thậm chí còn có ý kiến cho rằng ngoại giao hữu khuynh trong quan hệ với TQ.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Mặt khác, trong Trung ương, một số ngành và ngay trong BCT cũng đã bắt đầu xuất hiện một số ý kiến khác nhau về đánh giá sự kiện Thiên An Môn (6/1989), đánh giá TQ cũng như đánh giá Liên Xô-Đông Âu. Tại Hội nghị Trung ương 7, ý kiến rất khác nhau về thái độ của ta khi Công đoàn Đoàn kết lên cầm quyền ở Ba Lan (7/1989), báo Nhân dân có xã luận về sự kiện này. Trong hội nghị Trung ương 8 (27/3/1990), một số ý kiến đặt vấn đề về sự đúng đắn của Nghị quyết 13 và những bước đi của ta với TQ và trong vấn đề CPC. Tuy nhiên, sự khác nhau chưa bộc lộ rõ nét. Trung ương và BCT vẫn khẳng định Nghị quyết 13 là đúng đắn, đ/c TBT Nguyễn Văn Linh đã phát biểu về vấn đề này tại Hội nghị Trung ương 8 (26/3/1990) khi tiếp thu ý kiến phê bình của Trung ương đối với BCT.

Đến đầu năm 1990, những ý kiến khác nhau trong BCT từ giữa năm 1989 bộc lộ rõ nét hơn. Có ý kiến nhấn mạnh mặt XHCN của TQ và thấy cần phải hợp tác với TQ để bảo vệ XHCN chống Mỹ và các thế lực đế quốc khác, nhất là từ sau sự kiện Thiên An Môn, sau khủng hoảng trầm trọng của Liên Xô, Ba Lan, Đức, Rumani và các nước Đông Âu khác. Từ những cách đánh giá đó đã dẫn đến ý kiến khác nhau về phương hướng đấu tranh cho một giải pháp chính trị về CPC. Sự thật là: Ngày 11/11/1989, BCT họp bàn và thông qua đề án đấu tranh ngoại giao về vấn đề CPC. Trên cơ sở đánh giá tình hình quân sự, chính trị trên chiến trường và xu thế chung trên thế giới, ta chủ trương cần phấn đấu đạt một giải pháp chính trị về CPC, đề ra 3 phương án về Cơ quan quyền lực ở CPC trước tổng tuyển cử (thấp nhất là giữ nguyên bộ máy 2 chính phủ đang tồn tại, lập Chính phủ liên hiệp hai bên ở Trung ương để tổ chức tổng tuyển cử và thực hiện những điều thoả thuận).

Ngày 24/11/1989, Ngoại trưởng Australia Gareth Evans đưa ra sáng kiến dùng công thức Namibia để trống vấn đề quyền lực ở CPC trong thời kỳ quá độ, Liên hợp quốc kiểm soát và tổ chức tổng tuyên cử.

Ngày 2/12/1989, đ/c Nguyễn Cơ Thạch, theo chỉ thị của BCT, đã sang bàn với BCT CPC, phân tích cuộc chiến tranh ở CPC là một cuộc nội chiến, VN không thể đưa quân trở lại, tính chất quốc tế của vấn đề CPC, xu thế của thế giới và bàn với bạn cần đấu tranh để đạt một giải pháp chính trị để giành thắng lợi từng bước. BCT CPC hoàn toàn nhất trí với 3 phương án trên, đồng thời đồng ý với ý kiến đ/c Thạch cần nghiên cứu việc sử dụng vai trò Liên hợp quốc như sáng kiến của Ngoại trưởng Australia G. Evans ngày 24/11/1989. Phải nói thêm rằng đ/c Thạch khi trên máy bay sang Phnom Penh mới đọc thư của Evans về sáng kiến 24/11/1989 và đến nơi, đ/c Thạch sửa lại bản trình bày tinh thần như BCT cho ý kiến 11/11/1989 nhưng thêm phương án sử dụng vai trò Liên hợp quốc. Về phía những người CPC, khi thấy có phương án Liên hợp quốc thì họ bập ngay cho là Liên hợp quốc ít phức tạp và nguy hiểm hơn là liên minh với lực lượng CPC đối lập. Đ/c Thạch nói phương án Liên hợp quốc cần xin thêm ý kiến BCT VN.

Hội nghị BCT ta họp 14h30′ ngày 6/12/1989 có mặt Cố vấn Phạm Văn Đồng và 7 Uỷ viên BCT: Võ Chí Công, Đỗ Mười, Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân Bách, Đổng Sĩ Nguyên, Nguyễn Cơ Thạch và Đào Duy Tùng (lúc này đ/c Nguyễn Văn Linh đang nghỉ ốm do bị cảm lạnh khi đi dự Quốc khánh ở CHDC Đức tháng l0/1989) đã bàn về sáng kiến của Australia và nhất trí ngoài 3 phương án BCT cho ý kiến ngày 11/11/1989, thêm phương án sử dụng vai trò Liên hợp quốc thành 4 phương án. Ngày 9/12/1989, đ/c Lê Mai vừa kết thúc nhiệm kỳ Đại sứ ở Thái Lan về được uỷ nhiệm sang Phnom Penh trao đổi với BCT CPC và BCT CPC hoàn toàn đồng ý với ý kiến BCT ta. BCT CPC đã triệu tập kỳ họp Trung ương lần thứ 10 từ ngày 10-15/1/1990 để bàn đi vào giải pháp chính trị và ngày 18/1/1990, Quốc hội CPC đã họp thông qua việc để Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử và uỷ quyền cho Hun Sen đàm phán về vấn đề này.

- Với TQ: Bằng nghị quyết 13 BCT, với những động tác quan trọng của **** và Nhà nước ta trong quan hệ Việt-Trung (sửa lời nói đầu của Điều lệ **** (12/1986), sửa Hiến pháp (6/12/1988) không còn coi TQ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm, giảm tuyên truyền chống TQ, mở cửa biên giới, VN đơn phương rồi cả 2 bên chấm dứt hoạt động quân sự trên biên giới, tuyên bố nới lỏng trong việc sử dụng cảng Cam Ranh… trên thực tế ta đã đơn phương giải quyết hết những điều mà TQ cho ta là dùng để chống TQ. Có thể nói đến tháng 12/1988, TQ không còn lý do gì để nói VN có những chính sách và hành động chống TQ, một trong hai vấn đề TQ coi là VN chống TQ từ 10 năm qua không tồn tại nữa. Tồn tại là vấn đề CPC. Việc VN tuyên bố rút 5 vạn quân bằng 1/2 số quân còn lại ở CPC và rút Bộ Tư lệnh quân tình nguyện VN ở CPC (tháng 5/1988) đã làm tác động mạnh mẽ xu hướng thúc đẩy một giải pháp cho vấn đề CPC, các nước lớn do lợi ích của mình không muốn VN rút quân mà không có giải pháp, duy trì nguyên trạng ở CPC, chính vì vậy phương Tây có thái độ mềm dẻo hơn, đáp ứng phần nào yêu cầu của phía ta trên vấn đề diệt chủng. Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ ở Hội nghị PMC ASEAN 9/7/1988 ở Bangkok đã đưa đến kết quả cuộc gặp không chính thức về CPC ở Jakarta 25/7/1988 (JIM-1) khẳng định có 2 vấn đề trong giải pháp cho vấn đề CPC là rút quân VN đi đôi với việc ngăn chặn việc phục hồi chế độ diệt chủng Pol Pot.

Chuyển biến của thế giới đối với vấn đề CPC, sự thay đổi trong quan hệ Xô-Mỹ trong quan hệ quốc tế và trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế đã đưa đến việc TQ điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình thể hiện ở Hội nghị BCT ở Bắc Đới Hà tháng 9/1988. Với VN, TQ đã từng bước hoà dịu trong quan hệ trên thực tế (giảm căng thẳng trên biên giới, trao đổi hàng hoá và đi lại thăm hỏi, làm ăn ở biên giới theo đề nghị của lãnh đạo ta qua tiếp xúc giữa Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Đại sứ TQ ngày 15/7/1988) và chấp nhận đi vào đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao với ta để trao đổi về vấn đề CPC và quan hệ hai nước. Tuy nhiên TQ vẫn coi vấn đề CPC là điều kiện tiên quyết để cải thiện quan hệ Việt-Trung. Một mặt TQ duy trì “3 trở ngại” để mặc cả trong cải thiện quan hệ với Liên Xô mặt khác TQ đặt thêm điều kiện về vấn đề CPC trong cải thiện quan hệ với VN. Cần nhắc lại rằng tháng 10/1982 trong đàm phán Xô- Trung và trong tuyên bố chính thức của Bộ Ngoại giao TQ ngày 1/3/1983, TQ chỉ đặt điều kiện VN rút quân, thậm chí chỉ cần có lịch rút quân rõ ràng thì TQ sẽ tiến hành đàm phán để đi đến bình thường hóa quan hệ Việt- Trung. Từ 6/1988 khi VN rút 1/2 số quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện VN ở CPC, đặc biệt sau tuyên bố 5/4/1989 của VN, CPC đơn phương rút quân tình nguyện VN về nước vào tháng 9/1989, TQ lại đặt thêm điều kiện là VN “phải giải quyết hậu quả của VN đưa quân xâm lược CPC” không phải VN rút hết quân là xong trách nhiệm, đòi VN phải lập Chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk làm Chủ tịch và phải chấp nhận bộ máy giám sát của Liên Hợp quốc (trong khi Liên hợp quốc ủng hộ Khmer Đỏ giữ ghế ở Liên Hợp quốc và ra nhiều nghị quyết bất lợi cho VN) kiểm chứng VN rút “hết mọi loại lực lượng VN” ở CPC làm điều kiện để nối lại đàm phán đề bình thường hóa quan hệ với VN. Trong khi đàm phán TQ một mực đòi VN phải giải quyết vấn đề nội bộ CPC “hậu quả của VN xâm lược CPC” thì TQ mới bàn việc cải thiện quan hệ 2 nước. (Tuyên bố của Bộ Ngoại giao TQ ngày 1/7/1988 sau khi VN rút 5 vạn quân). Trong khi đó, cách xử sự của TQ với Liên Xô thì khác hơn. Tháng 5/1989, trong khi “3 trở ngại” trong quan hệ Trung-Xô chưa được giải quyết TQ vẫn đón TBT Gorbachov thăm chính thức TQ, cải thiện quan hệ cả về mặt **** và Nhà nước với Liên Xô. Tháng 10/1989, khi TBT Lào Kaysone Phomvihan thăm TQ, Đặng Tiểu Bình chuyển message oral cho TBT Nguyễn Văn Linh chỉ nêu yêu cầu VN rút quân nhưng ngày 6/11/1989 khi TBT Nguyễn Văn Linh gửi message oral bày tỏ mong muốn bình thường hóa quan hệ với TQ, đề nghị tiếp xúc cấp cao với TQ thì ngày 12/12/1989 trả lời message oral đó TQ lại đặt thêm điều kiện VN ép Phnom Penh lập Chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu và chấp nhận Liên Hợp quốc giám sát thi hành Hiệp định thì TQ mới “suy xét” việc đàm phán cấp Thứ trưởng ngoại giao với VN.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
4. Giai đoạn từ đầu 1990 đến cuối 1991: Các nước lớn áp đặt giải pháp về Campuchia và Việt Nam không kiểm soát được vấn đề Campuchia nữa.
Từ đầu năm 1990, mở đầu cho thời kỳ hoà hoãn giữa 3 nước lớn mà chủ yếu là sự hợp tác Xô-Mỹ, đồng thời mở đầu cho việc 3 nước lớn dùng cơ chế 5 nước thường trực HĐBA (P.5) giải quyết vấn đề CPC và vấn đề vùng Vịnh. Đây là chuyển biến rất quan trọng, từ chỗ 3 nước lớn trao đổi từng cặp với nhau về vấn đề CPC, nay hình thành cơ chế 5 nước đề áp đặt giải pháp vào CPC theo sự thỏa hiệp lợi ích của họ với nhau.

Việc ta và CPC chấp nhận sử dụng vai trò Liên hợp quốc và xem xét sáng kiến của Australia để giải quyết vấn đề phân chia quyền lực bị bế tắc ở Hội nghị quốc tế Paris đã một lần nữa thúc đẩy mạnh mẽ các diễn đàn để giải quyết vấn đề CPC: Bí thư thường trực Australia Costello thăm CPC và VN 7/1/1990, Informal meeting on Cambodia (IMC) (Jakarta 26/2/1990), các cuộc họp 5 nước Hội đồng Bảo an, vòng 6 Hun Sen-Sihanouk (Bangkok.- 22/2/1990). Tại IMC 26-28/2/1990, một lần nữa vấn đề diệt chủng đã ngăn cản mọi thoả thuận, Khmer Đỏ phủ quyết dự thảo thoả thuận có ghi vấn đề diệt chủng, IMC thất bại; đ/c Thạch gặp Ngoại trưởng Indonesia Ali Alatas với sự có mặt của hầu hết cán bộ chủ chốt của Bộ Ngoại giao Indonesia, đ/c Thạch phê phán rất mạnh Alatas nhu nhược, dung túng cho Khieu Samphan, Alatas bị bẽ mặt, quan hệ của Alatas với đ/c Thạch xấu hẳn đi.

- Thất bại của Mặt trận giải phóng Sandino trong bầu cử ở Nicaragua 25/2/1990 và thất bại của cuộc họp IMC-Jakarta (28/2/1990) đã tác động mạnh mẽ vào nội bộ ta về phương hướng giải quyết vấn đề CPC. Ngày 8 và 10/3/1990, đ/c Lê Đức Thọ gặp đ/c Nguyễn Cơ Thạch, Đinh Nho Liêm, Trần Quang Cơ nêu ý kiến: “cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh về vấn đề CPC. Kinh nghiệm Genève 1954, Paris 1973 là phải đàm phán với lực lượng mạnh nhất, chủ yếu nhất. Ở CPC, phải giải quyết với TQ, nếu không giải quyết với TQ thì không giải quyết được. Hướng tới là nên bàn với TQ để giải quyết, không thể gạt Khmer Đỏ, cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, không thể chấp nhận để Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử ở CPC. Cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, không thể gạt Khmer Đỏ. Có thể đưa ra 2 phương án cao thấp: lập HĐ Dân tộc Tối cao 4 bên có hệ thống dọc hoặc Chính phủ liên hiệp lâm thời 2 bên gồm 4 phái để tổ chức tổng tuyển cử và soạn thảo Hiến pháp. Liên hợp quốc chỉ giám sát và kiểm soát thi hành Hiệp định. Trước Đại hội VII, phải giải quyết một bước cơ bản vấn đề CPC để khai thông vấn đề đối ngoại cùng vấn đề đối nội khác, tạo không khí phấn khởi chung. Liên Xô, Đông Âu khó khăn; Lào đã đi với TQ, ta giải quyết được với TQ là phù hợp nhất.

Từ 8-20/3/1990, TBT Heng Somrin đi nghỉ ở Hà Nội có dịp gặp gỡ đ/c Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh trao đổi về tình hình Liên Xô Đông Âu, Nicaragua, tình hình CPC. Đ/c Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh nêu phải cảnh giác với Liên hợp quốc, không thể để Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử ở CPC. Từ đây CPC chuyển sang phương án SNC tổ chức tổng tuyển cử, không tán thành Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử.

Hội nghị BCT ta ngày 10/4/1990 đã bàn về phương hướng thúc đẩy giải pháp chính trị về vấn đề CPC. Hội nghị BCT thấy không nên giao cho Liên Hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử mà nên trở lại phương án 3 mà BCT thông qua 11/11/1989 (lập Chính phủ liên hiệp 2 bên ở Trung ương để tổ chức tổng tuyển cử). Trong hội nghị, đ/c TBT Nguyễn Văn Linh có ý kiến: “VN, TQ là hai nước XHCN cùng chống âm mưu đế quốc xoá bỏ XHCN, phải cùng chống đế quốc, trước hết phải phát triển quan hệ 2 nước, các vấn đề khác giải quyết sau” … “Một CPC thân thiện với TQ, thân thiện với VN là tốt nhất. Trên cơ sở điểm đồng này mà giải quyết vấn đề CPC có lợi cho CPC“‘. “Phương án 3 là tốt, không để Liên Hợp quốc nhúng tay vào vì Liên Hợp quốc là Mỹ; Thái Lan là Mỹ”. Hội nghị BCT quyết định cử đ/c Nguyễn Cơ Thạch đi CPC bàn với BCT CPC. (Ngày 17/4/1990, đ/c Thạch sang CPC thông báo, BCT CPC không tán thành.)

- Ngày 20-21/5/1990, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chủ tịch, TBT VN, Lào, CPC họp hẹp dành nhiều thời gian phân tích tình hình thế giới, âm mưu của đế quốc chống CNXH, về những biến đổi phức tạp ở Liên Xô, Đông Âu. Ba đ/c TBT trao đổi thấy cần thực hiện Giải pháp Đỏ ở CPC. Phía CPC đề nghị về nước xin ý kiến tập thể BCT để BCT CPC quyết định rồi sẽ thông báo cho VN để VN thăm dò TQ. Heng Somrin về Phnom Penh để Hun Sen chờ ở Hà Nội. Ngày 26/5/1990, Sar Kheng29 ra Hà Nội báo cáo Hun Sen ý kiến BCT CPC, ngày 27/5/1990 Hun Sen lần lượt làm việc riêng với đ/c Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Cơ Thạch thông báo BCT CPC họp bỏ phiếu 10/16 tán thành Giải pháp Đỏ.

Như phần trên đã trình bày thực chất Nhà nước CPC muốn ăn cả bằng một giải pháp quân sự, coi cả Khmer Đỏ và Sihanouk đều là đối thủ nguy hiểm. Việc VN thuyết phục CPC và CPC chấp nhận đi vào giải pháp chính trị là điều miễn cưỡng và khi có điều kiện thì CPC trở lại chủ trương giành thắng lợi bằng một giải pháp quân sự, điển hình là quyết tâm của Hội nghị Trung ương **** CPC lần thứ 9 (7/1989).
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Từ khi VN rút hết quân khỏi CPC, quan hệ CPC với VN chuyển sang giai đoạn mới. Càng đi gần vào giải pháp thì lợi ích của CPC và lợi ích của ta ngày càng kênh nhau lớn. Ngay khi kiểm điểm rút hết chuyên gia và Ban lãnh đạo đoàn chuyên gia ở CPC (6/1988), những người lãnh đạo CPC đã bộc lộ ngay phản ứng, bộc lộ ý kiến khác ta, cho ta là áp đặt về vấn đề cán bộ CPC, hậu quả CPC phải gánh chịu, cho VN là “cộng sản tả khuynh” “người điên” “duy ý chí” bằng việc áp đặt CPC chuyển gia giai đoạn “quá độ đi lên CNXH” trong khi CPC không có cơ sở gì của CNXH30. Ngay sau khi ta rút hết chuyên gia (tháng 8/1988) CPC thay đổi ngay hàng loạt cán bộ lãnh đạo cấp cao kể cả chức vụ thường trực Ban Bí thư Trung ương **** và tiến hành Hội nghị cán bộ **** toàn quốc để xác định lại giai đoạn là CPC phải hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chứ không phải bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH như VN góp ý kiến đồng thời thay đổi hàng loạt chính sách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường tự do; Mặt khác CPC “thanh toán sòng phẳng mọi nợ nần” với VN: gửi công hàm xoá bỏ việc VN nợ gạo và tiền (831.790.000 riels) để nuôi quân tình nguyện VN trong 10 năm chiến đấu ở CPC (16/7/1988 và 30/5/1989).

Ngày 9-10/7/1988, đ/c Nguyễn Cơ Thạch thăm bí mật CPC với danh nghĩa Đặc phái viên TBT ta. Ngày 10/7 đ/c Nguyễn Cơ Thạch thông báo ý kiến của BCT ta lấy đường Brévié làm biên giới trên biển giữa 2 nước. Ngày 25/7, Hun Sen gặp anh Ngô Điền, Hun Sen đề nghị ký sớm biên giới trên biển theo đường Brévié trước khi đàm phán vòng 3 với Sihanouk (l0/1988). Hun Sen nói cán bộ CPC nhất là trí thức rất mừng khi nghe BCT VN khẳng định lấy đường Brévié; trước đây nghe kế hoạch chia đôi vùng nước lịch sử họ có thắc mắc và lo lắng. Ngày 10/9/1988, BCT VN họp bàn lại thấy việc ký Hiệp ước biên giới trên biển thấy phức tạp, đề nghị CPC hoãn lại, lý do cần tập trung giải pháp, VN còn quân, ký bây giờ địch sẽ xuyên tạc. Được chỉ thị, đ/c Ngô Điền xin gặp Hun Sen không được nên viết giấy để lại về ý kiến BCT hoãn ký đường Brévié. Mãi đến 12/10/1988 gặp anh Ngô Điền, Hun Sen mới nói đồng ý chưa làm gì về đường Brévié.

Về Giải pháp Đỏ, CPC nhiều lần ám chỉ xa gần là do VN cần bình thường hóa quan hệ với TQ và lợi ích của VN mà VN ép CPC đi vào Giải pháp Đỏ, cho đó là điều “phi đạo lý, phi đạo đức”, “đánh đồng nạn nhân diệt chủng và tội phạm diệt chủng” và kết luận rằng lãnh đạo CPC không “Đỏ” để đi vào Giải pháp Đỏ với Pol Pot như có người tưởng…

Việc ta thuyết phục CPC đi vào giải pháp chính trị và tán thành sáng kiến của Ngoại trưởng Australia dùng vai trò Liên Hợp quốc để không dùng vai trò Khmer Đỏ và Sihanouk trong thời kỳ quá độ đã làm cho bạn “nhẹ nhõm” trong việc chấp nhận đi vào giải pháp chính trị. Một tháng sau khi ta thông báo ý kiến của BCT (9/12/1989) chấp nhận sử dụng vai trò Liên hợp quốc, CPC đã chủ động triệu tập ngay Hội nghị toàn thể Trung ương **** lần thứ (10- l0/1/1990) để thông qua chủ trương đi vào giải pháp chính trị (mặc dù trước đó 5 tháng trong Hội nghị Trung ương 9, CPC đã quyết tâm giành một thắng lợi hoàn toàn bằng quân sự và triệu tập kỳ họp của Quốc hội (18/1/1990) để thông qua nghị quyết cho phép Liên Hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử ở CPC. (Ngày 11/8/1990, Hun Sen nói với đ/c Ngô Điền đại ý: CPC lo ngại bọn 3 phái hơn là Liên hợp quốc. Chấp nhận Liên hợp quốc hoặc cho SNC trong đó có 3 phái tổ chức tổng tuyển cử liên quan đến quyết định chiến lược có đi vào giải pháp chính trị hay không). Với những suy nghĩ đó TBT Heng Samrin miễn cưỡng chấp nhận ý kiến của TBT ta là không nên chấp nhận cho Liên Hợp quốc tổ chức tuyển cử ở CPC (tháng 3/1990) và ngày 17/4/1990 khi đ/c Nguyễn Cơ Thạch sang CPC thông báo với BCT CPC ý kiến của BCT ta trong Hội nghị BCT ngày 10/4/1990. BCT CPC không chấp nhận áp dụng phương án 4 (lập Chính phủ liên hiệp 2 bên để tổ chức Tổng tuyển cử). Cảnh giác với Liên hợp quốc và không chấp nhận thoả hiệp về vấn đề diệt chủng, cho rằng thoả hiệp về vấn đề này là phủ nhận cuộc đấu tranh 10 năm qua của cán bộ lãnh đạo CPC, phủ nhận tính chính nghĩa của sự có mặt của quân tình nguyện VN ở CPC. Nó sẽ tạo điều kiện cho bọn Khmer đối lập tiêu diệt những cán bộ lãnh đạo của Nhà nước vì không có diệt chủng họ ắt phải là “phản quốc”, VN vào CPC ắt là “xâm lược”. Mặt khác, BCT CPC đề nghị ta góp ý để CPC đơn phương tổng tuyển cử vào đầu năm 1990.

Từ 24-30/4/1990, Chea Sim sang VN kiểm tra sức khoẻ, gặp làm việc với đ/c Lê Đức Anh và Nguyễn Cơ Thạch. Đ/c Thạch nhắc lại BCT VN chỉ gợi ý phương án 4 như đ/c Thạch trình bày ở Phnom Penh ngày 17/4/1990, tuỳ BCT CPC quyết định. Chea Sim nhắc lại là nên đề Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử tốt hơn đồng thời đề nghị ta giúp CPC đơn phương tổ chức tổng tuyển cử.

Phải nói rằng việc ta khuyên CPC đi vào Giải pháp Đỏ (từ 1987), gợi ý việc chấp nhận vai trò Liên hợp quốc (12/1989) rồi bác vai trò Liên hợp quốc (3/1990), khuyên CPC đi vào phương án 3 (4/1990) và đi vào Giải pháp Đỏ (hội đàm 3 TBT 20-21/5/1990) là khác với lợi ích của những người lãnh đạo CPC muốn ăn cả bằng một giải pháp quân sự. Việc BCT CPC không chấp nhận gợi ý của BCT ta trong cuộc hội đàm 17/4/1990 đánh đấu bước ngoặt mới trong quan hệ VN-CPC sau khi VN rút hết quân khỏi CPC và sau khi CPC đã có quan hệ với Thái Lan (từ tháng 6/1988). Ngay sau khi chấp nhận Giải pháp Đỏ trong cuộc gặp 3 TBT 20-21/5/1990, trong cuộc họp BCT CPC ngày 30/5/1990, Chea Sim đã nói “Nếu đi vào giải pháp quá sớm, chúng ta sẽ tự treo cổ ta“31. Ngày 1/6/1990, Hun Sen nói với đ/c Nguyễn Cơ Thạch ở sân bay Nội Bài trên đường đi Tokyo gặp Sihanouk: “BCT CPC thấy giải pháp như đã thoả thuận giữa 3 đ/c TBT (Giải pháp Đỏ) cũng có nhiều khó khăn.”
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Hun Sen cho rằng sự hợp tác có nhiều khó khăn vì 3 nhân tố:
a) Bọn Pol Pot là bọn rất cực đoan cả về cách mạng và rất cực đoan về chủ nghĩa dân tộc.
b) Sau hơn 10 năm đánh nhau, việc hợp tác giữa 2 quân đội không thể dễ dàng được.
c) Bọn Pol Pot sẽ cố gắng đưa một số đảng viên lớn hơn số đảng viên hiện nay của **** NDCM CPC để giành đa số trong một đảng hợp nhất.

Trong khi trong nội bộ ta và ta với CPC có nhiều ý kiến khác nhau như vậy thì bên ngoài, 5 nước lớn khẩn trương hoàn chỉnh Hiệp định khung về giải pháp toàn diện về CPC với vai trò lớn của Liên hợp quốc như Quốc hội CPC đã chấp nhận ngày 10/1/1990. Ngày 15-16/12/1989, 5 nước thường trực HĐBA/LHQ (P-5) họp lần đầu cấp Thứ trưởng tại Paris ra thông cáo nêu 16 nguyên tắc để chỉ đạo tìm kiếm giải pháp toàn bộ cho vấn đề CPC, bảo đảm quyền tự quyết của CPC thông qua tổng tuyển cử tự do, công bằng và dân chủ; với vai trò tăng cường của Liên hiệp quốc (enhance the role of the United Nations). Ngày 11 – 12/2/1990, P-5 họp vòng 2 cấp Thứ trưởng tại New York tập trung bàn về 2 vấn đề quân sự và cơ chế chính quyền quá độ ở CPC nhưng chưa có thoả thuận cụ thể; vòng 3 họp ngày 12- 13/3/1990 tại Paris thoả thuận những nguyên tắc chính về 3 vấn đề: tổ chức tổng tuyển cử; lập Hội đồng dân tộc tối cao (SNC); quyền lực lâm thời của Liên hợp quốc.

Trên chiến trường CPC, sau khi VN rút quân vào cuối tháng 9/1989, ngày 22/10/1989, bọn Pol Pot phản công đánh chiếm thị trấn Pailin và uy hiếp thị xã Battambang. Ngày 26/10, CPC yêu cầu ta chi viện. Đ/c Lê Đức Anh sang CPC xem xét tình hình. Ngày 29/10/1989, ta đưa lực lượng đặc biệt lên Battambang cả bằng không quân và đường bộ để hỗ trợ cho CPC gồm 3 trung đoàn (E9 của F339, El của F330 và E20 của F4) do đ/c Sáu Phú, Phó Tư lệnh Quân khu 9 chỉ huy. Ngày 11/1/1990, Heng Somrin có công hàm khẩn gửi đ/c Nguyễn Văn Linh, đề nghị hoãn rút lực lượng đặc biệt ở Battambang và yêu cầu gửi thêm lực lượng bảo vệ Sisophon và Sam Rong. Ta không đáp ứng, ngày 15/1/1990, đ/c Đoàn Khuê lên CPC bàn với Bộ Quốc phòng CPC: ta rút lực lượng đặc biệt, ngoài số 1.265 chuyên gia và nhân viên kỹ thuật, ta đưa một bộ phận lực lượng đặc biệt này vào số chuyên gia, tăng số chuyên gia lên gấp đôi (do CPC trả lương từ 70-150 USD/tháng, theo như thoả thuận giữa hai Bộ Quốc phòng sau khi Bộ Tư lệnh VN ở CPC rút đi tháng 5/1988) bao gồm một số bộ phận bảo vệ cho chuyên gia, số lực lượng tăng cường này lúc cần có thể tham gia chiến đấu nhưng không chủ động chiến đấu. CPC chấp nhận phương án này, sau một thời gian nữa nếu không cần thì rút bớt. Trên thực tế, nếu số đó quá đông mà trả lương theo Đô la như thoả thuận từ 5/1988 thì CPC cũng không kham nổi. Lực lượng chuyên gia quân sự bên cạnh Bộ quốc phòng CPC lấy tên là K-88.

Từ giai đoạn này, tình hình chuyển biến rất nhanh chóng, ta phải đối phó rất căng thẳng vì tình hình diễn biến rất khẩn trương mà nhận thức của chúng ta lại rất khác nhau; cộng thêm sức ép của việc chuẩn bị cho Đại hội VII trong khi đó, ở Bộ ngoại giao có thêm sức ép là đ/c Uỷ viên BCT phụ trách Bộ ngoại giao có khả năng thay đổi, thuyên chuyển.

Từ 3-9/5/1990, đ/c Thứ trưởng ngoại giao Đinh Nho Liêm đi Bắc Kinh tiến hành vòng 3 đàm phán VN-TQ với danh nghĩa là đi “kiểm tra công tác của Sứ quán”. Tại vòng đàm phán này ta đồng ý có sự trao đổi ý kiến về vấn đề nội bộ CPC. Trong đàm phán, Từ Đôn Tín32 nói rõ ý TQ về SNC là SNC phải thật sự có quyền lực như chính quyền. Ta đồng ý giảm nói về diệt chủng. TQ coi giải quyết vấn đề CPC là điều kiện để bình thường hóa quan hệ với VN. Từ Đôn Tín hẹn sang Hà Nội tháng 6/1990 để tiếp tục đàm phán.

Trước khi sang Hà Nội, ngày 25/5/1990, Từ Đôn Tín đi New York họp vòng 4 Thứ trưởng P-5. Trong cuộc họp P-5 này, TQ đưa ra 2 phương án: hoặc lập SNC 4 bên làm nhiệm vụ chính quyền lâm thời trong thời kỳ quá độ hoặc giao cho Liên hợp quốc làm chức năng quản lý hành chính trong thời kỳ quá độ, còn SNC chỉ có chức năng tượng trưng. Trong khi đó ở Hà Nội, ta và CPC lại thấy cần tranh thủ Giải pháp Đỏ.

Lúc này ở Hà nội, sau cuộc gặp 3 TBT ngày 21/5/1990, ngày 23/5/1990, theo chỉ thị của đ/c Lê Đức Anh, Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh, Cục trưởng Cục đối ngoại Bộ quốc phòng đã thông báo cho Tuỳ viên quân sự TQ Triệu Nhuệ: ”đ/c Nguyễn Văn Linh và đ/c Lê Đức Anh sẽ gặp Từ Đôn Tín” . Ngày 27/5/1990, Từ Đôn Tín huỷ bỏ chương trình gặp Phó TTK/LHQ Admed sau cuộc gặp P-5 ngày 25-26/5/1990 và đi về Bắc Kinh ngay.

Ngày 30/5/1990, BCT họp cho ý kiến về đề án đàm phán với Từ Đôn Tín.

Đ/c Phạm Văn Đồng nói: Mấy nghìn năm TQ vẫn là TQ, không nên cả tin TQ. Ta cần thăm dò thúc đẩy nhưng cảnh giác đừng để hớ. Đ/c Nguyễn Văn Linh kết luận: Đ/c TBT sẽ gặp Đại sứ TQ, không gặp Từ Đôn Tín. Đ/c Thạch gặp Từ Đôn Tín. Gặp Đại sứ TQ không nói giải pháp CPC, chỉ nói 2 nước đoàn kết bảo vệ CNXH, thăm dò việc gặp cấp cao.

Chiều ngày 5/6/1990, đ/c TBT Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ TQ Trương Đức Duy. Đ/c TBT nói: “Bây giờ đế quốc âm mưu thủ tiêu CNXH, chúng điên cuồng tấn công CNXH, tất nhiên bọn đế quốc là cùng một ruột, chúng dùng KHKT và kinh tế bao vây XHCN. Chúng âm mưu dùng diễn biến hòa bình, mỗi **** phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì XHCN nhưng có nhiều vấn đề.
Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ CNXH. Trong vụ Thiên An Môn, các đ/c đã xử lý rất kiên quyết và rất vững vàng. Tôi sẵn sàng sang TQ gặp các đ/c lãnh đạo cấp cao của TQ để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Âm mưu của bọn đế quốc là chống phong trào cộng sản quốc tế do đó những người cộng sản chân chính của 2 nước cần trao đổi kinh nghiệm với nhau”.
… “Giờ đây vấn đề CPC, ta phải giải quyết như thế nào. Việc Liên hợp quốc vào tổ chức tổng tuyển cử sẽ có lợi cho các nước phương Tây. Vừa qua 5 nước HĐBA/LHQ họp bàn trong đó có Mỹ, Anh, Pháp là 3 nước đế quốc, Liên Xô là nước XHCN nhưng có vấn đề cũng khó nói, nay chỉ còn TQ...” .

Ngày 6/6/1990, đ/c Lê Đức Anh lại gặp Đại sứ TQ truyền đạt ý kiến của BCT VN. Nội dung xoay quanh vấn đề đoàn kết bảo vệ CNXH và Giải pháp Đỏ ở CPC.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Ngày 8/6/1990, đ/c Lê Đức Anh điện thoại dặn đ/c Trần Quang Cơ khi biết đ/c Cơ sẽ thay đ/c Đinh Nho Liêm (bị ốm) làm việc với Từ Đôn Tín ở Hà Nội :
+ Đã làm việc với anh [Đặng Nghiêm] Hoành, anh [Đinh Nho] Liêm. Phương hướng như đã bàn. Tất cả các vấn đề đều ổn cả duy chỉ còn vấn đề Hội đồng tối cao thời kỳ quá độ gồm 2 bên, có chức năng nhất định, với các uỷ ban giúp việc như đối ngoại, kinh tài, tổng tuyển cử về quốc phòng và an ninh chỉ nên là một. Nên tránh phương án Liên hợp quốc trong thời kỳ quá độ.
+ Việc hai bên Đỏ tiếp xúc nhau là chuyện lâu dài cần cho ổn định lâu dài. TQ sẽ tác động với phía thân TQ, ta sẽ tác động với phía thân ta để 2 bên kiềm chế việc thù địch nhau và hợp tác với nhau. Việc này phải có thời gian, không thể nhanh được, không thể đòi họ trả lời ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được thì họ trả lời.
+ Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp riêng chứ không nói trong đàm phán. Về việc Anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề với Đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn sàng đi TQ gặp cấp cao nhất, cũng không nên hỏi lại Từ Đôn Tín nếu họ chưa nói tới.

- Ngày 9/6/1990, trên đường từ Tokyo về nước, Hun Sen đã ghé Hà Nội.

Đ/c Thạch tiếp và làm việc với Hun Sen, đ/c Thạch hoan nghênh và ửng hộ kết quả cuộc họp Hun Sen-Sihanouk, khẳng định VN tôn trọng thoả thuận Tokyo và sẵn sàng cùng các nước liên quan đảm bảo thực hiện các thoả thuận đó. (Thoả thuận Hun Sen – Sihanúc ở Tokyo là lập SNC 2 bên, như vậy là gạt Khmer Đỏ).

- Ngày 11/6/1990, đàm phán tại Hà Nội giữa đ/c Trần Quang Cơ và Từ Đôn Tín. Từ Đôn Tín trình bày ý kiến TQ Cơ bản như lập trường trong cuộc họp P-5 ngày 25/5/1990.

Trưa 1 1/6/1990, đ/c Trần Quang Cơ về báo cáo đ/c Nguyễn Cơ Thạch (lúc này cũng đang có Hội nghị ngoại giao đánh giá sự sụp đổ của Đông Âu). Đ/c Thạch gắn hỏi đ/c Cơ có hỏi Từ Đôn Tín về Giải pháp Đỏ không ? Đ/c Cơ nói đ/c Lê Đức Anh đã dặn. Đ/c Thạch chất vấn đ/c Cơ nghe theo ý kiến Bộ trưởng ngoại giao hay nghe ý kiến Bộ trưởng quốc phòng. Đ/c Cơ nói sẵn sàng chấp hành ý kiến đ/c Thạch, sẽ hỏi Từ đôn Tín với sự hiểu biết rằng đức Thạch là Uỷ viên BCT. Đ/c Thạch đề nghị đ/c Cơ phải gặp hỏi Từ Đôn Tín, thậm chí còn bảo đ/c Cơ phải viết cam kết sẽ thực hiện điêu đó.

Chiều 11/6/1990, họp giữa 2 Trưởng đoàn và có 2 Đại sứ trao đổi về nội dung đ/c Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh nói với Đại sứ Trương Đức Duy. Từ Đôn Tín nhờ đông chí Trần Quang Cơ chuyến toàn văn ý kiến của lãnh đạo TQ trả lời ý kiến đ/c Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh như sau:“Lãnh đạo TQ rất coi trọng quan hệ Trung-Việt, lãnh đạo TQ cũng rất coi trọng những ý kiến đ/c TBT Nguyễn Văn Linh và đ/c Lê Đức Anh đã nói với Đại sứ TQ Trương Đức Duy. Phía TQ cho rằng quan hệ Trung-Việt sớm muộn cũng sẽ bình thường hóa. Hai bên đều cần cùng nhau cố gắng để thực hiện. Về vấn đề CPC, cuộc chiến tranh CPC đã kéo dài hơn 10 năm. Đây là vấn đề toàn thế giới quan tâm, các nước trong khu vực, nhất là ASEAN, cũng rất quan tâm. Đối với 2 nước TQ và VN, nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết hiện nay là trên cơ sở những nhận thức chung đã nhận được, tiếp tục trao đổi ý kiến về 2 vấn đề tồn tại (vấn đề quyền lực của Hội đồng tối cao và việc xử lý quân đội của các bên CPC), làm sao có tiến triển về 2 vấn đề này. Nếu được như vậy, chúng ta sẽ góp phần vào việc thực sự giải quyết vấn đề CPC. Bước đi này là hết sức quan trọng. Chỉ có đi xong bước này, chúng ta mới có thể suy nghĩ đến những bước sau. Cũng có nghĩa là chỉ có đi xong bước này, lãnh đạo TQ mới suy nghĩ về việc gặp cấp cao, và việc thúc đẩy 2 phái cộng sản Khmer hoà giải với nhau.

(Ngày 25/6/1990, trong cuộc gặp Thứ trưởng Trần Quang Cơ ở Bộ Ngoại giao, Đại sứ Trương Đức Duy đã đọc lại toàn văn trả lời của lãnh đạo TQ gửi lãnh đạo VN và nói là văn bản này “chính xác hơn”, trong đó phần cuối nói về CPC như sau: “Vấn đề CPC đã kéo dài 11 năm, trở thành vấn đề quốc tế trọng đại mà cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước ASEAN rất chú trọng. Chúng tôi cho rằng việc này cần làm gấp trước mắt là 2 bên TQ-VN nên đi đến thoả thuận càng sớm càng tốt về một số những mặt quan trọng cho giải pháp chính trị vấn đề CPC để thúc đẩy và tăng nhanh hơn tiến trình giải quyết toàn diện vấn đề CPC. Bước này đi tốt thì có lợi cho việc suy tính những vấn đề của bước sau và tạo điều kiện cần thiết cho cuộc gặp cấp cao TQ-VN, và tạo sự hoà giải nội bộ của CPC“).

Trong đàm phán với đ/c Cơ, Từ Đôn Tín đã nêu ra với ta dự kiến giải quyết vấn đề CPC theo 5 bước:

(1) TQ-VN thoả thuận một “biên bản nội bộ” ghi lại sự nhất trí giữa 2 bên về những vấn đề chính của giải pháp.
(2) Năm nước TQ, VN, Thái Lan, Lào và Indonesia (thay cho cuộc họp 3 nước TQ, VN, Thái Lan do Thủ tướng Thái đề nghị năm ngoái) họp cấp ngoại trưởng và có tuyên bố chung về CPC.
(3) Năm nước trên họp cùng với 4 bên CPC.
(4) Năm nước Hội đồng Bảo an họp với 4 bên CPC. Theo TQ, nếu 3 bước trên đều suôn sẻ thì việc họp 5 nước Hội đồng Bảo an với 4 bên CPC làm sớm hay muộn không thành vấn đề.
(5) Họp lại Hội nghị quốc tế Paris về CPC ký kết Hiệp định toàn bộ.

Theo kế hoạch này, rõ ràng TQ muốn đóng vai trò trung tâm của khu vực trong cả quá trình giải quyết vấn đề CPC. Trong 5 bước này, TQ không nói gì đến gặp gỡ cấp cao giữa 2 nước.

Tối 12/6, từ 21 giờ đến 1 giờ sáng, Đại sứ Đặng Nghiêm Hoành làm việc với Vụ phó [Bộ Ngoại giao TQ] Trương Thanh về “biên bản nội bộ”. Cuộc tranh luận rất găng và không đi đến thoả thuận. Sau này trở lại Bắc Kinh, đ/c Hoành gặp rất nhiều khó khăn trong làm việc với Bộ Ngoại giao TQ.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Một sự kiện đáng ghi nhớ là buổi đ/c Nguyễn Cơ Thạch tiếp Từ Đôn Tín chiều 13/6/1990 biến thành một buổi tranh luận to tiếng rất gay gắt và dùng những lời lẽ rất nặng nề, từ gọi là đ/c đến gọi nhau là Ngài. Từ Đôn Tín nói với đ/c Thạch: …”Tôi muốn nói điểm thứ hai về vấn đề 2 tiếng nói… Trong đàm phán, VN nêu ra với chúng tôi và vừa rồi đ/c nói mong muốn Trung-việt hợp tác thúc đẩy hai phái cộng sản CPC hợp tác với nhau. Chúng tôi biết đó không phải là ý kiến riêng của các đ/c mà là ý kiến của Trung ương **** VN. Chúng tôi đã báo cáo Trung ương **** chúng tôi. Tất nhiên chúng tôi rất coi trọng và nghiên cứu ý kiến của các đồng chí. Nhưng trong thời gian đó, trên diễn đàn quốc tế ở Tokyo, các đ/c lại cố sức tìm cách loại trừ một bên CPC, đó là Khmer Đỏ. Các đ/c nói hai bên chúng ta nên khuyên hai phái cộng sản hoà giải với nhau, nói đó là mong muốn chân thành của VN. Nhưng trên thực tế các đ/c cố sức tiêu diệt Khmer Đỏ. Nếu lãnh đạo VN muốn có sự hoà giải giữa 2 nhóm cộng sản thì lẽ tất nhiên là phải chấp nhận 4 bên. Chúng tôi không thể hiểu được hai giọng nói đó của lãnh đạo VN. Không hiểu cái nào là thật và cái nào là giả. Nếu nghe tiếng nói này thì tiếng nói kia là giả dối, nếu nghe tiếng nói kia thì tiếng nói này là giả dối. Mong rằng sau này các đông chí không nên làm như vậy.” … Và hai bên tranh luận rất nhiều về “các bên” và “4 bên CPC “. …

Đ/c Thạch hỏi Từ phụ trách vấn đề CPC từ bao giờ, Từ nói mới 2 năm. Đ/c Thạch nói: “Tôi bạc đầu vì vấn đề CPC… Tôi phụ trách vấn đề CPC đã 20 năm, từ tháng 3/70 khi Sihanouk bị lật đổ… Người TQ cũng như người VN đều có câu “Hậu sinh khả uý” … Đ/c Thạch nói tiếp: “Nghe đ/c nói tôi rất không hài lòng vì chúng tôi nói một đằng, đ/c hiểu một nẻo, điều đó rất không tốt. Tôi nói đ/c sang Hà Nội một lần, chứ không phải nói sang một lần thì phải thất bại. Đó là xuyên tạc, là một ý xấu… Tôi nói một đằng, đ/c hiểu một nẻo. Dù nước lớn hay nước nhỏ cũng phải tôn trọng bình đẳng với nhau. Chúng tôi có nói loại trừ bên nào đâu mà đ/c nói chúng tôi tìm cách loại trừ một bên. Đó là xuyên tạc. Tôi hết!“. Sau một hồi to tiếng nữa cuối cùng Từ Đôn Tín nói: “Ngài không hài lòng với tôi nhưng tôi cũng mãi mãi không hài lòng với Ngài“. Từ đây quan hệ giữa đ/c Thạch với TQ càng căng thẳng hơn. Ngày 1/11/1990, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ còn nói: “phát biểu của Nguyễn Cơ Thạch về quan hệ Trung-Việt và vấn đề CPC nội dung là không đáng tin cậy, chẳng qua chi là cách nhìn của ông ta mà thôi“.

- Ngày 19/6/1990, BCT họp đánh giá cuộc gặp Việt-Trung với Từ Đôn Tín ở Hà Nội, ý kiến rất khác nhau.

Đ/c Nguyễn Văn Linh vắng mặt (đi thành phố Hồ Chí Minh) trong cuộc họp này và dặn đ/c Nguyễn Thanh Bình đề nghị BCT chưa bàn về phương hướng tới chờ đ/c Linh về.

- Ngày 25/6/1990, đ/c TBT Nguyễn Văn Linh từ thành phố Hồ Chí Minh điện ra cho BCT: Đã đọc biên bản họp BCT (19/6/1990), có một số ý kiến sẽ phát biểu sau. Một số việc làm ngay:
a) Không đồng ý thông báo cho Trung ương và cấp uỷ về điều tối mật mà chỉ thông báo nói rõ cuộc họp Việt-Trung là do TQ phá. Ngoại giao có cách giải thích cho dư luận theo hướng trên.

b) Do Bạn đề nghị ta thăm dò, đề nghị Anh Sáu Nam [Lê Đức Anh] đi ngay CPC thông báo cho bạn.
Tình hình thế này cần giúp bạn có đòn tấn công, đánh một số trận tốt như Kompong Thom chẳng hạn.

c) Đề phòng TQ lộ ra những điều ta lấy tình bạn mà nói, ngoại giao theo dõi, nếu có bác ngay, không để chậm 2-3 ngày.

- Ngày 22/6/1990, Đại sứ Nguyễn Xuân thông báo cho động chí Phun Sipasớt về đàm phán với Từ Đôn Tín ở Hà Nội. Đông chí Phun phát biểu: Giải pháp Đỏ là không nên và không thể được, bất lợi cho ta. TQ đang bị cô lập vì là nước duy nhất ủng hộ diệt chủng. Chắc chắn TQ không muốn Giải pháp Đỏ mà muốn giải pháp thực chất 4 bên để duy trì vai trò và vị trí Khmer Đỏ mà không mang tiếng là ủng hộ diệt chủng.

Theo chỉ thị của TBT Nguyễn Văn Linh, sáng 1/7/1990, đ/c Lê Đức Anh đi Phnom Penh làm việc với BCT CPC, cùng dự có Đại sứ Ngô Điền và anh Ba Cung.

Đ/c Lê Đức Anh phát biểu đại ý: Sau cuộc họp 3 TBT, các đ/c uỷ quyền cho chúng tôi thăm dò ý đồ thật của TQ về giải pháp CPC. BCT chúng tôi cho rằng những cuộc gặp gỡ ngoại giao (anh Đinh Nho Liêm đi Bắc Kinh, Từ Đôn Tín đi Hà Nội) cứ tiến hành bình thường, mặt khác, các đ/c Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Đỗ Mười giao cho tôi gặp Đại sứ TQ. Khi gặp ăn cơm với Trương Đức Duy, tôi nói mặt quốc tế của vấn đề CPC hầu như không còn vấn đề gì chỉ còn mặt nội bộ CPC, nếu nhận thức nhất trí về 3 nguyên tắc sau đây thì dễ giải quyết:
a) Mt giải pháp chính trị nội bộ CPC phải phản ánh gần đúng so sánh lực lượng, thế và lực trên chiến trường giữa 2 bên đối kháng. Một bên là Nhà nước CPC kiểm soát hầu hết CPC, còn bên kia là CPC Dân chủ lưu vong với 3 nhóm nhưng lực lượng chủ yếu là Khmer Đỏ.
b) Mọi giải pháp phải tôn trọng chủ quyền CPC…
c) Mọi giải pháp phải bảo đảm sự ổn định, ít nhất như hiện nay, không làm xáo trộn tình hình CPC…
Đại sứ TQ không phản đối nguyên tắc trên và thăm dò VN có thể thuyết phục bạn bè ở Phnom Penh hoà giải với Khmer Đỏ không… Trương Đức Duy nói cần giữ tuyệt mật, sẽ báo cáo về Bắc Kinh. Tôi gặp đại sứ TQ ngày 6/6/1990 và ngày 7/6/1990 Từ Đôn Tín đã rời Bắc Kinh. Từ Đôn Tín sang Hà Nội đàm phán với giọng cao, đòi Hội đồng tối cao 4 bên nắm các Bộ chủ yếu…
Theo uỷ quyền của BCT VN tôi đã thăm dò, xin báo cáo quá trình làm và kết quả như vậy. Đề nghị CPC cho ý kiến về bước làm tới.

Buổi trưa, BCT CPC họp riêng, chiều BCT CPC gặp lại đ/c Lê Đức Anh, TBT Heng Somrin phát biểu đại ý:
- TQ quan tâm và không bác bỏ ý kiến của ta. Khó hiểu thái độ TQ, có lẽ họ đang nghiên cứu.
- Đề nghị VN tiếp tục thăm dò, thúc đẩy TQ tác động đến Khmer Đỏ để có cuộc gặp bí mật với Khmer Đỏ. Có thể gặp thẳng Pol Pot hoặc gặp Son Sen hay đại diện có thẩm quyền của Khmer Đỏ, phải gặp người có thẩm quyền…

Dù gặp Pol Pot không có nghĩa là ta chấp nhận Pol Pot trở về. Khi gặp Pol Pot ta nói rõ cho họ hiểu nhân dân CPC không chấp nhận họ trở về nên họ phải hy sinh vì sự nghiệp hoà hợp dân tộc, chấm dứt đau khổ của nhân dân… Địa điểm gặp nên bí mật, có thể là một địa điểm trên biên giới Việt-Trung…
Hun Sen phát biểu: Ta tiếp tục thăm dò, gặp để tìm hiểu song song ta thúc đẩy thực hiện thoả thuận Tokyo về lập SNC 2 bên…
Anh Lê Đức Anh nhấn mạnh: ta vừa làm, vừa thăm dò, quan trọng là củng cố lực lượng trên chiến trường.

- Trước đó, ngày 26/6, từ Hà Nội trở lại Phnom Penh, anh Ngô Điền đã thông báo cho Hun Sen và 28/6 thông báo cho Sar Kheng về kết quả đàm phán với Từ Đôn Tín. Cả hai ghi chép rất cẩn thận nhưng không bình luận gì mặc dù cuộc nói chuyện dài về nhiều vấn đề.

Tối 1/7/1990, tại Phnom Penh, Đ/c Lê Đức Anh nói với đ/c Ngô Điền: Đ/c bất ngờ về ý kiến CPC định gặp thẳng Pol Pot. Trong cuộc gặp 3 TBT ở Hà Nội 5/1990, phía ta không đặt vấn đề Giải pháp Đỏ, chỉ bàn nhiều về tình hình khủng hoảng ở Liên Xô- Đông Âu, về âm mưu đế quốc đối với VN, Đông Dương. Khi giải lao, Anh Đỗ Mười có nói với Hun Sen về việc gặp Khmer Đỏ. Đoàn CPC hội ý với nhau lâu, khi vào Heng Somrin nêu Giải pháp Đỏ, 2 TBT khác tán thành và uỷ quyền cho ta thăm dò. Các Anh Linh, Công, Mười giao Anh Lê Đức Anh làm. Anh Lê Đức Anh nói trước đây Anh Sáu Thọ có nêu Giải pháp Đỏ với CPC từ 1987 mãi sau này Anh Lê Đức Anh mới biết. Ngày 5/6, Anh Linh tiếp Đại sứ TQ có Anh Thạch dự. Hôm sau 6/6/1990, Anh Lê Đức Anh mới biết rằng Anh Linh đã nói hết với Đại sứ TQ (đoàn kết VN-TQ bảo vệ CNXH, chỗ dựa Liên Xô lung lay, Giải pháp Đỏ) đáng lẽ chỉ tiếp xã giao và thăm dò thôi. Khi tiếp và ăn cơm cùng Trương Đức Duy, anh Lê Đức Anh nêu 3 nguyên tắc giải quyết mặt nội bộ của CPC, Trương Đức Duy không phản đối (Thư ngày 6/7/1990 của Anh Ngô Điền gửi Anh Thạch).
 
Chỉnh sửa cuối:

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
- Cũng khoảng tháng 7/1990, Hun Sen thông báo [với] anh Ngô Điền là, qua “người trung gian” của Bắc Kinh đến Phnom Penh ngày 20/7/1990) cũng như sự giúp đỡ của Jerome Kanapa và bà Galabru33 ở Pháp, chị Ty Borasy34 sẽ đi Hongkong để gặp Đại diện của Bắc Kinh vào cuối tháng 7/1990. Sau đó Hun Sen có nói với anh Ngô Điền một số tin về vấn đề này. Sau đó không thấy Hun Sen nhắc lại chuyện này. Ý kiến cá nhân tôi là việc này không có thật mà Hun Sen cố tình bịa ra để làm vừa lòng ta.

- Ngày 17/7/1990: P-5 họp vòng 5 cấp Thứ trưởng thoả thuận 2 nội dung chủ yếu: tập kết và giải pháp các bên CPC; Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử, kiểm soát 5 Bộ, còn SNC chỉ là tượng trưng.

- Ngày 18/7/1990: Tại Paris Ngoại trưởng Mỹ James Baker nói Mỹ sẽ rút lui công nhận CPC Dân chủ, lên án Khmer Đỏ, đối thoại với VN qua phái đoàn ở New York, viện trợ nhân đạo cho VN.

- Ngày 27/7/1990, BCT ta họp đánh giá về tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Baker, tán thành việc xúc tiến về đàm phán Việt-Mỹ, chủ trương về CPC: Ta thoả thuận với Mỹ, TQ, với các nước khác về mặt quốc tế của vấn đề CPC và không dính líu vào các vấn đề nội bộ CPC. BCT cử đ/c Nguyễn Cơ Thạch sang thông báo cho CPC ý kiến của ta.

- Ngày 6/8/1990: Đàm phán Việt-Mỹ lần đầu tại New York theo tuyên bố của J. Baker. Mỹ chủ yếu thăm dò thái độ của ta về 2 văn kiện khung giải pháp CPC của Liên hợp quốc.

- Ngày 8/8/1990: Bộ Ngoại giao trình BCT đề án đấu tranh về vấn đề CPC trước những diễn biến quan trọng trên quốc tế. Đề án nhận định: chúng ta đứng trước một tình hình là Xô-Mỹ và 5 nước lớn quyết tâm đạt thoả thuận về một giải pháp chính trị cho vấn đề CPC. CPC đang đứng trước tình thế tiến thoái luỡng nan: không thể kéo dài nội chiến vì khó khăn kinh tế, chính trị trong nước và khó khăn trên thế giới; đi vào giải pháp chính trị thì lo thất bại trong tổng tuyển cử. Nên góp ý với bạn đồng ý phương án của P-5: SNC chỉ tượng trưng, cần xác định rõ quyền hạn của Liên hợp quốc trên cơ sở tôn trọng chủ quyền CPC.

Trong khi chờ đợi ý kiến của BCT, đ/c Nguyễn Cơ Thạch cử tôi (Huỳnh Anh Dũng) đem đề án sang CPC để đ/c Ngô Điền trình bày với Hun Sen. Ngày 11/8/1990, tại nhà riêng Hun Sen, Hun Sen tiếp anh Ngô Điền và tôi. Sau khi nghe, Hun Sen nói:"Như vậy là ta trở lại phương án Liên hợp quốc như ta đã nhất trí từ trước. Ba đ/c TBT trao đổi ở Hà Nội thấy Liên hợp quốc là nguy hiểm. Khi chuyển không dùng Liên hợp quốc làm chúng tôi rất khó khăn, Liên Xô rất thắc mắc. Ba TBT nói giao Liên hợp quốc tổ chức bầu cử là nguy hiểm sau khi có thất bại của Mặt trận Sandino ở Nicaragoa. Ba đ/c TBT trao đổi như vậy nên ta phải chuyển. Trước đó các đ/c cùng chúng tôi đã nhất trí SNC chỉ là tượng trưng, giao Liên hợp quốc tổ chức bầu cử. Trên tinh thần đó, ta tính các phương án và các đ/c cử người (đ/c Đặng Nghiêm Hoành) gặp tôi ở Svay Rieng trước khi tôi gặp Costello ngày 7/1/1990… Khi ta chấp nhận Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử, Liên Xô rất vui… Nếu trở lại công thức này thì rất tốt, tập hợp được lực lượng. Tôi và đ/c Hor Nam Hong35 bàn nhau thấy công thức này thì tốt nhưng 3 đ/c TBT quyết định tôi phải làm theo, tôi phải làm công tác tư tưởng cho Hor Nam Hong, khó lắm… Tháng 4/1990, đ/c Thạch sang đây nêu phương án SNC tổ chức tổng tuyển cử. Tôi có phát biểu ý kiến cá nhân tôi chắc đ/c Điền và đ/c Dũng còn nhớ. Nếu ta lấy SNC tổ chức bầu cử thì ta phải đối phó với không biết bao nhiêu người của bọn 3 phái, người của SNC và ứng cử viên của nó, đồng thời ta còn phải đối phó với Liên hợp quốc mà thôi. Liên hợp quốc lại là người nước ngoài, đi đâu ta cũng biết và họ khó mua chuộc được dân CPC, không như bọn 3 phái là người Khmer… Ta phải quyết định có giải pháp chính trị về vấn đề CPC. Giải pháp chính trị hay không, không phụ thuộc vào ý muốn của ta… Đối với CPC, việc cho Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử đã được hợp pháp hoá, Quốc hội đã thông qua. Ý anh em chúng tôi là muốn cái này (Liên hợp quốc)…Việc có sử dụng vai trò Liên hợp quốc hay SNC là một bộ phận quan trọng của quyết định chiến lược có đi vào giải pháp chính trị hay không?… Nếu BCT VN đồng ý cái này thì BCT chúng tôi họp một giờ là thông qua được.. Khi anh Heng Somrin đi nghỉ ở Hà Nội, đ/c Nguyễn Văn Linh và đ/c Lê Đức Anh gặp anh Heng Somrin tỏ lo ngại về việc sử dụng vai trò Liên hợp quốc. Anh Heng Somrin về nói cái này, tôi có nói lại là giao cho Liên hợp quốc có mặt phức tạp nhưng giao cho SNC phức tạp hơn: nó có hệ thống, người nhiều mà ta còn phải lo đối phó với cả Liên hợp quốc nữa. Cái này làm tôi rất khó… Quyết định của 2 đ/c TBT làm tôi rất khó. Không nên để có ý kiến khác nhau giữa TBT và Thủ tướng, tôi phải làm ý kiến nhất trí… Làm SNC rất phức tạp, CPC không đủ người và khả năng để tham gia các Uỷ ban đế đối phó với bọn kia. Khi bàn không để Liên Hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử, đ/c TBT Lào Kaysone Phomvihan băn khoăn điều này. Ta nhận rồi ta lại thôi. Đ/c Kaysone nói ta trèo cao rồi, nếu tuột xuống dễ ngã đau.

Về Giải pháp Đỏ, lúc đầu ta tưởng rằng TQ muốn như vậy. Tình hình thế giới chuyển biến phức tạp tưởng rằng TQ muốn Giải pháp Đỏ. Bây giờ rõ ràng TQ không muốn Giải pháp Đỏ, ta không nên một mình làm Giải pháp Đỏ. Đối với Khmer Đỏ như tôi vừa trình bày khi anh Thạch vừa sang đây: sách lược của ta là không công nhận chúng có quyền véto [phủ quyết] nhưng ta không loại bỏ chúng hoàn toàn. Ta tính giải pháp “Đỏ” để loại trừ “Xanh”. Nếu “Đỏ” không được thì ta phải đi với “Xanh” diệt “Đỏ”. TQ không muốn đi với ta, sao ta lại chiếu cố TQ?"

- 15 giờ 30′ ngày 8/8/1990, đ/c Phạm Văn Đồng góp ý với đ/c Trần Quang Cơ về đề án của Bộ Ngoại giao: Tình hình hiện nay tạo cơ hội thuận lợi cho giải pháp vấn đề CPC. Cần tận dụng cơ hội mới này trong khi ta còn sử dụng được. Phải dám chơi với Liên hợp quốc, với HĐBA, với Mỹ và phương Tây… Đề án lý thuyết thì tốt nhưng làm sao thực hiện được? Ta giúp vào đó cũng không có hiệu quả. Còn lãnh đạo CPC coi như bất lực, rất xoàng… Đi vào tổng tuyển cử giành được 50% là lý tưởng, có khi 30% còn khó… Cần tranh thủ nhân tố Mỹ trong tình hình mới… Trong liên minh… chớ nên tính chuyện khống chế. Không nên đặt yêu cầu quá cao “giữ vững thành quả cách mạng CPC”.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
- Ngày 12/8/1990, BCT họp về đề án của Bộ Ngoại giao, sau khi thảo luận, đ/c TBT Nguyễn Văn Linh kết luận:
+ Đối với Mỹ, ta tiếp tục đối thoại theo chủ trương của BCT đã cho ý kiến.
+ Đối với TQ, trong cuộc gặp ngày mai (13/8, giữa anh Cơ và Trương Đức Duy) ta nên nói là 2 nước XHCN Việt Nam và TQ nên hợp tác giải quyết vấn đề CPC, để có một nước CPC hữu nghị với các nước láng giềng, trước hết là

VN, TQ, Lào. Ta không nói VN và TQ là 2 nước XHCN cần đoàn kết chống đế quốc và bảo vệ CNXH.
+ Đối với bạn CPC: những vấn đề tồn tại hiện nay là những vấn đề thuộc nội bộ và chủ quyền của CPC phải do các đ/c CPC tự quyết định. VN sẽ tôn trọng những quyết định của các đ/c CPC về những vấn đề này.

- Ngày 12 và 13/8/1990, Anh Thạch điện chỉ thị anh Ngô Điền: Sáng 12/8, BCT VN vừa họp. Anh Thạch đã trình bày ý kiến Bộ Ngoại giao. Sau đó BCT kết luận nhất trí từ nay các vấn đề nội bộ CPC trong giải pháp toàn diện do lãnh đạo CPC cân nhắc lợi hại để quyết định làm như thê nào có lợi nhất. VN sẽ ủng hộ quyết định của CPC. VN tôn trọng quyết định của CPC giao một số quyền lực cho Liên hợp quốc trong thời kỳ quá dộ còn hơn là giao cho SNC như anh vừa trao đổi với Hun Sen. Anh Điền nên coi cuộc trao đổi ngày 11/8 với Hun Sen là giữa những bạn quen thân tình, không cần thông báo lại cho bất cứ ai.
Chiều 14/8, anh Điền gặp Hun Sen trình bày hầu như toàn bộ nội dung điện của Anh Thạch. Hun Sen cho biết: chiều 11/8, Hun Sen đã trao đổi với BCT CPC; tất cả nhất trí nên hạn chế SNC, giao một số quyền cho Liên hợp quốc, Hun Sen sẽ viết thư trả lời thư Ngoại trưởng Liên Xô Shevardnadze theo hướng chấp nhận văn kiện khung của Liên hợp quốc (Hun Sen gửi ngày 15/8/1990).

- Ngày 27/8/1990, P-5 họp vòng 6 cấp Thứ trưởng tại New York, nhất trí hoàn toàn văn kiện khung về giải pháp toàn bộ cho CPC gồm 5 vấn đề: sắp xếp về chính quyền quá dộ; sắp xếp vũ trang; bầu cử dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc; nhân quyền; bảo đảm quốc tế. Thông cáo nói 5 vấn đề này cùng với thoả thuận của Hội nghị quốc tế Paris về hồi hương và tái thiết CPC sẽ tạo khung cho giải pháp CPC.

- Ngày 29/8/1990, Đại sứ Trương Đức Duy gặp TBT Nguyễn Văn Linh và đ/c Đỗ Mười chuyến lời mời của TBT Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và đ/c Phạm Văn Đồng sang TQ gặp bí mật tại Thành Đô 3/9/1990.

- Ngày 31/8/1990, đàm phán Việt-Mỹ vòng 2 tại New York. Mỹ đề nghị VN và CPC chấp nhận giải pháp khung, CPC đi Jakarta để lập SNC, coi đây là điều kiện để bình thường hóa quan hệ với VN và Mỹ nói chuyện với Phnom Penh.

- Ngày 30/8/1990, BCT bàn về đàm phán cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô (thủ phủ Tứ Xuyên, TQ). Anh Linh nêu vấn đề sẽ bàn hợp tác chống đế quốc bảo vệ CNXH và hợp tác [giữa] Phnom Penh và Khmer Đỏ.

Anh Võ Chí Công: TQ sẽ ép ta về vấn đề CPC. TQ vừa giữ Khmer Đỏ, vừa nắm Sihanouk, nắm cả 5 Bộ. TQ sẽ không nghe ta giữ CNXH, TQ muốn tranh thủ phương Tây. Không nên nói gì về Liên Xô, phải giữ chiến lược đoàn kết với Liên Xô.

Anh Lê Đức Anh: Phải nói về hoà hợp dân tộc thực sự ở CPC. Nếu không có Pol Pot thì vẫn tiếp tục chiến tranh.

Anh Thạch nêu 3 khả năng về quan hệ với TQ, dự kiến các vấn đề TQ nêu: Hội đồng tối cao theo công thức 6+2+2+2 để đòi 4 bên, tập kết lực lượng vũ trang, diệt chủng.

- Ngày 2-4/9/1990, TBT Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng đã thăm Thành Đô, hội đàm với TBT Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng về giải quyết vấn đề CPC và quan hệ 2 nước. Cùng đi có đ/c Hồng Hà [Bí thư TƯ ****], Hoàng Bích Sơn [Trưởng Ban Đối ngoại TƯ ****], Đinh Nho Liêm. Trong gặp gỡ Giang trạch Dân đọc hai câu thơ đời nhà Đường: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Trường phùng nhất tiếu mẫn ân cừu” ý nói: sau phong ba, bão táp, tình anh em vẫn còn; gặp nhau mở một nụ cười thì xoá hết oán hờn. Hai bên đã ký biên bản nội bộ gồm 8 điểm, nhất trí giải quyết vấn đề CPC bằng giải pháp chính trị toàn diện, công bằng, hợp lý, đồng ý lập SNC gồm 13 thành viên do Sihanouk đứng đầu theo công thức 6+2+2+2+l và song song từng bước cải thiện quan hệ 2 ****, 2 Nhà nước tiến tới bình thường hóa quan hệ. Điểm 4 biên bản viết: “Hai bên tán thành 5 văn kiện được 5 nước thường trực HĐBA/LHQ thoả thuận về vấn đề CPC và cho rằng cần lấy các văn kiện đó để làm khuôn khổ cho việc giải quyết chính trị toàn diện vấn đề CPC. Hai bên sẽ thúc đẩy các bên CPC cũng tiếp nhận văn kiện đó và tích cực tham gia tiến trình giải quyết chính trị toàn diện.

Ngay sau khi về đến Hà Nội, sáng ngày 5/9/1990, các đ/c TBT Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Cơ Thạch bí mật sang Phnom Penh thông báo về gặp cấp cao Thành Đô. Sau khi nghe thông báo, trước khi BCT bạn họp riêng trao đổi, Heng Somrin đề nghị VN đánh giá khả năng về Giải pháp Đỏ để BCT CPC dễ trao đổi. Sáng 6/9/1990, TBT Heng Somrin trả lời không chấp nhận công thức 6+2+2+2+1 và phát biểu như sau:
+ Sau thoả thuận 3 TBT tháng 5/1990, VN đã cố gắng và có được cuộc gặp cấp cao với TQ.
+ Qua thăm dò của VN thấy rõ TQ trước đây cũng như hiện nay TQ luôn dùng vấn đề CPC đe gây sức ép trong quan hệ VN-TQ.
+ …Chúng tôi đánh giá TQ xuất phát từ lợi ích của họ. Lợi ích đó là 4 hiện đại. Vì vậy TQ giữ CNXH ở TQ nhưng TQ cố gắng mở cửa với phương Tây. Ý đồ TQ không muốn 2 phái cộng sản ở CPC hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ của họ với Sihanouk và gây phức tạp quan hệ của họ với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó có thể thực hiện Giải pháp Đỏ vì Giải pháp Đỏ trái với lợi ích của TQ.

Về văn kiện khung P-5, Heng Somrin nói: “Chúng tôi coi văn kiện này là cơ sở của giải pháp trong khuôn khổ giải pháp của chúng ta. Vì vậy, chúng tôi chấp nhận về nguyên tắc.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Ngày 7/9/1990: BCT họp thảo luận về kết quả cấp cao Việt-Trung và cấp cao VN-CPC. BCT quyết định:
+ 8/9/1990: Đ/c Đỗ Mười gặp Đại sứ TQ nói lại lập trường CPC.
+ Thông báo cho Liên Xô, Lào như nội dung thông báo cho CPC.
+ Ai hỏi về công thức 6+2+2+2+1, nói không biết.

- 7 giờ 15′ sáng 9/9/1990, BCT họp về thông điệp của TQ do Trương Đức Duy trao cho anh Hồng Hà 6 giờ sáng 9/9/1990 đề nghị tác động việc lập SNC do các bên CPC đang họp ở Jakarta. BCT quyết định: Anh Trần Quang Cơ đi Jakarta. Anh Linh nói cố lập được SNC. Anh Thạch gửi thư cho Hun Sen. Từ nay mọi tiếp xúc phải qua Bộ Ngoại giao và phải báo cáo trước với Anh Thạch và Anh Lê Đức Anh.(Ý là ngăn Đại sứ TQ chỉ tiếp xúc với Ban Đối ngoại [TW ****] và lờ đi Bộ Ngoại giao). Theo quyết định đó, anh Trần Quang Cơ, có tôi đi cùng, rời ngay Hà Nội trưa 9/9/1990 qua đường Bangkok. Chiều tối 10/9/1990, anh Cơ đến Jakarta thì cuộc họp các bên CPC đã kết thúc, đã thoả thuận lập SNC gồm 12 thành viên xếp theo vẫn chữ cái và không có Sihanouk. Mặc dù vậy, khi anh Cơ vừa đến Sứ quán ta ở Jakarta, Vụ phó Trương Thanh chủ động gọi điện thoại cho anh Cơ thông báo cuộc họp đạt kết quả tốt và “cám ơn sự giúp đỡ” của anh Cơ. Tuyên bố chung cuộc họp ghi rõ “các bên CPC chấp nhận toàn bộ văn kiện khung P-5 làm cơ sở để giải quyết cuộc xung đột CPC. “

- Ngày 24/9/1990, đ/c Lê Đức Anh sang CPC, thay mặt BCT ta làm việc với BCT CPC (tôi không còn nhớ nội dung, nhưng nghĩ rằng nội dung là bàn giúp CPC xây dựng lực lượng để chuẩn bị đi vào giải pháp chính trị). Ngày 26/9/1990, Chea Sim thay mặt BCT CPC gửi thư cho BCT ta với nội dung: Cám ơn sự giúp đỡ, hoàn toàn nhất trí với nội dung đ/c Lê Đức Anh bàn với BCT CPC ngày 24/9/1990, đề nghị BCT sớm cử một tổ giúp nghiên cứu tổng hợp trong tình hình mới ở CPC.

Tiếp sau đó đoàn các đ/c Trần Văn Quang, Lê Hai sang làm việc với CPC ngày 18/10/1990 có Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen, Sai Phu thong, Sar Kheng. Heng Somrin trình bày bản viết sẵn về tình hình và đề nghị ta giúp đỡ theo hướng chuẩn bị giải pháp chính trị. Anh Trần Văn Quang và Lê Hai còn dành thì giờ làm việc thêm với Bộ trưởng Bộ quốc phòng Tia Banh, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Sin Song. Ngày 20/10, anh Quang về Hà Nội báo cáo BCT. Anh Ngô Điền cũng làm việc với anh Trần Văn Quang và Lê Hai theo hướng dùng K-88 (chuyên gia quân sự) và K-89 (chuyên gia an ninh) để giữ liên lạc với CPC. Trong làm việc, theo anh Ngô Điền báo cáo, Hun Sen nói: Ta xác định bước đi tìm giải pháp chính trị là không thể lùi lại được. (Từ 3 đến 7/2/1991, đ/c Trần Văn Quang lên CPC lần nữa, không rõ cụ thể nội dung, hướng là giúp CPC xây dựng căn cứ địa chuẩn bị giải pháp chính trị).

- Ngày 28/9/1990, gặp anh Trần Quang Cơ tại Phnom Penh, Hun Sen nói: “Khi gặp Sok An36 ở Bangkok 17/9, TQ dọa và đòi Nhà nước CPC phải nhận công thức VN-TQ đã thoả thuận. Nhưng Phnom Penh độc lập. [Thủ tướng Thái] Kraisak đã nói rất đúng khi trả lời TQ về ý trên là VN không phải là Phnom Penh.

- Ngày 29/9/1990, ba nước VN, Lào, CPC thoả thuận làm bị vong lục chung gửi Liên Xô nói rõ ý kiến về văn kiện khung P-5 nhưng sau đó CPC thay đổi ý kiến là bị vong lục của riêng CPC không làm chung 3 nước. Và có thể khẳng định từ lúc này trở đi, CPC không thật sự trao đổi ý kiến với ta về giải pháp CPC nữa.

- Ngày 1 l/10/1990: Anh Lê Đức Anh gặp Hun Sen tại sân bay Nội Bài. Anh Lê Đức Anh khuyên Hun Sen trong tình hình hiện nay CPC nên đẩy mạnh hoạt động ngoại giao dể họp sớm SNC. SNC không quan trọng; vấn đề quan trọng là đấu tranh sửa đổi tốt văn kiện khung P-5.
Hun Sen nhắc lại lập trường cũ với vẻ kiên quyết, có thể nhân nhượng cho Sihanouk làm Chủ tịch nhưng Hun Sen phải là Phó Chủ tịch.
Hun Sen thông báo đang tập trung quân để đánh Khmer Đỏ. Anh Lê Đức Anh khuyên không nên, làm như vậy sẽ bộc lộ lực lượng và mắc mưu Khmer Đỏ, nên bảo toàn lực lượng để chuẩn bị khi đi vào giải pháp. Hun Sen đồng ý, hứa sẽ báo cáo lại.
 
Chỉnh sửa cuối:

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Do tháng 1/1990 Quốc hội CPC đã chính thức thông qua quyết định giao cho Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyền cử, Quốc hội CPC họp phiên họp kín và bất thường (28/2- l/3/1991) sửa lại và thông qua quyết định hạn chế vai trò của Liên hợp quốc, biểu quyết thông qua 7 điểm:
1) Hiệp định phải nêu các biện pháp cụ thể ngăn chế độ diệt chủng.
2) Giữ nguyên trạng chính trị và quân sự trước tổng tuyển cử.
3) Liên hợp quốc phải tôn trọng Hiến chương LHQ, chủ quyền và quyền tự quyết của CPC: Liên hợp quốc và nước ngoài chỉ tham gia giải quyết mặt quốc tế của vấn đề CPC không được can thiệp công việc nội bộ CPC.
4) Công việc nội bộ CPC do SNC quyết định.
5) SNC soạn thảo luật bầu cử, thủ tục bầu cử.
6) Liên hợp quốc chỉ gồm các nhân viên kiểm soát quân sự, không cần lực lượng giữ gìn hòa bình.
7) Đại diện TTK/LHQ không được giao quyền quyết định cuối cùng.

Trong kỳ họp, Chea Sim đọc diễn văn khai mạc và bế mạc, Hun Sen báo cáo về quá trình đàm phán và dự thảo Hiệp định của 5 nước lớn. Chea Sim nói: “Người ta không được ép nhân dân CPC chấp nhận những gì trái với lợi ích của mình. Sự thật không ai hiểu sâu vấn đề CPC hơn người CPC“. Hun Sen nói: “Đấu tranh để bảo vệ độc lập, hạnh phúc và chân lý, nhất định sẽ gặp nhiều khó khăn nhưng chúng ta đã vượt qua những khó khăn lớn nhất.”…“Vấn đề quan trọng không phải ở chỗ là khó khăn đến mức nào mà là ở chỗ ta có dám vượt qua không? Trước hết phải xây dựng và giữ vững lòng yêu nước, yêu dân tộc và dám hy sinh vì độc lập và chủ quyền quốc gia.” Hun Sen phê phán công thức 6+2+2+2+l và nói: “Như các đại biểu đã biết, vấn đề SNC này rất phức tạp, để thoát được chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu kẻ thù và bọn ủng hộ chúng nó không ít đâu, mặc dù SNC đã được thành lập trên cơ sở hai bên bình đẳng, nhưng người ta muốn biến nó thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1 và vấn đề Chủ tịch làm cho SNC không hoạt động được.” Hun Sen còn nói: “Chấp nhận toàn bộ văn kiện đó (của 5 nước lớn), chúng ta sẽ ở vào địa vị thấp hơn là chế độ thuộc địa, và là hành động tự sát.”

- Ngày 7/3/1991, mít tinh 5 vạn người trước Hoàng Cung ở Phnom Penh hoan nghênh Nghị quyết mới của Quốc hội CPC, Hun Sen phát biểu rất hùng biện mấy tiếng đồng hồ nhấn ý độc lập, tự chủ, đòi tôn trọng chủ quyền CPC. Trong mít tinh có cả khẩu hiệu tiếng Anh, Pháp “Không ai hiểu CPC hơn người CPC”.

- Ngày 12/3/1991, Hun Sen ra Hà Nội bảo vệ luận án Tiến sĩ. Sáng 13/3, anh Ngọc, Thư ký anh Lê Đức Anh truyền đạt cho tôi ý kiến của anh Lê Đức Anh để thông báo với anh Thạch

Chiều 12/3, Anh Lê Đức Anh đã làm việc với Hun Sen, Tea Banh. Hun Sen và Tea Banh thông báo lại tình hình trong thời gian vừa qua và hỏi lại ý của BCT trong cuộc anh Linh và anh Lê Đức Anh làm việc với anh Heng Somrin ở Hà Nội vừa qua. Bạn hoàn toàn nhất trí ý kiến của ta, không có gì gây cấn.Về tình hình chung: bạn thông báo tình hình chung tốt lên. Về đấu tranh cho giải pháp: Hun Sen và Tea Banh tán thành cần đi vào giải pháp chính trị. Nhất trí SNC sẽ do Sihanouk làm Chủ tịch; Hun Sen, Phó Chủ tịch, không đặt vấn đề đồng chủ tịch như trước. Nhất trí thu hẹp lại diện đối tượng đầu sỏ diệt chủng phải loại trừ, không mở rộng ra nữa. Đối với Sihanouk, nhất trí cân có cố gắng tranh thủ Sihanouk, tạo điều kiện để có cuộc gặp mang tính chất cá nhân giữa Hun Sen và Sihanouk. Không còn đòi tách bạch mặt nội bộ riêng, mặt quốc tế riêng nữa.

Chiều 13/3/1991, đ/c Nguyễn Cơ Thạch gặp Hun Sen trong 2 giờ. Hun Sen nói sẽ đáp ứng gợi ý của Ấn Độ là có “diễn đàn anh em” giữa Hun Sen- Sihanouk. Về diệt chủng, Hun Sen nói dứt khoát: không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Tối 17/3, Trung ương **** ta chiêu đãi mừng Hun Sen bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ.

Gặp anh Thạch sau chiêu đãi, Hun Sen đề nghị VN quản lý Pen Sovan chặt chẽ hơn. Vừa qua bà Lia, thuộc Hoàng tộc CPC, đến Hà Nội đã gặp Pen Sovan. Sau đó Pen Sovan viết thư về CPC nói ý sắp được VN cho về CPC. CPC rất lo ngại về việc quản lý Pen Sovan và đặc biệt về tin Pen Sovan sẽ trở lại CPC.

16 giờ ngày 13/3/1991, sau khi kết thúc cuộc gặp giữa anh Thạch và Hun Sen ở Nhà khách Hồ Tây, anh Ngô Điền ngồi lại nói chuyện với Hun Sen. Hun Sen nói: May quá, ra đây nghe các anh nói vậy thì rõ ra. Anh Heng Somrin nghe không nắm hết. Vấn đề diệt chủng không thể bỏ chỉ có vấn đề là sách lược phân hoá kẻ thù. Vấn đề diệt chủng phải giữ để sau này bàn cả gói. Còn SNC thì Sihanouk làm Chủ tịch. Tôi, Phó Chủ tịch. Không thể nhận 13, cần thì 12 hoặc 14.

Anh Heng Somrin ở Hà Nội về thì họp BCT. Nghe anh Heng Somrin nói, nhiều đ/c BCT ngạc nhiên. Nếu như vậy thì suy nghĩ của VN và CPC khác nhau nhiều. Anh Say Chhum rất lo lắng đề nghị BCT nên cử một đoàn 3-4 người đi Hà Nội nghe kỹ và trao đổi. BCT bàn và đề nghị anh Hun Sen, anh Tea Banh vốn đã có kế hoạch đi Hà Nội thì nên đi sớm để trao đổi cho rõ. Ra đây, gặp anh Lê Đức Anh, nghe anh Lê Đức Anh thì thấy rõ không có vấn đề gì, chỉ do anh Heng Somrin nghe nhầm. Chẳng lẽ khác nhau nhiều đến thế.

Về Sihanouk, anh Lê Đức Anh nêu nên lôi kéo Sihanouk vì đã có nguyên tắc consensus. Còn 12 hay 13 không thành vấn đề. Tôi nói nếu ta nhận 13 thì rất bất lợi kẻ thù sẽ đổ lỗi cho ta, Sihanouk sẽ làm cao, chỉ có thể nhận Sihanouk Chủ tịch và Hun Sen, Phó Chủ tịch. (Anh Ngô Điền báo cáo anh Trần Quang Cơ sang 14/3).

- Ngày 13/4/1991, BCT bàn đánh giá tình hình thế giới, buổi sáng đ/c Thạch đọc bản báo cáo dài đến gần hết buổi họp mới kết thúc. Buổi chiều, đ/c Lân ở Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng lại trình bày một bản báo cáo rất dài ngược lại hoàn toàn ý kiến đ/c Thạch. Đ/c Nguyễn Văn Linh nhận xét nói bản trình bày sáng và chiều có nhiều chỗ khác nhau quá. Đ/c Thạch đề nghị 3 ngành quốc phòng, an ninh, đối ngoại thảo luận để đi tới nhất trí. Đ/c Phạm Văn Đồng nói: Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng ta cần cố gắng làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm của mình. BCT đã giao cho 3 đ/c phụ trách 3 ngành làm nhưng lại chưa làm. Đ/c Phạm Văn Đồng nói thêm: Nên gửi tài liệu thường xuyên, nghe thế này mất nhiều thì giờ. Ba đ/c nên ngồi vào đánh giá tình hình xem cái gì nhất trí, cái gì chưa. Làm việc như thế này không có hiệu quả.

Ngày 15/5/1991, đ/c Thứ trưởng quốc phòng Trần Văn Quang sang CPC dự Hội nghị tổng kết mùa khô của CPC. Theo chỉ thị của đ/c Lê Đức Anh, đ/c Trần Văn Quang đã đặt vấn đề với CPC về rút chuyên gia. TBT Heng Somrin nói BCT CPC đã bàn nhất trí sẽ rút chuyên gia trước khi có kiểm chứng của Liên hợp quốc. Trước mắt có thể rút [một] bộ phận vào tháng 6/1991, số ít còn lại sẽ tuỳ hoàn cảnh mà rút sau. Hun Sen nói tháng 6/1991 rút khoảng 1.200, còn để lại khoảng 200 ở Quân khu 4 và 5 (Battambang và Siem Reap). Chiều 19/5/1991, đ/c Trần Văn Quang và Thứ trưởng Quốc phòng CPC Ker Kimm Yan ký Hiệp định hợp tác quân sự năm 1991 theo tinh thần trên: rút hết 1.200 vào tháng 6/1991; rút hết chuyên gia ở Quân khu 1, 2, 3 (Kandal, Kompong Cham, Kratie); Quân khu 4, 5 mỗi nơi để lại 20; ở 3 sư đoàn của CPC: F286, F4, F196 mỗi nơi gửi lại 42; K.88 giữ lại 25; tổng số chuyên gia quân sự còn lại là 191.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
- Ngày 15-17/5/1991, BCT ta họp đánh giá tình hình thế giới và công tác đối ngoại (có trích biên bản kèm theo).

- Ngày 2/6/1991: Hun Sen và Sihanouk gặp nhau tại Jakarta, thoả thuận Sihanouk làm Chủ tịch và Hun làm Phó Chủ tịch, phá vỡ cuộc khủng hoảng về SNC kéo dài từ tháng 9/1990 và mở đường đi thoả thuận một giải pháp chính trị về CPC. Sihanouk nhận lời trở về Phnom Penh vào tháng 11/1991 dù có hay không có giải pháp chính trị.

- Đại hội lần thứ VII **** Cộng sản VN. họp từ 17-22/6/1991, bầu TBT và BCT mới, chủ trương đẩy mạnh đổi mới, thi hành chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá với tinh thần “VN muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng động quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.”

- Ngày 27/6/1991, trong họp SNC tại Pattaya, Sihanouk mời Hun Sen đi Bắc Kinh 15/7 rồi đi Bình Nhưỡng 18/7 để tiếp tục cuộc gặp riêng giữa 2 người.

- Ngày 8/7/1991, BCT CPC ra nghị quyết chủ trương: trong tình hình mới, “cố gắng hoàn thành một giải pháp chính trị”, chủ trương lôi kéo Sihanouk và TQ.

- Ngày 13/7/1991, đ/c TBT Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Đào Duy Tùng họp bàn về vấn đề CPC trước khi Hun Sen đi TQ (lần đầu từ 1979). Tham dự có đ/c Bí thư Trung ương Hồng Hà và các đ/c Hoàng Bích Sơn, Nguyễn Quang Tạo, Trịnh Ngọc Thái, Trần Quang Cơ, Nguyễn Dy Niên, Lê Mai. Trong cuộc họp, đ/c Lê Đức Anh nói: “Lần này anh Hun Sen đi gặp lãnh đạo TQ cố gắng thành công, việc này có lợi cho ta. Phải thấy đây là kết thúc một giai đoạn đấu tranh, chuyên sang một giai đoạn đấu tranh mới, cuộc đấu tranh còn dài, chưa phải kết thúc vấn đề CPC. Với ta có thể là kết thúc, với bạn chỉ là chuyển giai đoạn đấu tranh… Thành bại trong giai đoạn này tuỳ bạn… Thúc đẩy quan hệ với TQ, nhưng phải thấy chuyện này vì về sau không đơn giản… Nói với anh Hun Sen không [thể] nói hết vì qua Hun Sen, TQ có thể khai thác.”

- Ngày 1 5/7/1 991, đ/c Nguyễn Cơ Thạch gặp Hun Sen tại Sân bay quốc tế Nội Bài, Hun Sen thông báo tinh thần Nghị quyết BCT CPC chuyển từ giai đoạn “vừa đánh, vừa đàm” sang giai đoạn “vừa xây dựng lực lượng, vừa đàm phán”, chủ trương tìm cách tranh thủ lôi kéo và có chính sách lâu dài với Sihanouk, tranh thủ TQ.

- Ngày 16-17/7/1991, SNC họp tại Bắc Kinh dưới sự quan sát của đại diện 2 đồng chủ tịch PICC, TTK/LHQ và TQ, thoả thuận Sihanouk làm Chủ tịch SNC, không có Phó Chủ tịch, giữ lại Cơ cấu SNC 12 thành viên; Sihanouk từ chức Chủ tịch liên hiệp 3 phái. Sau Bắc Kinh, Hun Sen đi thăm Bình Nhưỡng.

- Ngày 24/7/1991, đ/c TBT Đỗ Mười gặp Hun Sen tại Hà nội sau chuyến đi thăm TQ và Triều Tiên của Hun Sen, Hun Sen được gặp Tiền Kỳ Tham và Kim Nhật Thành và cuộc họp SNC ở Bắc Kinh đạt kết quả, Sihanouk được bầu làm Chủ tịch SNC. Hun Sen tỏ rất phấn khởi về kết quả chuyến đi, nói “Lần này vui lắm. Mọi lần cũng vui nhưng không đi vào cụ thể“, Hun Sen thông báo chủ trương tích cực tranh thủ Sihanouk,tranh thủ cả TQ và lạc quan về giải pháp chính trị.

- Từ ngày 28/7-2/8/1991, đ/c Lê Đức Anh sang thăm và làm việc nội bộ ở TQ. Cùng đi có đ/c Hồng Hà, bí thư Trung ương, Trịnh Ngọc Thái, Phó Ban đối ngoại. Đ/c Lê Đức Anh đã giới thiệu về nội dung Đại hội VII, về bình thường hóa quan hệ 2 nước. Đ/c Lê Đức Anh và Hồng Hà đã hội đàm với Kiều Thạch, Uỷ viên thường vụ BCT, Chu Lương, Trưởng ban đối ngoại; gặp Thủ tướng Lý Bằng; TBT Giang Trạch Dân tiếp và chiêu đãi.

Trong dịp này, đ/c Lê Đức Anh có buổi gặp với Từ Đôn Tín chiều 29/7/1991 tại Điếu Ngư Đài, đ/c Lê Đức Anh nói: “Năm ngoái khi đ/c Từ Đôn Tín sang VN đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm, do phía chúng tôi gây ra. Đ/c Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Đ/c thay mặt chính phủ TQ sang VN để cùng chúng tôi thảo luận giải quyết công việc nhưng lại để xẩy ra trục trặc, chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đ/c tôi nói tình cảm của đ/c Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi. Mong rằng sau này không xảy ra những trục trặc như thế nữa… Tình hình trục trặc trong quan hệ nước là một việc đau, lòng… Tôi đồng ý là không nên nêu vấn đề diệt chủng. Tôi cũng đã nói nhiều lần với đ/c Heng Somrin và Hun Sen.” Từ Đôn Tín nói: “Gốc là vấn đề CPC… Song song với việc giải quyết vấn đề CPC thì tiến hành bình thường hóa quan hệ Việt-Trung… Nếu vấn đề CPC được giải quyết xong, các đ/c sang thì việc bình thường hóa quan hệ sẽ rất tốt. Nếu các đ/c lãnh đạo VN sang TQ mà cái đuôi CPC còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân… Tháng 6/1990, đã để mất cơ hội, nay loại trừ hoàn toàn vai trò Liên hợp quốc thì không được nữa.

Tối 31/7/1991, đ/c Hồng Hà cùng Trịnh Ngọc Thái gặp Từ Đôn Tín. Cùng dự có Trương Tứ Giang, Tề Kiến Quốc, Hồ Càn Văn. Đ/c Hồng Hà nói: “Sau chuyến đi TQ lần này, đ/c Lê Đức Anh và tôi phải về gặp đ/c Nguyễn Dy Niên ở Hà Nội. Chúng tôi phải báo cáo BCT để BCT có ý kiến chỉ đạo trước khi đ/c Nguyễn Dy Niên đi TQ, không những về nội dung mà về cả tinh thần và thái độ làm việc. Để làm được như vậy, chúng tôi đề nghị hoãn cuộc gặp Thứ trưởng vài ngày để có thì giờ chuẩn bị tốt. Trước đây dự định cuộc họp Thứ trưởng từ 5 đến 8/8, nay đề nghị từ 8 đến 10/8. Đ/c Trịnh Ngọc Thái sẽ ở lại tham dự cùng đ/c Nguyễn Dy Niên. Nếu cuộc gặp đó không nắm được tinh thần các buổi làm việc của chúng tôi với các đ/c lãnh đạo TQ thì khó có kết quả… Đ/c Lê Đức Anh và tôi sẽ làm việc trực tiếp với đ/c Nguyễn Dy Niên. Nếu chuẩn bị tốt, cuộc gặp Thứ trưởng sẽ không kéo dài. Tinh thần của chứng tôi là phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công.” Từ Đôn Tín nói: “Cuộc gặp Thứ trưởng rất quan trọng, phải làm cho có kết quả. Tiếp đó SNC họp ở Bangkok, TQ và VN có đại diện ở Bangkok trao đổi ý kiến để góp phần làm cho cuộc họp SNC có kết quả. Tôi sẵn sàng gặp các đ/c ở Bangkok.”
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
- Sáng 4/8/1991, tại Văn phòng Trung ương **** (4 Nguyễn Cảnh Chân), đ/c Lê Đức Anh và đ/c Hồng Hà đã làm việc với đ/c Thứ trưởng Trần Quang Cơ và Nguyễn Dy Niên về đề án họp Thứ trưởng ngoại giao Việt-Trung.

Đ/c Lê Đức Anh phát biểu như sau:
Hai vấn đề đối ngoại lớn ta đã bàn: bình thường hóa quan hệ với TQ và phá cấm vận của Mỹ. Giải quyết được 2 vấn đề này sẽ bung ra hết vấn đề khác. Hai vấn đề này tác động qua lại lẫn nhau. Sang TQ lần này ta phải giải quyết. Nhưng giải quyết 2 vấn đề này ta không được quên 3 nước Đông Dương. Tránh đừng để xảy ra trục trặc vấn đề gì trong quan hệ 2 nước.
Ta có 3 vấn đề về CPC cần nắm chắc.
Về quan hệ 2 nước, 2 **** đã có một bước khai thông quan trọng. Cố gắng không để trục trặc để đi đến gặp cấp cao chính thức. Phải nói ta cố gắng từ khi sửa Hiến pháp mãi đến sau Đại hội VII mới giải quyết.
Trong vấn đề với TQ, khách quan mà nói cũng mở đầu bằng vấn đề CPC.
Bên kia đánh ta, ta phản ứng lại. Vấn đề CPC là vấn đề giữa VN-TQ. Ta không thừa nhận vấn đề này là không đúng. Ta phải giải quyết vấn đề này. TQ cũng đã ngán lắm rồi. 10 triệu đô la một năm (?) cũng không phải ít. Ta cũng đã mệt.
Khi tôi ở trong Nam, anh Chu Huy Mân vào phổ biến việc đưa quân sang CPC, tôi nói ngay lúc đó là ngay ở Tây Nguyên ta đã làm 3 năm rồi có được đâu mặc dù ta có ****, có cơ sở lại là người dân tộc mình. Vấn đề không đơn giản. Ta vào CPC, Thái Lan sợ. Khi ta giải phóng miền Nam họ đã sợ, vào CPC họ càng sợ.
Tuy ta kiên trì bình thường hóa quan hệ với TQ nhưng không được. Vấn đề CPC có tiến triển là do trưởng thành của bạn CPC và cố gắng ngoại giao của ta.
Bạn CPC cũng từng bước nhận thức được vấn đề. Bạn CPC lúc thế này lúc thế khác là điều tất yếu có thể hiểu được.
Quá trình cho đến khi gặp cấp cao Thành Đô là do cách đặt vấn đề của TQ không đúng. Đáng lý quan hệ **** tốt rồi tác động giải quyết vấn đề CPC thì thuận hơn. Ta muốn như vậy nhưng TQ lại khác. Bây giờ TQ muốn thoát ra và muốn giữ sĩ diện nước lớn. Khách quan là như vậy. Anh ủng hộ chế độ diệt chủng phải thoát ra như thế nào để giữ sĩ diện. Đây là vấn đề tâm lý. Trong bữa ăn, tôi nói với Giang Trạch Dân là TQ nước lớn, VN nước nhỏ, Giang Trạch Dân nói con chim chích tuy bé nhưng cũng đủ gan đủ mật. Về quan hệ 2 nước, cách đặt vấn đề của TQ đã khác. Về CPC, Lý Bằng nói chỉ giữ cái khung mà TQ đã ký với tư cách là một trong 5 nước HĐBA nhưng họ thừa nhận là văn kiện đó có điều không hợp lý. Cái khung này các bên CPC thừa nhận, cấp cao Thành Đô đã thừa nhận và đã trở thành vấn đề pháp lý. Đây là cái vòng Kim cô. Văn kiện khung có 2 điếm quan trọng: Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử và quyền quản lý hành chính 5 Bộ, còn vấn đề quân đội chỉ nêu qua. Vấn đề đặt ra là bạn thấy nguy, bạn nghĩ lấy vấn đề diệt chủng để phá vòng Kim cô này. Đó là suy nghĩ đúng nhưng không được. Sau Vùng Vịnh, TQ cũng thấy Liên hợp quốc quá lớn cũng nguy cho TQ. TQ muốn thay đổi nhưng TQ không muốn đứng ra thay đổi. Ta làm sao nói thân tình ta muốn CPC độc lập, trung lập CPC chỉ có thể là một nước tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ, có quan hệ quốc tế rộng rãi để tranh thủ đầu tư nước ngoài. Điều kiện CPC không thể đi lên ngay CNXH được. Ta không cần liên minh quân sự, chính trị với CPC. Ta chỉ cần hữu nghị với CPC nhưng không đơn giản vì vấn đề lịch sử bị nước ngoài kích động thêm. Vấn đề là ta cố giữ thế cho bạn, làm sao ta và TQ thống nhất với nhau để giữ một CPC độc lập, trung lập, không bị nước ngoài chiếm đóng.
Từ đó, tôi nói dứt khoát, ta không nêu vấn đề diệt chủng. Chúng tôi sẽ nói với bạn cái này. Anh không thể lấy cái này đế phá vòng Kim cô. Anh lấy cái này thì TQ đứng về phía P-5. Anh đánh vào tim TQ, TQ bực, đứng về phía 5 nước ép anh bất lợi cho bạn. Liên Xô, Pháp, TQ đều thấy hợp lý cần phải sửa. Ta và TQ thoả thuận, ta gỡ sĩ diện cho TQ thì giải quyết được Ta cần tạo điều kiện để TQ gỡ được sĩ diện để ta giải quyết vấn đề lớn. Tôi đã nói với bạn CPC, trong quần chúng, trong nhân dân không thể buông vấn đề diệt chủng. Khi Sihanouk về, dẫn Sihanouk đi xem để nâng cao tinh thần dân tộc nâng cao mặt tích cực của Sihanouk. Sihanouk nói vậy chứ chưa bao giờ tận mắt thấy tội ác diệt chủng.
Giữ vấn đề diệt chủng thế nào cho thực chất. Không thể ngồi với Khieu Samphan, Son Sen mà nói diệt chủng, tức là chửi vào mặt nó thì làm sao hòa hợp dân tộc. Ta phân tích kỹ nhưng không can thiệp công việc nội bộ bạn.

Ta nói với TQ và đồng ý tác động các bên CPC bỏ qua quá khứ, không để trở lại sai lầm cũ, ta muốn CPC hoà hợp dân tộc thực sự, bỏ qua quá khứ. Tôi nói với TQ bản thân vấn đề này là vấn đề nhân đạo, hai bên TQ-VN cần tiếp tục tác động về sau. Miễn chúng ta thống nhất với nhau thì có thể nói với bạn CPC được. Ta nói trên tinh thần người cộng sản.
Vấn đề thứ hai là vấn đề quân đội. Mỹ, Ahmed muốn giải giáp hoàn toàn quân đội CPC. Xu hướng chung trên thế giới là mọi người muốn giảm quân, Xô- Mỹ giảm chạy đua vũ trang. Ta nói các nước đã chấm dứt viện trợ quân sự, các bên CPC nên giảm quân. Có ngừng bắn và chấm dứt viện trợ, nên giảm quân. Giải giáp ngay sẽ là một vết thương quá đau. Giảm bao nhiêu do các bên CPC thoả thuận. Nếu mà bạn CPC nói giảm 50% thì thực chất là không giảm do quân số ma. Ta có thể ghi vào giấy là có thể giảm quân để giảm bớt đóng góp của nhân dân. Còn Từ Đôn Tín hỏi giảm bao nhiêu, ta đề nghị TQ đưa ra phương án. Ta có thể thống nhất giảm 50%, TQ tác động đi, VN phụ thêm. TQ nói Thái Lan được. Chưa chắc TQ dám chịu ghi biên bản điều này. TQ tác động, VN hỗ trợ. Nếu chúng tôi thoả thuận thì tức là can thiệp công việc nội bộ người ta, phức tạp lắm. Ta phải làm cho bạn CPC, ta làm tất cả điều này vì lợi ích của ****, Chính phủ và nhân dân CPC.
Các anh lo là phải nhưng ta có cách.
Quân đội không can thiệp vào tổng tuyển cử, ở trong doanh trại, đi ra ngoài không mang vũ khí.
Vấn đề thứ ba là vai trò Liên hợp quốc: Cần nâng cao vai trò SNC, hạn chế Liên hợp quốc. Ta hỏi ý TQ như thế nào. TQ nên tác động 4 bên CPC để nâng cao vai trò SNC lên đến mức nào thì VN sẽ phối hợp.
Về tổ chức bộ máy Liên hợp quốc, ta không chấp nhận có quân đội Liên hợp quốc, ta chỉ chấp nhận nhân viên quân sự. VN và TQ nên thống nhất vấn đề này và tác động các bên CPC. Không thể chấp nhận đội quân chiếm đóng của Liên hợp quốc. Ta kiên quyết cái này, không chấp nhận vì trái với Hiến chương Liên hợp quốc. TQ không đồng ý, ra Hội nghị quốc tế ta cũng bảo lưu cái này. Đồng ý ta đưa trước vấn đề quan hệ 2 nước, chuẩn bị gặp Ngoại trưởng, gặp cấp cao.
Vấn đề CPC tồn tại 3 vấn đề như trên. Ta đồng ý trao đổi vấn đề này nhưng không phải là thương lượng. Nếu nhắc vấn đề diệt chủng thì ta dồn TQ vào thế đi với 5 nước.

Nếu quân đội Liên hợp quốc vào CPC, ta lại phải đưa quân xuống biên giới. Đưa quân vào không phải để đối phó với Liên hợp quốc mà đội quân Liên hợp quốc sẽ làm chỗ dựa cho bọn Khmer ********* đánh ta. Ta sẽ lại phải tăng quân số, cả một vùng phì nhiêu ở đồng bằng sông Cửu Long như An Giang, Đồng Tháp… lại bỏ hoang“.

Đ/c Hồng Hà nói: “Ta khẳng định với TQ trong đoàn còn có anh Trịnh Ngọc Thái.

Đ/c Lê Đức Anh: “Anh Niên sang cố gắng giải toả quan hệ giữa hai Bộ Ngoại giao.
Nói thật, ta cũng bị Pol Pot diệt chủng. Đồng bào ta ở An Giang bị họ sang sát hại ghê gớm. Nhưng vì ta vì đại nghĩa vì vấn đề lớn phải thoát ra.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Buổi chiều 4/8/1991, Thường trực BCT và BBT họp cho ý kiến tinh thần như đ/c Lê Đức Anh cho ý kiến ban sáng.

- Từ ngày 8-10/8/1991, Thứ trưởng Nguyễn Dy Niên thăm và tiến hành họp Thứ trưởng ngoại giao 2 nước (anh Trịnh Ngọc Thái sang TQ với đ/c Lê Đức Anh từ cuối tháng 7/1991 ở lại chờ để dự cuộc gặp này). Sau khi bàn bạc, hai bên ra thông cáo báo chí chung: hoan nghênh Sihanouk làm Chủ tịch SNC, ủng hộ văn kiện khung Liên hợp quốc, khuyến khích giải pháp chính trị toàn diện và hoà hợp dân tộc và trao đổi ý kiến về bình thường hóa quan hệ 2 nước. Ngày 10/8/1991, đúng ngày Quốc hội VN thông qua việc để đ/c Nguyễn Cơ Thạch thôi chức Bộ trưởng ngoại giao và bổ nhiệm đ/c Nguyễn Mạnh Cầm làm Bộ trưởng Bộ ngoại giao, Ngoại trưởng TQ Tiền Kỳ Tham tiếp đ/c Nguyễn Dy Niên mời Bộ trưởng ngoại giao VN thăm TQ vào 10/9/1991 chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao.

- Ngày 13/8/1991, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 của CPC ra nghị quyết đi vào giải pháp chính trị, đề ra khẩu hiệu hành động “Tất cả vì bầu cử” thôi không nói cộng sản và chủ nghĩa Marx-Lenin.

- Ngày 26-28/8/1991, SNC họp tại Pattaya (Thái Lan) chấp nhận toàn bộ văn kiện khung và dự thảo Hiệp định của P-5. Ngày 30/8, P-5 họp với SNC thoả thuận triệu tập Hội nghị quốc tế Paris về CPC trước cuối tháng 10/1991. Theo thoả thuận với TQ, đ/c Thứ trưởng Nguyễn Dy Niên và Từ Đôn Tín cũng đến Pattaya để theo dõi cuộc họp SNC. Trong quá trình thảo luận trong SNC có lúc phía Phnom Penh lại nêu lại vấn đề diệt chủng, một giờ sáng (vì phải chờ buổi chiêu đãi quá kéo dài do Sihanouk và Monique liên tục hát), Từ Đôn Tín lại gặp đ/c Niên để đề nghị VN tác động về vấn đề diệt chủng. Ta có thông báo cấp thấp cho CPC biết ý TQ, cuối cùng phía CPC không nêu vấn đề diệt chủng nữa và cuộc họp đạt kết quả, TQ hài lòng. Dịp ở Pattaya, đ/c Nguyễn Dy Niên, (là quan chức cao cấp nhất của ta gặp Sihanouk từ 1975) đã đến chào Sihanouk và chuyển lời đ/c Lê Đức Anh mời Sihanouk thăm VN.

- Ngày 9/9/1991, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm thăm chính thức TQ ký Thông cáo chung nêu 5 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ 2 nước, thoả thuận Đoàn cấp cao VN chính thức thăm TQ để bình thường hóa quan hệ 2 nước.

- Ngày 20/9/199: P-5 họp với SNC tại New York; ngày 24/9 Hun Sen chấp nhận toàn bộ dự thảo 26/11/1990, rút bỏ mọi bổ sung. Dịp này đ/c Trần Quang Cơ có mặt ở New York tham dự ĐHĐ/LHQ. Lúc đầu tại New York ta và Lào đề nghị với phía CPC lập cơ chế thông tin cho nhau, phía CPC tiến hành được vài buổi chủ yếu nghe CPC thông báo, sau đó đến những ngày cuối cùng quyết định thì cả Lào và ta không thể nào gặp được CPC. Admed, Phó TTK/LHQ thông báo cho ta, phía CPC đã rút bỏ mọi bổ sung nhưng cả Lào và ta không thể gặp được CPC để xác minh. Phút cuối cùng, khi mọi việc đã ngã ngũ, Hun Sen ra sân bay chuẩn bị rời New York, đ/c Cơ mới gặp được Hun Sen, Hun Sen nói tình hình CPC, tình hình quốc tế Liên Xô như thế này thì phải chấp nhận như vậy, đành phải rút hết bổ sung để còn giữ được bộ phận quân đội, chính quyền.

- BCT và Ban Bí thư họp tối ngày 3 và sáng ngày 4/10 dưới sự chủ toạ của đ/c TBT Đỗ Mười để cho ý kiến về chủ trương của ta đối với việc ký kết Hiệp định Paris về CPC. Trong cuộc họp, đ/c Nguyện Cơ Thạch được mời đến phát biểu. Đến lúc này đ/c Thạch vẫn có ý kiến khác. Đ/c Thạch nói:” Trong đàm phán không ai bỏ chủ bài. Ta đã bỏ 2 chủ bài lớn nhất: diệt chủng, giảm quân số. Đáng lẽ phải lấy 2 vấn đề này ngăn Liên hợp quốc. Con buôn nhỏ cũng phải mặc cả. Đây là cuộc đàm phán lớn mà ta lại bỏ chủ bài để mặc cả. Ta có thế mạnh là Hiệp định vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc. Ta có 2 lựa chọn: không ký; ký với bảo lưu rõ ràng, ký và chấp nhận mặt quốc tế nhưng không chấp nhận mặt nội bộ. Cần phải làm hết mức, nếu bạn CPC không đồng tình thì ta cũng không còn trách nhiệm lịch sử. Xin cho thêm thời gian để tôi làm việc với Bộ Ngoại giao rồi BCT bàn lại… Khi tôi đến Paris, tôi xin gặp, anh Hun Sen đồng ý gặp… Anh Hun Sen có nói dù tôi có thôi chức vụ vẫn yêu cầu tôi tiếp tục góp ý với anh… Nên đi CPC trao đổi với bạn, tôi xin xung phong đi (2 lần)… Chủ quyền CPC bị vi phạm thì chủ quyền các nước bị đe dọa. TQ ký kết chỉ tán thành mặt quốc tế, còn mặt nội bộ ta bảo lưu vì nó vi phạm chủ quyền CPC“. Đ/c Trần Quân Cơ phản ứng nói: như vậy thì cứng quá; lâu nay ta đã nói ta tôn trọng mọi quyết định của SNC. Đ/c Thạch vẫn giữ ý kiến bảo lưu và nói thêm rằng: trước đây Mỹ còn không ký Hiệp định Genève về Đông Dương mặc dù Hội nghị quốc tế đều ký.

Cuối cùng BCT kết luận: “Sau khi nghe báo cáo của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, BCT đã thảo luận và đi đến kết luận:
1) BCT cho rằng, bạn đã quyết tâm sớm đi vào giải pháp và đã nhanh chóng rút bỏ tất cả những vấn đề rất quan trọng về giải pháp mà lâu nay bạn đã đấu tranh, và đã chấp nhận một dự thảo Hiệp định rất không có lợi.
BCT cũng cho rằng, tình hình quốc tế đã có những thay đổi lớn. Mỹ đang ra sức khai thác lợi thế của mình, nhằm thao túng tình hình, thực hiện ý đồ lập trật tự quốc tế mới có lợi cho chúng. Thái độ các nước khác trong P-5 nói chung cũng lựa chiều theo Mỹ. Các nước thành viên Hội nghị Paris cũng không muốn gay cấn và muốn sớm giải quyết vấn đề.
Trong tình hình đó, tuy ta sẽ phải ký Hiệp định Paris, nhưng để giữ lập trường nguyên tắc nhất quán của ta, tránh việc giải quyết vấn đề CPC trở thành một vấn đề lịch sử trong quan hệ giữa ta và CPC như đã từng xẩy ra, đồng thời để cho nhân dân VN, nhân dân CPC và nhân dân thế giới hiểu rõ lập trường của ta, BCT chủ trương một mặt ta cần gặp sớm BCT CPC, chân thật, thẳng thắn nêu lại với bạn những vấn đề nguyên tắc mà lâu nay ta vẫn kiên trì, góp với bạn nhưng ý kiến cần thiết trước khi đi vào ký kết; mặt khác ta bảo lưu một cách khôn khéo việc đòi giữ nguyên tắc tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và chủ quyền CPC và một số vấn đề liên quan đến chủ quyền và lợi ích của ta.

2) Cử đ/c Lê Đức Anh, đại diện BCT, đi trao đổi với BCT CPC về: a- Đánh giá của ta đối với bản dự thảo cuối cùng của Hiệp định.
b- Thái độ của VN:
+ VN trước sau vẫn tuân thủ nguyên tắc: các vấn đề thuộc chủ quyền của CPC do lãnh đạo CPC quyết định. VN tôn trọng các quyết định đó. Tuy nhiên, trên tinh thần người cộng sản đối với các đ/c CPC, chúng ta chân thành nêu ý kiến của chúng ta để các đ/c tham khảo.
+ Khi ký kết Hiệp định, với tư cách là một thành viên Liên hợp quốc và thành viên Hội nghị quốc tế Paris, VN sẽ ra tuyên bố Chính phủ nói rõ lập trường của mình không tán thành và bảo lưu đối với các điều khoản Hiệp định vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc và chủ quyền của một nước thành viên Liên hợp quốc…
c- Gợi ý bạn một số việc cần làm để ngăn chặn tác động bất lợi của Hiệp định sau khi được ký kết …

- Ngày 6/10/1991, đ/c Đỗ Mười điện cho đ/c Lê Đức Anh trên đường đi “Thường trực ở nhà bàn tiếp về vấn đề CPC thấy rằng trong tuyên bố về vấn đề CPC sắp tới khi ký Hiệp định Paris, Chính phủ ta cần nói rõ 3 ý lớn:
1) Thiện chí của ta góp phần vào đi đến giải pháp về CPC (đã rút hết quân năm 1989).
2) Ta tôn trọng quyết định của SNC.
3) Việc thực hiện Hiệp định Paris về CPC phải trên Cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tôn trọng chú quyền CPC.
Nói như vậy là đủ, không dùng từ không tán thành và bảo lưu vì như vậy đặt ta vào thế đối lập găng với tất cả các nước đã đồng tình nội dung Hiệp định, mà đằng nào Hiệp định vẫn được ký.
Tôi báo lại Anh ý trên đây để anh lưu ý khi làm việc với bạn.

Đ/c Lê Đức Anh đến Phnom Penh sáng ngày 7/10/1991. Sai Phuthong và Hun Sen gặp riêng buổi sáng. Buổi chiều 14 giờ làm việc với BCT và Ban Bí thư, tất cả uỷ viên đều có mặt. Anh Ngô Điền và anh Ba Cung (đang có mặt ở Phnom Penh) tham dự cuộc họp. Đ/c Lê Đức Anh nói BCT **** Cộng sản VN đã họp bàn về giải pháp chính trị CPC và cử đ/c sang báo cáo ý kiến của BCT VN.
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Đánh giá tổng quát tình hình 12 năm qua, đ/c Lê Đức Anh nêu 2 thành tựu lớn:

- Một là giải thoát nhân dân CPC khỏi họa diệt chủng; những người cộng sản CPC đứng lên lập mặt trận đoàn kết cứu nước với sự giúp đỡ của **** cộng sản và nhân dân VN, đã cứu nhân dân CPC đang trên bờ vực thẳm, sau đó thực hiện cuộc hồi sinh kỳ diệu, đem lại độc lập tự do và hạnh phúc bước đầu cho nhân dân CPC. Đó là thành tựu đáng tự hào của những người cộng sản CPC và VN.

- Hai là giữa 2 **** và nhân dân 2 nước đã hun đúc tình sâu nghĩa nặng, làm cơ sở cho quan hệ hữu nghị bền vững.

Trong đấu tranh cho giải pháp chính trị, phần đóng góp quan trọng nhất của VN là cuộc chiến đấu của quân tình nguyện VN nhằm tạo thế cho quân đội CPC. Vì mục đích đó, quân VN đã tiến vào những vùng chưa từng ai đến, thương vong vì sốt rét rất cao. Quân tình nguyện VN đã trả giá rất đắt, thương vong trên 10 vạn, trên cơ sở chiến thắng, quân VN đã rút sớm hơn dự định mà thành quả cách mạng CPC vẫn được giữ vững, do đó thúc đẩy tiến trình đàm phán tìm giải pháp chính trị cho vấn đề CPC.

Về giải pháp, lập trường nguyên tắc của **** chúng tôi là: Vấn đề CPC do nhân dân CPC quyết định. Phải tôn trọng chủ quyền nhân dân CPC. Quốc tế chỉ giúp thôi, cao nhất là giám sát và kiểm soát, tuyệt đối không được vi phạm chủ quyền. Từ đầu cho đến nay, **** chúng tôi giữ lập trường này, không bao giờ đồng tình cho Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử và lâm thời cai trị CPC. Tuy nhiên, chúng tôi tôn trọng quyết định của CPC; khi CPC để cho Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử, lập trường của chúng tôi vẫn thế nhưng chúng tôi tôn trọng quyền của CPC, không làm trở ngại. Chúng tôi hoàn toàn không muốn Liên hợp quốc lâm thời cai quản CPC trong thời kỳ quá độ, đó là lập trường nguyên tắc, nhưng khi **** CPC quyết định chấp nhận UNTAC, chúng tôi không cản trở.

Thái độ VN có 2 vế như vậy. Cuộc họp BCT của chúng tôi vừa rồi khẳng định lập trường nguyên tắc như vừa trình bày…

Ở Paris, nếu VN phải ký Hiệp định vì tôn trọng SNC không phải sợ bị cô lập thì VN sẽ ra một tuyên bố chính phủ có 3 nội dung:
- Thiện chí VN góp phần đạt sớm một giải pháp chính trị, thể hiện bằng việc rút hết quân tình nguyện năm 1989.
- Tôn trọng các quyết định của SNC.
- Việc thực hiện Hiệp định phải trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của CPC và Hiến chương Liên hợp quốc.

Chúng tôi nói với nhân dân VN: 10 năm qua, ta đã gửi con em đi làm nghĩa vụ quốc tế ở CPC, chúng ta đã làm tròn nhiệm vụ, những người cộng sản VN tự hào mang danh hiệu đảng viên cộng sản. Về phần các đ/c chắc cũng như thế. Đế quốc chửi cộng sản, chúng ta càng tự hào là người cộng sản.

BCT vừa họp xong đã giục tôi đi báo cáo, chưa có văn bản, xin các đ/c thông cảm, có gì sai sót xin lượng thứ trên tinh thần người cộng sản. Đề nghị các đ/c chuẩn bị nhiều phương án đấu tranh, mọi phương án phải bám dân, bám cơ sở để giành thắng lợi cuối cùng cho CPC.
Anh Heng Somrin nói mấy lời cảm ơn. Anh nói: Đàm phán diễn ra phức tạp, ta cố giữ lập trường nguyên tắc nhưng có những điểm 2 **** chúng ta nhất trí kiên trì nhưng rồi không giữ được, trong 5 nước lớn không còn ai ủng hộ ta. Sắp tới càng phức tạp nên ta muốn hạn chế tiêu cực. Chúng tôi sẽ nghiên cứu để tìm cách đấu tranh. Sau đó, anh Heng Somrin nói về Đại hội **** bất thường (sẽ họp ngày 16-17/10).

Hun Sen phát biểu, nêu những khó khăn trong đàm phán với tình hình quốc tế bất lợi Nhà nước CPC bị cô lập trong những vấn đề còn lại. Họp SNC ở đâu, P-5 cũng bám theo và tạo sức ép. Vì quyền quyết định cuối cùng của UNTAC, đã cố tránh đưa ra rộng, đòi bàn trước trong SNC nhưng Sihanouk đưa ra, buộc Hun Sen phải trả lời. Gạt không được, chỉ có thể giảm nhẹ đi thôi. Anh Heng Somrin vừa nói là tìm cách đấu tranh ở Paris, nhưng tôi thấy hết cách rồi. Chỉ có VN, Lào, Ấn Độ ủng hộ còn tất cả đều ép mạnh. Liên Xô khác trước, chỉ đến để moi tin và truyền đạt cho phía bên kia, nên chúng tôi không dám thông báo kỹ hay bàn bạc.

- Ngày 23/10/1991, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber ở thủ đô Paris, các nước tham gia Hội nghị quốc tế Paris về CPC dã ký Hiệp định về giải pháp toàn bộ cho vấn đề CPC. Ngày 3/11/1991, tại Hà Nội, đoàn **** CPC do Heng Somrin, Chea Sim dẫn đầu làm việc với đoàn đại biểu **** ta về đôi mới quan hệ 2 **** trong tình hình mới; ngày 9/11/1991, đ/c Hồng Hà và Ker Kim Đan ký biên bản về những vấn đề cấp bách trong quan hệ 2 ****, 2 nước. Ngày 24- 31/10/1991, đ/c Thủ tướng Võ Văn Kiệt đi thăm hữu nghị các nước ASEAN: Indonesia, Thái Lan, Singapore. Ngày 5/11/1991, đ/c TBT Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm hữu nghị chính thức TQ bình thường hóa hoàn toàn quan hệ 2 **** 2 nước. Ngày 14/11/1991, Sihanouk trở về Phnom Penh.

Từ đây kết thúc vấn đề VN ở CPC; quan hệ Việt-Trung được bình thường trở lại kể từ 1978; VN-ASEAN chấm dứt 13 năm đối đầu về vấn đề Camnuchia. Từ thời điểm này mở ra một giai đoạn hoàn toàn mới trong hoạt động đối ngoại của **** và Nhà nước VN theo hướng ta thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đưa dạng hoá và đưa phương hoá với tinh thần VN muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới.
*
* *
 

Estonque

Xe điện
Biển số
OF-27090
Ngày cấp bằng
7/1/09
Số km
3,122
Động cơ
517,108 Mã lực
Nơi ở
Nhà BVC
Tôi đã ghi chép và kể lại hết tất cả hiểu biết của mình về giai đoạn 1975 – 1991, chủ yếu là vấn đề CPC. Cảm tưởng của tôi là 13 năm đó thật sự quá nặng nề, bao nhiêu vật chất, công sức kể cả máu xương đã đổ xuống mà chắc hậu quả còn lâu dài. Tôi nghĩ rằng ta nên tổng kết giai đoạn này để từ đó rút ra bài học cho hoạt động của ta hiện nay. Tôi không dám làm tổng kết chỉ xin mạnh dạn nêu một số suy nghĩ như sau.

Một là, trong từng giai đoạn cách mạng chúng ta nên xác định mục tiêu. và lợi ích cơ bản mang tính chất bao trùm của giai đoạn đó và mọi đường lối chiến lược và sách lược cả đối nội và đối ngoại của ta phải phục vụ cho mục tiêu và lợi ích cơ bản đó. Việc xác định mục tiêu và lợi ích cơ bản, bao trùm đó phải dựa trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, đánh giá đúng, chính xác thế và lực của ta, hết sức tránh chủ quan duy ý chí vì điều này có thể dẫn đến những hậu quả không lường hết được.
Phải chăng sau 1975, chúng ta đã đánh giá quá mức thế và lực của chúng ta như nhận định đất nước ta mãi mãi sạch bóng quân thù, không kẻ thù nào dám nhòm ngó nữa và từ đó chủ trương hành động của chúng ta có những sai lầm nhất định. Từ những suy nghĩ đó, phải chăng nên xác định mục tiêu và lợi ích bao trùm của ta trong giai đoạn hiện nay là phấn đấu “duy trì và củng cố môi trường hòa bình, tập trung sức đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Mọi cố gắng cao nhất của ta là nhằm để thực hiện mục tiêu đó, khi cần phải hy sinh, lùi một bước để tiến hai bước như Bác Hồ đã sử dụng rất tài tình sách lược đó trong những năm 1945-1946, phấn đấu không để những vấn đề cục bộ, tạm thời có thể làm chệch hướng lợi ích cơ bản, bao trùm đó.

Hai là, đối với một nước vừa và nhỏ như ta, kinh nghiệm của ta cũng như kinh nghiệm của thế giới là cần phải kiên quyết giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, giữ quan hệ cân bằng với tất cả các nước lớn. Cân bằng ở đây có nội dung là tạo ra thế đứng độc lập và trong mọi hoàn cảnh tạo được khả năng khai thác mọi thuận lợi, hạn chế mọi bất trắc trong quan hệ với tất cả các nước lớn, các trung tâm kinh tế-chính trị lớn trên thế giới. Để thực hiện được tốt điều đó, điều cần thiết là phải thiết lập được mối quan hệ hữu nghị, thân thiện với các nước láng giềng xung quanh ta. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tuyệt đối không đi với một nước lớn này chống lại một nước lớn khác.

Ba là, nhận thức đúng đắn việc làm nghĩa vụ quốc tế theo đúng luận điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin. Cách mạng không làm thay. Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hơn nữa, cách mạng nước nào lo do bản thân quần chúng, nhân dân nước đó quyết định, bên ngoài chỉ có thể giúp đỡ chứ không thể làm thay. Đó phải chăng là bài học thấm thía ta rút ra được sau 13 năm tận tình giúp cách mạng CPC.

Điều cuối cùng tôi muốn nói là, trong quan hệ với CPC, chúng ta cần thiết đi sâu nghiên cứu đặc tính của người CPC. Bản thân tôi nhiều năm gần gũi và công tác về CPC nhưng thật sự cũng thấy khó kết luận …

Ấn tượng sâu sắc nữa của tôi là thái độ của TQ, qua hơn 10 năm theo dõi thái độ của TQ về vấn đề CPC và trong quan hệ đối với ta, tôi cảm nhận một cách mạnh mẽ rằng đối với VN, những ý kiến của TQ về những vấn đề trong quan hệ hai nước mang nặng ý kiến của “thiên triều”, những điều kiện TQ đặt ra trong quan hệ với ta, TQ kiên quyết giữ từ đầu chí cuối, không hề thay đổi mà chỉ một mực ép ta phải thực hiện đúng như điều TQ đặt ra, không một chút nhân nhượng, nếu cần nhân nhượng, TQ có thể nhân nhượng với các nước lớn khác chứ không bao giờ TQ nhân nhượng đối với ta. Liên hệ điều này với tình trạng tranh chấp ở Trường Sa, tôi thấy đây là bài toán rất hóc búa vì tôi không nghĩ rằng TQ có thể có nhân nhượng nào đó dù là nhỏ đối với ta trong vấn đề này./.

Hết.
 

xuân hòa

Xe tải
Biển số
OF-78265
Ngày cấp bằng
19/11/10
Số km
374
Động cơ
421,520 Mã lực
Kụ Etos viết như phân tích sử....phục quá....cám ơn Kụ
bản chất K đúng như phù điêu K...ba mặt...
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top