Phạm vi quản lý của triều đại Quang Trung trong những năm1789-1792 bao gồm toàn bộ Bắc Hà vào đến đèo Hải Vân. Trên phạm vi đó,triều đại này đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp cải cách tiến bộ.
- Về kinh tế.
Quang Trung ban "chiếu khuyến nông", lệnh cho dân phiêu tán trở về quêkhôi phục ruộng đồng bỏ hoang. Những xã nào chứa chấp kẻ trốn tránh đềubị trừng phạt. Sau một thời hạn mà ruộng công còn bỏ hoang thì phải nộpthuế gấp đôi, ruộng tư thì bị sung công... Do đó, chỉ trong vòng 3 nămsau, nông nghiệp được phục hồi. Năm 1791 "mùa màng trở lại phong đăng,năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình.
Đối với công thương nghiệp, Quang Trung khuyến khích đẩy mạnh sản xuấtthủ công nghiệp, mở rộng ngoại thương trên cơ sở phục hồi và phát triểnnông nghiệp. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó, ngay từ những ngày đầucủa chính quyền mới, Quang Trung chủ trương phát triển mọi ngành sảnxuất nhằm xây dựng một nền kinh tế phồn vinh, độc lập, tự chủ trong đócó công thương nghiệp.
Chủ trương khuyến khíchphát triển công thương nghiệp của Quang Trung được thể hiện ở sắc lệnh"khoan thư" sức dân. Năm 1789, Quang Trung bãi bỏ thuế điền cho nhândân từ sông Gianh ra Bắc, động viên các tầng lớp nhân dân lao động phấnkhởi sản xuất.
Để thúc đẩy sản xuất và lưu thônghàng hoá thuận lợi, Quang Trung cho đúc tiền đồng mới (Quang Trungthông bảo và Quang Trung đại bảo). Đối với nước ngoài, Quang Trung chủtrương mỏ rộng trao đổi buôn bán, đấu tranh nuộc nhà Thanh phải mở cửabiên giới để buôn bán với nước ta như ải Bình Nhi, Thuỷ Khẩu (CaoBằng), Hoa Sơn (Lạng Sơn), Du Thôn... Đối với thuyền buôn của các nướctư bản phương Tây, Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cườngquan hệ ngoại thương với Việt Nam, nhờ vậy, tình hình thương nghiệp(nội thương và ngoại thương) nước ta thời Quang Trung được phục hưng vàphát triển. Mô tả Thăng Long bấy giờ, nhà nho Nguyễn Huy Lượng sốngdưới thời Tây Sơn viết: "Lò Thạch khối khói tuôn nghi ngút, thoi oanhnọ ghẹo hai phường dệt gấm, lửa đom đóm nhen năm xã gây lò", và "rậprình cuối bãi đuôi nheo, thuyền thương khách hãy nhen buồm bươm bướm"(Phú Tụng Tây Hồ).
Nền ngoại thương nước tathời Quang Trung khác hẳn với ngoại thương thời Vua Lê chúa Trịnh, chúaNguyễn trước đó. Nó xuất phát từ yêu cầu nội tại của nền kinh tế và đờisống của nhân dân, từ yêu cầu đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá. Tư tưởng"thông thương" tiến bộ của Quang Trung đã thể hiện nhãn quan kinh tếrộng mở phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại, "mở cửaải, thông thuơng buôn bán, khiến cho các hàng hoá không ngừng đọng đểlàm lợi cho dân chúng".
- Về chính trị, quốc phòng.
Sau khi đánh bại 30 vạn quân Thanh xâm lược (1789), Vương triều QuangTrung ra sức xây dựng một chính quyền phong kiến mới tiến bộ với ý thứcquản lý đất nước trên một phạm vi rộng lớn dưới một chính quyền trungương tập trung mạnh. Xuất phát từ nhận thức "Trẫm là kẻ áo vải đất TâySơn, không có một tấc đất, tự nghĩ mình tài đức không theo kịp cổ nhânmà đất đai rộng lớn như thế, nghĩ đến việc cai quản, lo sợ như cầm dâycương mục mà dong sáu ngựa", nên trong công cuộc xây dựng chính quyềnmới, Quang Trung rất chú trọng "Cầu hiền tài". Đối với những nho sĩ,trí thức, kể cả quan lại trong chính quyền cũ có tài năng, trí tuệ, cónhiệt tình xây dựng đất nước, Quang Trung đều cố gắng thuyết phục và sửdụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt họ ở những chức vụ cao tương xứngvới tài năng của họ. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp, v.v.,là những học giả tiêu biểu trong số nho sĩ này.
Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại mới,bên cạnh phương thức "tiến cử", "cầu hiền tài" Quang Trung đã ban hànhchính sách "khuyến học", mở rộng chế độ học tập, thi cử. Trường họcđược mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử dụng một sốđền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học từchương khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh,sinh đồ ở các triều đại trước phải thi lại. Người nào xếp loại ưu thìmới được công nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học lại, còn hạng sinh đồ8 quan do bỏ tiền ra mua trước đó (thời Lê - Trịnh) đều bị đuổi về chịulao dịch như dân chúng.
Chủ trương phát triểngiáo dục, thi cử để đào tạo nhân tài cho đất nước trong công cuộc phụchưng của chính quyền mới được Quang Trung nói rõ: "Dựng nước lấy họclàm đầu, lấy nhân tài làm gốc. Trước đây bốn phương nhiều việc phảiphòng bị, việc học không được sửa sang, khoa cử bỏ dần, nhân tài ngàycàng thiếu thốn... Trẫm khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhànho, lưu tâm, mến kẻ sĩ, muốn có người thực tài để dùng cho quốc gia".Xuất phát từ nhận thức đó ngay từ năm 1789, Quang Trung đã cho mở khoathi Hương đầu tiên ở Nghệ An, chọn lấy những người đỗ tú tài hạng ưucho vào dạy trường quốc học, hạng thứ cho vào dạy ở trường phủ học.Quang Trung chủ trương từng bước đưa khoa cử thành một phương thức đàotạo quan chức cho nhà nước phong kiến mới.
Trêncơ sở tăng cường và củng cố hoạt động của bộ máy nhà nước tập trungmạnh, chính quyền đã thực hiện được chức năng quan trọng và lớn lao bấygiờ đối với xã hội là tập hợp được các lực lượng tích cực trong toànđất nước, đẩy lùi được cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, ổnđịnh tình hình chính trị, xã hội, củng cố được nhà nước quân chủ tậpquyền, từng bước phục hưng, phát triển văn hoá, giáo dục và kinh tế.
Quang Trung chủ trương xây dựng một đội quân hùng mạnh, củng cố quốcphòng. Quân đội chia làm 5 doanh: trung, tiền, hậu, tả, hữu. Ngoài racòn có thêm một số quân hiệu khác như tả bật, hữu bật, kiều thanh,thiên cán. Quân đội được biên chế theo đạo, cơ, đội. Nhà nước quy địnhcứ 3 suất đinh tuyển một lính. Năm 1790, làm sổ hộ tịch để căn cứ vàođó tuyển binh.
Quân đội có các binh chủng: bộbinh, thuỷ binh, tượng binh, pháo binh. Vũ khí có nhiều loại, có loạiđược cải tiến như hỏa hổ (một loại ống phun lửa), có súng trường, đạibác, giáo mác, cung, tên. Chiến thuyền cũng nhiều loại, loại lớn chởđược cả voi, trang bị từ 50 đến 60 khẩu đại bác, chở được từ 500 đến700 lính.
Với một lực lượng quân đội mạnh, QuangTrung đã trấn áp được các thế lực phong kiến *********, bảo vệ đượcchính quyền mới và có cơ sở để thực hiện một chính sách đối ngoại tíchcực, kiên quyết bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và nângcao địa vị của nước ta thời bấy giờ đối với nước ngoài.
- Về văn hoá giáo dục.
Quang Trung lập Sùng Chính Viện chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm làmtài liệu học tập và giúp vua về mặt văn hoá. Mục đích của Quang Trunglà nhằm đưa chữ Nôm lên thành quốc ngữ chính thức thay cho chữ Hán. Bêncạnh Nho giáo, Quang Trung vẫn chấp nhận Phật giáo và Thiên Chúa giáo.Chữ Nôm được đưa vào khoa cử, trong các kỳ thi quan trường phải ra đềthi bằng chữ Nôm, người thi đến kỳ tam trường phải làm thơ, phú bằngvăn Nôm. Chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của quốc gia dưới triềuQuang Trung, một thành quả quan trọng trong lịch sử đấu tranh và bảotồn nền văn hoá dân tộc, chống chính sách đồng hoá của các triều đạiphương Bắc đô hộ nước ta. Những chính sách văn hoá, giáo dục của QuangTrung chứng tỏ ông có hoài bão xây dựng một nền học thuật, giáo dục đậmđà bản sắc dân tộc, nâng cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân dân.
Những cải cách của Quang Trung có nhiều mặt tích cực, thể hiện một tưtưởng tiến bộ nhằm đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảngsau chiến tranh kéo dài để vươn lên sánh vai cùng các quốc gia pháttriển đương thời, những chính sách cải cách đó đã và sẽ tạo khả năng mởđường, phát triển của đất nước, của dân tộc.
Tuy nhiên, về mặt thực hiện những chính sách cải cách của Quang Trungđã gặp nhiều trở ngại, thời gian thực hiện lại quá ngắn ngủi. Ngày 29tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), Quang Trung - Nguyễn Huệ - người anh hùngcủa dân tộc, đột ngột qua đời giữa lúc những cải cách mới được bắt đầuthực hiện.