[Funland] Người đàn ông nguy hiểm nhất nước Mỹ

Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Trong hệ thống tổ chức của Đoàn 17, có Công ty Thương mại Vận tải Hắc Lý. Công ty này được chính quyền Campuchia cấp giấy phép kinh doanh trong các tỉnh và trong thành phố Phnom Penh. Đoàn vừa làm nhiệm vụ thu mua khai thác các nguồn hàng hóa tại Campuchia, vừa tổ chức tiếp nhận hàng chi viện của Trung ương qua cảng Sihanoukville, tiếp chuyển hàng về khu vực thuộc chiến trường B.52.

Biên chế của đoàn chỉ có 84 người nhưng sử dung lực lượng ngoài biên chế là 564 người, chủ yếu là Việt kiều và hàng trăm dân thường, binh lính, sĩ quan quân đội hoàng gia Campuchia hoạt động cho ta. Đây là chuyến vận tải hoàn toàn bằng cơ giới, có tới 150 xe ô tô vận tải, có lúc thuê mướn thêm 300 xe ô tô, 500 ca nô để vận chuyển hàng hóa đi các hướng, nên đã vận chuyển và khai thác được một khối lượng hàng lớn và quan trọng. Ngoài ra, đoàn còn có các cơ sở kinh doanh mua bán sản xuất, sửa chữa ở các thành phố của Campuchia như xưởng sửa chữa xe đạp, thực phẩm, may mặc quần áo
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Đại tá Nguyễn Việt Phương viết:

"Một cán bộ đầy tài năng của Tổng cục Hậu cần là Đức Phương được củ vào đóng vai nhà tư sản kinh doanh, làm chủ Công ty Thương mại Hắc Lý. Đức Phương có dáng người to cao, đường bệ, nước da ngăm nâu, trán hói..., đủ điều kiện để đóng vai một ông chủ hãng buôn lớn xứ Chùa Tháp.

Miền Bắc đã cung ứng cho Đức Phương đủ vàng và ngoại tệ mạnh để hoạt động kinh doanh, ông đã mở rộng quan hệ với các quan chức cao cấp ở Campuchia, trong đó có Tư lệnh thành phố Phnom Penh là Unxiut. Unxiut đã nhanh chóng kết thân với Đức Phương. Viên sĩ quan phụ tá của Unxiut cũng được Đức Phương ưu ái, cho nên tận tình giúp đỡ. Với mối quan hệ đó, Công ty Hắc Lý có thể thuê cả một đoàn xe nhà binh của quân đội Campuchia chở vũ khí và hàng hóa từ cảng Sihanoukville về đến tận biên giới Việt Nam.

Đức Phương còn chơi thân với Bộ trưởng An ninh của Chính phủ Campuchia. Có lần nhân ngày sinh nhật vị Bộ trưởng này, Đức Phương đã gửi một món quà tặng đặc biệt: một chiếc Mercedes mới. Để đáp lễ, Bộ trưởng an ninh đã tặng lại Đức Phương chiếc xe cũ mình đang đi để làm lưu niệm. Với chiếc xe này, Đức Phương và các cán bộ của Hắc Lý đi đến đâu cảnh sát cũng không đụng tới, chỉ nhìn thấy chiếc xe và số hiệu là đã giơ tay cúi chào. Chính Đức Phương đã tổ chức những chuyến xe đặc biệt chở hàng Z, tức tiền Sài Gòn, vào cho Trung ương Cục."
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Nối các đường dây vào Việt Nam

Tất cả những công việc kể trên mới chỉ là phần việc trên đất Campuchia, mà biện pháp chủ yếu là biện pháp ngoại giao và kinh tế. Phần việc không kém phần khó khăn và phức tạp là đưa số hàng tại các kho ở biên giới kể trên vào chiến trường miền Nam. Trong loại công việc này thì không thể dùng đến những biện pháp ngoại giao, và chỉ trong một chừng mực hạn chế có thể dùng những biện pháp kinh tế để mua chuộc binh lính và sĩ quan quân đội Sài Gòn. Ở phần việc này thì công việc chủ yếu là tổ chức hoạt động bí mật, bất ngờ, trong rất nhiều trường hợp đã phải dùng đến cả biện pháp trực tiếp chiến đấu bảo vệ hàng hóa.

Như trên đã nói, khâu tiếp nhận và vận chuyển vũ khí về các kho ở biên giới là do Đoàn 17 phụ trách. Từ các kho biên giới, Đoàn 17 phân bổ hàng hóa theo nhiều ngả khác nhau về miền Nam:

Tuyến vận chuyển về Tây Ninh do đoàn 18A phụ trách.

Tuyến vận chuyển về Khu VIII (Long An, Đồng Tháp) do đoàn P100 của Quân khu VIII phụ trách.

Tuyến vận chuyển về Quân khu IX tức miền Tây Nam Bộ do Đoàn 195 phụ trách.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Để hình dung được một cách cụ thể về quy mô, hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của các tuyến vận chuyển từ biên giới vào nội địa, ta có thể xem một tuyến cụ thể: Đoàn 195.

Đoàn 195 do Quân khu IX thuộc miền Tây Nam Bộ tổ chức từ năm 1966, sau khi tuyến vận tải của Đoàn 125 trên biển gặp khó khăn do sự kiện Vũng Rô. Nhiệm vụ của Đoàn 195 là tiếp nhận vũ khí từ biên giới Campuchia đưa về miền Tây. Trưởng đoàn không phải ai khác mà là một trong những cán bộ rất thông thạo công việc này, đó là ông Phan Văn Nhờ tức Tư Mau. Chính ủy của đoàn là ông Trương Tấn Lộc, tức Bảy Lúa. Trụ sở của đoàn đóng tại huyện lị huyện Túc Mía, thuộc tỉnh Cam Pốt, Campuchia. Địa điểm này cách biên giới Việt Nam khoảng 30 km.

Tại huyện lị Túc Mía có con sông Túc Mía chảy qua và xuôi dòng xuyên biên giới chảy vào kênh Vĩnh Tế ở sát biên giới Việt - Miên. Đó là một thuận lợi rất lớn. Hàng do Đoàn 17 chuyển giao được đưa về bến Lò Vôi ngay tại đoạn sông Tắc Mít tại Túc Mía, sau đó được chở bằng thuyền của tổ chức Việt kiều do ông Tư Chức đứng đầu.

Các tàu này chở hàng xuôi con sông Túc Mía xuống một địa điểm sát biên giới là Sóc Chuốc. Tại đó có đặt một kho hàng hóa để chuẩn bị đưa vào nội địa. Kho này có sức chứa khoảng 300 tấn, mật danh là trạm 95, tức tổng trạm của Đoàn 195.

Từ trạm 95 về tới địa điểm cuối cùng thuộc căn cứ hậu cần Quân khu IX có tất cả 6 trạm: từ trạm 95 qua kênh Vĩnh Tế có trạm 90. Vượt qua con kênh 8.000 có trạm 85. Về tới huyện Hòn Đất thuộc tỉnh Kiên Giang có trạm 80. Đi tiếp đến rừng Tràm Dưỡng là trạm 70. Qua lộ Cái Sắn đến rừng tràm Thanh Bình là trạm 60. Qua Tân Hiệp đến Ba Đình là tổng trạm 50, tức căn cứ của hậu cần Khu IX.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Phương thức vận chuyển chủ yếu là thuyền nhỏ bằng gỗ. Chính ông Tư Chức, Việt kiều ở Campuchia đã giúp Đoàn 195 mua gỗ từ Phnom Penh chuyển về Sóc Chuốc và lập tại đây một xưởng đóng xuồng gỗ, Buổi đầu từ tháng 08/1967, bộ phận vận chuyển mới đóng được 60 chiếc. Nhưng đến đầu năm 1968 số lượng thuyền đã lên tới gần 1.000 chiếc, mỗi chiếc chở được từ 200-300 kg. Kích cỡ đó là thích hợp để đưa hàng từ kho Sóc Chuốc (trạm 95) vượt qua biên giới về kênh Vĩnh Tế và đi tiếp vào các kênh rạch miền Tây. Về quân số, năm 1967 đoàn 195 mới có hơn 200 chiến sĩ. Đến 1969 đã lên tới gần 1.000 chiến sĩ, tương đương hai trung đoàn. (Trương Tấn Lập, nguyên Chính uỷ Đoàn 195. Đoàn 195 với công tác bảo đảm giao thông vạn tải từ Campuchia về chiến trường quân khu IX. Tham luận trong hội thảo)

Quân số gần 1.000 chiến sĩ hoàn toàn không đủ cho việc vận chuyển vũ khí dưới hình thức những chiếc thuyền nhỏ, đi những chặng đường rất xa và phức tạp. Tháng 09/1966, Khu ủy miền Tây ra Nghị quyết số 53/66 TPVA về việc thành lập Đoàn Thanh niên xung phong, phục vụ trên tuyến vận tải 1-C. Đoàn thanh niên xung phong này gồm khoảng 800 chiến sĩ, 2/3 là nữ, tuổi từ 17-18. Thanh niên xung phong dược tổ chức thành những đại đội, mang tên Đại đội Nguyễn Việt Thái 1, 2, 3..
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Phương thức vận chuyển qua nhiều công đoạn khác nhau.

Trước hết là xe của Đoàn 17 chở hàng hóa tới bến Lò Vôi thuộc thị trấn Túc Mía. Mỗi xe có trọng tải 10 tấn, khoảng 2-3 ngày thì có 2-3 xe đưa hàng tới bến Lò Vôi. Đoàn 195 dùng tàu của Việt kiều chở xuôi sông về bến Sóc Chuốc, tức trạm 95. Việc bốc dỡ hàng từ xe xuống bến cũng là một vấn đề.

Theo thỏa thuận với phía chính quyền Campuchia, phía Việt Nam chỉ được đưa sang 20 người mỗi đợt và chỉ được phép ở lại sau 3 ngày để tiếp nhận vũ khí. Nhưng trong thực tế nhờ có lực lượng Việt kiều do ông Tư Chức huy động nên số người tham gia bốc dỡ hàng từ xe xuống tàu thường xuyên có tới 50-70 người, bốc xếp trong vòng 2-3 giờ là xong một chuyến tàu.

Từ trạm Sóc Chuốc, kho 95 phân phối hàng cho những chiếc thuyền nhỏ của thanh niên xung phong thuộc tuyến đường 1-C, như đã nói ở mục trên (vậy tuyến đường 1-C là tuyến đường hai chiều từ biển Đông lên và từ biên giới xuống). Mỗi đợt lấy hàng ở kho trạm 95 có tới 30-40 thuyền, mỗi thuyền chở 200-300 kg đi qua biên giới về kênh Vĩnh Tế và đi tiếp vào các trạm tiếp theo.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Đây chính là chặng đường gian nan vất vả nhất. Nhiều đoạn không có kênh rạch, có những đoạn có kênh rạch nhưng lại bị đồn bốt và tàu thuyền của đối phương kiểm soát nghiêm ngặt nên chỉ có cách vượt qua kênh rạch trong chớp nhoáng rồi lẩn vào các đám sình lầy. Có nhiều đoạn, đội thanh niên xung phong phải ngâm mình dưới nước, phủ cỏ và bèo cả người lẫn xuồng và đẩy đi trên những đoạn dài 20-30 km.

Có những đợt vận chuyển phải đi liên tục 28-29 ngày trong một tháng. Những đợt vận chuyển đó hầu hết thanh niên xung phong đều bị ghẻ lở, hắc lào, đặc biệt là bệnh thối móng chân do ngâm bùn quá lâu. Lại cũng do phải ngâm người trong nước, không được tắm rửa, không được thấy ánh nắng mặt trời nên hầu hết phụ nữ đều bị rụng tóc. Đoàn phải tự tổ chức những lớp đào tạo y tá để chăm sóc những chiến sĩ ốm đau, bị thương ...

Từ đầu năm 1959, đối phương đã phát hiện con đường này nên tổ chức ngăn chặn bằng mọi giá: Trên không, máy bay B.52 thường xuyên giội bom những khu rừng bị nghi là có các đoàn vận chuyển vũ khí. Một số không ít chiến sĩ đã hy sinh trong các trận oanh tạc này. Trên các kênh rạch, đặc biệt là kênh Vĩnh Tế, các đoàn tàu tuần tiễu đi lùng sục suốt 24/24 giờ. Máy bay Mỹ còn rải những "cây nhiệt đới" (đã nói ở chương 2) để thu tiếng động của các đoàn vận tải.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Đến cuối năm 1969, kênh Vĩnh Tế bị phong tỏa chặt chẽ tới mức không thể nào vượt qua được. Anh em đặt tên kênh này là kênh Vĩnh Biệt. Cùng với việc tuần tiễu, đối phương đã tổ chức những trận càn quét bằng xe lội nước, bắn pháo vào những khu rừng bị nghi là có kho tàng.

Những chiến dịch Phượng hoàng, Nhổ cỏ U Minh... đã gây rất nhiều khó khăn cho việc vận chuyển. Có những đợt đối phương đã dùng tới ba sư đoàn gồm Sư đoàn 21 , Sư đoàn 9 và Sư đoàn 7 để bủa vây và ngăn chặn những đoàn vận chuyển từ biên giới về miền Tây. Đó là cuộc hành quân Cửu Long ngày 09/09/1969, chà xát các vùng Tri Tôn, Tịnh Biên, Hà Tiên, Châu Đốc, Bảy Núi, Vĩnh Tế, Vĩnh Tường... Trong rất nhiều trường hợp, đoàn thanh niên xung phong và các chiến sĩ của Đoàn 195 đã buộc phải nổ súng chống trả những cuộc càn quét đó

Tổng kết lại, trên tuyến đường này từ năm 1967 cho tới năm 1974 đã vận chuyển được 13.650 tấn vũ khí cho miền Tây, đưa đón hơn 30.000 lượt người gồm bộ đội, cán bộ ngược xuôi từ Trung ương Cục về miền Tây; đã chiến đấu hơn 200 trận lớn nhỏ chống càn, chống tập kích, chống oanh tạc; đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.143 lính đối phương, đã bắn rơi 5 máy bay các loai, bắn hỏng 22 xe bọc thép, bắn cháy và chìm 12 tàu chiến. Tuy nhiên, để đạt được những thành tích đó, đã có 399 thanh niên xung phong hy sinh, 271 bị thương.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Để đảm bảo bí mật về các loại hàng vận chuyển trước mắt quân đội hoàng gia Campuchia, đoàn 195 đặt những mật danh cho các loại hàng:

X: Súng đạn

C: Máy móc thông tin

CD: Dụng cụ y tế.

BVK: Tiền và vàng.

Về tuyến đường vận chuyển quá cảnh qua cảng Sihanoukville, nếu căn cứ vào những bản đồ của cơ quan tình báo quân sự Mỹ, thì rõ ràng thấy tình báo Mỹ nắm khá chính xác.

Tác giả cũng có thư tham khảo ý kiến ông Nguyễn Kỳ Phong ở Washington về những tài liệu đã giải mật của Mỹ liên quan đến con đường này, ông Nguyễn Kỳ Phong trả lời như sau:

"Người Mỹ chú ý nhiều đến hải cảng Sihanoukville. Họ biết rõ đến độ mỗi chuyến hàng cần bao nhiêu xe để chuyên chở và tên người sĩ quan Cam Bốt (Campuchia) phụ trách việc chuyên chở những lô hàng này về một khu của Trung ương Cục. Hình như tình báo Mỹ có người làm việc ở đó và báo cáo lại.

Thí dụ Trong hồ sơ Abrams Tapes, trang 94, có nói về cơ cấu, nhân sự của đường vận chuyển bên Cam Bốt. Tình báo Mỹ còn nói rõ tên Công ty Hắc Lý và tên người sĩ quan Cam Bốt liên hệ đến những vụ chuyên chở hàng ra đường C-4 (Abrams Tapes, trang 95)."

Con đường vận chuyển từ cảng Komponsom chỉ tồn tại đến khoảng năm 1970. Sau đó, ngày 18/03/1970, Mỹ đã giúp nhóm Lonnol và Sirik Matak tiến hành đảo chính lật đổ chế độ Sihanouk, nhằm xóa bỏ nền trung lập của Campuchia. Từ đó, nguồn tiếp tế quan trọng này bị cắt đứt.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Cuộc chuyển tiền ngược chiều thần kỳ

Trước khi chấm dứt tuyến đường này, Ban Cán sự K đã phải giải quyết một việc vô cùng hệ trọng, mà có thể coi đó là một kỳ công đáng ghi vào lịch sử. Đó là việc cứu được một số rất lớn tiền riel trước khi diễn ra cuộc đảo chính của Lonnol.

Chiến công lớn này lẽ ra đã chìm vào lãng quên cùng với vô vàn những điều bí mật khác của lịch sử. Nhưng nhờ một nhân chứng lịch sử quan trọng, đó chính là ông Mười Phi, Trưởng ban Tài chính đặc biệt của Trung ương Cục, bí danh là N.2683 (sẽ nói kỹ trong chương sau), mà sự kiện này được lưu lại. Trước khi hấp hối, ông Mười Phi đã nói cho tác giả cuốn sách này biết toàn bộ vụ việc và trao lại cho tác giả tất cả những tư liệu liên quan. Ông cũng gửi gắm nơi tác giả yêu cầu công bố những tư liệu này để ghi nhận chiến công của một liệt sĩ đã thầm lặng góp phần làm nên chiến thắng.

Đầu đuôi câu chuyện như sau:

Trong suốt thời kỳ chiến tranh, miền Bắc chi viện cho miền Nam không chỉ có vũ khí mà còn cả một khối lượng rất lớn tiền để chi tiêu cho sự nghiệp kháng chiến (như sẽ nói kỹ trong phần sau về binh chủng tiền). Số tiền đó gồm nhiều loại: đô la, tiền Sài Gòn, tiền bath và đặc biệt là tiền riel của Campuchia, mang bí danh là tiền R.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Tiền R có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của tất cả các bộ phận kháng chiến của miền Nam. Lúc đó tiền R được dùng để mua sắm tất cả những nhu yếu phẩm như gạo, thực phẩm, quần áo, thuốc men, hóa chất... từ đất Campuchia tiếp tế cho Trung ương Cục miền Nam và từ đó cung cấp cho các Khu. Vì thế tại kho tiền trong căn cứ nội địa của Trung ương Cục luôn luôn có một khối lượng tiền R rất lớn, đảm bảo thường xuyên cung ứng cho các đơn vị kinh doanh trong việc mua sắm trên đất Campuchia.

Trước khi Lonnol tiến hành đảo chính, ông ta đã tính tới việc đổi tiền để vô hiệu hóa số tiền riel được lưu giữ trên đất Việt Nam. Chắc chắn Lonnol không biết cụ thể số tiền đó là bao nhiêu, nguồn gốc từ đâu đến, nhưng ông ta có đủ những thông tin để biết rằng phía Việt Nam dùng rất nhiều tiền riel để giải quyết những nhu cầu trên đất Campuchia, trong đó có việc mua chuộc binh lính, sĩ quan, mua sắm hàng hóa (theo một tài liệu mới công bố gần đây của Mỹ thì tình báo Mỹ lại hiểu sai rằng Liên Xô cung cấp vàng cho Việt Nam để bán trên đất Campuchia lấy tiền riel.).

Chủ trương đổi tiền được giữ bí mật và chỉ công bố vào ngày bắt đầu đổi tiền là ngày 24/02 và kết thúc vào 10/03/1970 (trước khi đảo chính một tuần). Cùng với lệnh đổi tiền là lệnh phong tỏa toàn tuyến biên giới Việt - Miên để "bóp chết" toàn bộ số tiền R trên đất Việt Nam.

Để tiến hành đổi tiền, Lonnol phải in những giấy tờ liên quan đến đổi tiền như các bảng thông báo, các bản quy định, tờ khai ... Nhân viên của Lonnol đến một cơ sở in hiện đại mà họ tin tưởng nhất, đó là xưởng in Wath Phnom để in những giấy tờ này.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Thật may mắn là Nhà in Wath Phnom lại là một cơ sở của Ban Cán sự K. Người quản lý nó là một thanh niên Việt kiều tên là Trần Chí Năng. Cha của Trần Chí Năng là ông Trần Quang Mẫn, quê tại huyện Tân Châu, tỉnh An Giang. Ông đã sống lâu năm trên đất Campuchia rồi trở thành một viên chức cao cấp trong Kho bạc Quốc gia của Vương quốc Campuchia, nên rất được chính quyền sở tại tin cẩn. Cả ông Mẫn và con trai ông đều là cơ sở của Ban Cán sự K, và đều là đảng viên. Chí Năng sinh năm 1948, tức là năm 1970 mới 22 tuổi.

Trước đó Ban Cán sự K đã tính đến chuyện đưa Chí Năng vào vị trí trọng yếu trong nhà in Wath Phnom để vừa kinh doanh, vừa in ấn những tài liệu bí mật của Ban. Vì thế Ban đã gửi Năng đi học ba năm tại Hong Kong về kỹ thuật in, đặc biệt là kỹ thuật in Offset để làm bản kẽm (Cliché). Khi trở về Năng đã có vị trí như một chuyên gia hàng đầu của nhà in này.

Năng có một người bạn gái người Campuchia, tên là Peou Lun cùng học trường trung học Sisowath ở Phnom Penh và sau đó trở thành vợ chồng. Nhờ đó phía chính quyền Campuchia coi anh như đã "đồng hóa" rồi. Khi nhân viên của Lonnol đến đặt in bí mật những tờ thông báo đổi tiền, cũng theo thông quán chung là đòi một món tiền hoa hồng hậu hĩnh. Năng thực hiện đúng thủ tục đó, và nhận lời cho in gấp. Ngay lúc đó quân lính Lonnol đã vây chung quanh nhà in để đảm bảo bí mật của kế hoạch này.

Đương nhiên riêng vợ Năng là người Campuchia thì có thể ra vào bình thường. Năng trao cho vợ tin mật để báo ngay về Ban Cán sự K. Peou Lun lẳng lặng ra đi tay không và đến ban K để báo gấp tin dữ. Ngay lập tức tin này được báo về Trung ương Cục và toàn bộ số tiền R ở căn cứ Trung ương Cục đã được đưa gấp trở lại đất Campuchia trước khi Lonnol phong tỏa biên giới và trước khi lệnh đổi tiền được ban hành.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Khi lệnh đổi tiền được công bố ngày 24/02/1970, thì toàn bộ số tiền của Trung ương Cục đã được phân phối cho các cơ sở trên toàn đất Campuchia để đổi một cách bình thường sang tiền R mới.

Sau khi đổi xong, số tiền mới đã được các ông Mười Phi và Lữ Minh Châu là Trưởng và Phó ban N.2683 đang có mặt trên đất Campuchia cùng với ông Tư Cam tổ chức chôn giấu tại một kho hàng của Công ty Hắc Lý. Mọi việc xong xuôi thì mới nổ ra cuộc đảo chính của tướng Lonnol và biên giới bị phong tỏa.

Đến lúc đó thì lại nảy ra vấn để nan giải: Làm sao chuyển được tiền về? Số tiền đã đổi bị chôn chân trên đất Campuchia luôn bị đe dọa bởi sự kiểm soát của Chính phủ Lonnol. Hơn thế nữa, "nền tài chính" của toàn bộ Trung ương Cục lâm vào khủng hoảng, vì phần lớn nhu cầu về "cơm áo gạo tiền" vốn trông cậy vào khoản này bị "đóng băng".

Chỉ sau đó một tháng, suất ăn của cán bộ và bộ đội chỉ còn một nửa. Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng chỉ thị cho N.2683 phải bằng mọi giá đưa được tiền về. Chấp hành chỉ thị này lại là một kỳ công nữa: Chính các ông Mười Phi, Lữ Minh Châu, Tư Cam đã nảy ra sáng kiến đóng tiền vào những bao nylon lớn, lồng một bao khác bên ngoài và đổ đầy mắm “bù hóc" lên trên.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Hai xe tải lớn của hãng buôn Hắc Lý vẫn thường chở loại mắm này sang bán ở đồng bằng Nam Bộ lại đi một chuyến mắm nữa như thường lệ, nhưng cố tình chọc thủng nhiều lỗ trên miệng túi để xe chạy xóc thì mắm trào ra xe bốc mùi sặc sụa.

Theo trinh sát cho biết thì con đường sang Tây Ninh dẫn tới Trung ương Cục đã bị khóa chặt. Chính ông Mười Phi là người bố trí đường dây an toàn đi theo hướng qua Túc Mía để xuống Tây Nam Bộ. 140 chiến sĩ đã được huy động để bảo vệ hai xe "bù hóc" này bằng cách phục kích bí mật ở những nơi có trạm gác. Nếu gặp rắc rối không cho qua thì chiến đấu, nếu cần thì phải trả bằng máu, quyết không để mất món "mắm" có ý nghiã sống còn đó.

Mắm "bù hóc" vốn rất nặng mùi, không quen thì từ xa đã không chịu nổi. Khối lượng hai xe tải lớn, lại bị "rò rỉ" nhiều nên bốc mùi nồng nặc, làm cho ngay cả lính Lonnol cũng phải lảng tránh. Vả lại mắm thì có gì mà phải khám xét? Còn nếu không may bị khám xét thì có phục binh sẵn sàng nổ súng để giải vây.

Cuối cùng, đến ngày 10/04, tức 20 ngày sau đảo chính toàn bộ số tiền đó đã được chuyển qua Túc Mía rồi vượt biên giới an toàn về ngả An Giang, tập kết trở lại ở kho tiền của Trung ương Cục tại Tân Biên, miền Tây Bắc Tây Ninh, không mất một đồng nào. Rất may là mấy hôm sau khi tiền đã được chở về, quân đội Sài Gòn phối hợp với Chính phủ Lonnol tổ chức một chiến dịch càn quét lớn suốt từ An Giang vượt qua biên giới. Địa điểm yết hầu Túc Mía đã bị đốt phá tan tành...
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Sau đó, trong một bức thứ ngắn gọn gửi cho Mười Phi, Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng đã đánh giá công việc của N.2683 như sau:

"Ngày 07/05/1970

Thân gửi anh Mười Phi,

Cái điện anh gửi về anh Hai Già và anh Ba Thái tôi có xem. Những ý kiến anh tốt. Vừa rồi anh em lại đem hết tiền ra. Tôi rất hoan nghênh anh và anh em.

Bữa nay gặp anh Tư Cam và làm việc, viết thư này thăm anh và anh em. Hoan nghênh công tác anh em có kết quả tốt.
Chúc anh và anh em khẻe mạnh, tiến bộ.”

Sau đó hai vợ chồng Trần Chí Năng cũng bí mật rút về căn cứ của Trung ương Cục. Nhưng rất không may, trong một chuyến đi công tác, Trần Chí Năng đã hy sinh. Vợ của Trần Chí Năng từ đó mang tên chồng. Sau ngày giải phóng, chị cùng hai con gái sống hẳn ở miền Nam, như những công dân bình thường. Gia đình có bằng Tổ quốc ghi công và bằng chứng nhận liệt sĩ của Trần Chí Năng...
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
2. Quá cảnh không qua cảng Sihanoukville

Nói nguồn hàng này bị cắt đứt không có nghĩa là tuyến đường vận tải tối quan trọng này đã ngừng lại. Điều khác trước chỉ là thay đổi nguồn hàng: Thay vì vận chuyển vũ khí bằng đường biển tới cảng Sihanoukville rồi chuyển về biên giới, thì từ nay phải lấy nguồn hàng trên tuyến đường Trường Sơn của Đoàn 559.

Như trên đã nói, đây là tuyến vận tải quan trọng nhất và có ý nghĩa chiến lược quyết định. Từ những năm trước, tuyến này đã mở rộng sang phía Trung và Nam Lào rồi từ đó đưa hàng vào Tây Nguyên. Còn Nam Bộ thì dựa vào tuyến đường vận tải quá cảnh từ cảng Sihanoukville, bây giờ cảng Sihanoukville bị khóa chặt, nguồn hàng được nối với Nam Lào, xuyên qua vùng Đông Bắc Campuchia để vào các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ.

Để mở được tuyến đường này, vấn đề là phải tạo ra một vùng đất ngoài vòng kiểm soát của chính quyền Lonnol. Quân đội Giải phóng đã khéo léo liên minh và phối hợp với những lực lượng chống đối chính quyền Lonnol ở Campuchia, tiến hành những chiến dịch để giải phóng các tỉnh ở miền Đông sông Mê Kông trên đất Campuchia, chủ yếu gồm các tỉnh Stung-treng và Xiêm Riệt. Đó là các tỉnh tiếp giáp với Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp phía Việt Nam. Sau khi giải phóng tuyến đường này, thì con đường vận tải của Đoàn 559 từ Nam Lào bắt đầu đưa vũ khí vào đất Campuchia và về biên giới.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Để mở con đường này, tháng 07/1970, tức là chỉ bốn tháng sau cuộc đảo chính của Lonnol, Bộ chỉ huy miền đã quyết định thành lập Đoàn 770 chuyên trách việc tiếp nhận và vận chuyển hàng từ Đông Bắc Campuchia về Nam Bộ. Vì đây là nguồn hàng rất lớn, nên Đoàn 770 đã có quân số tới 3.377 người, chia thành 5 cánh, sử dụng phương tiện cơ giới vận tải khối lượng lớn.

Sang năm 1971, cầu tiếp nhận này đã kéo dài tới bờ sông Mê Kông trên đất Campuchia, đoàn này do Đoàn 340 phụ trách.

Đoàn 340 là đoàn hậu cần lớn nhất trong các đoàn hậu cần của Trung ương Cục, quân số vào thời điểm cao nhất lên tới 4.189 người, gồm 4 cánh quân nhu, 3 tiểu đoàn vận tải, 5 liên trạm đường dây nối liền từ Stung-treng xuống tới Bắc Kratie. Để phục vụ cho số quân rất lớn kể trên, ngoài lực lượng vận tải, đoàn 340 còn có 4 bệnh viện lớn, một tiểu đoàn công binh để làm đường, bắc cầu...

Riêng trong các năm từ 1970-1972, trên tuyến đường này, 26.147 tấn vũ khí các loại đã được vận chuyển. Cùng với vũ khí, tuyến đường này đã đưa hàng nghìn cán bộ và chiến sĩ từ miền Bắc vào tăng cường cho chiến trường Nam Bộ.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Em tiếp ạ

Thông tin về đường Trường Sơn chắc hẳn các cụ đã có nhiều, em và lão 3C xin cung cấp thêm những số liệu từ phía Mỹ, để cả nhà có cái nhìn tổng thể rằng người Mỹ đã quyết tâm ngăn chặn hoạt động vận chuyển trên tuyến đường này ra sao và Bắc Việt đã có kế sách gì để khắc chế vũ khí và công nghệ hiện đại của đối phương





 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Sức mạnh, quyết tâm và sự đánh phá của Mỹ


Nếu chỉ nói đến số tấn đã vận chuyển và số kilomet chiều dài của những tuyến đường thì có lẽ chưa thấy hết được sự cam go của sự nghiệp lớn lao này, do đó cũng chưa nói lên hết được tầm cao của cuộc đấu trí có tính chất thời đại đó. Phải nói rằng đây là sự thách đố với một đỉnh cao của kỹ thuật Mỹ và được chi trả bằng những núi của cải của một nước giàu nhất thế giới, mà theo cách nghĩ thông thường của thế giới lúc đó thì khó có đối phương nào chịu đựng nổi.

Từ khi Mỹ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam thì việc đánh phá ngăn chặn con đường Trường Sơn được thực hiện bằng những phương pháp hoàn toàn mới, với những vũ khí và phương tiện mà trên thế giới chưa từng biết tới. Từ thực tiễn của con đường này, khoa học chiến tranh Mỹ còn nghĩ ra những biện pháp mà tưởng như không ai chống đỡ được. Hầu như tất cả nền khoa học quân sự của Mỹ đã tập trung nghiên cứu để quyết thắng trong cuộc đọ sức này.

Có thể kể đến một số phương tiện và biện pháp chủ yếu mà Mỹ đã dùng đến ở đây:

4. 1. Không quân

(Khi tìm hiệu và khai thác các tư liệu Mỹ về khía cạnh này, tác giả đã được sự giúp đỡ chân tình về tư liệu của ông Nguyễn Kỳ Phong, tác giả cuốn sách nối tiếng Vũng lầy toà Bạch ốc. Người Mỹ và chiến tranh Viet Nam 1945-1975, xuất bản tại Virginia năm 2006. Nhân đây xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới ông Nguyễn Kỳ Phong)

 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Không lực Mỹ trong chiến tranh Việt Nam thuộc hai binh chủng khác nhau:

Không quân thuộc Bộ Tư lệnh Không quân chiến lược (Strategic Air Command): Trực thuộc Bộ Tư lệnh này có nhiều đơn vị. Tham gia trực tiếp tại chiến trường Việt Nam là Đơn vị Không lực số 7 (The Seventh Air Force). Đây là đơn vị lớn nhất của Không lực Mỹ, nó gồm 7 Không đoàn tác chiến và 1 sư đoàn vận tải, với tổng số hơn 1.000 máy bay các loại. Không lực số 7 là đơn vị chủ chốt trong việc oanh tạc miền Bắc Việt Nam và các vùng có chiến sự ở miền Nam.







Không quân của Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương (The Seventh Fleet): với 19 Hàng không mẫu hạm lần lượt tham chiến ở Việt Nam, mỗi hàng không mẫu hạm đó có từ 70 đến 90 máy bay chiến đấu. Lực lương không quân trên các hàng không mẫu hạm chịu sự điều khiển của Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ tại Việt Nam (Military Assistance Command, Vietnam, viết tắt là MACV), mà thuộc về quyền của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương, có trách nhiệm tham gia các kế hoạch đánh phá miền Bắc, giội bom các tuyến đường thủy và bộ Bắc - Nam...





Không lực 7-13 (The Seventh - Thirtenth Air Force): là một đơn vị đặc nhiệm trực tiếp "phụ trách" các tuyến đường Trường Sơn. có bản doanh ở Udon, Thái Lan. Về nguyên tắc nó nằm dưới quyền điều khiển của The Seventh Air Force, nhưng về danh nghĩa nó là một đơn vị riêng, vì nó có trách nhiệm đánh phá cả những vùng ngoài lãnh thổ Việt Nam như Lào và Campuchia (vì theo quy định của luật pháp Mỹ thì khi chưa được Quốc hội Mỹ chuẩn y thì Seventh Air Force không được làm việc đó).



Không lực 8: Bộ Tư lệnh của không lực nằm ở căn cứ không quân Andersen, đảo Guam, phụ trách các phi vụ pháo đài bay B.52, dưới quyền điều khiển trực tiếp của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược. Không lực 8 có 8 không đoàn B.52 và 4 phi đoàn KC.135 dùng để tiếp nhiên liệu trên không cho các phi cơ bay đường xa. Không lực 8, trong cao điểm của cuộc chiến - trận bom Linebacker I và II vào năm 1972 - có đến 200 pháo đài B.52 và 6 phi đoàn hỗ trợ phụ thuộc.

 
Thông tin thớt
Đang tải
Top