Hồi xưa xóm tôi qụanh hiu lắm, chẳng có bao nhiêu nóc nhà, người ta chủ yếu ở ven bờ sông và dọc theo con đường cái chính. Nhà tôi ở ngay ngã tư, trước mặt là con đường làng từ bến đò qua chợ Hà Thân, đình làng An Thị, chạy gần như song song với bờ sông lên đến chân cầu Trịnh Minh Thế,bên hông nhà là con đường từ bến sông nơi ghe thuyền hay ghé vào sửa chữa hoặc chở nước bán cho các tàu lớn ngòai sông, len lõi trong xóm ra đến đường cái,trong xóm vắng vẽ, nhà cửa thưa thớt lẫn trong những vườn cây rậm rạp, còn lại là gò cát mấp mô với những bụi dúi hoặc vài cây găng đầy gai nhọn, xa hơn là đồng ruộng. Quanh nhà tôi có những bụi chè Tàu làm hàng rào, có một giếng nước rất trong, xóm làng hay đến lấy nước về dùng, cái giếng cũng được ngăn đôi bằng những bụi chè Tàu, nửa bên ngòai có cổng rào bằng tre để tối tối đóng lại. Từ nhà tôi xuống bến sông chỉ cách năm bảy nhà, dân trong xóm chẳng ai có cầu tiêu ,nên cứ chạng vạng tối là đã kéo nhau xuống bến, nhưng cũng chỉ đến 7, 8 giờ tối thôi, chứ khuya hơn chẳng ai dám, vì xóm tôi nổi tiếng nhiều ma lắm !
Ban đêm xóm tôi như bãi tha ma, vài ngọn đèn dầu tù mù chỉ đủ để thấy đường đi lại trong nhà, còn xóm làng tối om. Đứng trong nhà tôi nhìn ra hướng đông, cách khỏang chục nóc nhà có một ngôi miếu ba gian, cả ngôi miếu từ trong ra ngòai đều quét vôi trắng, trong miếu thờ mấy vị nào đó nghe nói linh thiêng lắm, mỗi vị đều có cặp ngựa đứng chực sẵn bên cửa, ai lỡ mồm dại miệng động chạm đến, mấy vị ấy lên ngựa rượt theo, không sứt đầu mẻ trán, gãy chân cụt tay thì cũng xuống mồ mới yên. Ngôi miếu nằm khuất trong lùm tre rậm, sau lùm tre là khu vườn um tùm và căn nhà của HD bạn học cùng lớp tôi. Đọan đường ngay trước miếu rất lún với đầy cát, muốn đi nhanh qua đó cũng chẳng dễ dàng gì. Đối diện ngôi miếu là một khu vườn um tùm khác của nhà PH, một bạn học khác của tôi.
Nhìn hướng tây là bến sông, chỉ cách mấy căn nhà nhưng lại có một cây khế to chặn giữa đường, trên cây đêm đêm có người thấy quỷ một giò ngồi vắt vẻo, đưa cái mỏm chân cụt gõ đầu người qua đường, nhiều người chưa kịp tới bến sông đã vãi cả ra quần. Nghe nói quỷ ấy là một Việt Minh công đồn, rồi đi lạc, địch bắn gãy chân, mù mắt, bò được tới đây bị truy kích dữ quá leo lên cây khế trốn rồi thác luôn ở đấy .Ở bến sông lại lắm ma gia, năm nào cũng có người sẩy chân bị dìm chết, dân vạn đò còn khẳng định đêm khuya có bóng phụ nữ mặc bộ bà ba trắng, tóc dài xõa kín mặt mày lội lõm bõm, có khi còn leo lên ngồi trên mũi thuyền khóc nỉ non.
Nhìn xuống hướng nam là cây đa trước đình làng An Thị, nơi mà oan hồn uổng tử không chốn nương thân tụ về, hưởng chút khói nhang của thiên hạ. Nghe nói tụi Tây xử tử rồi treo đong đưa trên cành. Dưới gốc đa người ta đặt lăn lóc những bát nhang, chân đèn, những pho tượng sứt mẻ, chạng vạng tối đi qua nhìn vào cứ ngỡ những chiếc đầu lâu. Nhìn lên hướng bắc là bụi cây, gò cát nhấp nhô và bãi tha ma gần nhà ông Biện Dưng. Những đêm oi bức trời hầm dông, người ta thấy những đóm sáng xanh lè của lũ ma trơi rượt đuổi nhau trên những nấm mồ. Những bụi tre um tùm là nơi trú ngụ của ma cây, ma cỏ. Mẹ tôi còn nói cụ cố nhà tôi từng cõng một thây ma cây, nó cố dìm chết cụ khi lội qua bến Đò Xu nhưng không được, cuối cùng người ta thấy cụ bị nhốt trong bụi tre gai, chờ đến sáng hôm sau mới tìm cách đưa cụ ra.
Hồi nhỏ ai mà chẳng sợ ma, sợ quỷ. Xóm tôi thì nhiều lắm lắm, thậm chí trong đám oan hồn ấy có người tôi từng quen biết, từng chơi thân ! Một đêm nọ, nội tôi đang tắm cho mấy anh em phía bên trong giếng, bỗng lóe lên ánh chớp rồi một tiếng “Bùm”, cát đá bay rát cả mặt mũi tay chân, ông cháu tôi bò lê bò lết vào nhà. Kẻ nào đó ném một quả lựu đạn nhầm vào nhà tôi, nhờ cái giếng cản lại ông cháu tôi mới còn sống sót. Vài tháng sau vừa ăn cơm tối xong, tôi ra giếng múc nước bỗng chớp sáng lóe, rồi “Bùm” bên hiên nhà ông Bảy, chỉ cách nhà tôi một con đường bên hông, gạch ngói vỡ vụn rơi rào rào, bà Bảy ẵm con cho bú, chỉ phút chốc đã thành ma cả hai mẹ con, ba người con khác trở nên thương tật. Rồi nửa năm sau ông Bảy đi làm về, dắt chiếc xe Mô bi lết ngang qua đọan đường cát lún trước cái miếu ba, bỗng “Đùng” mấy phát ổng lật nhào lên chiếc xe, đỗ ngang ra đường, hồn via về cõi quỷ. Nghe nói ổng làm chỉ điểm bị xử tử.Từ đó xóm tôi có thêm bót gác dân vệ nằm đối góc với nhà tôi qua ngã tư. Đêm đêm lại đì đùng tiếng súng, đám dân vệ thấy lúc thì ông Bảy cưỡi ngựa lửng thững về nhà, hỏang quá họ bắn, lúc thì bà Bảy ẵm con máu me đầy mình, bay là là từ cây đa đình làng lên, vẫy vẫy cánh tay, sợ quá họ bắn . Có lần cả bót nổ tung vì đám dân vệ bị ma nhát, hỏang quá làm rớt lựu đạn, may mà cả bọn kịp nhảy ra ngòai nên xóm tôi chưa có “ma dân vệ”. Mái tole nhà tôi và nhà quanh đó lỗ chỗ lổ thủng đạn lạc.
Tôi lớn dần lên cùng với những chuyện ma, chuyện quỷ. Cuộc sống khó khăn buộc tôi phải lặn lội trong xóm bán bánh mì đêm đêm, phải tự học cách thích nghi, phải miệt mài đấu tranh giữa sự sinh tồn và những nổi sợ bản năng, rồi tôi cũng được đến trường, được học và tự học nhiều thứ từ túi khôn nhân lọai. Tôi nhận thức rằng : Tri thức là sức mạnh, phải thấu hiểu bản chất sự vật để giải thích được các hiện tượng và giải thóat nỗi ám ảnh. Tôi không còn tin có ma nữa và chẳng có gì phải sợ. Nhưng bấy giờ lại có ma quỷ mới còn đáng sợ hơn nhiều, đó là đám anh chị cô hồn sống, cướp giật, lừa đão, hút chích, mại dâm, đâm chém, xóm tôi thứ đó cũng nhiều. Hồi đó nói đến dân xóm chợ, dân bến phà ai cũng sợ, cảnh sát chế độ cũ cũng ngại, có lần MP Mỹ mò vào giải thóat tụi hải quân đi tìm gái, cũng bị đánh hội đồng, giật đồng hồ. May mắn thay giang hồ cũng có luật riêng, họ làm ăn tứ phương, nhưng nhà tôi ngay ngã tư trong xóm chẳng bao giờ bị quậy, nhiều lắm cũng chỉ là ăn quịt vài món quà vặt mẹ bày bán trước cửa.
Người ta nói :”Đi dêm có ngày gặp ma” thật đúng, chính tôi đã đụng! Một lần đi bán bánh mì về, đêm ấy trời tối om, lặng ngắt, khuya lắm rồi làng xóm đã tắt đèn đóng cửa. Tôi vác bao bánh mì chỉ còn vài cái, lửng thửng bước đi, gần đến hàng chè Tàu nhà tôi, bỗng bụi chè ngay cổng giếng nước rung rung, một bóng trắng không đầu, không chân tay lắc lư, đong đưa là là sát đất, văng vẳng có tiếng nghiến răng kin kít nghe buốt tận óc. Tôi tóat mồ hôi hột, bủn rủn chân tay, chỉ cách nhà vài bước mà không về được thì còn biết chạy đâu. Nhớ lời mẹ dặn, tôi bấm ngón tay cái vào ngón giữa làm phép, miệng lẩm bẩm cầu Thần, khẩn Phật, ráng bước tới cổng nhà, bóng trắng lắc lư như chồm tới, hỏang quá tôi nhào vào tay nắm bao bánh mì quật túi bụi, có tiếng thét, tiếng rên đau đớn…Mẹ tôi nghe ồn, thắp đèn mở cửa bước ra thấy tôi còn nghiến răng , mồ hôi ướt đẫm .Cái cổng giếng ngã nghiêng, cạnh đó là anh tôi ngồi ôm đầu, bao bánh mì ( lọai bao vải dầy, trắng đựng bột mì của Mỹ viện trợ ) vừa lột ra khỏi người ảnh để bên cạnh !
Một lần khác, tôi ra nhà PN, cô bạn học xinh nhất nhì trong lớp, từng quấn quýt bên tôi suốt những năm cấp hai. Nhà PN ở ngòai đường cái từ bến phà đi lên, hôm ấy đám bạn gái học nhóm, ôn tập thi học kỳ và tôi luôn là ông thầy tận tụy, dễ thương của mấy nàng. Lúc đầu nhóm học có 6 người, rồi các bạn về trước dần vì sợ trời tối. Cuối cùng chỉ còn tôi với PN, trời hôm ấy oi bức, hầm giông, gần khuya bắt đầu sấm chớp, nổi gió, tôi ra về lúc ấy đã nửa đêm. Đường về nhà không xa lắm, chỉ vài trăm mét thôi, nhưng đi qua cái miếu ba ấy tôi thấy rờn rợn trong người. Trời tối lắm, xa xa vài ánh chớp và tiếng sấm rền, không một bóng người, gần tới miếu tôi nhìn chăm chú vào đấy, tay bấm độn, miệng vừa run vừa lẩm bẩm cầu Phật, tôi nhớ không được chạy vì dễ bị ma quỷ hớp hồn. Bỗng có ánh chớp sáng lòe, gió lồng lộng nổi lên, ba bốn cái bóng trắng tóat ào ra đường từ vừơn cây um tùm của nhà PH. Tôi ngồi thụp xuống đất hồn bay, phách lạc, mấy cái bóng trắng cũng biến mất trong tàng cây rậm rạp. Gíó cũng lặng thinh. Tôi cố gắng định thần nhìn vào vườn cây, tối quá chẳng thấy gì, hình như có bốn cái bóng trắng, không đầu, không chân, những cánh tay lặt lìa, lắc qua lắc lại, chúng tụm lại rồi tản ra, chờn vờn, chờn vờn, lẫn khuất trong vườn. Tôi quơ tay quanh người nhặt được một cục đá xanh, đứng dậy đi tiếp. Gió lại nổi lên ào ào, chớp giăng, sấm giật, tiếng cành khô gãy răng rắc, văng vẳng tiếng khóc thét của đứa bé nào đấy nghe rợn tóc gáy, bỗng bốn bóng trắng, bay là là trên đầu ngọn cỏ, ào ra rồi đột ngột dừng lại giật giật, lắc lư, thụt vào lại trong vườn, tôi ném mạnh hòn đá về đám ma quỷ ấy rồi co giò phóng chạy, tôi té chúi nhũi ngay chỗ cát lún trước miếu, mặt mũi sặc sụa cát bụi, ngạt thở, tôi vừa bo, vừa lòm còm ngồi dậy chạy tiếp, bước qua được cánh cổng vào nhà, tôi mới dám dừng lại thở hổn hển, dọc cột sống như có luồng điện chạy qua giật giật, lạnh ngắt. Chui vào mùng tôi trùm chăn kín mit, trời nóng hầm hập mà tôi run cầm cập, mồ hôi đầm đìa.
Sáng hôm sau đến trường, đám bạn gái thấy tôi mặt mày hốc hác, hỏi :
-“Bộ hồi hôm gặp ma hả ?” Tôi gật đầu. Mấy nàng sợ xanh mặt, co rúm người lại. Bỗng tôi thấy cái áo dài trắng PH đang mặc có một vết bẩn rất mới, vết xây xát bám bụi , chỉ vào đấy tôi hỏi bị sao vậy.
-“Tối qua đi học về mới nhớ giặt đồ, phơi ngòai vườn rồi để quên luôn, đến sáng mới ra lấy. Chắc đứa nào nghịch ném đá vào, cũng may là chưa bị gom hết như bữa trước” .Tôi ngẫn người một lúc.
-“Có mấy cái áo dài ?“.”Bốn cái”. Tôi ngã người ra bàn, đấm ngực cười sằng sặc. Đám bạn gái há hốc nhìn, mặt mày tái ngắt chắc tưởng tôi bị quỷ ám !
Năm nay tôi đã hơn 50, 3 lần xây nhà dựng cửa cho mình, nhưng trong nhà tôi chẳng có lấy một bát nhang, một cái bàn thờ ? Thỉnh thỏang tôi cũng, hoặc phải đốt nhang tôi thường lấy 3 cây: một cho trời Phật, thánh thần những vị bị tôi quấy rầy, cầu cạnh khi rơi vào thế bí, một cho ông bà, tổ tiên quá cố và một cho hồn ma bóng quế ! ?