(Tiếp)
Tên lửa hạm đối hạm được xếp vào loại TLĐH tiến công. Điển hình là Harpoon, Tomahawk (Mỹ); SS-N-2B Styx, SS-N-3 (Liên Xô), Exocet (Pháp), Penguin (Na Uy), OTOMAT (Italy, Pháp)... Một số nước đã nghiên cứu cải tiến hệ tên lửa hạm tàu để có thể đảm nhiệm cả hai nhiệm vụ phòng không và chống hạm như Sea Sparrow (Mỹ), Sea Dart (Anh). Tên lửa Sea Skua (Anh) và Sea Killer (Italia) là những loại tên lửa không đối hạm điển hình. Tên lửa đất đối hạm phần lớn là những loại cải tiến từ tên lửa hạm đối hạm, bố trí cố định trên bờ biển hay trên các xe cơ động. Tên lửa đất đối hạm Silkworm của Trung Quốc được Iran sử dụng trong Chiến tranh Iran-Irắc là loại được cải tiến từ tên lửa SS-N-2C của Liên Xô. Tên lửa hạm đối hạm Exocet cũng đã được Achentina cải tiến thành tên lửa phòng thủ bờ biển đã hoạt động hiệu quả trong Chiến tranh Manvinat. Liên Xô đã cải tiến tên lửa không đối đất Kanal thành tên lửa bảo vệ bờ biển SSC-2 Samlet. Trong một cuộc triển lãm hàng không ở Paris, Trung Quốc đã trưng bày nhiều loại TLĐH phóng từ bờ như HY-2 Hải Ưng và FL-2 Phi Long, là các loại được cải tiến từ TLĐH của Liên Xô.
Từ cuối thập niên 1950 của thế kỷ 20, các nước tư bản đã phát triển các tên lửa có cánh (cruise) hay còn gọi là TLHTĐH. Đầu tiên là tên lửa SS-12M, cải tiến từ tên lửa chống tăng SS-12 (Pháp), sau đó là Sea Killer của Italia với các kiểu Mk-1, Mk-2. Trước khi có Harpoon và Tomahawk, Mỹ đã đưa tên lửa Sidewinder không đối không xuống tàu làm nhiệm vụ chống hạm (AGM-87A Focus), Anh có tên lửa Sea Dart vừa làm nhiệm vụ phòng không vừa kiêm nhiệm vụ chống hạm.
Do không có tàu sân bay lớn như Mỹ và các nước phương Tây khác nên Liên Xô đã sớm phát triển TLĐH và đưa vào trang bị nhiều kiểu loại khác nhau. Sự kiện tên lửa P-5 của Liên Xô (NATO gọi là SS-N-2 Styx), đánh đắm tàu khu trục Eilath của Ixraen ngày 21.10.1967 đã làm sửng sốt các nước phương Tây vì nó tỏ rõ sức mạnh của TLĐH. Được trang bị loại vũ khí này, một tàu hộ tống cỡ nhỏ vẫn có thể đánh đắm được tàu khu trục cỡ lớn. Sự kiện đó mở ra một thời kỳ mới-thời kỳ TLĐH trở thành mối uy hiếp chủ yếu đối với hải quân các nước. Từ đó, nhiều nước đã ra sức phát triển TLĐH, làm xuất hiện những kiểu loại TLĐH có tính năng cao, thế hệ mới như Harpoon, Penguin, Exocet, OTOMAT, Kormoran, Gabriel… Cũng từ đó một hướng phát triển mới xuất hiện là nghiên cứu chế tạo các hệ thống vũ khí phòng chống TLĐH.
Ngày nay, các phương tiện trinh sát, quan sát trên tàu không những có khả năng phát hiện mục tiêu với cự ly xa hơn, cả ngày lẫn đêm và trong mọi điều kiện thời tiết, mà còn được sự hỗ trợ của các phương tiện trinh sát, báo động sớm từ trên không và trên vũ trụ. Sự phát triển của kỹ thuật điện tử đã tạo điều kiện nâng cao tính năng của vũ khí chống hạm mới nhờ sự kết hợp với các Hệ thống chỉ huy, kiểm soát, thông tin và tình báo (C3I), nhưng cũng đã làm cho môi trường điện-từ mà tên lửa hoạt động trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Sự phối hợp tác chiến giữa hạm tàu và máy bay, trực thăng trong tiến công cũng làm tăng thêm tính bất ngờ, hiệu quả của TLĐH và các phương tiện phòng chống nó. Tuy nhiên, TLĐH dễ bị rađa phát hiện và các phương tiện trinh sát, chiến tranh điện tử có thể gây nhiễu và đánh lạc hướng. Trong bối cảnh đó, những yêu cầu về tầm bắn, khả năng tiến công bất ngờ, xác suất trúng đích, khả năng sống còn (tránh bị phát hiện và tiêu diệt trước khi đến được mục tiêu) và khả năng chống nhiễu của TLĐH cũng ngày càng cao, dẫn đễn sự ra đời của những TLĐH thế hệ mới sau này.
Sự phát triển của TLĐH có thể được khái quát như sau:
Tên lửa đối hạm thế hệ 1
Được nghiên cứu chế tạo trong khoảng thời gian từ cuối những năm 40 đến cuối những năm 50, chủ yếu để tiến công tàu sân bay, tàu chiến nổi, hải cảng và mục tiêu trên bờ. Loại tên lửa này thường sử dụng động cơ tuabin phản lực, điều khiển bằng chùm sóng hoặc vô tuyến điện, có thể tích lớn, tốc độ chậm, tính năng kỹ-chiến thuật còn hạn chế, hệ thống thiết bị cồng kềnh. Ðại diện cho loại này là SS-N-1 của Liên Xô, Sea Sparrow của Mỹ.
SS-N-1
Sea Sparrow
Tên lửa đối hạm thế hệ 2
Được nghiên cứu chế tạo trong khoảng thời gian thập kỷ 60. Loại tên lửa thế hệ này có thể tích nhỏ hơn, nhẹ hơn, dễ thao tác, song tốc độ vẫn tương đối chậm, tầm bắn gần, chỉ có thể phóng từ bờ và trên hạm. Ðiển hình là SS-N-2A của Liên Xô và Exocet MM-38 của Pháp.
SS-N-2A
Exocet MM-38
Tên lửa đối hạm thế hệ 3
Được nghiên cứu chế tạo từ đầu thập kỷ 70 đến đầu thập kỷ 80, chủ yếu để tiến công tàu tuần dương, tàu khu trục và các mục tiêu trên biển. Về cơ bản, chúng có thể tích nhỏ, đa năng, nhiều chủng loại, có thể phóng từ nhiều loại phương tiện mang; sử dụng các kỹ thuật như đường bay lôgic máy tính, rađa chủ động dải tần rộng, đầu dẫn điều khiển phức hợp, nâng cao được khả năng chống nhiễu; được lắp động cơ tuabin phản lực, nâng cao tầm bắn và tốc độ, uy lực lớn. Tiêu biểu cho loại này là tên lửa MM-40 của Pháp, OTOMACH-I (Italia), SS-N-12 (Liên Xô) hay tên lửa chống ngầm Exocet AM39 (Pháp), AGM-84A (Mỹ).
MM-40
SS-N-12
AGM-84A
Tên lửa đối hạm thế hệ 4
Loại tên lửa thế hệ này có tính đến khả năng phát triển của các loại vũ khí phòng không trên hạm. Ðầu thập kỷ 80, Ixraen, Anh bắt đầu nghiên cứu chế tạo TLĐH thế hệ 4 để thay thế các TLĐH cũ có tốc độ dưới âm, nhằm tăng khả năng đột kích đường không trong điều kiện các loại vũ khí phòng không trên hạm phát triển mạnh. Tên lửa đối hạm thế hệ này được sử dụng kỹ thuật tiên tiến có tốc độ siêu âm và vượt âm; có tầm bắn xa hàng trăm km, thậm chí hàng nghìn km như: Mk-4 của Thuỵ Điển có tầm bắn là 1.000km, DF-21 của Trung Quốc là 1.700km... Các hệ thống tên lửa này thường được trang bị hệ thống dẫn đường vệ tinh, đa năng hoá, đa dạng hoá, trí năng hoá, có khả năng tàng hình, chống nhiễu tốt. Điển hình các loại TLĐH đa năng này là các hệ thống như Exocet MM-40 Block-3 của Pháp; RBS-15 Mk-3 của Thụy Điển hay hệ thống mới như Club-M, Club-K của Nga; BrahMos của Ấn Độ... Tên lửa loại này đang được các nước chú trọng nghiên cứu phát triển và không ngừng hoàn thiện.
Mk-4
DF-21
Club-M
BrahMos
Tên lửa hạm đối hạm được xếp vào loại TLĐH tiến công. Điển hình là Harpoon, Tomahawk (Mỹ); SS-N-2B Styx, SS-N-3 (Liên Xô), Exocet (Pháp), Penguin (Na Uy), OTOMAT (Italy, Pháp)... Một số nước đã nghiên cứu cải tiến hệ tên lửa hạm tàu để có thể đảm nhiệm cả hai nhiệm vụ phòng không và chống hạm như Sea Sparrow (Mỹ), Sea Dart (Anh). Tên lửa Sea Skua (Anh) và Sea Killer (Italia) là những loại tên lửa không đối hạm điển hình. Tên lửa đất đối hạm phần lớn là những loại cải tiến từ tên lửa hạm đối hạm, bố trí cố định trên bờ biển hay trên các xe cơ động. Tên lửa đất đối hạm Silkworm của Trung Quốc được Iran sử dụng trong Chiến tranh Iran-Irắc là loại được cải tiến từ tên lửa SS-N-2C của Liên Xô. Tên lửa hạm đối hạm Exocet cũng đã được Achentina cải tiến thành tên lửa phòng thủ bờ biển đã hoạt động hiệu quả trong Chiến tranh Manvinat. Liên Xô đã cải tiến tên lửa không đối đất Kanal thành tên lửa bảo vệ bờ biển SSC-2 Samlet. Trong một cuộc triển lãm hàng không ở Paris, Trung Quốc đã trưng bày nhiều loại TLĐH phóng từ bờ như HY-2 Hải Ưng và FL-2 Phi Long, là các loại được cải tiến từ TLĐH của Liên Xô.
Từ cuối thập niên 1950 của thế kỷ 20, các nước tư bản đã phát triển các tên lửa có cánh (cruise) hay còn gọi là TLHTĐH. Đầu tiên là tên lửa SS-12M, cải tiến từ tên lửa chống tăng SS-12 (Pháp), sau đó là Sea Killer của Italia với các kiểu Mk-1, Mk-2. Trước khi có Harpoon và Tomahawk, Mỹ đã đưa tên lửa Sidewinder không đối không xuống tàu làm nhiệm vụ chống hạm (AGM-87A Focus), Anh có tên lửa Sea Dart vừa làm nhiệm vụ phòng không vừa kiêm nhiệm vụ chống hạm.
Do không có tàu sân bay lớn như Mỹ và các nước phương Tây khác nên Liên Xô đã sớm phát triển TLĐH và đưa vào trang bị nhiều kiểu loại khác nhau. Sự kiện tên lửa P-5 của Liên Xô (NATO gọi là SS-N-2 Styx), đánh đắm tàu khu trục Eilath của Ixraen ngày 21.10.1967 đã làm sửng sốt các nước phương Tây vì nó tỏ rõ sức mạnh của TLĐH. Được trang bị loại vũ khí này, một tàu hộ tống cỡ nhỏ vẫn có thể đánh đắm được tàu khu trục cỡ lớn. Sự kiện đó mở ra một thời kỳ mới-thời kỳ TLĐH trở thành mối uy hiếp chủ yếu đối với hải quân các nước. Từ đó, nhiều nước đã ra sức phát triển TLĐH, làm xuất hiện những kiểu loại TLĐH có tính năng cao, thế hệ mới như Harpoon, Penguin, Exocet, OTOMAT, Kormoran, Gabriel… Cũng từ đó một hướng phát triển mới xuất hiện là nghiên cứu chế tạo các hệ thống vũ khí phòng chống TLĐH.
Ngày nay, các phương tiện trinh sát, quan sát trên tàu không những có khả năng phát hiện mục tiêu với cự ly xa hơn, cả ngày lẫn đêm và trong mọi điều kiện thời tiết, mà còn được sự hỗ trợ của các phương tiện trinh sát, báo động sớm từ trên không và trên vũ trụ. Sự phát triển của kỹ thuật điện tử đã tạo điều kiện nâng cao tính năng của vũ khí chống hạm mới nhờ sự kết hợp với các Hệ thống chỉ huy, kiểm soát, thông tin và tình báo (C3I), nhưng cũng đã làm cho môi trường điện-từ mà tên lửa hoạt động trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Sự phối hợp tác chiến giữa hạm tàu và máy bay, trực thăng trong tiến công cũng làm tăng thêm tính bất ngờ, hiệu quả của TLĐH và các phương tiện phòng chống nó. Tuy nhiên, TLĐH dễ bị rađa phát hiện và các phương tiện trinh sát, chiến tranh điện tử có thể gây nhiễu và đánh lạc hướng. Trong bối cảnh đó, những yêu cầu về tầm bắn, khả năng tiến công bất ngờ, xác suất trúng đích, khả năng sống còn (tránh bị phát hiện và tiêu diệt trước khi đến được mục tiêu) và khả năng chống nhiễu của TLĐH cũng ngày càng cao, dẫn đễn sự ra đời của những TLĐH thế hệ mới sau này.
Sự phát triển của TLĐH có thể được khái quát như sau:
Tên lửa đối hạm thế hệ 1
Được nghiên cứu chế tạo trong khoảng thời gian từ cuối những năm 40 đến cuối những năm 50, chủ yếu để tiến công tàu sân bay, tàu chiến nổi, hải cảng và mục tiêu trên bờ. Loại tên lửa này thường sử dụng động cơ tuabin phản lực, điều khiển bằng chùm sóng hoặc vô tuyến điện, có thể tích lớn, tốc độ chậm, tính năng kỹ-chiến thuật còn hạn chế, hệ thống thiết bị cồng kềnh. Ðại diện cho loại này là SS-N-1 của Liên Xô, Sea Sparrow của Mỹ.
SS-N-1
Sea Sparrow
Tên lửa đối hạm thế hệ 2
Được nghiên cứu chế tạo trong khoảng thời gian thập kỷ 60. Loại tên lửa thế hệ này có thể tích nhỏ hơn, nhẹ hơn, dễ thao tác, song tốc độ vẫn tương đối chậm, tầm bắn gần, chỉ có thể phóng từ bờ và trên hạm. Ðiển hình là SS-N-2A của Liên Xô và Exocet MM-38 của Pháp.
SS-N-2A
Exocet MM-38
Tên lửa đối hạm thế hệ 3
Được nghiên cứu chế tạo từ đầu thập kỷ 70 đến đầu thập kỷ 80, chủ yếu để tiến công tàu tuần dương, tàu khu trục và các mục tiêu trên biển. Về cơ bản, chúng có thể tích nhỏ, đa năng, nhiều chủng loại, có thể phóng từ nhiều loại phương tiện mang; sử dụng các kỹ thuật như đường bay lôgic máy tính, rađa chủ động dải tần rộng, đầu dẫn điều khiển phức hợp, nâng cao được khả năng chống nhiễu; được lắp động cơ tuabin phản lực, nâng cao tầm bắn và tốc độ, uy lực lớn. Tiêu biểu cho loại này là tên lửa MM-40 của Pháp, OTOMACH-I (Italia), SS-N-12 (Liên Xô) hay tên lửa chống ngầm Exocet AM39 (Pháp), AGM-84A (Mỹ).
MM-40
SS-N-12
AGM-84A
Tên lửa đối hạm thế hệ 4
Loại tên lửa thế hệ này có tính đến khả năng phát triển của các loại vũ khí phòng không trên hạm. Ðầu thập kỷ 80, Ixraen, Anh bắt đầu nghiên cứu chế tạo TLĐH thế hệ 4 để thay thế các TLĐH cũ có tốc độ dưới âm, nhằm tăng khả năng đột kích đường không trong điều kiện các loại vũ khí phòng không trên hạm phát triển mạnh. Tên lửa đối hạm thế hệ này được sử dụng kỹ thuật tiên tiến có tốc độ siêu âm và vượt âm; có tầm bắn xa hàng trăm km, thậm chí hàng nghìn km như: Mk-4 của Thuỵ Điển có tầm bắn là 1.000km, DF-21 của Trung Quốc là 1.700km... Các hệ thống tên lửa này thường được trang bị hệ thống dẫn đường vệ tinh, đa năng hoá, đa dạng hoá, trí năng hoá, có khả năng tàng hình, chống nhiễu tốt. Điển hình các loại TLĐH đa năng này là các hệ thống như Exocet MM-40 Block-3 của Pháp; RBS-15 Mk-3 của Thụy Điển hay hệ thống mới như Club-M, Club-K của Nga; BrahMos của Ấn Độ... Tên lửa loại này đang được các nước chú trọng nghiên cứu phát triển và không ngừng hoàn thiện.
Mk-4
DF-21
Club-M
BrahMos