Các cụ phản ứng mạnh là do kiểu viết bài mang tính giật gân của cụ chủ thớt mà thôi. Tuy nhiên, phải nhìn nhận là cây/rau sam biển này cũng không phải là đồ bỏ đi. Vấn đề cơ bản vẫn là giá trị sử dụng của nó. Nhà cháu trích dịch một đoạn trong Vinayak H. Lokhande, Bhoomi K. Gor, Neetin S. Desai, Tukaram D. Nikam & Penna Suprasanna, 2013.
Sesuvium portulacastrum, a plant for drought, salt stress, sand fixation, food and phytoremediation. A review.
Agron. Sustain. Dev. 33: 329–348, DOI: 10.1007/s13593-012-0113-x (
https://hal.science/hal-01201356/document). Trích đoạn để dịch sang tiếng Việt lấy từ trang 342-343.
Về mặt y học và kinh tế,
Sesuvium chứa các chất chuyển hóa thứ cấp, cho thấy tiềm năng lớn trong việc thay thế một số nguyên vật liệu tổng hợp trong các ngành công nghiệp thực phẩm, nước hoa, mỹ phẩm và dược phẩm (Lis-Balchin và Deans 1997). Loài cây này được sử dụng trong y học cổ truyền như một phương thuốc chữa sốt, rối loạn thận và bệnh scorbut (Rojas và cộng sự 1992) của người dân bản địa ở châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan và Nhật Bản. Loài cây này được sử dụng ở bờ biển Senegal như một loại thuốc cầm máu và thuốc sắc của nó được coi là thuốc giải độc tốt nhất cho vết chích của cá có nọc/ngạnh độc. Lá của nó có vị chua như của cây chua me cũng như có tác dụng chống bệnh scorbut (Anonymous 2009; Lokhande và cộng sự 2009a). Loài cây này được biết là có chứa polysaccharide (đa đường), có hoạt tính tích cực chống lại HIV (Padmakumar và Ayyakkannu 1997).
Tinh dầu chiết xuất từ lá
Sesuvium cho thấy hoạt tính kháng khuẩn đáng chú ý chống lại cả vi khuẩn gam dương và gam âm, đồng thời cho thấy hoạt tính chống nấm và chống oxi hóa đáng kể (Magawa và cộng sự 2006). Tinh dầu thể hiện các hoạt tính này được cho là do có hàm lượng monoterpene tương đối cao, thực tế bao gồm hàm lượng ít hay nhiều các hợp chất hydrocarbon như O-cymene, 2-β-pinene, α-pinene, 1, 8-cineole, limonene, α-terpinene, α-terpinolene và camphene. Các thành phần hóa học này phát huy tác dụng độc hại của chúng đối với các vi sinh vật này thông qua việc phá vỡ tính toàn vẹn của màng vi khuẩn hoặc nấm (Magawa và cộng sự 2006). Các methyl este của axit béo (chiết xuất FAME) từ lá
Sesuvium được chứng minh là có chứa nhiều axit béo bão hòa hơn axit béo không bão hòa và chiết xuất này thể hiện hoạt tính kháng vi sinh vật đối với các loài nấm
Aspergillus fumigatus và
Aspergillus niger (Chandrasekaran và cộng sự 2011 (
https://www.europeanreview.org/wp/wp-content/uploads/995.pdf)). Các chiết xuất methanol của loài cây này góp phần vào hoạt động ức chế cholinesterase của nó, có thể sánh ngang với loại thuốc Donepezil tiêu chuẩn được sử dụng trong điều trị bệnh Alzheimer (Suganthy và cộng sự 2009). Ngoài ra, loài cây này còn là một nguồn giàu các alkaloid, axit amin, polysaccharide, khoáng chất, saponin, steroid và triterpene từng được sử dụng do hoạt tính kháng virus trong chữa bệnh viêm gan và các bệnh khác (Joshi và Bhosale 1981; Premnathan và cộng sự 1995; Padmakumar và Ayyakkannu 1997; Bandaranayake 2002).
Sesuvium portulacastrum đôi khi được trồng làm rau trong nấu ăn ở Ấn Độ và Đông Nam Á (Hammer 2001). Nó có giá trị thực phẩm tiềm năng lớn và cũng được sử dụng làm rau hoang dại ở miền nam Ấn Độ vì vị mặn và vị bùi của nó (Kathiresan và cộng sự 1997; Ramani và cộng sự 2006; Lokhande và cộng sự 2009a). Ước tính sơ bộ về giá trị dinh dưỡng cho thấy hàm lượng protein 10,2%, chất béo 0,24%, tro tổng cộng 33%, chất xơ thô 9,9%, cacbohydrat 45,5% và nhiệt trị 223 K calo. Xem xét thành phần dinh dưỡng của nó, loài cây có thể được sử dụng để bổ sung như một loại rau ở vùng ven biển. Ngoài ra, cây mọc ở vùng khô cằn và bán khô hạn có thể cung cấp nguồn thức ăn thay thế cho vật nuôi.
Sự gia tăng đáng kể về tốc độ tăng trưởng và sản xuất sinh khối được ghi nhận ở cây hạt chứa dầu như lạc (
Arachis hypogaea) khi nó được trồng trong đất có chứa phân hữu cơ từ cây chịu mặn (sam biển (
Sesuvium portulacastrum), phì diệp biển (
Suaeda maritima) và muống biển (
Ipomoea pes-caprae)) cùng với phân chuồng và phân lân hòa tan bằng vi khuẩn (vi khuẩn phospho). Phân trộn thực vật chịu mặn này được chứng minh là cải thiện đáng kể hệ vi sinh vật trong đất như vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn cũng như các hoạt động của enzym trong đất như dehydrogenase, phosphatase kiềm và urease (Balakrishnan và cộng sự 2007). Ravindran và cộng sự (2007) đề xuất việc sử dụng phân hữu cơ từ các loại cây chịu mặn phát triển um tùm này như một nguồn thay thế cho phân hóa học để tăng độ phì nhiêu của đất và sản lượng cây trồng, điều này làm tăng thêm giá trị của cây chịu mặn. Sau 120 ngày canh tác với
Sesuvium, độ dẫn điện (EC) trong đất đã giảm từ 4,9 xuống 2,5 dS/m, trong khi ở cây mẫu đối chứng, EC tăng từ 4,3 lên 15,3 dS/m. Tỷ lệ hấp thụ natri (SAR) cũng giảm từ 15,55 xuống 5,09 (giảm 67%). Ngoài ra, đậu mười/đậu xanh bốn mùa (
Vigna mungo) được xen canh trên ruộng lúa với sự hiện diện của
S. portulacastrum cùng với phân hữu cơ rừng ngập mặn khác chứa phì diệp biển (
Suaeda maritima), trà mủ/giá (
Excoecaria agallocha), trùm gọng/ngọc nữ biển (
Volkameria inermis) và muống biển (
Ipomoea pes-caprae) cho thấy sự cải thiện đáng kể về các thông số tăng trưởng (chiều dài chồi và rễ, tổng số lá, trọng lượng cây tươi, tổng số nốt rễ sần, trọng lượng nốt rễ sần tươi và tổng số cành) so với đất không bón phân này (Balakrishnan và cộng sự 2010).
Lưu ý tới vấn đề độ phì nhiêu của đất nông nghiệp ở các vùng khô cằn và bán khô cằn ngày càng giảm xuống do sử dụng quá mức các loại phân hóa học độc hại và sự sẵn có không ổn định của chúng trên thị trường, phân hữu cơ tạo ra từ các loại cây chịu mặn phát triển nhanh này, như một loại quà tặng thiên nhiên dễ kiếm này, có thể trở thành nguồn phân bón tiềm năng trong tương lai cho sự phát triển nền nông nghiệp bền vững.
Kanth và cộng sự. (2009a, b) cho rằng
Sesuvium có thể được sử dụng thay thế muối trong quá trình xử lý da dê và cho rằng chất lượng của da dê được bảo quản trong bột nhão làm từ bột cây
Sesuvium khô ngang bằng với chất lượng của da được bảo quản trong muối. Là loài 'tích tụ muối',
S. portulacastrum mở ra một hướng mới cho việc sử dụng các loài thực vật ưa mặn như một nguồn chất bảo quản rẻ tiền thay thế cho muối để bảo quản cá, thịt v.v. trong các điều kiện được kiểm soát.
Về hoạt tính chống ung thư của
Sesuvium portulacastrum, có thể xem Sathvika Chintalapani, M. S. Swathi, Mangamoori Lakshmi Narasu, 2019. Antiproliferative and apoptosis inducing potential of whole plant extracts of
Sesuvium portulacastrum against different cancer cell lines.
Journal of Applied Pharmaceutical Science 9(2): 38-43, DOI: 10.7324/JAPS.2019.90205, ISSN 2231-3354 (
https://japsonline.com/admin/php/uploads/2834_pdf.pdf)
Trích dịch phần kết luận trong bài báo: Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng tất cả các chiết xuất từ
S. portulacastrum đều cho thấy hoạt tính chống ung thư phụ thuộc liều lượng đối với các dòng tế bào MDA-MB-231 [ung thư vú], IMR-32 [u nguyên bào thần kinh] và HCT-116 [ung thư đại trực tràng]. Trong số các dịch chiết, chiết xuất diethyl ether cho thấy hoạt tính cao nhất đối với tất cả các dòng tế bào được thử nghiệm. Công việc tiếp theo cần được thực hiện để phân lập, xác định và mô tả đặc tính của hợp chất có hoạt tính sinh học từ chiết xuất diethyl ether thô chịu trách nhiệm cho hoạt tính chống tăng sinh và nghiên cứu cơ chế hoạt động của nó.