[Funland] Nhà Tây Sơn - Đỉnh- cao và sụp -đổ

Nokfev

Xe cút kít
Biển số
OF-188258
Ngày cấp bằng
4/4/13
Số km
16,314
Động cơ
521,505 Mã lực
Tuổi
47
Nơi ở
Trương Định phố , Hoàng Mai quận , Hà Nội tỉnh ...
Website
www.nhattao.com
Cái dòng em tô đậm thì cần phải bàn sâu cụ ạ. Dân trí thời nho học suy nghĩ khác dân trí thời đại ngày nay. Ngay như trong bài của cụ doctor cũng có một chi tiết là khi quân Thanh kéo sang, nhiều làng đánh trống ủng hộ ...cũng đáng để suy ngẫm lắm. Ngày xưa việc các thế lực phong kiến tranh giành quyền lực với nhau đều gây ra khổ đau cho dân cả chứ không trách chi người ngoài.Bởi thế xưa trong dân gian có câu "khôn dựng trại, dại cất nhà" nhằm khi có biến thì chạy cho nhanh. Người dân cần nhất là sự thái bình, không chiến tranh, không chém giết và vị vua nào, người nào làm được chuyện đó họ tôn thờ đấy.
Ngày nay, ta soi chuyện lịch sử dưới con mắt khác, tư tưởng khác. Ta cho chuyện mời quân xâm lược là cõng rắn nhưng có một điều quan trọng là cái kết quả thì ta ít khi nào chú ý hoặc xét đến nó.
Chế độ phong kiến là một chế độ lỗi thời và như một quá trình tiến hóa tự nhiên nó sẽ tự mất đi để nhường lại một chế độ tốt đẹp hơn, chế độ mà người dân làm chủ. Còn dưới chế độ phong kiến thì người dân chỉ làm con mà thôi. Bọn vua quan mới chính là cha mẹ. Việc họ tranh giành đấu đá với nhau chỉ vì lợi ích của dòng tộc, của bản thân chứ có nghĩ gì đến con dân đâu.
Hiểu được điều đấy thì ta mới đánh giá được lịch sử một cách khách quan và công bằng. Chứ cứ lấy tư tưởng của Mác mà gắn vào lịch sử thì họ, những nhân vật lịch sử có lấy nước hoàng Hà rửa tội cũng chẳng trôi.
Người thành thiên cổ rồi đâu có ngĩ đến sau này con cháu nó bình công luận tội đâu :(
Nhưng một khi có người đem các cụ ra bình công thì tất yếu sẽ bị xét tội mà thói thường có công với người này lại đắc tội với kẻ kia !
Chỉ nên gắn tên tuổi họ với sự kiện thôi chứ đừng bình xét, vậy mới là tôn trọng !
 

Bachsima

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-327829
Ngày cấp bằng
20/7/14
Số km
13,442
Động cơ
434,773 Mã lực
---------
Hiểu được điều đấy thì ta mới đánh giá được lịch sử một cách khách quan và công bằng. Chứ cứ lấy tư tưởng của Mác mà gắn vào lịch sử thì họ, những nhân vật lịch sử có lấy nước hoàng Hà rửa tội cũng chẳng trôi.
Chả biết cụ nói cái cụ Mác kia có phải họ Các không, nếu là Các Mác thì cụ khí nhầm: Mác nhìn lịch sử là cuộc đấu tranh giành quyền lợi, lãnh thổ của các tập đoàn người đại diện cho phương thức sản xuất thời đấy, nghĩa là hiểu cái động cơ nguyên lý đằng sau các sự kiện. Thí dụ như Mác đã dự báo trogn nội chiến ở Mỹ thì miền Bắc thắng Nam vì đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến hơn là công nghiệp.

Quay lại vua Lê à chuyện hai thế lực cùng phương thức sản xuất nông nghiệp chiém hữu ruộng đất, thế thì anh nào khỏe quân nhiều tướng đôgn mưuu sĩ thì thắng.
Lại quay lại chuyện đội bóng thì khi ông thuê HLV, cầu thủ ngoại mà không kiểm soát nổi thì mang họa cho cái sân ông sở hữu vì họ giẫm bừa lái bậy, sân sướng khai thôi chứ chả khai phóng tẹo nào. Cái ấy nói gọn là cõng rắn đấy. Như cụ Ánh cõng Xiêm, cụ Thống cõng Thanh. Về cá nhân hiểu được tại sao họ làm thế, nhưng bài học đấy phải ghi mà tránh lặp lại.
Nên tránh nói chuyện công tội, cái kiểu đen trắng rõ ràng là dành cho sử phổ thông.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Về vua Lê Chiêu Thống, sau thớt này, em sẽ lập 1 thớt khác để trình bày cụ thể mọi vấn đề, với những tài liệu mới nhất từ cả các giáo sĩ và TQ, Đài Loan
 

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
Cụ Chiêu Thống này số phận quả là bi thảm. Như ông vua gì nhà Nam Tống, cũng trẻ, bị quyền thần giết. Trước khi chết còn khóc mà rằng: kiếp sau nếu có đầu thai quyết không sinh vào cửa nhà vua chúa.
Chiêu Thống từ nhỏ đã bị giam cầm, cha bị Trịnh Sâm giết. Tiếng là vua mà như các vua Lê khác, chỉ được ăn lộc có hơn nghìn hộ, tương đương một ông địa chủ nhỏ.
Quân lính không có, thế lực không. Bảo là ông ấy khôi phục cơ nghiệp cha ông nhưng cơ nghiệp có gì đâu ngoài cái hư vị và hơn nghìn mẫu ruộng họ Trịnh cho để làm nguồn sinh sống.
 

vitomxau

Xe container
Biển số
OF-46761
Ngày cấp bằng
17/9/09
Số km
9,611
Động cơ
652,516 Mã lực
Nơi ở
Nhà em chứ đâu !
Em đánh dấu để đánh đọc dần. Cảm ơn cụ Đốc đã có công sưu tầm :)
 

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
Chính ra cái vương vị (ngôi vua) nó lại mang nhiều họa hơn phúc cho các ông vua Lê Trung Hưng. Quyền lực không có, bị giam cầm, bị bức tử gần một nửa.
Thật ra các vua Lê Trung hưng từ Anh Tông trở đi không phải là con cháu Lê Lợi mà là con cháu của Lê Trừ, anh thứ hai của Lê Lợi.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bây giờ, mời các cụ quay lại Thăng Long, em xin kể hầu chuyện ngoại giao Việt-Thanh sau chiến thắng Kỷ Dậu 1789.

Sau trận thua đau, nhà Thanh dẫu muốn tiến đánh nước ta một lần nữa, tình thế không chắc đã hơn những chiến dịch chinh phục Miến Điện (có thể còn vất vả hơn), chi phí nặng nề mà mối lợi chưa thấy đâu cả.

Chính vì lẽ đó, ngay từ đầu, sau khi lượng giá tình hình, đình thần nhà Thanh đều “chủ hòa”. Sau khi Nghị bị triệu hồi về kinh, tình hình giữa hai bên bớt căng thẳng, nhà Thanh lập tức thay đổi thái độ nên việc phong vương cho vua Quang Trung trở thành một nghi lễ cần thiết, một phần để vua Càn Long chữa thẹn cho chính mình, một phần chính vì Trung Hoa muốn tuyên oai vương đức cho các chư hầu biết là phương nam đã thần phục hầu khỏa lấp chiến thắng quân sự vang dội của Đại Việt.

Về vấn đề sắc phong cho các vua nước ta, năm 1540, Mạc Đăng Dung, có lẽ vì muốn tránh đối đầu với nhà Minh, mà cầm chắc thất bại, nên đã tự xin giữ chức Đô Thống Sứ mà thôi. Vua Minh bèn xóa tước An Nam quốc vương. Từ đó đến gần cuối đời Minh, điển lệ Trung Quốc coi sứ ta như là một kẻ thừa sai đặc biệt, chứ không được ban yến. Mặc dầu sau khi dòng họ Lê trở lại Thăng Long và sai sứ cầu phong, triều Minh vẫn thoái thác và chỉ phong làm Đô Thống Sứ An Nam và bắt để họ Mạc làm Đô Thống Sứ Cao Bằng.

Mãi sang đến thời Lê Thần Tông, chúa Trịnh Tùng dẹp yên nhà Mạc, kì kèo mãi mới được phong An Nam quốc vương. TQ luôn luôn dùng nghi lễ phong vương như một cơ hội để hống hách, doạ nạt mà triều đình nước ta, có lẽ vì muốn tránh họa binh đao, luôn luôn phải nhịn.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cụ Chiêu Thống này số phận quả là bi thảm. Như ông vua gì nhà Nam Tống, cũng trẻ, bị quyền thần giết. Trước khi chết còn khóc mà rằng: kiếp sau nếu có đầu thai quyết không sinh vào cửa nhà vua chúa.
Chiêu Thống từ nhỏ đã bị giam cầm, cha bị Trịnh Sâm giết. Tiếng là vua mà như các vua Lê khác, chỉ được ăn lộc có hơn nghìn hộ, tương đương một ông địa chủ nhỏ.
Quân lính không có, thế lực không. Bảo là ông ấy khôi phục cơ nghiệp cha ông nhưng cơ nghiệp có gì đâu ngoài cái hư vị và hơn nghìn mẫu ruộng họ Trịnh cho để làm nguồn sinh sống.
Sau này ở thớt khác, em sẽ trình bày chi tiết những việc mà cụ Chiêu Thống đã làm, những chuyện cụ ấy bất lực, chuyện phải lưu vong...

Cá nhân em luôn không thích câu mà bây giờ ai cũng như đóng đinh khi viết về ông: Lê Chiêu Thống sang nhà Thanh cầu viện, rước voi giày mả tổ, mà phải xem xét dưới mọi lăng kính, mọi góc nhìn, cũng như những sử liệu của mọi phía, và, quan trọng hơn, quan điểm của người dân, sĩ phu lúc ấy.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lúc này, Phúc Khang An khi vừa đáo nhậm chức tổng đốc Lưỡng Quảng, An là quan VĂn, chả biết oánh nhau, nhưng lại hiểu biết nhiều, y cũng biết nước Nam ma thiêng nước độc mà tướng lĩnh TQ nào cũng e ngại khi phải cầm quân chinh phục.

An rất sợ khi nghe đồn rằng nước ta có chướng khí gọi là Mộc tê chướng hay Hoàng mao chướng , một năm chỉ có mùa đông là đỡ. ( thực ra đây là bệnh sốt rét vàng da mà chính người Việt cũng sợ khi phải lên những vùng rừng núi)

Sợ bị Càn Long điều sang Vn thì nguy, An vội làm sớ tâu, nguyên văn:

… Địa phương nước này (tức nước ta), từ Bắc xuống Nam ba nghìn dặm, từ Đông sang Tây hai nghìn dặm, chặng đường phải nhiều, việc kéo quân đi khó mà có thể nhanh được, huống chi nơi đó khí hậu bốn mùa, chỉ có ba tháng mùa đông, chướng lệ không nổi lên, còn ba mùa xuân, hạ, thu kia, đều có sương độc mù mịt, không thể nhiễm được, chẳng khác gì Miến Điện.


Nếu như kéo đại quân qua, thì ắt phải tiến binh vào tháng mười, tháng mười hai phải thắng, tháng giêng năm sau trở về, có thế mới vạn toàn không nguy hiểm. Khổ nỗi việc quân lữ, đâu có thể nào định trước thời gian, nếu như trong ba tháng việc chưa xong, đến mùa xuân rồi, chướng khí bùng lên, nếu triệt binh thì công lao từ trước coi như bỏ đi, lưu binh thì thương vong hẳn lớn. Thành thử chẳng nên dụng binh đất An Nam, không những địa lợi không tiện, nhân sự không hợp, mà chính vì thiên thời có giới hạn.


Từ xưa đến nay, chưa bao giờ thành công cũng là vì lẽ đó, hiện nay Nguyễn Huệ có thù với họ Lê, khiến phải lao khổ đến binh lính chúng ta, phí tổn lương hướng. Thế nhưng đại binh tiến quan chưa bao lâu, gã tù (trưởng) kia mấy lần xin hàng, rõ ràng là trước khi kháng cự, (cũng như) sau khi thua (?) trận, lúc nào cũng tỏ vẻ sợ hãi. Xem biểu văn thấy trong đó y xưng là kẻ áo vải đất Tây Sơn, rõ ràng không có ý chiếm nước của người khác, cũng không có ý chống lại, đủ biết không dám đắc tội với thiên triều.


Thế nhưng lời của y cũng vẫn còn mù mờ, chưa hẳn có thực không kháng cự hay chăng, cần phải phân biện rạch ròi, còn như như y xin đã cho ngay, e rằng gã tù trưởng này kiêu ngạo, gian dối đã quen, dần dà lại đâm coi thường cả Trung Hoa …
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nguyễn Huệ cũng chưa rút quân về Phú Xuân ngay như ta vẫn tưởng, trái lại, ông còn ở lại Thăng Long độ vài tháng để khắc phục hậu quả chiến tranh, nghe ngóng tình hình, phòng thủ, và, quan trọng hơn, lo việc nối lại bang giao với nhà Thanh.

Phúc Khang An nhờ Ô Đại Kinh đưa thư hăm dọa,đồng thời điều quân đến Trấn Nam Quan phòng ngự quân Tây Sơn tấn công qua. Quả thực sau trận chiến đầu năm Kỷ Dậu, tình hình giữa hai quốc gia rất căng thẳng.


Nguyễn Huệ bố trí những đạo quân từ Thăng Long dọc lên biên giới khiến dân chúng, nhất là dân Hoa kiều sợ hãi, và ,việc quân Thanh tập trung ở Trấn Nam Quan cũng tạo nên mối kinh hoàng cho dân cư ở khu vực này.Nhiều người sợ vạ lây nên đã tìm cách tránh khỏi vùng lửa đạn. Hai bên “giữ miếng” như thế nhiều tháng trời cho tới khi Trung Hoa công nhận triều đình Quang Trung và xúc tiến những thủ tục phong vương.

Trong nhiều tháng trời, hai sứ thần của ta là Nguyễn Hữu Chu (Trù) và Vũ Huy Tấn (Phác) phải chạy đi chạy lại từ Thăng Long lên Lạng Sơn đến bảy lần rất vất vả.

Hai bên qua lại, sau cùng Thang Hùng Nghiệp, chịu trách nhiệm thương thảo bước đầu với Tây Sơn, nhượng bộ, thấy quả Nguyễn Huệ có ý cầu hòa nên bằng lòng để Nguyễn Hữu Chu về tâu lại với Huệ diễn tiến đàm phán còn Vũ Huy Tấn ở lại quán dịch tiếp tục thương thảo.

Nhà Thanh đưa ra 2 điều kiện:

1. Trao trả lại những người đã bị Tây Sơn bắt được trong trận đánh.

2. Giao lại phần đất mà trước đây vua Ung Chính đã trả lại cho nước ta.

Vấn đề đất đai lãnh thổ là vấn để muôn thủa giữa TQ và Vn, dù rằng TQ rộng lớn, đất đai nhiều, nhưng chúng vẫn chày cối đi cướp của những quốc gia nhỏ bé khác từng dặm đất, thật là bẩn thỉu.

Chuyện đất cát này xảy ra từ hồi vua Lê Gia Tông,tên tướng Vũ Công Tuấn làm phản ở Tuyên Quang bị triều đình đánh đuổi chạy sang TQ, đem ba châu của nước ta là Vị Xuyên, Bảo Lạc, Thủy Vĩ xin sáp nhập vào tỉnh Vân Nam để nhờ nhà Thanh che chở, trong đó có cả mỏ đồng Tụ Long thuộc châu Vị Xuyên.

Triều đình Lê -Trịnh nhiều lần đòi lại nhà Thanh không chịu trả.

Đến năm 1728, sau khi quân Việt đánh lui được đạo quân Vân – Quí tràn qua để bảo hộ mỏ đồng, vua Ung Chính đành phải nhượng bộ trả lại 40 dặm cho Đại Việt.

Trong một thời gian vài chục năm hồi đầu thế kỷ 18, nhà Thanh đã chiếm của Đại Việt một số đất lấy sông Đổ Chú (nguyên văn: 賭咒) để phân chia ranh giới.

Vấn đề thứ nhất, Nguyễn Huệ hoàn toàn nhất trí.

Vấn đề thứ hai, ông kiên quyết bác bỏ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Các cuộc đàm phán căng thẳng ra phết.

Nguyễn Huệ đã có những thay đổi rõ rệt cuộc đấu tranh ngoại giao ấy, tuy phải lúc cứng, lúc mềm. Trước đây, khi hành xử vai trò một tướng lĩnh, Huệ tuy xuất sắc trong nhiệm vụ quân sự, song việc hành chính và chính trị lắm khi thiếu uyển chuyển. Điều đó cũng dễ hiểu vì bản thân ông và những cận thần đều là võ tướng, đa số ít học, chủ yếu là những đại ca trước kia theo anh Huệ khi còn ở Tây Sơn, hoặc những người có liên hệ thân thích, gần xa ở Qui Nhơn.

Đến lúc này, Nguyễn Huệ đã nhìn thấy rằng muốn tiến xa hơn, ông phải thoát xác để thành một vì vua sáng nghiệp mà việc đầu tiên là thu phục được thành phần sĩ phu BẮc Hà, thiết lập được bộ máy hành chính để dần dần thay thế đám tướng lĩnh đang nắm quyền tại địa phương.

Nếu như Nguyễn Huê, có vẻ rất tôn trọng và tin dùng sĩ phu Bắc Hà, thì, Nguyễn Ánh nói riêng và nhà Nguyễn ( đặc biệt là Minh Mạng) lại rất không ưa, Minh Mạng ác cảm với sĩ phu Bắc Hà, và, hầu như không trọng dụng ai trong các quan cao cấp.

Lúc này, bản thân Nguyễn Huệ cũng còn nhiều vấn đề nội bộ chưa giải quyết xong, việc được nhà Thanh công nhận làm An Nam quốc vương sẽ là một thắng lợi lớn, ít nhất cũng khuất phục được những người dân Bắc Hà khi đó chưa biết phải theo bên nào cho phải, đồng thời củng cố được vị thế để tiến hành những bước kế tiếp, loại trừ những thế lực thù nghịch.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày 22 tháng 2 năm 1789.

Nhà Thanh đã đánh tiếng là họ bằng lòng phong vương cho Nguyễn Huệ, phái bộ Đại Việt tất cả hơn 20 người, do Nguyễn Hữu Chu cầm đầu, từ Thăng Long đi lên, mang tờ biểu cầu phong đồng thời chuẩn bị lễ lạc và dự bị tiệc mừng.

Đây là bức thư Nguyễn Huệ gửi cho Càn Long:


Nguyên văn chữ Hán:

安南國小目臣阮光平堇奏為冒瀝微誠仰干天聽事,欽惟大皇帝陛下,受天明命,為萬國君,臨御五十餘年,洪恩溥洽,華夷內外,同風共貫,臣安南界居炎徼,久沐教聲。
乃因二百年來,國王黎氏失柄,權臣鄭氏專有其國,暨前王黎維端年老,輔政前鄭氏懦,兵驕民怨,國內乖離。臣以西山布衣乘時舉事,丙午夏,興兵滅鄭,還國于黎。
其年前王謝世,又擁立其嗣孫維祁襲位。維祁為人淫暴,不恤國政,朝綱弛於內,邊釁生於外,方宜陷害忠良,誅鋤族姓,國內之臣若民,奔愬於臣,請為出兵除亂。
臣自惟國者天朝所封之國,臣何敢自行廢置。丁未冬,遣一小將以兵問其左右之助桀者,而維祁望風宵遁,自詒伊戚。戊申夏,臣至黎城,復委前黎王之子維瑾監國承祀,經遣行价叩關,備以國情題奏。
日者邊臣反書卻使,不即遞達。去年冬,調動大兵,出關征剿,臣遠道聞信,自念從來一片畏天事大真衷壅於上聞,令前黎王子維瑾及臣民稟文三道偕行价叩稟轅門,不料大兵真趨黎城,殺守兵甚眾。
臣自揣進退無據,且其事總由黎維祁不道所致,於今年正月初五日進抵城下,並不敢與官兵抗拒也。乃官兵殺戮太多,勢難束手就縛,迹似抗衡,臣不勝惶懼現在已將對壘之人查出正法。
伏惟大皇帝體天行化,栽培傾覆,一順自然,恕蠻無知之禍,諒款關籲奏之誠,樹牧立屏,用祈籠命,俾臣得以保障一方,恪共侯服,則事有統攝,民獲乂安,皆出大皇帝陛下幬覆之仁。
臣謹當奉藩脩貢,以表至誠,臣拱北馳神,不勝激切屏營膽仰候命之至,謹奉表奏以聞。
一恭遞上進儀物,金子拾鎰,銀子貳拾鎰。
一謹遣行价貳名,阮有晭,武輝璞。
乾隆伍拾肆年貳月日。

Tạm dịch:

Thần là tiểu- mục nước An- Nam Nguyễn Quang Bình mạo- muội kính- cẩn đem tấm lòng thành tâu lên mong đại hoàng đế bệ hạ (là bậc) thụ mệnh sáng như trời, vua của vạn quốc, ở trên ngôi báu đã trên năm mươi năm, hồng- ân trải khắp mọi nơi Hoa cũng như Di đều được thấm nhuần, (cả đến) nước An Nam của thần tuy ở chỗ nhiệt-đới xa xôi cũng từng được tắm gội, (xin) lấy đức lớn mà nghe cho.


Hai trăm năm qua, quốc vương họ Lê (nước thần) mất (thực) quyền, khiến cho quyền -thần họ Trịnh coi giữ việc nước, đến vua trước là Lê Duy Đoan ( Hiển Tông) tuổi già, phụ- chính họ Trịnh hèn- yếu, binh kiêu dân oán, khiến người trong nước chia rẽ ngả- nghiêng. Thần là kẻ áo vải đất Tây Sơn (vì thế) phải tùy thời mà dấy lên, mùa hạ năm Bính Ngọ, hưng binh diệt họ Trịnh, trả lại nước cho họ Lê.


Trong năm đó tiền vương tạ thế, thần lại đưa tự tôn là Duy Kỳ ( Chiêu Thống) lên nối ngôi. Duy Kỳ là người dâm bạo, không lo quốc -chính, mối- giềng lỏng- lẻo bên trong, lân- bang gây- hấn ở bên ngoài, chỉ lo hãm- hại trung -lương, giết người trong họ, người trong nước cũng như bầy tôi đều chạy về với thần, xin xuất- binh trừ loạn.


Thần vẫn biết rằng nước đây đã được Thiên triều sách -phong, đâu dám tự- ý phế- lập. Mùa đông năm Đinh Mùi mới sai một tiểu tướng đem binh ra hỏi tội bọn tả hữu dám giúp cho kẻ Kiệt kia, hay đâu Duy Kỳ mới nghe tiếng đã bỏ chạy, tự mình làm khổ mình. Đến mùa hạ năm Mậu Thân thần đến Lê thành ( Thăng Long), đưa con của vua trước là Duy Cẩn trông -coi việc thờ- tự và giám- quốc, rồi sai người sang gõ cửa quan trình- bày mọi việc trong nước.


Khi đó người biên- thần (chỉ Tôn Sĩ Nghị) lại trả lại thư, đuổi sứ về, không chịu đề -đạt lên. Mùa đông năm ngoái y lại điều- động đại- binh, xuất -quan qua đánh, thần ở xa nghe tin, tự- nghĩ xưa nay một lòng kính- sợ Thiên triều, định đem tấc lòng giãi- bày lên trên, nên mới bảo vương tử Lê Duy Cẩn và thần dân gõ- cửa trình ba (bản) bẩm văn, ngờ đâu đại- binh tiến thẳng đến Lê thành, giết binh trấn giữ nhiều vô số kể.


Thần chẳng biết tiến- thoái ra sao, việc đó chính là do Lê Duy Kỳ không biết tính- toán, nên đến ngày mồng năm tháng giêng năm nay tiến đến Lê thành, đâu có dám chống -cự lại quan- binh. Thế nhưng quan- binh tàn -sát quá lắm, thế không thể khoanh- tay chịu trói nên đành chống- trả. Việc đó cũng khiến cho thần sợ hãi nên đã đem những kẻ dám đối địch ra xử cả rồi.


Cũng mong đại hoàng đế theo mệnh trời hành- hoá, tài- bồi cho kẻ ngả- nghiêng, thuận theo tự -nhiên, tha- thứ cho kẻ man -di không biết, thấu cho lòng -thành của kẻ cầu- xin được chăn- dắt ở một cõi mà để cho thần được đứng (chắn-giữ) ở một phương, làm chư- hầu tuân - phục thì mọi sự được thống- nhất, dân chúng được yên- ổn làm- ăn, cũng đều do đức- nhân của đại hoàng đế ban -cho cả.


Thần nguyện triều -cống theo lệ Phiên -vương, dâng biểu chí -thành, hướng về phương Bắc, không khỏi cảm -kích trông đợi mệnh- lệnh, kính cẩn dâng lên tờ biểu này.
Cung- kính đệ lên tiến vật gồm mười dật vàng, hai mươi dật bạc.
Cung kính sai hai hành- nhân là Nguyễn Hữu Chu, Vũ Huy Phác.
Càn Long năm thứ 54, tháng hai.
 

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
Không dùng sĩ phu Bắc Hà, tin dùng mấy lão Trương Minh Giảng, Trương Đăng Quế và Nguyễn Tri Phương nên hỏng hết.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nhà Thanh cũng có vẻ trọng vọng sứ bộ Đại Việt, cửa ải Nam Quan được chính thức mở ra để đón phái bộ.

Ngày 16 tháng 3 năm 1789.

Phúc Khang An đem quan binh bản bộ đến đóng ở cửa Nam Quan, một mặt truyền cho tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh xây một lễ đài sử TQ gọi là Thụ Hàng thành), cách cửa ải 90 dặm.

Các quan nhà Thanh thì đóng tại một vị trí cách ải 20 dặm để trông coi việc nghi thức, sau đó Thang Hùng Nghiệp mới cho mời sứ thần Đại Việt.

Trước khi sang TQ, sứ bộ Đại Việt nghỉ tạm ở một công quán có tên là Ngưỡng Đức Đài bên trong lãnh thổ nước ta (Ngưỡng Đức Đài ở bên này cửa ải Nam Quan, đối xứng với Chiêu Đức Đài bên phía TQ).

Chánh sứ Nguyễn Hữu Chu sai người qua ải cùng quan lại nhà Thanh ấn định ngày cử hành lễ, Thang Hùng Nghiệp cho biết nhà Thanh định vào ngày 18 tháng 3 năm Kỷ Dậu ( có lẽ là Âm Lịch).

Chánh sứ nước ta đưa ra một phó bản của biểu xin cầu phong, kèm theo lễ vật, thổ sản gửi cho vua Thanh cũng như các quan lại làm quà ra mắt.

Trong biểu xin cầu phong này, Nguyễn Huệ cũng đặc biệt ghi thêm “sẽ sai con trưởng của anh cả Nguyễn Quang Hoa là Nguyễn Quang Hiển” theo sứ bộ đi sang để tỏ lòng thành.

Phúc Khang An đọc xong, tuy đã hoàn toàn đồng ý nhưng cũng sửa đổi vài chữ để cho sứ bộ nước ta viết lại một bản khác gửi về triều đình nhà Thanh coi như chính thức thần phục.

Ngày 19 tháng 3 năm 1798 ( Âm lịch), khoảng 6 giờ sáng.

Phúc Khang An ra lệnh cho tướng sĩ trấn thủ ở Nam Quan dàn đội ngũ, dựng cờ quạt rồi bày hương án ở Chiêu Đức Đài để làm lễ tiếp nhận biểu xin phong của Nguyễn Huệ.

Nguyễn Quang Hiển cùng với phái bộ mấy trăm người đã chuẩn bị sẵn, Phúc Khang An sai Thang Hùng Nghiệp mời Nguyễn Quang Hiển cùng 6 viên chức của sứ bộ nước Nam, thêm một thông ngôn và 60 tùy tùng, tổng cộng 68 người tiến qua Trấn Nam Quan.

Đến khoảng 8 giờ sáng, Thang Hùng Nghiệp dẫn phái đoàn tới, mời vào Chiêu Đức Đài.

Phúc Khang An bước ra nghênh tiếp, sau nghi lễ gặp mặt, phái đoàn nước ta do chánh sứ Nguyễn Hữu Chu đứng ra trao lại biểu xin phong, An thay mặt Thanh đình tiếp nhận.

An mở đại tiệc khoản đãi sứ bộ nước ta, đích thân An tiếp sứ. Trong câu chuyện ngoài lề, Nguyễn Quang Hiển cũng cho hay những kẻ phạm tội sát hại các tướng lĩnh nhà Thanh đã bị xử tội rồi, An nghe xong coi như việc đã giải quyết, đề nghị sau này không nhắc tới nữa, chỉ xin nước Nam lập cho một cái miếu, Xuân Thu cúng tế những binh sĩ nhà Thanh tử trận.

Để chính thức hóa việc dâng biểu cầu phong, Nguyễn Quang Hiển sẽ thay mặt triều đình Quang Trung cầm đầu phái đoàn lên Bắc Kinh triều kiến hoàng đế và cho biết đến năm sau (Canh Tuất 1790), Càn Long thứ 55 là năm khánh thọ bát tuần của vua Thanh, vua nước Nam sẽ đích thân sang chúc mừng cùng các sứ thần phiên thuộc khác.

Đến đây, việc thông hiếu của hai nước coi như đã quyết định, những lễ lạc khác chỉ là thủ tục.

Hai bên đồng ý giảm thiểu số quân trấn đóng tại biên giới.

Ngày 10 tháng 4 năm 1789.

Càn Long ra lệnh cho An rút các đạo quân Quảng Đông, Vân Nam đang trú đóng ở Quảng Tây về doanh trại. Tôn Sĩ Nghị sau khi thua trận, thân thể ốm nhách, có lẽ do sợ hãi quá mà ra, lại thêm bệnh phong thấp lúc đó phải đang nằm bẹp dí dưỡng bệnh nay cũng được lệnh cho về Nam Ninh nghỉ ngơi, còn An cũng không còn phải chầu chực ở Trấn Nam Quan nữa.

Nguyễn Huệ cũng ra lệnh cho các đồn ải giảm bớt quân số phòng ngự.

Ngày mồng 3 tháng 5 năm 1789. ( có lẽ Âm lịch)

Nhà Thanh lại gây khó dễ.

Càn Long gửi cho Huệ một đạo dụ, xác định là không truy cứu những việc đã qua nữa, nhưng chưa thể phong vương vì Nguyễn Quang Bình (tên mới của Nguyễn Huệ) chưa thân hành sang chầu mà chỉ sai cháu là Nguyễn Quang Hiển thay mặt đem biểu tiến kinh để đón phong hiệu, lễ chế đó thiên triều chưa từng có.

Càn Long nhấn mạnh là nếu quả Nguyễn Quang Bình có bụng thành kính, chi bằng đợi khi Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ vào năm sau (Canh Tuất, 1790) thì hãy thân hành sang Bắc Kinh để xin phong vương.


Sứ thần nước ta lại phải một phen biện bạch lời hơn lẽ thiệt để nhà Thanh thông qua những thủ tục nặng phần hình thức này.

Sau cùng CÀn Long cũng đồng ý, truyền lệnh Phúc Khang An báo cho Nguyễn Quang Hiển khởi trình tiến kinh, và sai Thang Hùng Nghiệp hộ tống.

Ngoài ra vua Càn Long còn ban cho Nguyễn Huệ một chuỗi ngọc trai để đeo cổ. (Nguyên văn tiếng Hán: Trân châu thủ xuyến nhất quải – 珍珠手串一 掛). Đây là một đặc ân chưa từng có, được ban một chuỗi ngọc trai là một việc đặc biệt. Ngọc trai lại chỉ dành riêng cho vua chúa và nhất đẳng đại thần vì nhà Thanh qui định rất chi ly hạng bậc, không lẫn lộn.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày 25 tháng 5 năm 1789.

Sứ đoàn Đại Việt đến Chiêu Đức Đài đón sắc thư và quà của vua Thanh đem trở về trao cho trấn thủ Lạng Sơn Đinh Công Thái đem về Thăng Long.

Ngày 27 tháng 5 năm 1789.

Phái đoàn nước ta do Nguyễn Quang Hiển cầm đầu, tất cả là 21 người, từ nhà khách của tỉnh Quảng Tây do Thang Hùng Nghiệp dẫn đường đi lên kinh đô nhà Thanh. Hai mươi mốt người đó gồm có:

– Ba vị sứ thần:
1. Chánh sứ Nguyễn Quang Hiển
2. Phó sứ Nguyễn Hữu Chu
3. Phó sứ Vũ Huy Phác

– Bồi tùng 1 người:
Nguyễn Ninh Trực

– Hành nhân 5 người:
1. Trương Gia Nghiễm
2. Phạm Bá Nhuận
3. Tạ Hữu Định
4. Nông Đình Cẩn
5. Hoàng Huy Dực

– Tòng nhân 12 người:
1. Hồ Văn Tòng
2. Nguyễn Công Tuyết
3. Nguyễn Văn Cự
4. Nguyễn Văn Bản
5. Nguyễn Văn Cơ
6. Hoàng Văn Thành
7. Lê Văn Trọng
8. Ngô Viết Kiệt
9. Nguyễn Văn Uyển
10.Nguyễn Hữu Đễ
11. Trần Văn Dũng
12. Đỗ Đình Lập

Ngoài Quang Hiển, tất cả phái đoàn ngoại giao đều là sĩ phu Bắc HÀ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Phái đoàn ngoại giao nước ta đi đến đâu cũng được nhà Thanh đón tiếp cực kỳ trọng thể, có thể nói xưa nay chưa từng có.

Phúc Khang An còn đặc biệt phái thêm Đức Khắc Tinh Ngạch là phó tướng mới của Thái Hiệp tỉnh Quảng Tây theo hộ tống, còn bản thân ông ta khởi trình từ Nam Ninh, đến Quế Lâm ngày 11 tháng 5 (Nhuận), và hôm sau, 12 tháng 5 thì Tôn Vĩnh Thanh cũng tới.

Việc đưa phái bộ Nguyễn Quang Hiển lên Bắc Kinh là một biến cố trọng đại, do chỉ thị trực tiếp từ Càn Long, do đó cả ba vị quan đầu hai tỉnh Lưỡng Quảng đều theo lên Bắc Kinh.

Mặc dù biệt đãi đó có thể do nhiều nguyên nhân, chiến thắng Kỷ Dậu cũng là một yếu tố quan trọng khiến cho nhà Thanh thay đổi hẳn thái độ đối với nước ta.

Ngày mồng 9 tháng 6 năm 1789. ( Âm lịch, năm này có thêm tháng 5 Nhuận)

Phái đoàn nước ta vào huyện Bồ Kỳ tỉnh Hồ Bắc, tuần phủ Hồ Bắc là Huệ Linh đã phái ủy hán đạo Hoàng Đức là Mạnh Ngọc , tri phủ Võ Xương là Mục Thông A, thủ doanh tham tướng Võ Xương là Lặc Phúc qua lại đón tiếp.

Ngày 12 tháng 6.

Phái đoàn đến tỉnh thành, tổng đốc Hồ Quảng là Tất Nguyên dẫn các ti thuộc ra nghênh đón, sau đó cho bày tiệc, tổ chức hát bội tiếp phái đoàn, lại đem các loại gấm vóc, tơ lụa ra tặng. Tơ lụa Hồ Châu vốn dĩ nổi danh trong thiên hạ, các quan lại nhà Thanh đón tiếp Nguyễn Quang Hiển trọng hậu như thế quả là một vinh hạnh từ xưa đến nay chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.

Ngày 17 tháng 6.

Sứ thần nước ta vào đến châu Tín Dương tỉnh Hà Nam, tuần phủ Hà Nam là Lương Khẳng Đường phái Vạn Ninh thuộc đạo Nhữ Quang và tri phủ Nhữ Ninh là Bành Như Cán ra nghênh đón tiếp đãi.

Ngày 29 tháng 6.

Phái đoàn lại từ phủ Chương Đức khởi hành đi Phong Lạc, khi ấy nước sông Chương Hà đang dâng cao, thuyền không thể qua được, đợi đến ngày mồng 1 tháng 7, nước bắt đầu rút, tri phủ Chương Đức là Lý Ch đưa phái đoàn sang ngang tới tận Từ Châu, tỉnh Trực Lệ mới quay về.

Ngày mồng 6 tháng 7

Phái đoàn đi đến Chính Định.

Ngày 13 tháng 7 thì đến tỉnh thành, các quan lại dọc đường nơi nào cũng đều đãi tiệc, diễn tuồng, tặng quà rất hậu hĩ.

Ngày 24 tháng 7 năm 1789 ( Âm lịch)

Phái đoàn đến hành tại (nơi Càn Long ở khi tuần du khỏi Hoàng thành) ở Nhiệt Hà .

Chánh sứ Nguyễn Quang Hiển, phó sứ Nguyễn Hữu Chu, Võ Huy Tấn cùng tất cả phái đoàn vào chầu, vua Cao Tông cho ngự quyển là A Thắng Cảnh gọi vào triều kiến.

Phái đoàn ta làm lễ chiêm cận ( lễ ra mắt nhà vua) xong, vua Càn Long liền mở tiệc đãi yến chung với các vương công đại thần, các Bối lặc, Bối tử người Mãn Châu, các Ngạch phò (con rể vua), các Cách Cách..

Sau khi ăn uống, Càn Long lại cũng cho tất cả các Vương công, đại thần và quan khách xem hát bội.

Càn Long đặc biệt ban thưởng cho vua Quang Trung tượng Quan Âm bằng ngọc, cây như ý bằng ngọc, gấm thêu chỉ vàng đính hạt châu …

Còn Nguyễn Quang Hiển cũng được ban thưởng ngọc như ý, tượng La hán bằng sứ, gấm thêu chỉ vàng, hộp bằng bạc … Các phó sứ, hành nhân cũng đều được ban thưởng tùy cấp bậc các món gấm vóc, hộp bạc hay ngân lượng.

Nhà Thanh có gghi chép cụ thể là 5 lần ban tặng, như sau:

1. – Lần thứ nhất: ngọc như ý, ngọc Quan Âm, chuỗi châu thủy tinh màu xanh lục, bình thủy tinh, bình bằng sứ màu đỏ mỗi thứ một cái, hai cái hộp tết bằng chỉ bạc, gấm đoạn 3 tấm, ba cuộn giấy hoa tiên.

2 – Lần thứ hai: gấm thêu rồng (chữ hán: Mãng – 蟒), thiểm đoạn (gấm lấp lánh), trang đoạn (gấm may áo mặc hàng ngày), mỗi thứ hai tấm.

3. – Lần thứ ba: Bốn lọ trà Trịnh Trạch, bảy bánh trà Phổ Nhĩ (trà Vân Nam đóng lại thành bánh), hai hộp trà cao, hai bình thuốc ngửi (tị yên bình, thường làm bằng ngọc ngà, đá quí), một mâm phật thủ (có lẽ đây là một loại điêu khắc theo hình mâm hoa quả chứ không phải trái phật thủ thật).

4. – Lần thứ tư: Ngọc như ý, tị yên hồ, chén bằng gỗ mun (mộc tất oản), một cái chén của Âu Châu (của Pháp), gấm thêu hoa, bao súc nhung đất Chương.

5. – Lần thứ năm: Bát lớn bằng sứ, mâm sứ, đĩa mun, chén, lò hương hai cái, một con dao nhỏ.

Ngoài ra các chánh, phó sứ cũng được ban thưởng đủ 5 lần, mỗi người khác nhau chút ít. Những loại vật dụng này, phần lớn lấy trong Phương Viên Cư Khố, ngoại trừ vải Mao Thanh do Ty Quảng Chư thuộc nội vụ cung ứng.

Phái đoàn Đại Việt thu bộn.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Không dùng sĩ phu Bắc Hà, tin dùng mấy lão Trương Minh Giảng, Trương Đăng Quế và Nguyễn Tri Phương nên hỏng hết.
Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản cũng toàn là dân Tàu đấy cụ ạ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày 22 tháng 8 năm 1789 (Âm lịch)

Nhà Thanh tổ chức đại lễ trao sắc phong cho phái đoàn nước ta ở điện Thái Hoà.

Nghi lễ do các đại thần lưu lại ở kinh đô sắp xếp, còn bằng sắc, ấn tín An Nam quốc vương thì bộ Lễ cũng đúc sẵn. Nguyễn Quang Hiển ở trước bệ rồng thay mặt vua Quang Trung nhận lãnh, hai vị quan đầu triều là Võ Anh Điện đại học sĩ A Quế trao ấn, còn Văn Uyên Các đại học sĩ Kê Hoàng trao sắc, nghi thức do các tán lễ lang nhà Thanh chỉ đạo hành sự.

Để tỏ thiện chí, trước đó Nguyễn Huệ đã trả về cho nhà Thanh hơn 500 binh sĩ bị bắt trong trận đánh, trong số có đề tiêu du kích tỉnh Quảng Đông là Trương Hội Nguyên , thủ bị Lao Hiển. Hai người này trước đây Tôn Sĩ Nghị đã báo cáo là tử trận.

Tất cả các binh sĩ được thả về đều phải khai báo với quan nhà Thanh về sự tình đã xảy ra. Qua những lời khai, cho thấy Tây Sơn có một chính sách khá khoan hồng với tù binh, hơn hẳn cách đối xử tàn nhẫn của Tôn Sĩ Nghị chặt đầu những người bị bắt chỉ nhằm mục đích gia tăng chiến công của y, bất kể đến những qui luật tối thiểu..

Việc trao trả một số tù binh cũng khiến cho tự ái Càn Long và đình thần nhà Thanh được xoa dịu, An cũng được tiếng là khéo thu xếp.

Sau đó, nhận thấy tình thế đã thuận chiều, Nguyễn Huệ lại cho trả về thêm 39 người, lần thứ ba bên ta thả thêm 28 người nữa và sau cùng, lần thứ tư 18 người. Đây có lẽ là các chỉ huy có số có má, mà không xét đám lính trơn và dân phu...

Về phía nhà Thanh, để đáp lại thiện chí, cũng trả Chu Đình Lý và 7 người về (một người là cai kỵ Nguyễn Viễn Du – chết vì bệnh khi bị giam). Những người này là quan binh Tây Sơn ở cửa ải Mục Mã bị nhà Thanh bắt giữ.

Ngoài ra, Nguyễn Huệ cũng khôn khéo nhượng bộ một số việc nho nhỏ, chẳng hạn cho phép Hoa kiều sống ở Thăng Long lập miếu thờ những tướng lĩnh TQ bị giết trong trận Kỷ Dậu ở ngoại thành, hay trừng phạt những người đã sát hại họ. Tuy nhiên, đây chỉ là hình thức để cho qua chuyện, và chính quan lại nhà Thanh cũng chỉ mong chờ có thế để tuyên bố “những việc đã qua sẽ không hỏi thêm nữa” (Nguyên văn: dĩ vãng chi sự, bất phục thâm cứu – 已往之事,不復深究) cho đẹp mặt.

Sau khi nghi lễ trao sắc ấn hoàn tất, phái bộ Nguyễn Quang Hiển lưu lại kinh đô thêm 2 ngày, người nào cũng mua nhân sâm đem về nước làm quà.

Ngày 24 tháng 8 năm 1789.

Phái đoàn lại lên đường trở về nước.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Khoảng tháng 7 ( Âm lịch) năm 1789.

Lúc này, Nguyễn Huệ đã rời Thăng Long để vào Phú Xuân, xây dựng kinh đô mới gọi là Phụng Hoàng Trung Đô ở Nghệ AN.

Việc tại sao Huệ không ở lại Thăng Long, mà lại chọn Phú Xuân làm kinh đô mới, có lẽ theo các giáo sĩ :

"Kẻ Chợ bây giờ 10 phần không còn được 1, các dinh thự nguy nga của Đức Vua
( nhà Lê) và Đức Ông ( Chúa Trịnh) đều bị quân Nam ( Tây Sơn), quân Vua ( chỉ Chiêu Thống đốt hết phủ chúa Trịnh) phá tan, qua các cuộc chiến. Dân chúng đói khổ xiêu dạt khắp nơi..."

Thực ra, ngay từ năm 1788, khi chưa lên ngôi, Huệ đã để ý đến việc tìm đất xây dựng kinh đô ở Nghệ An.

Trong chiếu gửi Nguyễn Thiếp về việc chọn đất xây dựng kinh đô,Huệ đã viết:

“Chiếu truyền cho La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp được biết: Ngày trước ủy thác cho Phu tử về Nghệ An xem đất đóng đô cho kịp kỳ này ngự giá ở Bắc về trú. Sao ta về tới đây thấy chưa được việc gì? Nay ta hãy hồi giá về Phú Xuân cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Vậy ban chiếu xuống cho Phu tử nên sớm cùng ông Trấn thủ Thận tính toán và làm việc xem đất đóng đô tại Phù Thạch”.

Tờ chiếu đề ngày 1 tháng 6 năm Mậu Thân (1788), như vậy việc giao trách nhiệm chọn đất đóng đô phải diễn ra trước đó.

Huệ có lẽ chọn Nghệ An để đóng đô bởi hai lẽ, căn cứ vào tình hình lúc ấy:

1. Nơi đây đất rộng người đông, là đất căn bản của nước nhà.

2. Về địa lý, Nghệ An cách Thăng Long 300km, cách Phú Xuân trên 300km, nằm vào khoảng giữa rất cân đường ra vào (lúc bấy giờ vùng đất từ Quảng Ngãi trở vào thuộc quyền kiểm soát của Nguyễn Nhạc).

Trong chiếu gửi Nguyễn Thiếp, Huệ cũng viết:

“Nay kinh đô ở Phú Xuân thì hình thế cách trở, ở xa trị Bắc Hà địa thế khó khăn. Theo đình thần nghị rằng chỉ đóng đô ở Nghệ An là đường vừa cân, vừa khống chế được trong Nam ngoài Bắc và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện tiện việc đi về” (chiếu đề ngày 3 tháng 9 năm Thái Đức 11, 1788).

Cũng trong tờ chiếu đó,Huệ còn ghi nhận ở đây:
“hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây dựng kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy!”.

Cũng vì nóng lòng muốn dời đô ra Nghệ An mà Nguyễn Huệ đã đích thân từ Phú Xuân ra tận nơi để đốc thúc công việc.

Tuy nhiên, Nguyễn Thiếp lại là người không muốn Nguyễn Huệ đóng đô ở Nghệ An, có lẽ ông sợ việc xây dựng kinh đô sẽ làm khổ nhân dân địa phương. Chính vì vậy mà trong một tờ tấu gửi Quang Trung, ông đã bảo: "ở chỗ đó đất chật hẹp, kề núi kề sông, bờ sông lại hay bị sạt lở, việc đóng đô là không thuận lợi."

Huệ đã trả lời rằng:

“Nếu bảo rằng những chỗ như Phượng Hoàng, Khánh Sơn không được đô hội thì sao chẳng tìm chỗ tốt khác cho thỏa ý quả cung
( lời tự xưng của Huệ, tỏ vẻ nhún nhường) trông mong?… Nhớ buổi hồi loan kỳ trước lúc qua Hoành Sơn, quả cung đã từng mở xem địa đồ, thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy” (trích chiếu của Quang Trung đề ngày 3 tháng 9 năm Mậu Thân (1788).

Lựa chọn, trao đổi mãi, cuối cùng Nguyễn Thiếp cũng chọn được địa điểm để xây dựng kinh đô. Đó là vùng đất nằm giữa Núi Quyết và núi Kỳ Lân, tên dân gian là Rú Mèo, thuộc làng Dũng Quyết, xã Yên Trường, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An (nay thuộc phường Trung Đô, TP Vinh).

Đây cũng là quê gốc của Nguyễn Huệ.

Việc xây Kinh đô mới được tiến hành khẩn trương, và, theo các giáo sĩ, là cực kỳ hoành tráng, với các nguyên vật liệu, đồ quý cướp được từ việc phá dỡ các lâu đài, cung điện của Vua Lê, từ Phủ chúa Trịnh và của các dinh thự hoành tráng ở Thăng Long khác nữa.

Triều đình Tây Sơn đã xây dựng được một số công trình như đắp thành đất xung quanh, xây dựng Lầu Rồng ba tầng, điện Thái Hòa và hai dãy hành lang.

Đáng tiếc là Nguyễn Huệ chưa có ngày nào được ở Kinh Đô mới.



 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top