Trích
Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ - diện mạo và giá trị
Lê Thị Diệu Hà, TS., Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ
Nguồn:
Số chuyên đề Bình luận văn học - Niên san 2017, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 34 (59), tháng 12.2017, tr.60-70
1. Đặc điểm thể loại, tư liệu và hệ thống truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ
Việc xác định thể loại truyền thuyết của truyện về Nguyễn Ánh dựa trên dấu hiệu chức năng thể loại, hình thức tác phẩm, nhân vật, thái độ người kể và người nghe, sự gắn kết giữa nội dung với các chừng tích địa danh, lịch sử, văn hóa… Theo đó, truyền thuyết về Nguyễn Ánh là những truyện được kể và lưu truyền ở Nam Bộ gắn với sự kiện quá trình Nguyễn Ánh “bôn tẩu” vào Nam. Đây là những mẩu truyện nhỏ, hình thức ngắn gọn với cấu trúc đơn nhất, mỗi truyện kể về một tình huống sự kiện về nhân vật được xâu chuỗi xoay quanh sự kiện trung tâm là hành trình trốn lánh Tây Sơn của Nguyễn Ánh. Mặt khác, truyện về Nguyễn Ánh phản ánh và lý giải về một nhân vật và sự kiện lịch sử có sức ảnh hưởng ở Nam Bộ. Nhìn chung, các câu chuyện được kể và truyền tụng gắn với niềm tin của người dân đối với những diễn biến sự kiện về nhân vật, đặt trong mối liên hệ với một số địa danh, di tích, tập tục, lễ hội dân gian... ở các địa phương.
...
Tư liệu ghi chép hệ thống truyện dân gian về Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ tính từ nguồn ghi chép đầu tiên khoảng nửa đầu thế kỷ XIX đến nay có các sách địa chí, lịch sử triều Nguyễn, tư liệu biên khảo, địa phương chí, tư liệu sưu tập văn học dân gian, sưu tầm thực địa… Hệ thống tư liệu khá phong phú nhưng không thuần nhất, đặt ra vấn đề về văn bản tư liệu.
Từ nguồn tư liệu trên, chúng tôi tập hợp được 52 đơn vị truyện về nhân vật Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ. Về địa bàn lưu hành nguồn truyện, theo tư liệu sưu tầm và yếu tố địa danh của truyện kể, sơ khởi cho thấy, truyện về Nguyễn Ánh trải khắp Nam Bộ, tương ứng với sự kiện hiện thực về nhân vật.
...
3. Những giá trị nội dung của hệ thống truyện
Đánh giá tổng quan, xét yếu tố xác thực của những sự kiện được kể, có ý kiến cho
“Đây là truyền thuyết không có cứ liệu lịch sử minh chứng” [8]. Những giá trị cốt lõi biểu hiện ở một số ý nghĩa khách quan đưa đến từ hệ thống truyện.
3.1. Sự thể hiện thái độ tình cảm của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh
Qua những ghi nhận khác nhau, nhìn chung, các truyện kể được sáng tác và lưu truyền đã thể hiện ở bề sâu thái độ tình cảm của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh. Thái độ tình cảm này biểu hiện đậm nét trong những truyện kể liên quan đến địa danh, dấu tích lưu lại. Nổi bật nhất là việc đưa các sự kiện gắn với nhân vật, nhằm giải thích sự hình thành những tên gọi địa danh, dấu tích cụ thể. Về điều này, Trương Thanh Hùng đã chỉ ra rằng:
“Truyện Giếng Gia Long hay Giếng Ngự ở Phú Quốc, vết nứt dưới đáy vũng là vết gươm của Gia Long chém xuống tìm mạch nước, còn phiền đá gần giống như chiếc ghế dựa mà người dân cho là trước đây vua ngự, truyền thuyết không hợp lý lắm nhưng là tình cảm của người dân ở đây đối với Gia Long” [9].
Hay nói về những tên gọi địa danh xuất hiện ở các địa phương, theo Nguyễn Hữu Hiệp,
“Nhân dân đặt gọi địa danh để ghi nhớ kỷ niệm nơi Nguyễn Ánh từng đặt chân đến trong thời gian còn lẩn tránh quân Tây Sơn”
[10]. Sách
Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca cũng đã nhắc đến những địa danh lưu dấu tình cảm của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh:
“
Hòn Đất, Hòn Tre non nước tạc,
Ghe phen giúp đỡ đức Cao hoàng” [11].
Chung quy là sự nhận thức, đặc biệt là thái độ tâm lý của người dân đối với Nguyễn Ánh. Thôn xóm miền Hậu Giang đã lưu truyền câu ca:
“Ngồi buồn nhớ chúa ta xưa,
Long Xuyên bạn cũ bao giờ cho nguôi”.
Được cho là chỉ việc
“Tân Chính vương và Thái Thượng vương bị quân Tây Sơn giết ở Long Xuyên” [12]. Có thể do không có điều kiện nào để dân chúng nơi đây hiểu được chính khí của đội quân Tây Sơn,
trong khi họ vốn đã dành những tình cảm chân thành cho vị chúa của mình trong bước gian nan. Đây là một mặt tính cách hào hiệp của người Nam Bộ nói riêng. Mặt khác, thái độ tình cảm của dân chúng có cơ sở thực tế từ tình hình chính trị xã hội. Có ý kiến nhận xét:
“Nếu Nguyễn Ánh không trở thành một vị vua đầu tiên của triều Nguyễn thì sự kiện ông ở Phú Quốc sẽ ít người nhắc đến. Nhưng vì sau đó, Nguyễn Ánh đã trở thành vua Gia Long và triều Nguyễn đã dành cho Phú Quốc những chính sách ưu đãi nên dấu ấn của Nguyễn Ánh khá đậm đà trên đảo và có những truyền thuyết về “chân mệnh thiên tử” này” [13].
Còn có một lý do khác về tâm lý, theo nhà nghiên cứu Sơn Nam:
“Vua Gia Long là vua đầu tiên và là ông vua cuối cùng đã đặt chân đến rừng U Minh. Những chuyện bôn ba tẩu quốc của ông khiến cho người dân cảm thấy đất Rạch Giá dính liền với “sơn hà xã tắc...” [14].
Như vậy, tâm lý trọng thị bậc vua chúa như một nếp nghĩ quen thuộc của người dân nơi đây. Hơn nữa, đây lại là ông vua đầu tiên của Nam Bộ.
Khi những lưu dân trải qua biết bao bao gian khổ tạo lập nên thôn ấp nhưng mới là những tổ chức tự quản, phải đến khi có lệnh chúa Nguyễn thiết lập chính quyền, chia lập bộ đinh, bộ điền, thì người dân mới thật sự “có nước”, một niềm hân hoan và trân trọng. Đồng thời, với tính cách trọng nghĩa, người Nam Bộ xem đây là “tấc đất, ngọn rau ơn chúa” thấy có trách nhiệm phải đền bồi. Sách
Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca đã nêu đúng thái độ tinh thần này:
“Thuở Cao hoàng đế Gia Long,
Lắm khi trú tất ruỗi dong lánh nàn.
Sử xanh còn chép rõ ràng,
Ngọn rau tấc đất thấy càng cảm thâm” [15].
Ở một khía cạnh khác, công cuộc xác lập cương thổ, an dân ở vùng đất mới của các chúa Nguyễn Đàng Trong sớm đạt hiệu quả, tạo cơ sở cho mối liên hệ dân - nước lâu bền (còn nhờ ở người thực hiện việc kinh lý, nhân dân ghi nhớ về Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh với công đức, uy danh rộng lớn khắp vùng).
Đây cũng là điều Tây Sơn thiếu vắng. Dấu ấn của nhà Tây Sơn ở vùng đất này chủ yếu chỉ là những lần tiến đánh, truy đuổi, với khổ nạn can qua mà người dân phải gánh chịu. Do đó, trong cuộc đối đầu lịch sử giữa nhà Nguyễn và Tây Sơn, ý thức về “chân mệnh thiên tử” định theo khuôn khổ giáo dục chung thì hầu hết người dân đã sớm dành cho chúa Nguyễn. Nhất là tầng lớp địa chủ, phú nông, với những lợi ích thiết thân, họ đã hết lòng ủng hộ thế lực này. Vì vậy, bước đường bôn tẩu lẩn tránh Tây Sơn của chúa Nguyễn đã được sự giúp đỡ, hậu thuẫn của người dân. Từ gốc rễ đã sinh ra nhiều cành lá, những câu chuyện về Nguyễn Ánh mở rộng trong dân chúng, ngày càng dày thêm trong thời gian cuộc giao tranh và về sau.
3.2. Ý nghĩa văn hóa
Đến nay, đứng trên quan điểm đổi mới, đánh giá về những thành tựu đóng góp to lớn nhất của nhà Nguyễn, các nhà nghiên cứu lịch sử đã nhận định:
“nhà Nguyễn đã để lại một di sản lớn lao nhất là một giang sơn đất nước trải rộng trên lãnh thổ thống nhất từ bắc chí nam”, “Trên lãnh thổ đó là một di sản văn hoá đồ sộ” [16]. Xét tổng thể hiện tượng truyện, về giá trị văn hóa, đây cũng chính là một phần văn hoá phi vật thể đã được xây dựng, kiến tạo của di sản văn hóa dân gian Nam Bộ.
…
3.3. Về mối liên hệ với lĩnh vực sáng tác văn chương thành văn ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX
Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ tồn tại trong những hình thức văn bản khác nhau có những tác động, sự ảnh hưởng lâu dài.
Dư âm của nó không chỉ thể hiện thái độ, cách đánh giá của người dân về sự kiện lịch sử cụ thể mà còn trở thành dấu ấn sự kiện tác động vào tư tưởng, nhận thức như một ý thức chính trị. Đến giai đoạn về sau, khi có điều kiện nó đã tái hiện lại như một phần của lịch sử, nhằm bộc lộ tư tưởng, tình cảm người đương thời đối với “sơn hà xã tắc”. Điều này đã được thể hiện với bộ phận văn học quốc ngữ Nam Kỳ giai đoạn đầu của tiến trình hiện đại hóa với mảng tiểu thuyết lịch sử.