[Funland] Người đàn ông nguy hiểm nhất nước Mỹ

Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Chuyến đi cuối cùng của tàu 69

Tàu số 69 là tàu sắt có trọng tải 100 tấn, do thuyền trưởng Nguyễn Vũ Phúc chỉ huy. Tàu này đã đi được bảy chuyến vận tải vũ khí vào Nam trót lọt. Chuyến thứ tám khởi hành vào ngày 21/04/1966 tại Đồ Sơn, chở 61 tấn hàng. Chuyến đi thứ tám này đến đêm 28/04, tức sau 7 ngày tàu đã cập bến Vàm Lũng và giao hàng xong.

Trước khi tàu trở lại miền Bắc để đi chuyến thứ chín, phải kiểm tra kỹ về mọi yếu tố kỹ thuật, thì chân vịt của tàu bị hỏng nặng, không thể đi xa được. Không có chân vịt để thay. Không có xưởng đóng tàu ở đây để sửa chữa. Muốn hàn lại chân vịt thì phải kích tàu lên cạn. Giữa rừng đước ở Cà Mau, theo tính toán thông thường của kỹ thuật thì đành bó tay, vô kế khả thi.

Nhưng Tư Mau, bến phó của tàu cũng là một thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm, ông đưa ra một quyết định bất hủ: Có thể kích tàu bằng cây đước. Cụ thể là khi đợi nước lên huy động mọi lực lượng chèn những thân cây đước dưới đáy tàu và chằng buộc thành tàu cho vững vàng. Khi nước rút tàu không hạ theo mực nước, mà nổi trên một giàn những cây đước. Chân vịt lộ ra khỏi mặt nước để có thể sửa chữa.

Nhưng điện không có. Gió đá (ACTILEN) không có. Các chiến sĩ đã dùng một lúc bốn cây đèn khò hàn chân vịt, suốt trong một tuần lễ đã làm xong, tàu lại được "hạ thủy" bằng cách rút hết những cây đước dưới đáy tàu, chuẩn bị ra Bắc.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Nhưng lúc đó lại xảy ra một vụ việc: Tàu số 100 chuẩn bị vào bến thì bị lộ, đối phương phong tỏa. Tàu buộc phải cho nổ để phi tang. Vụ đó làm cho tàu đối phương tập trung quanh bến để theo dõi. Tàu 69 phải nằm suốt sáu tháng trời trong rừng đước, mãi đến ngày 30/12/1966 mới có thể rời bến.

Nhưng mới đi được 1 km lại xuất hiện tàu địch. May mà tàu chưa ra xa nên kịp quay vào mà tàu đối phương không hay biết. Đợi một ngày, 9 giờ tối ngày 31/12, tàu 69 hy vọng là đêm giao thừa đối phương lơ là việc tuần tra, nhưng không may, vẫn bị một tàu đối phương phát hiện. Tàu đó tiến thẳng về tàu 69.

Đến 9 giờ 30 phút tối, thấy không thể lẩn trốn được vì còn cách bờ 50 cây số, Thuyền trưởng Nguyễn Hữu Phước quyết định chiến đấu. Lúc này hai bên chỉ còn cách nhau 50 m. Tàu 69 quay ngoắt 90 độ để vuông góc với mũi tàu đối phương và từ mạn tàu tất cả nổ súng. Lúc này, toàn bộ số vũ khí trang bị để tự vệ là 1 DKZ 75 mm với 20 quả đạn: 2 khẩu đại liên 12 ly 7; 3 khẩu B41 với 60 quả đạn; 5 khẩu AK với 500 viên đạn; 20 quả pháo chống tăng. Ngoài ra, có một lượng thuốc nổ 1000 kilogram đủ để phá tan tàu khi không còn giải pháp nào khác. Với số lượng vũ khí kể trên, tàu của đối phương bị tiêu diệt tức khắc.

Phía tàu 69, một chiến sĩ tử thương, nhiều người bị thương. Chỉ huy tàu quyết định không đi tiếp vì đã bị lộ, quay vào bến để tránh tàu địch. Tàu bắn hai pháo hiệu đề báo cho trong bến biết rằng tàu sẽ phải trở lại. Trong bến đã biết tình hình nên chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.

Đến lúc này, phía đối phương đã huy động tới năm tàu PCF cao tốc, vây quanh tàu 69. Các chiến sĩ tiếp tục chiến đấu. Một chiến sĩ là Phan Hải Hồ, đã bị thương nặng, gần đứt một bàn chân, đề nghị y tá chặt đứt luôn để thuận tiện cho chiến đấu sống mái với đối phương. Ngay lúc đó, Bí thư Chi bộ đã tuyên bố chính thức kết nạp Phan Hải Hồ vào ****.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Hai bên bắn nhau dữ dội. Lực lượng trong bờ cũng nổ súng thẳng vào tàu đối phương. Thấy hỏa lực quá mạnh, đối phương không dám tiếp cận, phải điều thêm hai máy bay tới. Máy bay tới cũng bị hai khẩu đại liên của tàu 69 bắn xối xả, không dám xuống gần, chỉ bắn pháo sáng để nhìn rõ mục tiêu. Pháo sáng giúp cho tàu 69 nhìn rất rõ cửa Vàm Lũng. Cả lực lượng trên tàu và cả lực lượng trên bờ tiếp tục bắn xối xả vào năm tàu địch.

Đến 0 giờ 20 phút ngày 01/01, khi tàu vào cửa Vàm Lũng thì bỗng nhiên năm chiếc tàu tuần tiễu cao cấp của đối phương đã chạy mất hút. Sau đó, tàu vào bến an toàn, mang theo 121 lỗ thủng trên thành tàu. 6 giờ sáng ngày 1 tháng Giêng, đài phát thanh Sài Gòn báo tin lúc 23 giờ hôm trước đã bắn chìm một tàu chở vũ khí của Bắc Việt.

Suốt ngày đó và trong những ngày sau, tình hình hoàn toàn yên tĩnh. Tại sao có sự yên tĩnh đó? Tại sao đối phương không tiếp tục lùng sục để tìm con tàu? Sau khi tìm hiểu tình hình, thuyền trưởng Nguyễn Hữu Phước được biết các tàu đối phương bịa tin đã bắn chìm tàu 69 vì sợ chết, không dám tiếp tục chiến đấu, đành báo cáo là tàu đã chìm để khỏi phải tiếp tục truy tìm. Giữa rừng sâu nguy hiểm, hỏa lực rất mạnh, nếu tàu 69 chưa chìm thì quân của đối phương còn phải lùng sục, còn phải trả giá bằng bao nhiêu xác chết. Kể từ đó, tàu 69 được yên ổn nhưng cũng nằm luôn ở cánh rừng đước Cà Mau. Cho đến sau ngày Giải phóng thì tàu 69 được lưu giữ như một hiện vật hùng hồn của bảo tàng thời chống Mỹ.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
6 trường hợp phải phá tàu:

Trong trường hợp đấu trí không nổi, đọ sức không thắng, hết đường quay về, thì phải thắng bằng lòng can đảm và ý chí quật cường: Phá hủy tàu để xóa hết tang vật. Trong số 168 con tàu đã ra đi từ 1966 đến 1972, có 8 con tàu đã giải quyết theo phương án đó. Có nghĩa là không có một con tàu nào đầu hàng. Dưới đây là những trường hợp cụ thể:

Tàu 41: do Đặng Văn Thanh làm Chính trị viên, Hồ Đắc Thạnh làm Thuyền trưởng, xuất phát ngày 19/11/1966, chở 59 tấn vũ khí. Đêm 26 tháng 11, tàu đã vào được bến Đức Phổ, Quảng Ngãi. Nhưng Đức Phổ là bãi ngang, không có nơi ẩn nấp, phải thả hàng xuống nước rồi ra ngay trong đêm. Nhưng khi ra thì mắc cạn, lại đụng tàu đối phương nên phải quyết định phá tàu. Hai chiến sĩ hy sinh. Số còn lại trở về bằng đường bộ. Sau bốn tháng thì họ ra đến đơn vị ngoài Bắc, nhận tàu khác, cũng mang số hiệu 41 để đi tiếp.

Tàu 100: Tàu 100 với 17 thủy thủ, do Thuyền trưởng Lê Minh Sơn và Chính trị viên Nguyễn Hữu Tương chỉ huy, rời bến Bính Động đêm 24/04/1966 chở 62,605 tấn vũ khí cho Cà Mau. Sau sáu ngày đi yên ổn, ngày thứ bảy gặp một máy bay khu trục Mỹ và bị đeo bám sít sao, không sao thoát được. Sau một tuần vòng vo trên hải phận quốc tế, đêm 09/05 tàu quyết định đột phá vào bờ thì bị phát hiện.

Máy bay trinh sát Mỹ báo động. Chiếc tàu chiến USCG Point Grey ập tới áp mạn. Tàu 100 vẫn chạy thẳng, Point Grey quyết định chặn đầu. Tàu 100 vẫn phóng thẳng sẵn sàng lao vào đối phương. Point Grey vội tránh, chuyển sang bám sát mạn tàu. Đã gần bờ, có hai đống lửa ám hiệu của bến Bồ Đề, tàu 100 lao nhanh vào cửa Rạch Giá. Nhưng lúc đó nước xuống. Tàu mắc cạn, ngoài khơi có thêm ba tàu nữa của đối phương đã kịp đến. Khi còn cách 200 m, tàu đối phương đánh tín hiệu xin tiếp cận. Thuyền trưởng cho toàn đội lên bờ sau đó lệnh cho điểm hỏa phá tàu. Nhưng bộc phá không nổ.

Tàu đối phương kéo còi liên tục, không thấy tàu 100 động tĩnh gì, liền cho người nhái bơi đến. Lực lượng trong bến bắt đầu bắn ra dữ dội . Đối phương không dám đến gần tàu. Trời đã sáng. Trong bắn ra, ngoài bắn vào dữ dội. Tới trưa có thêm hai tàu đối phương nữa đến cùng nhiều trực thăng, khu trục giội bom, bắn phá khu bến. Trận đánh kéo dài đến ngày 11/05, thấy không thể cướp nổi, tàu đối phương cho máy bay giội bom thẳng vào tàu 100. Đến lúc đó khối thuốc nổ cùng với bao đạn dược trong tàu mới nổ. Tàu 100 kết thúc sự nghiệp của nó trong bến rừng Rạch Gốc.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Tàu 43: Con tàu này rất không may: một lần quay về, hai lần tan tác.

Lần thứ nhất tàu lên đường ngày 16/02/1966, nhưng vướng tàu đối phương, nhận lệnh của Sở chỉ huy phải quay về.

Lần thứ hai, tàu lên đường ngày 08/03/1967, do Thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy, gồm 18 người. Tàu nhằm bến Sa Kỳ (Quảng Ngãi). Đến ngày 13/03 tàu lại bị đối phương phát hiện và bao vây. Sau ba giờ chiến đấu kiên cường, thấy không cân sức thuyền trưởng Thắng phải hạ lệnh cho toàn bộ thủy thủ thoát lên bờ và cho nổ tàu. Sau đó toàn đoàn vượt Trường Sơn ra Bắc nhận tàu mới.

Con tàu mới cũng mang số hiệu 43, cũng do Thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy, gồm 17 người, chở 37 tấn vũ khí, ra đi lần thứ ba vào ngày 27/02/1 968, đến ngày 29/02 tàu vào Ba Làng An thuộc Quảng Ngãi, còn cách 12 hải lý thì gặp sáu tàu và nhiều máy bay của đối phương bao vây. Cả đoàn tàu đã anh dũng chiến đấu, đại liên đã bắn rơi một máy bay, bắn bị thương một chiếc khác, DKZ bắn bị thương một tàu chiến của đối phương. Nhưng tương quan lực lượng quá chênh lệch.

Thuyền trưởng Thắng quyết định cho anh em lên bờ. Thuyền trưởng và hai chiến sĩ ở lại phá tàu. Tiếng nổ của hơn 1000 kg TNT đã quăng thuyền trưởng lên bờ nhưng vẫn sống. Sau ba giờ tiếp tục chiến đấu, ba người đã hy sinh, 14 người bị thương. Sau khi tạm băng bó vết thương, anh em được các đơn vị địa phương đưa về Bệnh xá Đức Phổ. Đó cũng chính là nơi nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm đang làm việc. Chính nữ bác sĩ Trâm đã chăm sóc các chiến sĩ. Đến ngày 1 0 tháng 4 năm đó, khi đã bình phục, các anh tiếp tục hành quân theo đường bộ ra Bắc.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Hôm đó bác sĩ Trâm ghi trong Nhật ký:

“Ngày 10-4-1968. Vậy là chiều nay các anh lên đường để lại cho mọi người một nỗi nhớ mênh mông giữa khu rừng vắng vẻ. Các anh đi rồi nhưng tất cả nơi đây còn ghi lại bóng dáng các anh: những con đường đi, những chiếc ghế ngồi chơi xinh đẹp. Nghe anh Tuấn (tức Chính trị viên Trần Quốc Tuấn) ra lệnh: "Tất cả ba lô lên đường!" Những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai, mọi người còn nấn ná đứng lại trước mình, bắt tay chào mình một lần cuối.

Bỗng dưng một nỗi nhớ thương kỳ lạ đối với miền Bắc trào lên trong mình như mặt sông những ngày mưa lũ và... mình khóc ròng đến nỗi không thể đáp lại lời chào của mọi người. Thôi! Các anh đi đi, hẹn một ngày gặp lại trên miền Bắc thân yêu..."

Những người được Thùy Trâm nhắc đến ấy chính là các chiến sĩ của tàu 43. Một trong 14 người đó là ông Lưu Công Hào, hiện còn sống và sau 40 năm vẫn nhớ rất rõ cả về chuyến tàu 43 cuối cùng, về cuộc chiến đấu cam go, về những ngày ở bệnh xá Đức Phổ và về nữ bác sĩ Thùy Trâm đã săn sóc anh em, về cái hôm chia tay để lên đường ra Bắc...
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Ông Hào cũng còn lưu giữ được một tấm ảnh quý mà 14 người đã chụp chung làm kỷ niệm hôm rời viện. (Hiện nay trong lưu trữ của Lữ đoàn 125 vẫn còn hồ sơ về tàu 43, trong đó có đủ danh sách ba thủy thủ hy sinh, tên của 14 thủy thủ còn sống, trong đó có Lưu Công Hào cùng những sự kiện liên quan đến việc điều trị và trở về của họ, rất khớp với những gì ghi trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm, ngày 10 thăng 4 năm 1968 và với những lời ông Hào kể lại)

Tàu 235: do Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và Chính trị viên Nguyễn Tương chỉ huy, tổng số thủy thủ là 20 người, ra đi ngày 08/02/1968, bị theo dõi sát nên phải trở lại bến ngày 11/02. Đến ngày 27/02 tàu lại lên đường. Vào tới Hòn Hèo thuộc Khánh Hòa thì tàu bị 12 chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Mỹ bao vây. Không còn lối thoát, tàu quyết định thả hết hàng xuống biển rồi chuyển vị trí khác để không lộ vị trí thả hàng, sau đó đánh trả quyết liệt. Đến phút chót, chỉ huy mới cho phá hủy toàn bộ tàu. Thủy thủ vượt lên bờ tiếp tục chiến đấu, trong số 20 người thì 14 người đã hy sinh, trong đó có thuyền trưởng và chính trị viên. Số còn lại một người bị bắt, năm người thoát vào rừng, tìm đường trở về miền Bắc tiếp tục phục vụ Đoàn 125.

Dưới đây, chúng ta thử đối chiếu những đoạn nhật ký của tàu 235 và những đoạn tường thuật của đối phương trên đài Tự Do:

Nhật ký tàu 235: .

“Đi hai ngày, hai đêm trên vùng biển quốc tế, đến ngày 29/2/1968 vị trí C 235 ở ngang vùng biển Nha Trang.

18 giờ ngày 29/2: máy bay trinh sát của địch phát hiện ra tàu

20 giờ cùng ngày, 235 vẫn quyết định chuyển hướng vào bờ.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
22 giờ 30 phút, 235 điện về Sở chỉ huy: "Cách bờ 19 hải lý, gặp tàu và máy bay địch bám. Phan Vinh. "

23 giờ, C. 235 bắt đầu tiến vào bờ. Phát hiện ra 235, hải quân vùng 2 duyên hải ngụy lập tức điều ba tàu chiến Ngọc Hồi, HQ 12. HQ 617 và bốn tàu khác của duyên đoàn 25 đến vùng biển phía Bắc Nha Trang với ý định bắt sống C. 235.

23 giờ 30 phút: tất cả đèn trên tàu địch đều tắt. Chúng phục kích, theo dõi 235 bằng ra da. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh quyết định điều khiển 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đã đến được bến (xã Ninh Phước) lúc 0 giờ 30 phút ngày 1/3/1968. Nhưng hoàn toàn không có người của bến ra đón 235.

Không chần chừ thuyền trưởng Vinh ra lệnh khẩn trương cho hàng xuống nước để bến có thể vớt sau. Các bao hàng đóng gói đặc biệt được các thủy thủ lần lượt vần xuống. Chừng 1 giờ sau hàng trên tàu vơi dần. Lúc này là 1 giờ 30 phút sáng 1/3. Phía ngoài, ba tàu loại lớn và 4 tàu nhỏ của địch vẫn đang khép chặt vòng vây.

1 giờ 40 phút sáng 1/3/1968: thuyền trưởng Phan Vinh đột ngột ra lệnh ngừng thả hàng. Anh đưa tàu chạy ven bờ để nghi binh vị trí bến nhận hàng. Tàu địch lập tức đuổi theo. Tất cả tàu địch đồng loạt bật đèn pha và điện cho nhau: tàu nào không bật đèn là tàu "Việt cộng". Tàu 235 lọt vào tình thế ngặt nghèo. Trước mặt là núi chắn sừng sững. Sau lưng, bảy tàu chiến địch dàn hàng ngang chặn lối ra”.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Tường thuật trên đài Tự Do ngày 04/03/1968:

“Lúc 2 giờ ngày 1/3 cách Hòn Hèo 5 hải lý, tàu lạ chạy vào bờ lẩn trơn... Biết không thể nào tẩu thoát, Việt cộng ở trên tàu và ở trên bờ đã phản pháo.

Đến 2 giờ 41 phút, chỉ huy trưởng vùng 2 chiến thuật chỉ thị đổ bộ ngay trước khi trời sáng, nhưng vì hỏa lực Việt cộng bắn ra dữ dội nên lực lương đổ bộ phải rút lui chờ quân chi viện..."

Hơn nửa tháng sau đó, năm anh em thủy thủ đoàn 235 đã tìm được nơi diễn ra trận đánh cuối cùng của Phan Vinh. Anh vẫn ở trong tư thế nằm vươn người về phía trước như giữa lúc chiến đấu ghìm hai cánh quân địch. Dấu vết còn lại sau trận chiến ác liệt là những hố đạn sâu hoắm, những thân cây ngã gục, cháy loang lổ... Năm đó, thuyền trưởng Phan Vinh vừa tròn 35 tuổi, chưa một lần yêu... Tên anh đã được đặt cho một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Đảo Phan Vinh, nằm ở 8độ56 vĩ độ bắc và 113độ38 kinh độ đông.

Tàu 165: Thuyền trưởng là Nguyễn Chánh Tâm, Chính trị viên là Nguyễn Ngọc Lương, ra đi ngày 25/02/1968. Đến 29/02, khi đã vào cách cửa Bồ Đề (Cà Mau) 20 hải lý thì bị lộ, bị 8 tàu địch bao vây. Khả năng chống đỡ không còn. Sau những cuộc chiến đấu kiên cường, tàu đã đánh điện xin phép phá hủy tàu. Toàn bộ sĩ quan, thủy thủ trên tàu đã hy sinh cùng với con tàu và vũ khí, không một chút nào lọt vào tay đối phương.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Hai trường hợp không phá được tàu

Trong hàng trăm chuyến tàu tổ chức khôn ngoan, ứng xử thông minh, gan dạ, cũng không phải không có những trường hợp thất bại nặng nề, do rủi ro ngẫu nhiên hoặc do những sai lầm sơ suất chủ quan. Sau vụ tàu 143 tại Vũng Rô, đã có thêm hai chuyến nữa bị đối phương bắt với đầy đủ tang chứng.

Tàu 187: Tàu có 18 thủy thủ, do Thuyền trưởng Phan Văn Xá và Chính trị viên Hồ Đức Thắng chỉ huy, rời bến ngày 11/06/1966. Ngày 19/06 trên lộ trình ngoài hải phận quốc tế, tàu 187 đã bị máy bay trinh sát của Mỹ phát hiện. Bộ Chỉ huy Hải quân Mỹ điều đến ba tàu DD755, DER393, LSD Tortuga. Hải quân Sài Gòn điều đến bốn tàu là HQ225, HQ227, HQ231, HQ238 thuộc Duyên đoàn 35 và Giang đoàn 23. Trời vừa sáng, các con tàu đó bao vây bốn bề tàu 187.

Tuy nhiên các tàu đối phương cũng không dám đến gần; vừa sợ tàu nổ thì "vạ lây", vừa hy vọng với lực lượng dày đặc thì cuối cùng có thể bắt sống tàu. Lợi dụng sức máy có tốc độ rất cao, tàu 187 tăng tốc lao nhanh vào bờ biển Trà Vinh. Song thật không may, cách bờ chừng 300 m thì tàu mắc cạn. Thuyền trưởng lệnh cho anh em gấp rút rời tàu lên bờ. Sau đó ra lệnh hủy tàu. Nhưng lại một không may nữa: Bộc phá không nổ. Tàu của đối phương tràn đến cướp được tàu và toàn bộ 62,6 tấn vũ khí. Trừ một thủy thủ bị thương không chạy thoát đã bị bắt, toàn bộ 17 thủy thủ còn lại thoát vào rừng Trà Vinh và gia nhập Đoàn 962.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Tàu 198: Lên đường ngày 06/07/1967, do Thuyền trưởng Vũ Tấn Ích và Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch chỉ huy. Đêm 14/07 khi chuẩn bị vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi) thì tàu 198 bị máy bay và tàu chiến bao vây chặt. Tàu chiến đấu đến phút cuối cùng thì thuyền phó và chính trị viên hy sinh. Do không phá được tàu nên cả tàu và 56 tấn hàng đã bị bắt. Thuyền trưởng và thủy thủ thoát lên bờ, trở về miền Bắc. Toàn đội đã bị kiểm điểm và thi hành kỷ luật.

Sau những thất bại kể trên, năm 1967 Đoàn 125 tổ chức năm chuyến vận tải cho Khu V, nhưng tất cả đều bị tàu đối phương đánh chặn, ba chuyến phải quay về, chỉ có hai chuyến tàu số 43 và 198 vào được bến nhưng phải chiến đấu ác liệt, tổn thất khá lớn.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Đoàn 125 dã tổ chức bốn chuyến đi. Vì biết tình thế rất khó khăn nên Đoàn đã bố trí rất công phu. Mỗi tàu xuất phát từ một bến khác nhau, đi theo những hướng khác nhau, vào các bến khác nhau:

Tàu 165 vào bến Vàm Lũng (Cà Mau).

Tàu 235 vào bến Hòn Héo (Khánh Hòa).

Tàu 43 vào bến Đức Phổ (Quảng Ngãi).

Tàu 56 vào bến Lộ Giao (Bình Định).

Nhưng cuối cùng không một tàu nào tới đích. Chỉ có tàu 235 chuyển giao được hàng bằng cách thả hàng xuống nước tại bến Ninh Phước.

Tính từ vụ Vũng Rô đến cuối năm 1968, Đoàn 125 tổ chức vận tải 28 chuyến, nhưng chỉ có 7 chuyến thành công, chở được 410 tấn vũ khí cho cả Nam Bộ và Nam Trung Bộ. So với yêu cầu thì con số đó hoàn toàn không đủ.

Kể từ sau Tết Mậu Thân, tháng 2 năm 1968, hoạt động của Đoàn 12 5 phải tạm thời đình chỉ phương pháp hàng hải thiên văn và tìm hướng giải quyết khác.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Chuyển sang phương án vận chuyển gián tiếp (thời kỳ 1968-1969)

Từ sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân tháng 2 năm 1968, trong khi tạm ngừng việc vận chuyển trực tiếp vào các bến ở miền Nam, nghiên cứu những phương án khác, Đoàn 125 đã chuyển sang một kế hoạch mới, được gọi là vận chuyển gián tiếp.

Sau Tết Mậu Thân, Quân ủy Trung ương thông báo cho Đoàn biết về khả năng Mỹ ngừng ném bom toàn bộ miền Bắc để tạo điều kiện tiến hành hòa bình thương lượng tại Hội nghị Paris. Trước tình hình mới đó, phải nghiên cứu phương án tối ưu để lợi dụng triệt để cơ hội này. Nếu Mỹ ngừng ném bom miền Bắc thì việc vận chuyển từ Đồ Sơn vào tới sát vĩ tuyến là hoàn toàn tự do và an toàn (tất nhiên phải có cả một chiến dịch phá mìn và thủy lôi do Mỹ thả ở ven biển và các cửa sông trong những năm trước). Nhưng đoạn từ giới tuyến vào trong Nam thì sẽ càng khó khăn hơn, vì đối phương tập trung lực lượng để kiểm soát vùng biển.

"Tương kế tựu kế", Đoàn 125 tận dụng khả năng vận chuyển trên biển đỡ tốn kém và nhanh chóng hơn trên bộ, đã quyết định chuyển sang vận chuyển phần lớn số hàng hóa và vũ khí mà trước đây Đoàn 559 vẫn phải vận tải bằng đường bộ suốt từ ngoài Bắc vào Nam (như đã nói trong Chương 1). Nếu vận tải bằng đường thủy cho tới sát giới tuyến, sau đó giao cho Đoàn 559 vận chuyển theo đường bộ bí mật qua Lào thì sẽ giảm nhẹ được gần phân nửa công sức của Đoàn 559, giúp cho Đoàn này tập trung lực lượng vào công đoạn còn lại: Từ giới tuyến qua Lào và vào Nam.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Vì theo phương thức vận chuyển này không trực tiếp đưa hàng vào các bến ở miền Nam, nên được gọi là vận chuyển gián tiếp.

Để thực hiện phương án này, Đoàn 125 đã lập một kế hoạch bí mật, gọi là Kế hoạch VT.5.

Theo kế hoạch VT.5, hàng hóa được vận chuyển công khai từ Hải Phòng vào Quảng Bình, đến cửa sông Gianh. Từ đó, ngược lên bến Xuân Sơn là binh trạm đầu tiên của con đường vận chuyển chiến lược trên đường bộ của Đoàn 559. Từ đây, Đoàn 559 sẽ chuyển bằng cơ giới vào chiến trường qua các ngả Đông và Tây Trường Sơn.

Sau khi chuẩn bị lực lượng và phương án kế hoạch VT.5, thì cũng vừa đến ngày 31/10/1968, Tổng thống Jonhson tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam. Ngay sau đó hai ngày, ngày 03/11/1968, Đoàn 125 mở đầu đợt vận chuyển thứ nhất, gồm những tàu thuyền vốn có của Đoàn và những tàu thuyền của nước bạn mới giúp đỡ, còn huy động thêm cả sà lan và tàu thuyền của đoàn Hồng Hà, tức đoàn vận tải thủy của miền Bắc để tận lực vận chuyển tối đa. Điểm xuất phát của VT.5 là bến Bạch Đằng, bến Cá Hộp và bến K20 thuộc Hải Phòng. Điểm tập kết là bến Xuân Sơn trên sông Gianh.

Kết thúc 90 ngày của đợt 1, kể từ ngày 03/11/1968 đến ngày 29/01/1969, Đoàn 125 đã huy động 364 chuyến tàu tham gia chiến dịch, vận chuyển được 21.737 tấn vũ khí và hàng hóa, đạt 217.57% kế hoạch được giao. Tính trung bình mỗi ngày có 3,5 chuyến tàu xuất bến và cập bến.

Đến tháng 02/1 969, Đoàn 125 bước vào đợt 2 của chiến dịch VT.5. Trong chiến dịch này đã có 187 lượt tàu ra khơi, chuyên chở được 10.889 tấn vũ khí và hàng hóa, vượt chỉ tiêu kế hoạch hơn 1.000 tấn. Đến ngày 24/06/1969, chiến dịch vận chuyển VT.5 đã kết thúc.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Tiếp tục phương án vận chuyển trực tiếp (thời kỳ 1969-1972)

Từ giữa năm 1969, sau khi kết thúc kế hoạch vận chuyển gián tiếp vào miền Trung, Đoàn 125 tiếp tục tính đến việc tìm đường vận chuyển trực tiếp Sau một thời gian tạm ngừng để nghiên cứu và để tạo cho đối phương cái cảm giác "trời yên bể lặng", mất cảnh giác, Đoàn lại đặt kế hoạch đưa vũ khí trực tiếp vào Nam.

Trước hết là phải tiến hành công tác nghiên cứu tình hình đối phương. Những tin nghiên cứu tình báo cho biết từ sau Tết Mậu Thân, như là từ sau khi Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, đối phương đã thay đổi hệ thống tuần dương ở miền Nam. So với tình hình sau vụ Vũng Rô, đến lúc này mật độ canh phòng đã dày đặc hơn.

Tất cả có ba tuyến kiểm soát: Tuyến 1 là tuyến sát bờ, rộng 3 hải lý. Tuyến này do hải quân của Sài Gòn đảm nhiệm, có các tàu tốc độ nhanh, hải thuyền và máy bay lên thẳng, máy bay trinh sát L.19 đảm nhiệm. Tuyến 2 là vùng biển cách bờ từ 3 đến 15 hải lý do các tàu TCS của Mỹ phụ trách. Tuyến 3 từ 15 đến 45 hải lý, do các tàu khu trục quét mìn, máy bay của hải quân Hoa Kỳ, các loại máy may của P2V7 và P3V phụ trách. Trên tuyến này, từ 3 đến 4 giờ các phương tiện kể trên đi tuần tiễu một lần. Trên bờ, ở những vị trí sát biển và những luồng lạch có khả năng đưa tàu vào đều bị bắn phá, rải chất độc hóa học làm trụi lá cây.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Sau khi nắm được tình hình ba phòng tuyến kể trên, Đoàn 125 quyết định cử một tàu đi thám thính không mang theo vũ khí. Đó là tàu 42 được sơn sửa theo dáng một con tàu nghiên cứu biển, hoạt động ngoài khơi. Tàu do Thuyền trưởng Đỗ Văn Bé và Chính trị viên Trần Ngọc Ẩn chỉ huy.

Ngày 22/08/1969, tàu 42 xuất phát chạy theo hướng đi Trung Quốc. Từ đó vòng xuống phía Nam theo hướng Hoàng Sa, Trường Sa. Ngày 24/08 có máy bay Mỹ theo dõi. Tàu đi tiếp xuống vùng biển Sumatra, rồi quay lại vùng biển Thái Lan. Đến ngày 01/09 tàu đi ngược về phía Bắc qua vùng đảo Thổ Chu rồi sau đó, ngày 11/09 về tới miền Bắc.

Sau ngày giải phóng, trong những tài liệu thu được của các căn cứ hải quân đối phương, có một đoạn nói về vụ này rất trúng với diễn biến thực tế:

“Sau 18 tháng vắng bóng, đêm 24 tháng 8 năm 1969 không lực Hoa Kỳ mới phát hiện một tàu xâm nhập tại vùng biển cách Đà Nẵng 300 hải lý. Có thể coi đây là thời kỳ đối phương gia tăng trở lại việc vận chuyển bằng đường biển ."
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Sau chuyến đi thám sát này, tàu 42 đã báo cáo với Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân và Đoàn 125 về tình hình trên biển khơi, đặc biệt là ở hải phận quốc tế. Sau khi tổng hợp tình hình, Bộ Tư lệnh Hải quân và Đoàn 125 nhận định:

Trên vùng biển quốc tế có rất nhiều thương thuyền đi các tuyến Sài Gòn - Hong Hong, Singapore - Thượng Hải, Bangkok - Manila... Trên các tuyến này, máy bay và tàu chiến Mỹ thường xuyên hoạt động nhưng chưa bao giờ dám tấn công tàu dân sự nào. Cùng lắm thì máy bay Mỹ chỉ theo dõi, giám sát và nếu thấy nghi ngờ thì khiêu khích. Càng vào gần vùng ven bờ, tàu kiểm soát của đối phương càng tăng lên nhiều, đặc biệt là các vùng trọng điểm ven biển Khu V nơi có các căn cứ hải quân lớn ở Đà Nẵng, Nha Trang, Cam Ranh.

Nhưng biển rộng mênh mông, vẫn còn những vùng duyên hải đã được giải phóng như Quãng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa... Các bến Lộ Giao ở Bình Định, Hòn Hèo ở Khánh Hòa, các bến ở Khu VII, Khu VIII và Khu IX vẫn còn thưa vắng những tàu kiểm soát, vì đã hơn một năm thấy yên tĩnh nên đối phương có phần chủ quan.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Từ nhận định trên, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định cho Đoàn 125 chuẩn bị một đợt vận chuyển mới, bắt đầu với tàu 154.

Tàu 154 cũng do Đỗ Văn Bé làm Thuyền trưởng, Lê Văn Viễn làm Chính trị viên. Tàu xuất phát ngày 17/09/1969 để kịp có con nước vào dịp rằm (khoảng 24-25/10). Tàu nhổ neo đúng ngày 17/09 chở 58,6 tấn, đi theo đúng hành trình của tàu 42 đã đi trước đó. Chuyến đi trót lọt. Ngày 29/09 tàu đã cập bến Bạc Liêu an toàn. Mùng 8 tháng 10, tàu 154 đã trở về Đoàn 125.

Phát huy thắng lợi này, ngay sau đó Đoàn 125 tổ chức một chuyến đi nữa với tàu 54, nhưng không thành công. Tàu này lên đường ngày 08/11, nhưng luôn luôn vướng phải hệ thống kiểm soát quá chặt chẽ của đối phương nên sau 20 ngày vòng vo ngoài khơi, lại phải quay trở lại.

Sang năm 1970, Đoàn 125 đã tổ chức tất cả 15 chuyến đi, nhưng cũng chỉ có năm chuyến vào được bến, chín chuyến gặp hệ thống kiểm soát của đối phương phải quay về để đảm bảo an toàn, một chuyến buộc phải phá tàu.

Những chuyến đi thành công là tàu 41 , tàu 56, tàu 154, tàu 121 và tàu 54:

Tàu 41 xuất phát ngày 01/05/1970, do Thuyền trưởng Nguyễn Hồng Lý và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy, sau nhiều ngày lòng vòng trên biển đã lừa được tàu đối phương vào được bến Cà Mau an toàn, chuyến tàu này đặc biệt có ý nghĩa vì hầu như toàn bộ "hàng hóa" là những vũ khí tối quan trọng như DKZ, B40, trung liên và đại liên 12 ly 7 cung cấp cho Khu IX đang rất đói vũ khí.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
àu 56 do Thuyền trưởng Dương Tấn Kịch và Chính trị viên Đỗ Văn Sạn chỉ huy. Tàu rời bến ngày 26/05/1970, chở 50 tấn vũ khí đã vào được bến Bạc Liêu.

Tàu 154 do Thuyền trưởng La Văn Tốt và Chính trị viên Phạm Văn Bát chỉ huy, đi lần thứ nhất ngày 15/05 bị tàu đối phương bám, phải quay lại, mãi đến ngày 24/08 tàu mới xuất phát lần thứ hai, chuyến này thành công, chở được 58 tấn vũ khí vào Bạc Liêu.

Tàu 54 do Thuyền trưởng Phùng Văn Đặng và Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu chỉ huy xuất phát lần thứ nhất ngày 15/04 không thành đến 29/04 phải trở lại hậu cứ. Đến 11/10, tàu xuất phát lần thứ hai thành công, chở được 56 tấn vũ khí vào Bạc Liêu.

Tàu 121 do Thuyền trưởng Dương Tấn Kịch và Chính trị viên Nguyễn Kim Danh chỉ huy, lên đường ngày 29/09/1970, chở 31 tấn vũ khí vào bến Cồn Lợi, cho Bến Tre. Ngày 10/10 tàu hoàn thành nhiệm vụ và trở về an toàn.

Trong 10 chuyến tàu không tới nơi, có 9 chuyến tàu phải quay về.

Riêng tàu 176 đã đi hai chuyến đều phải quay về (chuyến 28/05 và chuyến 25/07/1970). Đến chuyến đi thứ ba có 18 thủy thủ, do Thuyền trưởng Lê Xuân Ngọc và Chính trị viên Huỳnh Trung chỉ huy. Tàu lên đường ngày 11/11 vào hướng Cồn Lợi, Bến Tre. Đêm 21/11/1970, đụng tàu đối phương, tàu quyết định đâm thẳng vào tàu của Mỹ, đồng thời tất cả các cây súng đều nhả đạn, làm tàu Mỹ bị thương.

Tàu 176 lao nhanh vào bờ và đã lẻn được vào một con kênh. Nhưng tàu đối phương nã pháo tới tấp Thuyền trưởng quyết định cho thủy thủ lên bờ và hủy tàu. Phía thủy thủ tàu 176, 10 người hy sinh, thuyền trưởng Ngọc cụt một chân, số còn lại lẩn vào rừng và gặp được quân Giải phóng... Từ đó nhân dân ở đây đặt tên địa điểm này là Cồn Tàu ...
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Về tình hình năm 1970, báo cáo của đối phương cũng gần khớp với diễn biến thực tế:

"Năm 1970 phát hiện 12 vụ (thực tế là 15 vụ), nhưng chỉ đánh chìm được một vụ vào rạng ngày 22 tháng 11 năm 1970 (tức là tàu 176) ở Thạnh Phú, Bến Tre, còn các vụ khác họ đã thoát. Có vụ ta kèm được 9- 10 ngày. Có vụ ta chỉ kèm được một ngày thì đã mất mục tiêu..."

Sang năm 1 971 tình hình càng khó khăn hơn. Những tin tình báo cho biết đối phương đã tăng cường hơn nữa hệ thống tuần dương. Hải quân Chính quyền Sài Gòn lúc này đã có quân số tới 40.000 với 1.600 chiếc tàu, 16 trạm ra da cảnh giới, 16 căn cứ yểm trợ. Hải quân Mỹ tự cho mình quyền theo dõi bất cứ tàu nào lạ, kể cả trên hải phận quốc tế. Thời gian theo dõi từ 9 đến 10 ngày liền trên đoạn đường dài 300 hải lý.

Nhưng tình hình chiến trường lúc này đòi hỏi cấp bách, không thể ngừng chi viện cho miền Nam. Đoàn 125 lại cử tàu đi trinh sát một lần nữa. Ngày 20 tháng 1 năm 1971 tàu 525 do Thuyền trưởng Trần Phấn và Chính trị viên Trần Ngọc Ẩn chỉ huy đã lên đường. Sau một chuyến đi dài trên hải phận quốc tế để thám sát tình hình, ngày 10/02 tàu đã trở về và báo cáo tình hình.

Trên cơ sở tin tình báo và những kết quả thám sát của tàu 525, đầu năm 1971, Đoàn 125 đã tổ chức 4 chuyến tàu lên đường, đó là các tàu 69 (đóng mới, còn tàu cũ đã để lại Cà Mau từ năm 1966), tàu 56, tàu 49 và tàu 54. Nhưng tất cả đều bị theo dõi chặt chẽ, buộc phải quay về.

Đến ngày 04/04/1971 tàu 69 lại lên đường lần thứ hai với nhiệm vụ chở 200,20 tấn vũ khí cho Bạc Liêu. Nhưng khi tàu còn cách bờ 9 hải lý thì bị bao vây. Toàn bộ thủy thủ trên tàu đã nổ súng phá vòng vây nhưng không lọt. Cuối cùng đành phải phá tàu. Rất tiếc, vì đây là chuyến chở nặng nhất của Đoàn 125. Trong vụ này, đã có sáu chiến sĩ hy sính.
 

Fine

Xe hơi
Biển số
OF-146083
Ngày cấp bằng
18/6/12
Số km
144
Động cơ
362,230 Mã lực
Ở Vệ mình thì ai là người nguy hiểm 1st các cụ nhỉ?
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top