e. Tên lửa đối hạm của Pháp
Tên lửa đất đối hạm MM-40 Exocet
MM-40 Exocet được phát triển trên cơ sở cải tiến tên lửa hạm đối hạm MM-38 Exocet. Với kích thước và trọng lượng lớn hơn (dài 5,7m; sải cánh 1,135m; trọng lượng phóng 850kg), MM-40 Exocet có tầm bắn xa 70km. Mỗi bệ phóng tự hành mang theo 4 ống phóng.
Tên lửa hành trình chống ngầm Malafon
Malafon có trọng lượng phóng 1.300kg, chiều dài 6,15m; đường kính 0,65m; được phóng bằng 02 động cơ nhiên liệu rắn có tầm bay xa 18km với tốc độ 720km/h. Hai động cơ chỉ hoạt động vài giây đầu để tạo gia tốc, sau đó tên lửa bay theo quán tính, được điều khiển theo chương trình định sẵn. Trong 1/3 đoạn đường bay đầu tiên dạng đường bay được duy trì nhờ một máy đo cao vô tuyến, sau đó được điều khiển theo lệnh vô tuyến của tàu phóng. Khi cách mục tiêu khoảng 800m, dù hãm được bung ra theo lệnh vô tuyến, ngư lôi tách khỏi tên lửa, rơi xuống nước và tìm đến mục tiêu nhờ đầu tự dẫn âm thanh.
Tên lửa không đối hạm Exocet
Pháp là quốc gia có nhiều tên lửa không đối hạm hơn các nước khác. Từ những tên lửa đầu tiên là các tên lửa nhỏ cải tiến từ tên lửa chống tăng AS-11 (dài 1,2m, đường kính thân 0,16m, sải cánh 0,5m, tầm bắn 3km) và AS-12 (dài 1,87m, đường kính thân 0,21m, sải cánh 0,65m, tầm bắn 6km); những tên lửa này được điều khiển bằng dây có thể lắp lên trực thăng hạng nhẹ, được dùng để tiến công linh hoạt vào các mục tiêu ít được bảo vệ như tàu chở hàng, tàu đổ bộ. Tên lửa đối hạm AS-15-TT được lắp trên trực thăng là loại tên lửa hoạt động ở mọi thời tiết dùng để thay thế cho hai loại trên có tầm bắn đến 15km, điều khiển bằng rađa CSF-AGRION-15. Tên lửa còn được trang bị một máy đo cao vô tuyến để bay sát mặt biển, sử dụng động cơ là rocket nhiên liệu rắn; có chiều dài 2,3m, đường kính thân 0,18m, sải cánh 0,53m. AM-39 là biến thể của tên lửa này có chiều dài 4,69m, đường kính thân 0,35m, sải cánh 1,04m, trọng lượng 650kg, tầm bắn 50km nhờ cải tiến động cơ phản lực và nhiên liệu phản lực mạnh. Tên lửa này được trang bị cho trực thăng hạng nặng hoặc máy bay trinh sát hải quân.
Tên lửa đất đối hạm MM-40 Exocet
MM-40 Exocet được phát triển trên cơ sở cải tiến tên lửa hạm đối hạm MM-38 Exocet. Với kích thước và trọng lượng lớn hơn (dài 5,7m; sải cánh 1,135m; trọng lượng phóng 850kg), MM-40 Exocet có tầm bắn xa 70km. Mỗi bệ phóng tự hành mang theo 4 ống phóng.
Tên lửa hành trình chống ngầm Malafon
Malafon có trọng lượng phóng 1.300kg, chiều dài 6,15m; đường kính 0,65m; được phóng bằng 02 động cơ nhiên liệu rắn có tầm bay xa 18km với tốc độ 720km/h. Hai động cơ chỉ hoạt động vài giây đầu để tạo gia tốc, sau đó tên lửa bay theo quán tính, được điều khiển theo chương trình định sẵn. Trong 1/3 đoạn đường bay đầu tiên dạng đường bay được duy trì nhờ một máy đo cao vô tuyến, sau đó được điều khiển theo lệnh vô tuyến của tàu phóng. Khi cách mục tiêu khoảng 800m, dù hãm được bung ra theo lệnh vô tuyến, ngư lôi tách khỏi tên lửa, rơi xuống nước và tìm đến mục tiêu nhờ đầu tự dẫn âm thanh.
Tên lửa không đối hạm Exocet
Pháp là quốc gia có nhiều tên lửa không đối hạm hơn các nước khác. Từ những tên lửa đầu tiên là các tên lửa nhỏ cải tiến từ tên lửa chống tăng AS-11 (dài 1,2m, đường kính thân 0,16m, sải cánh 0,5m, tầm bắn 3km) và AS-12 (dài 1,87m, đường kính thân 0,21m, sải cánh 0,65m, tầm bắn 6km); những tên lửa này được điều khiển bằng dây có thể lắp lên trực thăng hạng nhẹ, được dùng để tiến công linh hoạt vào các mục tiêu ít được bảo vệ như tàu chở hàng, tàu đổ bộ. Tên lửa đối hạm AS-15-TT được lắp trên trực thăng là loại tên lửa hoạt động ở mọi thời tiết dùng để thay thế cho hai loại trên có tầm bắn đến 15km, điều khiển bằng rađa CSF-AGRION-15. Tên lửa còn được trang bị một máy đo cao vô tuyến để bay sát mặt biển, sử dụng động cơ là rocket nhiên liệu rắn; có chiều dài 2,3m, đường kính thân 0,18m, sải cánh 0,53m. AM-39 là biến thể của tên lửa này có chiều dài 4,69m, đường kính thân 0,35m, sải cánh 1,04m, trọng lượng 650kg, tầm bắn 50km nhờ cải tiến động cơ phản lực và nhiên liệu phản lực mạnh. Tên lửa này được trang bị cho trực thăng hạng nặng hoặc máy bay trinh sát hải quân.