Em Copy/Paste lại cho các cụ đỡ mất công vào link kia:
Cuối năm 2011 – những nhà khảo cổ Trung Hoa đã tìm thấy những dấu ấn liên quan đến nền văn minh Việt cổ ở Nam Dương tử – cụ thể là tại huyện Bình Quả (tây bắc Nam Ninh, cách Nam Ninh khoảng 100km, cách Cao Bằng khoảng 150km đường chim bay) tỉnh Quảng Tây vừa khai quật được hơn chục mảnh đá có khắc hơn ngàn ký tự biểu ý cổ Lạc Việt. Các chuyên gia TQ nhận định niên đại của các mảnh đá này là vào thời đại đồ đá mới, cách nay 4000-6000năm tức là vượt xa niên đại của chữ giáp cốt Hoa Hạ (cách nay khoảng 3.000 năm).
Người Việt Nam là hậu duệ của dòng Lạc Việt, nhưng đa số người Việt không tin rằng Tổ tiên ta đã có chữ viết, phải vay mượn chữ viết của nước ngoài. Tuy nhiên có nhiều người vẫn tin rằng dân tộc Việt đã có chữ viết và phát minh ra giấy viết từ rất sớm và quyết tâm đi tìm hiểu sự thật.
Trong Tập Khảo cứu NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI – NHẬN THỨC MỚI VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT VÀ NỀN VĂN MINH VIỆT CỔ của một nhóm tác giả do Cố PGS Đỗ Tòng làm chủ nhiệm chương trình đã dành một phần chương IV- của tập II có nhan đề TẦM CAO TRÍ TUỆ CỦA TỔ TIÊN – QUY LUẬT VẬN HÀNH CỦA VŨ TRỤ, NHÂN SINH để khảo cứu về chữ viết và giấy viết của người Việt cổ. Những kết quả khảo cổ học những nhà khảo cổ Trung Hoa gần đây đã bổ sung thêm luận cứ khoa học về chữ viết của Tổ tiên người Việt.
Chúng tôi xin trích giới thiệu phần đầu của mục B- CHỮ VIẾT VÀ GIẤY VIẾT CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ của tập khảo cứu nói trên.
B
CHỮ VIẾT VÀ GIẤY VIẾT CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ
I.
NGƯỜI VIỆT CỔ CÓ CHỮ VIẾT
VÀ PHÁT MINH RA GIẤY VIẾT ĐẦU TIÊN CHO NHÂN LOẠI
Các nghiên cứu lịch sử cho đến nay đã phần nào chứng minh sự tồn tại thực tế của nhà nước Văn Lang thời các vua Hùng, về sự tồn tại một nền văn minh trí tuệ đạt đến trình độ cao, bên cạnh nền văn minh vật chất mà lúa nước và trống đồng là những tinh hoa tiêu biểu. Một hệ thống chữ viết của thời đại Hùng Vương là điều kiện tất yếu để nền văn minh của nhà nước Văn Lang tồn tại và phát triển bền vững và kéo dài mấy nghìn năm. Việc tìm ra hệ thống chữ viết của người Việt cổ đã được nhiều nhà khoa học trong nước và thế giới đặt ra từ lâu và qua nhiều thập kỷ gần đây càng ngày được những nghiên cứu của khá nhiều nhà khoa học khẳng định “Việt Nam đã có chữ Viết riêng và rất sớm”.
Năm 1930, một nhà khoa học người Pháp là M.Colan đã tìm ra được trong một di chỉ thuộc nền văn hoá Đồ Đá giữa, ở chân vách đá Lan Gan thuộc Hoà Bình hai hiện vật gốm quý hiếm hình đĩa trên đó có khắc hai ký hiệu. Ban đầu người ta chỉ coi chúng là vật trang sức, “không có công dụng thực tế, không rõ để làm gì…”. Sau đó qua nghiên cứu thấy đây là những chữ cổ có tuổi khảo cổ học một vạn năm, thuộc nền văn hoá đồ đá giữa Hoà Bình, trong đó có chữ thứ 2 giống chữ sĩ của Hán tự ngày nay, phát hiện này trong thời gian dài đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu, vì nó có trước Chữ Giáp cốt Ân – Thương (1392 – 1122 – TCN) khoảng 6000 năm. Lúc đó cả tộc danh Hoa Hạ và chủng Trung Mông-gô-lô-ít đều chưa hình thành trên trái đất này.
Nhiều ký hiệu đơn lẻ có dạng chữ viết đã được tìm thấy trên những hiện vật khảo cổ như: trên chiếc rìu đá Đỗ Quý Bào tìm thấy ở đồi Giàm Việt Trì; trên rìu đồng Bắc Ninh; trên tấm che ngực bằng đồng hiện để ở viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Tháng 3/1970, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phát hiện một trống đồng trong nhà dân ở Lũng Cú, trên tang trống có hai hàng 8 ký hiệu dạng chữ.
Trong tác phẩm “Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta” – (NXB Tổng hợp TP. HCM, 2006). Thiền sư, Tiến sĩ Lê Mạnh Thát đã có một phát hiện quan trọng: Cuốn Lục độ tập kinh không phải dịch từ chữ Phạn mà là chép nguyên văn một cuốn sách bằng chữ Việt cổ. Thiền sư khẳng định: Ngay từ trước khi chữ Phạn ở Ấn Độ được truyền sang Đông Nam Á theo con đường Phật giáo thì ở Việt Nam đã có một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh.
Vào giai đoạn này nhiều cuốn kinh Phật được dịch sang chữ Hán như: Tập thí dụ kinh; Cựu tập thí dụ kinh… ; và Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội (dịch năm 246). Căn cứ vào nội dung và căn cứ vào ngữ pháp của sách cho thấy rõ điều đó.
Ngoài lãnh thổ Việt Nam, vào những năm cuối thể kỷ trước, trong 24 ngôi mộ được khai quật tại làng Giả Hồ, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) di chỉ có tuổi 6.600 đến 6.200 năm TCN, tiến sĩ Garnan Harbottle thuộc Phòng thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, New York, Hoa Kỳ, cùng nhóm khảo cổ Trường Đại học Khoa học và Công nghệ tỉnh An Huy (Trung Quốc) xác định được 11 ký hiệu đặc biệt khắc trên mai rùa; trong những ngôi mộ cổ tìm thấy những ký tự chữ tượng hình cổ hơn chữ thời nhà Thương. Những ống sáo 9000 năm tuổi làm bằng xương chân và xương cánh chim hạc. Chưa hết, vào tháng 3 năm 2000, tại khảo cổ phát hiện chiếc bình trà bằng gốm 12.000 tuổi, trên đó khắc văn bản bằng chữ tượng hình, Giáo sư Trung Quốc Trương Cự Trung, trưởng nhóm nghiên cứu cho rằng: “12.000 năm trước, Trung Quốc chưa thể có chữ viết”. Theo nhà nghiên cứu người Việt Hà Văn Thuỳ, vào thời gian đó người Trung Quốc (người Hán) chưa ra đời. Đấy vẫn là cương vực đất đai của người Bách Việt. Vì thế, ống sáo, bình gốm và chữ viết kia chỉ là sản phẩm Bách Việt.
Gần đây, người ta còn tìm thấy dấu tích chữ Khoa Đẩu đầu tiên trên vách đá Đài Loan – một thứ chữ tượng hình mà nhìn qua người ta đoán biết đây không phải là chữ Hán mà là chữ cổ trước chữ Hán.
Tài liệu xưa nhất ghi nhận về chữ viết của người Việt cổ là sách “Thông Chí” của Trịnh Tiều (Trung Quốc) ghi rõ: “Đời Đào Đường (vua Nghiêu – năm 2253 TCN) phương Nam có bộ Việt Thường cử sứ bộ qua hai lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa thần có lẽ vì đã sống 1000 năm, mình dài hơn 3 thước, trên lưng có khắc văn Khoa Đẩu ghi việc trời đất mở mang, Vua Nghiêu sai chép lại và gọi là Quy Lịch”.
Chữ Khoa Đẩu còn được Khổng An Quốc, cháu 12 đời của Khổng Tử ghi lại trong bài tựa cuốn “Thượng Thư” (Kinh Thư) như sau:
“… thời Lỗ Cung Vương, thích sửa sang cung thất, Vương cho phá nhà cũ của Khổng Tử để mở rộng thêm. Trong tường nhà tìm được Thư, phần Ngu, Hạ, Thương, Chu cùng Tả truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh đều viết bằng chữ Khoa Đẩu cổ văn do ông cha chúng tôi cất giấu. Vương lại lên nhà thờ đức Khổng Tử, nghe được tiếng vàng, đá, tơ, trúc bèn không cho phá nhà nữa, đem toàn bộ sách trả lại cho họ Khổng. Lối chữ Khoa Đẩu bỏ từ lâu, người đương thời không ai đọc được nữa, phải lấy sách nghe được ở Phục Sinh khảo luận văn nghĩa, định những chỗ đọc được, dùng lối chữ lệ cổ viết sang thẻ tre, nhiều hơn sách của Phục Sinh hai mươi thiên…” (Khổng Tử: Kinh Thư – Bản dịch của Trần Lê Sáng và Phạm Kỳ Nam – Nhà xuất bản VH-TT Hà Nội – 2004, tr.228 – 229)
Trong tác phẩm văn học Thuỷ Hử của Thi Nại Am (Trung Quốc) có đoạn viết về chữ Khoa Đẩu: “Khi đào tới ba thước đất, chợt thấy một miếng bia đá chạm Thiên thư ở giữa mặt và hai bên… Nom đến bia đá chữ ngoằn ngoèo khác hẳn lối thường không còn ai biết nghĩa lý ra làm sao cả. Sau đó, một người đạo tràng họ Hà tên Diệu Thông nói với Tống Giang rằng: Tổ phụ tôi khi xưa có một bộ sách chuyên để cắt nghĩa các lối chữ Thiên Thư, vậy lối chữ đây là lối chữ Khoa Đẩu, tôi có thể hiểu được, xin ngài để tôi dịch giúp”.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” đã ghi về trống đồng Đan Nê (Yên Định, Thanh Hoá): “Trên mặt có chín vành hoa văn. Bốn bên tang trống có dây dọc và chữ Vạn, văn như chữ Khoa Đẩu, lâu ngày mòn mất không đọc được, tương truyền Hùng Vương đúc trống này”.
Từ những tư liệu như trên và kết quả sưu tầm khảo cứu của nhiều nhà khoa học cho phép ta hình dung ra việc hình thành chữ viết trong các tộc người Việt cổ sinh sống trong không gian văn hoá thời các vua Hùng.
Vào năm 1903, Tổng đốc Thanh Hóa là Vương Duy Trinh đã công bố việc ông tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vườn cháy mà Ông gọi là chữ Hoả tự. Dựa vào những chữ Hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề “Mời trầu”, nội dung ca ngợi tình yêu. Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của Tổ tiên ta từ thời các vua Hùng. Do âm mưu đồng hoá của bọn xâm lược thống trị, chúng tìm cách triệt phá, không để lại dấu tích của thứ văn tự Việt cổ, nay vẫn còn truyền lại và lưu giữ trong một vài nơi.
Trong sách “Thanh Hoá quan phong” Vương Duy TrInh có nhắc tới dân tộc Mường dùng chữ Khoa đẩu để ghi lại tiếng dân tộc mình (như dưới đây).
Theo Vương Duy Trinh thì: “Tỉnh Thanh Hoá một châu quận có lối chữ là lối chữ thập châu đó. Người ta thường nói rằng nước ta không có chữ. Tôi nghĩ rằng không phải. Thập châu còn là đất nước ta. Trên châu còn có chữ, lẽ nào mà dưới chợ lại không. Lối chữ châu là lối chữ nước ta đó” và Ông tiên đoán: “Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ này”.
Trong tập: “Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ”, do Viện Văn hoá nước ta in năm 1986, tác giả, giáo sư Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu từ thời kỳ Phục Hy, Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tộc Việt lại không còn văn bản hay sao? Đúng là tài liệu của ta vừa bị giặc nước huỷ dịêt, vừa bị ta không biết cách bảo tồn, thực tế đã có một tài liệu “Lê phổ phổ chí tục biên” nói về chữ Việt cổ mà gia đình cụ Lê Huy Nghiệm giữ được, cũng mới bị mất sau Cách mạng tháng tám.
Dấu tích chữ Việt cổ được tìm thấy trên bãi đá cổ Sa Pa, rải rác trong một vùng diện tích khoảng 8 km2, tại thung lũng Mường Hoa, trên địa bàn ba xã Hầu Thào, Sử Pán và Tả Van thuộc huyện SaPa, tỉnh Lào Cai. Bãi đá cổ SaPa có 159 khối đá lớn khắc các hoa văn kỳ lạ, nhiều hình đa dạng: Hình người, ruộng bậc thang, con đường, mặt trời và hình khắc có dạng chữ viết… Năm 1925, giáo sư Pháp gốc người Nga Victor Goloubev nhà Đông phương học, làm việc nhiều năm ở viện Viễn đông bác cổ tại Hà Nội đã chụp lại được một số ảnh khắc đá đó và đưa ra những giả thuyết giải thích về các hoa văn này. Gần đây người ta lại phát hiện thêm những bãi đá cổ tương tự ở xã Tả Thìn (Lào Cai) và Vị Xuyên (Hà Giang), Hang Chú, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La với những hoa văn và hình khắc bí ẩn tương tự như bãi đá cổ Sa Pa mà không ít nhà nghiên cứu nghĩ rằng trong các hình khắc đó có chữ Việt cổ.
Một nhà khoa học khác của Việt Nam là Giáo sư Hà Văn Tấn khi nghiên cứu các hiện vật khảo cổ bằng đồng thau ở Việt Nam và Trung Quốc, đã khu biệt được 22 ký hiệu khắc trên các hiện vật này:
– Trên một “lưỡi cầy cánh bướm” bằng đồng thau do O’ Janse khai quật được ở Đông Sơn, hiện cất giữ ở Bảo tàng Guimet Pari, có 02 ký hiệu.
– Trên một chiếc qua đồng thu được ở Thanh Hoá (niên đại 402-221 TCN), trong sưu tập D’ Argence, hiện cất giữ ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, có năm ký hiệu.
– Ba chiếc qua đồng trong một Sở thời Chiến Quốc, ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc), có khắc những dòng chữ cùng một hệ thống chữ viết với dòng chữ trên qua Thanh Hoá.
Ông đã công bố kết quả nghiên cứu của mình về “Phát hiện một hệ thống chữ viết có niên đại Đông Sơn” trong một thông báo tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội với nội dung như sau:
a) Đã tìm thấy dấu vết một hệ thống chữ viết riêng biệt trong khu vực từ phía Nam sông Dương Tử đến sông Mã.
b) Hệ thống chữ viết này khác Hán, không phải chữ Hán.
c) Hệ thống này có trước khi Tần thống nhất Trung Quốc, và ở Việt Nam là trước cuộc xâm lược của người Hán.
d) Hệ thống chữ viết này đã ở một trình độ cao hơn loại chữ viết hình vẽ (piclogramme).
Đồng thời, ông cũng nêu ra một số giả thiết khác:
a) Hệ thống chữ viết này có khả năng thuộc loại hình chữ viết ghi ý (deogramme), hoặc theo cách phân loại khác, là chữ viết ghi từ (logogramme). Cũng không loại bỏ khả năng có yếu tố ghi âm.
b) Hệ thống chữ viết này là do chủ nhân văn hoá Đông Sơn sáng tạo. Thứ chữ này đã được ghi lên một số vũ khí và công cụ sản xuất. Cùng với ảnh hưởng văn hoá Đông Sơn, những sản phẩm Đông Sơn có ghi chữ đã được đưa đến các vùng khác.
Hệ thống chữ viết này vẫn chưa được giải mã. Mong muốn mọi người tham gia việc giải mã này.
Theo cách phân loại của các nhà nghiên cứu, đây là loại chữ viết rất tiến bộ trong lịch sử chữ viết. Nó đã trải qua giai đoạn chữ viết hình vẽ (pictogramme) mà ý tứ trong cả văn bản thể hiện bằng một bức vẽ. Hệ thống chữ viết này đã ở giai đoạn chữ viết biểu ý (deogramme), có thể là chữ viết ghi từ, nghĩa là mỗi ký hiệu tương ứng với một từ (logogramme) hoặc ghi âm. Chủ nhân của loại chữ viết này chỉ có thể là người Lạc Việt, Giáo sư Hà Văn Tấn khẳng định: “Có một hệ thống chữ viết Việt cổ thời kỳ văn minh Đông Sơn phát triển rực rỡ khoảng thế kỷ IV trước công nguyên, trước khi người Hán vào xâm lược, đô hộ…”
Ngược dòng thời gian, vào giữa thế kỷ 19, Phạm Thận Duật, một nhà văn hoá lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855 – 1856) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái tổ tự, trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần trắc. Ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 16 thể chữ cái theo vần trắc. Ngoài ra còn có 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là tứ bàng phụ hoạ, “Tuy nhiên ít khác nhau, song nếu dùng 03 thể chữ cái ấy đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu” (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán).
Gần đây dư luận trong nước đặc biệt quan tâm, chú ý đến công trình nghiên cứu chữ Việt cổ của nhà giáo Đỗ Văn Xuyền (Khánh Hoài) hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, chủ tịch Hội Văn học Việt Trì, phó ban chỉ đạo đề án” Nghiên cứu thẩm định và phục hồi các di tích của cố đô Văn Lang”, chủ nghiệm đề tài chữ Việt cổ, trong một lần điền dã, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền phát hiện ra tại thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ có một ngôi miếu cổ gọi là Thiên cổ miếu. Theo ngọc phả, Miếu này đã tồn tại hàng ngàn năm, thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang và hai người học trò con vua Hùng thứ 18. Là một người ham tìm hiểu lịch sử, Ông đi sâu tìm hiểu nền giáo dục thời Hùng Vương. Với tư liệu sưu tầm được cho biết từ Hùng Huy Vương (Hùng Vương thứ 6 đến An Dương Vương có 19 thầy giáo dạy 18 trường, ở kinh đô và địa phương, với số học trò có địa chỉ cụ thể được biết là 23 người. Ngoài ra, ở các trường mà trong thần tích, thần phả không nêu thầy giáo là 17 trường với số học trò tiêu biểu là 35 người. Như vậy có 36 thầy giáo và 35 trường học rải khắp các địa bàn và 58 học trò. Hơn thế còn tìm thấy thời Bắc thuộc lần thứ I (từ năm 111 TCN) đến năm 39 sau CN – Thời Bà Trưng) có 10 thầy giáo, 68 học trò và 36 trường ở các địa phương.
Một câu hỏi lớn được đặt ra, trong các trường học Hùng Vương dạy và học bằng thứ chữ gì? Nhà giáo Đỗ Văn Xuyền đã giành hầu hết sức lực và thời gian chuyên nghiên cứu sâu và theo đuổi đề tài chữ Việt cổ đã gần 50 năm nay. Một kết quả có tính bước ngoặt là khi Ông chuyển hướng nghiên cứu lên vùng đồng bào dân tộc Tây Bắc và phát hiện ở đây những chữ cái của một bộ chữ mà người địa phương cho là chữ cái cổ. Ông đã chọn bộ “Chữ cái Thổ tự” của Thượng thư Phạm Thận Duật sưu tầm được để đi sâu nghiên cứu. Được biết, vào thời điểm năm 1855 – 1856, chữ quốc ngữ sơ khai vẫn chưa được dùng phổ biến, chỉ hạn chế trong phạm vi truyền bá đạo Thiên chúa. Người Trung Châu không biết tiếng Thái, nên không thể dùng chữ “Thổ tự” để giao dịch. Song có thể là ở Trung Châu có những người sử dụng được loại văn tự này. Kết quả cho thấy đây không phải là chữ Thái Thổ tự mà chỉ là cái vỏ ngụy trang chữ Việt cổ.
Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, ở giai đoạn khởi nguồn, tiếng Việt chỉ có hai thanh: Thanh cao và thanh trầm (Theo A. G Haudricourt: Đầu công nguyên tiếng Việt không có thanh, thế kỷ 6 có 3 thanh, thế kỷ 12 đến nay có 6 thanh).
Theo giải mã của Nhà giáo – Nhà nghiên cứu chữ Việt có Đỗ Văn Xuyền, bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, vì vậy không thể có chữ cái theo vần bằng, chữ cái theo vần trắc. Theo Ông, 17 chữ theo vần bằng (như các chữ b, l, m, c, kh… quốc ngữ) là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ hoạ) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Qua nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong nước, đến nay ông Đỗ Văn Xuyền đã sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thoả mãn được những tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc mà các nhà khoa học đề ra, đó là:
a. Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không?
b. Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của kí tự đó không?
c. Có đặc thù riêng khi sáng tạo ra loại ký tự ấy (để truy tìm nguồn gốc).
d. Có giải quyết được các “nghi án” về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm).
đ. Còn để lại nhiều dấu vết – đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá.
Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ la tinh của phương Tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn luôn thay đổi vị trí (Tứ bàng phụ hoạ). Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông Xuyền mới tìm ra một quy luật, đó là quy luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ: từ chỉ trời, đất nguyên âm đặt phía trước và trên, từ chỉ muông thú, cây cỏ nguyên âm đặt phía dưới; tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau).
Khác với văn tự các nước khác, ngoài đặc điểm nguyên âm của bộ ký tự này xếp cả 4 phía của phụ âm, bộ ký tự này có tới 33 phụ âm (chữ Quốc ngữ 23 phụ âm, chữ Pháp 17, chữ Anh 24, chữ Lào 25…). So với chữ Quốc ngữ ngày nay, bộ phận chữ này đơn giản hơn trong cách phát âm là không phân biệt R, D, G; không phân biệt S và X; không có TR; không phân biệt C, K, QU mà chỉ dùng chung phụ âm C…) Để thuộc bảng chữ cái và nắm được quy luật ghép vần, người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. Nhóm nghiên cứu do ông Xuyền làm chủ nhiệm vẫn đang nghiên cứu nhằm chứng minh giả thuyết rằng, những nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt và có công La tinh hoá nó, để ra được chữ Quốc ngữ.
Kết quả bước đầu ông Xuyền đã tìm được nguyên vẹn cấu trúc của chữ Việt cổ đã khoác vỏ La Tinh trong các tác phẩm đầu tiên của chữ Quốc ngữ như: trong hồi ký của Cris-tô-phô-rô Bri (1631); sách giảng 8 ngày của A. de Rhodes; từ điển Việt – Bồ – La của A. De Rhodes (1651)… đặc biệt trong “Sách sổ sang” của linh mục Filip Bỉnh viết năm 1790-1820, theo bản thảo viết tay, ngoài những chữ Quốc ngữ có cấu trúc chữ Việt cổ khoác vỏ La Tinh, còn rất nhiều chữ Việt cổ nguyên dạng, thể hiện trong suốt 600 trang sách. Nhờ giải mã được chữ Việt cổ, ta có thể dễ dàng đọc được những chữ viết có lẫn hai loại chữ cái La Tinh và chữ cái Việt cổ trong “Sách sổ sang” hoặc hiểu được cách ghép vần khó hiểu trong các tài liệu này như: Tỏ tưầng, fóũ lâu, con ruầi… Ông Xuyền đưa ra giả thuyết: chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rodes mà là công trình tập thể của nhiều nhà truyền giáo phương Tây và nhiều người Việt Nam. Họ có công La Tinh hoá bộ chữ Việt cổ thành chữ Quốc ngữ. Điều này đã được khẳng định từ ghi chép của A. de Rhodes: “Đối với tôi người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng ba tuần nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”.
Theo đánh giá bước đầu, đây là bộ chữ bắt đầu được sáng tạo, tuy chưa được khoa học so với hiện nay, nhưng hoàn toàn đáp ứng việc ghi ngôn ngữ người Việt cổ thời kỳ trước công nguyên, khi tiếng Việt còn chưa có thanh. Đây có thể là thứ chữ Hai Bà Trưng thảo dịch kêu gọi cả nước khởi nghĩa giành độc lập năm 40, thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt – Mường, đã thoát được sử dụng, bộ chữ này đã bị đóng băng, quên lãng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo Thiên chúa tràn vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay.
Những nghiên cứu về chữ Việt cổ của các nhà nghiên cứu Việt Nam như: giáo sư Lê Trọng Khánh, giáo sư Phạm Ngọc Liễn, giáo sư Hà Văn Tấn, và kết quả nghiên cứu công phu cả đời mình của nhà giáo Đỗ Văn Xuyền đã thực tế chứng minh những nhận định của nhiều nhà khoa học thế giới được trích dẫn dưới đây:
Trong cuốn “Lịch sử chữ viết thế giới” xuất bản trước năm 1945, nhà khoa học Tiệp Khắc Cesmir Loukotca viết: “Phía nam đế quốc Trung Hoa có nhà nước An Nam, ngay từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên đã bị người Hán thống trị. Viên thái thú Sĩ Nhiếp đã du nhập chữ Hán vào. Trước đó, người An Nam đã đọc bằng thứ chữ ghi âm riêng. Chữ đó không còn tồn tại đến ngày nay”((1) Cho đến nay, trong sử sách cũng quan niệm của khá đông dân ta vẫn coi Sĩ Nhiếp là người có công đưa chữ Hán vào nước ta, nên dân ta mới bắt đầu có chữ ! Ở Lũng Khê, Thuận Thành, Hà Bắc, trong đền thờ Sĩ Nhiếp, còn bức đại tự đề 4 chữ “Nam giao học tổ” (tức là ông tổ việc học của nước Nam). Đây là sự đánh tráo và xuyên tạc lịch sử. Năm 207, Sĩ Nhiếp được vua cuối cùng của triều đình Đông Hán (Tàu) cử sang ta giữ chức Thái thú trông coi cả 07 quận. Ông ta là một tên quan cai trị đô hộ mang đầy đủ bản chất như mọi tên xâm lược khác. Theo một thư tịch cũ viết từ tháng 2 niên hiệu Hồng Phúc 1 (Lê Anh Tông năm 1572), về 03 viên quan cai trị Tàu, người họ Chu, hiện vẫn được thờ là thành hoàng nhiều làng xã ở huyện Thạch Thất, Sơn Tây (cũ), trong bản thư tịch này ghi rõ: gia đình Sĩ Nhiếp, con trai Sĩ Nhíêp (còn được gọi là Sĩ Vương) là Sĩ Cương sang ta lấy vợ người Việt sinh ra Sĩ Năng (cháu Sĩ Nhiếp) đều là những tên quan lại của triều Hán, sinh sống ở nước ta, mấy lần làm nội ứng cho quân Hán sang định tiêu diệt các dân quân người Việt (Mạnh Hoạch) chống lại chúng (xem kỹ bản thư tịch cũ in trong sách nảy) (Đ.T).1).
Từ cuối thế kỷ 19, năm 1887, Terrien de Couperie đã viết trong tạp chí Hoàng gia Anh: “… Sĩ Nhiếp đã bắt người Việt học thứ chữ Hán tượng hình và cấm dùng chữ tượng thanh của mình”.
Giáo sư Noel Barnard ở Đại học Quốc gia Úc cũng đã khẳng định: “Rõ ràng là thời trước Hán (thời của dòng Bách Việt) ở Trung Quốc đã tồn tại một hình thức chữ viết và ngôn ngữ văn hoá khá chuẩn xác”.
Gần đây nhất vào ngày 3-3-2009, trên Omnighlot, Giáo sư T.R. Carlton trường Đại học Alberta – Hoa Kỳ đã giới thiệu một bộ chữ mà ngoài vùng tây bắc Việt Nam, bắc Lào, bắc Thái vẫn còn được người ở Vân Nam – Trung Quốc sử dụng. Bộ chữ này có chữ cái ghép từ theo kiểu La Tinh, toàn bộ số phụ âm được nêu trong bài viết của Giáo sư T.R. Carlton hoàn toàn giống với bộ chữ Khoa đẩu của người Việt cổ đã được nhà giáo Đỗ Văn Xuyền giải mã.
Người Việt phát minh ra giấy viết cho nhân loại
Như đã trình bày ở phần trên, những nghiên cứu về chữ viết cho ta biết, những dấu tích của chữ viết (còn đã tìm thấy trên đá, trên đồ đồng, trên mai rùa xưa), xương thú, da các động vật,… vì đây là vật liệu tương đối dễ kiếm, có thể dễ dàng mang theo người, được dùng để viết chữ đầu tiên. Giai đoạn văn minh hơn, người Hán dùng lụa và thẻ tre để viết chữ, nhiều di vật khảo cổ đã chứng minh điều đó. Vậy người Việt dùng loại vật liệu gì để viết chữ. Thời Hùng Vương, trên lãnh thổ các nước Văn Lang đã có nền giáo dục phát triển, với hệ thống trường lớp, các thầy cô giáo và các học sinh. Để đáp ứng nhu cầu lớn vật liệu để viết chữ, nhưng không dùng thẻ tre, phải chăng giấy đã được sản xuất và dùng để viết chữ thời bấy giờ.
Theo sử sách Việt Nam, giấy Việt Nam được chép từ thời Lý. Từ thế kỷ XI giấy Lĩnh Nam đã được ca ngợi là một sản phẩm quý. Cho đến kỷ nguyên Đại Việt thì nghề làm giấy ở Thăng Long ngày càng phát triển mạnh, thời vua Lý Cao Tông (1176-1210) giấy do kẻ Bưởi (phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội) đã từng là sản vật đem cống cho triều đình nhà Tống.
Theo một thư tịch cổ nước ngoài, nước ta đã có nghề làm giấy từ xa xưa. Người Giao Chỉ đã biết dùng gỗ mật hương để chế tác thành một loại giấy bản tốt, gọi là giấy mật hương. Đã biết làm giấy từ rong rêu lấy từ lòng biển, gọi tên là giấy Trắc Lí (gân nghiêng)… Những ghi chép về hai loại giấy này được ông Jean – Pierre Drège (GSTS, giám đốc Viện viễn Đông bác cổ Pháp), phát hiện đầu thế kỷ trước từ các tài liệu sau:
1. Tài liệu thứ nhất là sách “Nam Phương Thảo Mộc Trạng” của Kê Hàm, soạn năm 304, đã ghi rõ:
“Mật hương chỉ làm bằng vỏ và lá của thứ cây có mùi mật. Giấy màu nâu. Nó có những vân hình trứng cá. Giấy rất thơm, bền và mềm. Khi thấm mực nó không bị mủn. Năm Thái Khang thứ 5 (đời Tấn, năm 284) sứ bộ La Mã dâng biếu vua Tống với số lượng là 30.000 tờ. Hoàng đế Tàu đã ban cho Đỗ Dự là Bình Nam tướng quân và Đan Dương hầu 10.000 tờ để viết “Xuân Thu thích lệ” và “Kinh truyện tập giải” dâng lên vua. Nhưng Đỗ Dự đã chết trước khi giấy được gởi đến. Theo chỉ dụ, giấy đó được ban cho gia đình”. Sách Hậu Hán thư nói rõ thêm, sứ đoàn La Mã đến từ Nhật Nam, tức là Việt Nam khi đó bị nhà Hán chiếm và chia tách thành Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Vậy giấy Mật Hương làm bằng cái gì và theo công nghệ như thế nào?
Công nghệ làm giấy cổ truyền của Việt Nam chủ yếu sử dụng hai loại vỏ cây. Giấy dó làm từ vỏ cây dó, cũng như giấy dướng làm từ vỏ cây dướng. Điều này khác hẳn công nghệ sản xuất giấy hiện đại, bỏ vỏ cây, chỉ lấy thân gỗ làm bột giấy.
Người thợ giấy thủ công ngâm ủ, đãi nguyên liệu vỏ dó, vỏ dướng và đem giã dó bằng cối giã như giã gạo, hay giã bột bút, chứ không đem nghiền bột giấy như kĩ nghệ giấy hiện đại.
Theo mô tả ở trên vỏ của thứ cây làm giấy Mặt hương có “vân hình cá, rất thơm, bền và mềm. Khi thấm mực nó không bị mủn” là cây dó, có tên tiếng Anh là Aquilaria Aquillocha. Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (1518 – 1593) gọi cây này là cây Trầm Hương, được biết nó có mọc ở Việt Nam vàẤn Độ. (Thật ra cây Trầm Hương là một loại cây dó đặc biệt trong lõi cây có nhựa thơm), người Việt sử dụng làm hương liệu loại quý.
Ghi chép thứ hai nói về việc du nhập giấy vào Trung Quốc từ Nam Việt. Nguồn trích dẫn từ sách Thập Di Ký của Vương Gia (TK thứ 4), được Tiêu Ý san nhuận vào Thế kỷ thứ 6.
Chuyện kể rằng: Trương Hoa (232 – 300) đã soạn cuốn “Bác Vật Chí” dâng lên Vũ Đế. Công trình gồm 400 quyển được rút lại còn 10 quyển. Hoàng đế ban cho Trương Hoa đồ dùng để chép lại công trình: một thỏi mực bằng đá Khotan, một cây bút cán bằng sừng kỳ lân (đến từ nước Liêu Tây) và một vạn tờ giấy Trắc Lý Chỉ (giấy Gân Nghiêng) đến từ Nam Việt. Tài liệu còn viết thêm rằng các từ ngữ Chỉ Lý và Trắc Lý có thể đổi chỗ cho nhau. Người phương Nam làm giấy bằng rong. Gân của nó dọc và ngang đều chạy nghiêng, vì vậy mà có tên đó.
Đến TK thứ 10, giấy gân nghiêng một lần nữa được nhắc lại trong chương nói về giấy của cuốn “Văn Phòng Tứ Phả” do Tôn Di Giản biên soạn. Ông này có thêm lời giải thích lấy từ sách Bản Thảo như sau:
“Cây Chỉ Lý có vị ngọt, rất mát, không độc. Trị cảm hàn ở tâm và phúc, làm tăng nhiệt trung bình và tiêu hoá ngũ cốc, làm tăng khí của dạ dày và ngăn tiêu chảy. Nó mọc trong hồ đầm phía Nam Trường Giang (sông Dương Tử) Đào Hoàng Cảnh (451-536) tác giả “Thần Nông Bản Thảo Kinh” nói rằng: người phương Nam dùng cây đó làm giấy”.
Những ghi chép trên khẳng định một điều nghề làm giấy ở Việt Nam đã rất phát triển từ thế kỷ III (sau CN) và càng phát triển hơn ở những thế kỷ sau. Giấy được sản xuất ra với khối lượng lớn, chất lượng vượt trội so với giấy của Trung Quốc.
Vào thời điểm những thế kỷ đầu sau CN mà dân Việt đã sản xuất được số lượng lớn giấy làm thương phẩm hàng hoá để các sứ thần, nhà buôn, có thể trao đổi thì rõ ràng là giấy phải được sản xuất từ rất lâu trước đó, và là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp của người Việt xưa. Theo Jean – Pierre Drège có thể lùi thời điểm phát minh giấy về TK thứ 2 trước CN. Những loại giấy cổ từ Việt Nam, được truyền sang Nam Trung Quốc và tiếp nhận vào lưu vực Trường Giang.
Về ông tổ nghề làm giấy, ở làng An Cốc, xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên (tỉnh Hà Đông Xũ nay thuộc Hà Nội) một trong những làng có nghề làm giấy lâu đời, hiện vẫn giữ được một quyển sách viết bằng chữ Nôm nói về cụ tổ nghề, có đoạn như sau:
Mừng công nghĩa hiệp khéo tay
Khuôn phép ngày rày học được Thái Luân
Chữ rằng nghệ tinh thân vinh
Nhờ ơn ngày trước Thái Luân học cùng.
Vậy Thái Luân là ai? Cổ sử Trung Hoa nói rõ ông tổ của nghề làm giấy là Thái Luân – một viên quan nhỏ sống vào thời Đông Hán (năm 105 sau CN).
Sách Hậu Hán thư đã ghi:
“Từ thời cổ đại, sách và tài liệu phần lớn được chép trên thẻ que, rồi sau đó chép trên lụa, gọi là chỉ. Lụa thì đắt tiền, thẻ tre thì nặng, cả hai đều không thuận tiện. Bấy giờ Thái Luân bèn có ý định dùng vỏ cây, sợi gai, vải cũ và lưới đánh cá để làm giấy. Năm Nguyên Hưng thứ nhất, ông trình với Hoàng đế và được chấp thuận. Từ đấy, giấy bắt đầu được dùng khắp nơi và vì vậy mà trong toàn cõi đế chế, người ta gọi nó là giấy Sáu Hầu”.
Sách “Bách Việt Tiên Hiền Chí – Lĩnh Nam Di Thư” viết về các người hiền tài của Bách Việt, Lĩnh Nam có tiểu sử của Thái Luân chi tiết hơn:
“Thái Luân tự là Kính Trọng, người ở Quế Dương, cuối niên hiệu Vĩnh Bình (sinh vào năm 61 công nguyên), làm cấp sự quan dịch, một chức quan nhỏ, chờ chực khi có việc, nhà vua sai khiến. Sau này, Thái Luân được thăng làm Thượng phương lệnh. Năm Vĩnh Nguyễn thứ 9, được giao trọng trách coi việc rèn bí kiếm cùng các loại khí giới khác. Bí kiếm là loại kiếm báu, rất sắc bén, được coi là kiếm thần của nhà Hán. Cách rèn khí giới của Luân, không thứ nào không bền và sắc, làm thành phương pháp cho đời sau noi theo. Luân lại còn là người đầu tiên làm ra giấy để viết”.
Quế Dương là đất Việt, bị nhà Hán chiếm và chia cắt, nhiều lần thay đổi, sát nhập, cốt để người đời sau lần tìm về cội nguồn không biết đâu mà căn cứ. Thời kỳ này nước ta đã bị bọn xâm lược nhà Hán đô hộ. Thái Luân là người Việt, sinh ra trên đất Việt, làm quan dưới triều của nhà Hán.
Qua các tài liệu trên cho thấy kỹ thuật làm giấy của người Việt đã có trên lãnh thổ nước Văn Lang từ rất lâu. Thái Luân chỉ là người thừa kế kỹ thuật làm giấy của Tổ tiên Việt xa xưa đã đúc kết kinh nghiệm trong dân gian để làm ra giấy một cách quy mô, bài bản hơn. Ông là người Việt làm quan trong triều đình nhà Hán, phụ trách xưởng chế tác hoàng cung dưới thời Hậu Hán, đã xin vua Hán cho phép làm giấy theo công nghệ cải tiến hơn, vào năm 105 sau CN.
Sự phát triển của việc sử dụng giấy ở Trung Quốc tương đối chậm, bởi lẽ, cho đến TK 3 sau CN, ở Trung Quốc người ta vẫn dùng các loại thẻ gỗ, thẻ tre để viết. Suốt TK thứ 2, giấy chỉ được dùng hạn chế, sang TK 3, tình hình đã thay đổi và giấy được dùng rộng rãi hơn. Nó có mặt ở vùng phía Tây như Lân Lan gần hồ Lobnor, trên sa mạc Taklamakan hay ở bồn địa Thổ Phồn, cách Urumxi 100km, tại vùng Tân Cương. Việc sử dụng giấy được truyền bá lên cả vùng Đông Bắc, Triều Tiên, và sau đó sang Nhật Bản, tại đây mãi cho đến TK thứ 7 mới có nghề sản xuất giấy.
Rõ ràng là giấy trong nền văn hoá Lạc Việt là một phát kiến của nền văn minh Đông Sơn (khoảng 2800 – Trước Công nguyên). Giấy được dùng để ghi chép từ thời các vua Hùng. Kỹ thuật làm giấy không ngừng được cải tiến, từ hai loại giấy ban đầu đến nay có hàng chục loại giấy cổ truyền được sản xuất như Giấy phương; Giấy trúc; Giấy khay’ Giấy [để tạo] giấy sắc’ Giấy vua phê; Giấy hành ri; Giấy bìa…
---PGS Đỗ Tòng chủ biên---