Theo nghiên cứu của bọn Tây, các nước bé hơn đến cống cho có thôi. Thiên triều lại tặng nhiều hơn, rồi còn tiền nuôi sứ giả. 1 ví dụ điển hình là phí tiếp đoàn sứ bộ của Q Trung của Càn Long, theo sử Tàu chép lại là rất lớn. Vả lại thiên triều nó là nc lớn, nó ban phát nhiều hơn là thu lấy mấy cái sừng tê vớ vẩn.
1 ví dụ khác là Lê Lợi phải cống nạp người vàng, nó tượng trưng thôi. Còn thứ quan trọng nhất là vũ khí thu được từ nhà Minh. Số súng rất lớn Lê Lợi đã ko trả 1 khẩu nào cả.
Sử sách đối với đa số người đều hiểu sai bản chất hết.
Luyên tha luyên thuyên
1. Đoàn đi chầu của Nguyễn Bình (Huệ) là đoàn duy nhất vua An Nam sang trực tiếp Bắc Kinh trong lịch sử Việt Nam, và chi phí của Càn Long đón tiếp chỉ cho lần duy nhất này thôi.
Đoàn cũng không phải mang người vàng sang vì Vua Quang Trung đích thân sang rồi.
2. Bổng lộc của vị trí An Nam Quốc Vương là có, nhưng nó là một phần nhỏ và tương đương các vương hầu các triều đại Trung Quốc.
3. Lệ cúng người vàng là từ lâu đời, mỗi lần thay triều đại An Nam đều phải cúng người vàng thế thân cho việc vua An Nam sang chầu. Đây là một hình thức hối lộ.
4. Các đoàn đi sứ thường được tiếp đón trọng thị, nhưng không có nghĩa là được hậu đãi đặc biệt hơn các quốc gia khác - thóc đâu mà vãi gà rừng.
5. Vũ khí thu được của Quân Minh, không thấy nói đến đại pháo nhưng rất rõ ràng về trao trả tù binh và ngay cả ngựa chiến chứng tỏ không trí trá được.
Việc vũ khí chiến lợi phẩm trong chiến tranh nó đòi mà ỉm đi được à? Nguồn đâu cái thằng luyên thuyên.
Ngày 29 tháng 12 năm 1427, khi Vương Thông rút về nước, Lê Lợi trao trả nhà Minh vừa tù binh, vừa hàng binh. Theo Minh sử, số người trở về nước là 84.640; số người bị giữ lại không tính được.
Tháng giêng năm 1428, nhà Minh có thư sang yêu cầu Lê Lợi trả hết số người và vũ khí ở Đại Việt. Lê Lợi bèn ra lệnh cấm người Việt chứa giấu người Minh, chỉ giấu 1 người cũng xử tội chết, vì vậy người Minh lần lượt ra đầu thú để về nước.
Năm 1429, Lê Lợi sai Đào Công Soạn đi sứ, dâng thư và trao trả
những người và vũ khí còn lại, bao gồm quân quan 580 người, dân quân và lại 157 người, kỳ quân 15.170 người, ngựa 1.200 con