Audi AG là một hãng sản xuất ô tô danh tiếng của Đức có trụ sở chính tại Ingolstadt, Bavaria và gần như thuộc sở hữu của Volkswagen Group (99,7%) từ năm 1964. Công ty được hình thành từ sự sáp nhập của 4 công ty khác là Audi và Horch tại Zwickau, Wanderer tại Chemnitz-Seigmar và DKW tại Zschopau – tạo ra một bước phát triển lớn trong nền sản xuất ô tô Đức. Bốn công ty này sáp nhập vào năm 1932 để tạo thành Auto Union AG, hãng sản xuất ô tô lớn thứ 2 tại thời điểm đó. Biểu tượng 4 vòng tròn đan xen vào nhau được chọn làm biểu tượng của Auto Union AG. Sau thế chiến thứ 2, nhà máy sản xuất của Auto Union AG tại Saxony bị sung công và tháo dỡ bởi quân đội Sô Viết. Một số giám đốc cấp cao của công ty chuyển đến Bavaria thành lập công ty mới năm 1949 với tên gọi Auto Union GmbH và tiếp tục công việc sản xuất ô tô với biểu tượng 4 vòng tròn đan xen vào nhau.
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Auto Union GmbH và NSU sáp nhập vào năm 1969 để thành lập Audi NSU Auto Union AG. Năm 1985, công ty đổi tên thành Audi AG và trụ sở chính được chuyển về Ingolstadt. Biểu tượng 4 vong tròn đan xen vào nhau vẫn được sử dụng làm biểu trưng của Audi cho đến ngày nay.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Horch[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
August Horch, một trong những người đi tiên phong trong ngành công nhiệp ô tô Đức, là nhân tố chính của công ty. Tốt nghiệp trường Cao đẳng Kỹ thuật tại thị trấn Mittweida, Saxony, ông bắt đấu làm việc tại nhà máy sản xuất động cơ tại Carl Benz, Mannheim và nhanh chóng trở thành giám đốc bộ phận chế tạo động cơ ô tô. Năm 1899, ông quyết định thành lập công ty Horch & Cie của riêng mình tại Cologne. Ông là người đầu tiên của Đức sử dụng nhôm nguyên khối để chế tạo động cơ và vỏ hộp số, khớp cađăng đóng vai trò truyền động và bánh răng bằng thép chịu lực. năm 1902, ông chuyển đến Reichenbach, Saxony và sau đó là đến Zwickau vào năm 1904. Sau khi chuyển đến Zwickau, Horch cho ra đời mẫu xe sử dụng động cơ 2 xylanh và sau đó là phiên bản 4 xylanh. Động cơ này mạnh mẽ đến nỗi chiếc xe Horch giành được thắng lợi tại cuộc đua Herkomer Run năm 1906, một cuộc đua đường trường khắc nghiệt nhất thế giới. Hai năm sau, lần đầu tiên công ty lập kỷ lục đạt doanh số hơn 100 xe/năm.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1909, sau những bất đồng với Ban giám đốc và Hội đồng quản trị, August Horch rời khỏi công ty mình đã tạo dưng và nhanh chóng thành lập một công ty ô tô khác tại Zwickau. Do tên của ông đã được đặt cho công ty trước và nó đã được đăng ký thương hiệu nên ông phải đặt tên mới cho công ty bằng cách dịch tên mình ra ngôn ngữ khác. Tên của ông có nghĩa là “hark” trong tiếng Đức (có nghĩa là “nghe” ) và trong tiếng La tinh là Audi.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
August Horch chuyển tới Berlin vào những năm 1920 và được bầu vào làm thành viên Hội đồng quản trị của Auto Union AG vào năm 1932. Tại đây, ông tiếp tục phụ trách việc phát triển công nghệ kỹ thuật mới. Horch sống những năm cuối đời tại Munchberg, Upper Franconia và ông mất năm 1951 thọ 83 tuổi.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Công ty vẫn giữ tên Horch cho một số mẫu xe sử dụng cấu trúc do Horch phát minh ra. Sau thế chiến thứ I, công ty sản suất động cơ máy bay Argus-Werke nắm giữ phần lớn cổ phần trong Horch. Hai trong số những kỹ sư giỏi nhất là Arnold Zoller và sau này là Paul Daimler, con trai của Gottlieb Daimler, được đưa lên phụ trách hoạt động của công ty Horch-Werke tại Zwickau.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Mùa thu năm 1926, Horch-Werke cho ra mắt mẫu xe mới, chiếc Horch 8, sử dụng động cơ 8 xylanh thẳng hàng do Paul Dainler phát minh. Động cơ này nổi bật nhờ sự ổn định và sức mạnh của nó, và vạch ra một tiêu chuẩn mà tất cả các đối thủ cạnh tranh khác luôn tìm cách cạnh tranh. Chiếc Horch 8 trở thành biểu tượng của sự sang trọng, tinh tế và cao cấp trong ngành công nghiệp ô tô.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1931, Horch-Werke giới thiệu mẫu xe mới nhất của mình tại triển lãm ô tô Paris, một chiếc mui trần sử dụng động cơ 12 xylanh với màu sơn vàng, mui mềm màu nâu và nội thất được phủ màu xanh lá. Từ năm 1932 đến 1934, chỉ có 80 chiếc mui trần này được bán ra do thị trường xe siêu sang đang trong thời kỳ ế ẩm. Horch là hãng dẫn đầu phân khúc xe hạng sang và doanh số của hãng cao hơn 1/3 so với các đối thủ; ví dụ như năm 1932, Horch bán được 773 xe tại thị trường Đức và xuất khẩu được 300 xe. Tuy nhiên, điều này vẫn không đủ. Công ty gặp phải những khó khăn về tài chính, chủ yếu là do các hoạt động kinh doanh kém hiệu quả.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Audi[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Ngay sau khi rời khỏi công ty Horch-Werke năm 1909, Horch nhanh chóng thành lập một công ty sản xuất ô tô khác. Do không được quyền sử dụng tên của mình nên Horch đã dịch nó ra tiếng La tinh là Audi (có nghĩa là “nghe” ). Năm 1910, những chiếc xe đầu tiên sử dụng thương hiệu Audi xuất hiện trên thị trường. Chúng nhanh chóng đạt được những thành công liên tiếp từ năm 1912 đến 1914 trong cuộc đua International Austrian Alpine Run, một trong những cuộc đua đường trường khắc nghiệt nhất thế giới. Sau Thế chiến thứ I, Audi trở thành hãng đầu tiên đặt vô lăng sang bên trái và chuyển hộp số vào giữa. Điều này cho phép việc điều khiển xe trở nên sễ dàng hơn.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1923, mẫu xe sử dụng động cơ 6 xylanh đầu tiên của Audi được ra mắt. Chiếc xe này có một máy làm sạch không khí bằng dầu và trở thành một tính năng đặc biệt vào thời đó. Phải mất nhiều năm sau máy làm sạch không khí mới trở thành trang bị tiêu chuẩn trên tất cả các xe. Chiếc Audi này cũng là mẫu xe đầu tiên tại Đức sử dụng hệ thống phanh thủy lực ở cả 4 bánh do chính công ty nghiên cứu và phát triển. Năm 1927, kĩ sư trường Heinrich Schuh cho ra đời mẫu xe sử dụng động cơ 8 xylanh đầu tiên của Audi. Thật không may là chiếc xe này xuất hiện quá trễ khi mà thị trường xe hạng sang đang rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. năm 1928, công ty được Jorgen Skaffe Rasmussen, một nhân tố quan trọng đằng sau sự thành công của DKW, mua lại.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]DKW[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Jorgen Skaffe Ramussen, một người sinh tại Đan Mạch, thành lập công ty đầu tiên của mình tại Saxony sau khi lấy bằng kỹ sư tại Mittweida. Năm 1904, ông thành lập một công ty kỹ thuật tại Chemnitz và 3 năm sau chuyển đến Zschopau, Erzgebirge, nơi ông bắt đầu nghiên cứu xe chạy bằng động cơ hơi nước năm 1916. Mặc dù những thí nghiệm này không tạo ra một sản phẩm nào nhưng nó đã giúp hình thành tên và thương hiệu DKW của công ty. DKW trong tiếng Đức là “Dampf Fraft Wagen” có nghĩa là xe sử dụng động cơ hơi nước. [/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1919, Rasmussen mua mẫu thiết kế động cơ 2 kỳ của Hugo Ruppe. Một phiên bản nhỏ của động cơ này được bán dưới dạng động cơ đồ chơi với tên gọi “The Boy’s Dream”. Động cơ nhỏ này sau đó được phát triển lớn hơn và được sử dụng như một động cơ phụ. Dưới sự điều hành của Rasmussen (cùng với giám đốc Kleine Wunder và kĩ sư trưởng Hernann Weber), DKW trở thành hãng sản xuất ô tô lớn nhất thế giới vào những năm 1920 và cũng là một trong những nhà sản xuất đông cơ ô tô hàng đầu.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1927, Rasmussen mua lại thiết kế và cơ sở sản xuất động cơ 6 và 8 xylanh từ một công ty ô tô ở Detroit. Hai mẫu xe mới của Audi sử dụng 2 động cơ này được tung ra thị trường. Tuy nhiên, Rasmussen nhận thấy nhu cầu của thị trường và bắt tay vào sản xuất nhửng chiếc xe nhỏ. Chiếc xe thật sự đầu tiên của DKW sử dụng hệ thống dẫn động bánh sau và được sản xuất tại Berlin-Spandau. Cuối năm 1930, Rasmussen giao cho nhà máy tại Zwickau phát triển một mẫu xe với với những đặc điểm thiết kế như: động cơ 2 xylanh, 2 kỳ với dung tích 600 cc, chassis bằng gỗ nguyên khối bọc da giả và sử dụng hệ thống dẫn động bánh trước. Chiếc xe này được thiết kế bởi Walter haustein và Oskar Arlt và có tên là DKW Front. Nó được giới thiệu lần đầu tiên tại triển lãm ô tô Berlin năm 1931 và nhanh chóng chiếm được cảm tình của khách hàng. Chiếc DKW Front được sản xuất tại nhà máy của Audi và trở thành chiếc xe nhỏ của Đức phổ biến nhất và được sản xuất nhiều nhất vào thời điểm đó.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif][/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif][/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif][/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Wanderer[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Cái tên “Wanderer” có nguồn gốc từ năm 1896, khi tiếng tăm của nó đi kèm với những chiếc xe đạp được sản xuất bởi Winklhofer & Jaenicke, một công ty được thành lập năm 1885 tại Chemnitz. Việc sản xuất ô tô được bắt đầu vào năm 1902 và chiếc xe đầu tiên được sản xuất thử vào năm 1904. Một chiếc xe nhỏ có tên là “Puppchen” được đưa vào sản xuất đại trà năm 1913 và trở nên rất phổ biến. Không mẫu xe nào có hiệu suất cao hơn được sản xuất mãi đến năm 1926 khi chiếc Wanderer Type W 10 với động cơ dung tích 1.5 lít công suất 30 mã lực được giới thiệu ra thị trường. Chiếc xe này kết hợp tất cả những công nghệ kỹ thuật hiện đại nhất trong ngành công nghiệp ô tô thế giới lúc bấy giờ, ví dụ như vô lăng bên trái, hộp số đặt ở giữa, khớp ly hợp gồm nhiều tấm kim loại, động cơ và hộp số nguyên khối và hệ thống phanh 4 bánh. Chiếc xe này được khách hàng đón nhận nồng nhiệt.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Để đáp ứng được nhu cầu tăng cao, một nhà máy sản xuất mới được xây dựng tại Siegmar, ngoại ô của Chemnitz. Phụ tùng của xe vẫn được sản xuất tại nhà máy cũ và được chuyển đến nhà máy lắp ráp bằng xe lửa. Những phụ tùng này được đổ từ toa xe lửa xuống thẳng dây chuyền lắp ráp, một phương thức được sử dụng phổ biến trong những năm 1920. Nhà máy tại Siegmar chỉ có thể chứa được số lượng phụ tùng đủ lắp ráp 25 chiếc xe – bằng sản lượng hằng ngày của nhà máy.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Hình ảnh thương hiệu của Wanderer gắn liền với sự ổn định và chất lượng vượt trội của các sản phẩm của mình. Đến cuối những năm 1920, Wanderer cống gắng tránh cuộc khủng hoảng bẳng cách cho ra đời nhiều mẫu xe có thiết kế hiện đạt và động cơ mạnh mẽ. Tuy nhiên, bất chấp những thay đổi này, sản lượng của công ty giảm xuống rõ rệt. Hoạt động sản xuất ô tô của Wanderer đứng bên bờ vực thẳm. Toàn bộ phân nhánh sản xuất mô tô được bán cho NSU và một công ty của Séc là Janecek. [/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Auto Union AG[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Do cuộc khủng hoảng trầm trọng trong ngành công nghiệp ô tô nên những năm 1920 là một thời kỳ để Audi, Horch, DKW và Wanderer hợp lý hóa công việc sản xuất của mình. Dây chuyền lắp ráp và các máy móc hiện đại có sản lượng tăng cao tuy nhiên việc sản xuất hàng loạt chi có thể diễn ra khi có thị trường có nhu cầu. Trong thời kỳ này việc tăng doanh số mua bán là điều vô vùng khó khăn và cuộc chiến về giá liên tục diễn ra do các đối thủ nước ngoài khai mào. Các công ty ô tô Đức cảm thấy không thể duy trì sản xuất nếu chỉ dựa vào lợi nhuận trên doanh số bán ra và do đó những nguồn tài chính khác là điều rất cần thiết[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Tại Saxony, ngân hàng nhà nước Saxony không đáp ứng được nhu cầu vay tiền đầu tư của Horch-Werke và cũng “bịt” đường phát triển của Rasmussen Group. Ngân hàng này cuối cùng cũng quyết định củng cố lợi nhuận của mình trong lĩnh vực ô tô và ý tưởng về một Auto Union được ra đời. Các công ty sáp nhập là Rasmussen AG, lúc này đã sở hữu Audi-Werke AG, Horch-Werke AG và chi nhánh sản xuất ô tô của Wanderer-Werke. Tổng số vốn đầu tư của Auto Union là 14,5 triệu mác Đức và ngân hàng nhà nước Saxony kiểm soát 80% số vốn này.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Tạo dựng một công ty có tính cạnh tranh [/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Hình ảnh của Auto Union AG trên thị trường ô tô được tạo ra bởi 4 công ty sáng lập là Audi, DKW, Horch và Wanderer cùng với những sản phẩm của họ. Phải mất nhiều năm để có thể phát triển ý tưởng hợp tác lâu dài và áp dụng vào những công ty có truyền thống lâu đời này.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Sự phát triển[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1933, tại triển lãm ô tô Đức mà Auto Union tham dự lần đầu tiên sau khi sáp nhập, Audi đã tạo nên sự đột phá với những chiếc xe cỡ trung bình sử dụng hệ thống dẫn động bánh trước. Tuy nhiên nó không đạt được thành công như mong đợi. Ý tưởng được thay đổi và vào năm 1938, chiếc Audi 920, một chiếc xe với thiết kế ngoại thất rất hiện đại sử dụng động cơ hiệu suất cao, được tung ra thị trường. Động cơ OHC mới được phát triển của xe có công suất 75 mã lực và có thể đạt tốc độ tối đa lên tới 140 km/h. Chiếc Audi này nhắm đến những khách hàng muốn một chiếc xe mạnh mẽ nhưng nhỏ gọn. Hệ thống dẫn động bánh trước sau đó được đổi thành bánh sau và chassis dạng ngiêng truyền thống được sử dụng thay cho chassis dạng hình hộp trung tâm. Chiếc xe có 2 mẫu là sedan 6 cửa sổ và mui trần 2 cửa với 4 cửa sổ. Nhu cầu cho chiếc Audi 920 cao đến nỗi trong hơn 1 năm, số lượng xe được sản xuất đều được bán hết ngay sau khi được trung ra thị trường.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif][/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif][/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Trong thời gian này, tiếng tăm của DKW chủ yếu dựa vào những mẫu xe mô tô của mình. Năm 1933, họ cho ra mắt mẫu xe với 8 phiên bản khác nhau sử dụng động cơ có dung tích từ 175 đến 600 cc. Một năm sau, chiếc RT 100 xuất hiện trên thị trường. Với sự đơn giản, thân xe thẳng và kết hợp được sức mạnh và tính kinh tế, nên nó đã tồn tại suốt vài thập kỷ và vạch ra những tiêu chuẩn mới cho những chiếc mô tô sau. Chiếc RT được bán với giá “không thể rẻ hơn” là 345 mác Đức và là một trong những mẫu xe được sản xuất nhiều nhất qua mọi thời đại.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Những chiếc xe ô tô nhỏ của DKW được sản xuất tại cả Berlin-Spandau (sử dụng hệ thống dẫn động bánh sau và động cơ V4 2 kỳ) và tại Zwickau (sử dụng hệ thống dẫn động bánh trước và động cơ 2 kỳ 2 xylanh). Tất cả động cơ được sản xuất tại Zschopau trong khi chassis bằng gỗ cho những chiếc xe sử dụng hệ thống dẫn động bánh trước được sản xuất tại Spandau. [/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Việc phát triển động cơ 2 kỳ được đặc biệt quan tâm. Auto Union đã có được giấy phép của Klöckner-Humboldt-Deutz để sử dụng phát minh của Schurle (nguyên lý xả ngược cho động cơ 2 kỳ) trên những mẫu động cơ nhỏ của mình. Lợi thế của nguyên tắc này là giúp động cơ giảm được mức nhiên liệu tiêu thụ trong khi vẫn nâng cao được hiệu suất.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Tối ưu hóa sản xuất[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Những động cơ của Wanderer được tiêu chuẩn hóc và động cơ Horch V8 được thay thế bằng động cơ 6 xylanh thẳng hàng để đạt được hiệu suất cao hơn và ổn định hơn. Auto Union đã đạt được bước tiến lớn trong việc phát triển hộp số tự động và các kỹ sư của Auto Union đang tìm kiếm phương pháp mới để tạo hình và phát triển thiết kế ngoại thất.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Bộ phận thiết kế của công ty theo đuổi một ý tưởng ký động học hóa từ những chi tiết nhỏ nhất, sử dụng những phát minh về khí động lực của một chuyên gia Thụy Sĩ là Paul Jaray. Những đặc tính khí động học tối ưu được tính toán trước tiên theo lý thuyết sau đó được kiểm tra kỹ càng trong phòng thí nghiệm. Phiên bản thân xe sẵn sàng đưa vào sản xuất của DKW F9 có hệ số kéo ngang trước rất ấn tượng cD = 0.42. Đến các thập kỷ sau, đây vẫn là một con số lý tưởng cho các xe sản xuất tại Đức.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Do các cuộc chạy đua vũ trang nên sắt và cao su bị thiếu hụt nghiêm trọng, cộng với chassis xe bằng gỗ được bọc da quá đắt để sản xuất, Auto Union bắt đầu phát triển thử nghiệm thân xe bằng nhựa với sự hợp tác của Dynamit AG tại Troisdorf. Một chương trình thử nghiệm va chạm được phát triển để đánh giá độ bền của gỗ, tấm thép và nhựa. Đây là cuộc thử nghiệm va chạm đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp ô tô Đức.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Các thử nghiệm về đâm xe từ phía trước, sau và bên hông hay lật xe đều được mô phỏng tại Phòng Kiểm tra trung tâm tại Chemnitz. Bộ phận kỹ thuật của nó sẽ kiểm tra tất cả các vấn đề liên quan đến chất liệu, phát triển hợp kim và phương pháp sản xuất đặc biệt, và kiểm tra sự tương thích kỹ thuật của tất cả các mẫu thiết kế mới. Bộ phận khoa học tập trung vào các mẫu động cơ trong tương lai, phát triển hộp số, nghiên cứu sự dao động và tiếng ồn, và chuẩn bị những cuộc kiểm tra phức tạp như vị trí của máy phóng trong các cuộc thử nghiệm va chạm. Bộ phận kiểm tra trên đường sẽ tiến hành các thử nghiệm thực tế hay các cuộc so sánh với các sản phẩm của đối thủ.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Auto Union đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng trong nhưng năm 1933-1939, doanh thu hàng năm tăng từ 65 lên 276 triệu mác Đức và số lượng công nhân tăng từ 8000 lên hơn 23.000 người. Sản lượng xe mô tô hằng năm tăng từ 12.000 lên 59.000 chiếc và xe ô tô là từ 17.000 lên 67.000 chiếc. So với năm mà Auto Union được thành lập, sản lượng ô tô của Horch đã tăng gấp đôi trong năm 1938, Wanderer tăng 5 lần và tổng sản lượng ô tô của DKW tăng 10 lần.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Chiến tranh và phá sản[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Sự bùng nổ của Thế chiến thứ II đặt dấu chấm hết cho sự phát triển này. Auto Union AG sản xuất những chiếc xe dân sự cuối cùng vào năm 1940. Từ đó trở đi, công ty bị buộc phải tập trung công việc sản xuất để phục vụ chiến tranh.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Auto Union tồn tại được 16 năm. Trong 3 năm cuối cùng của mình, công ty chỉ chở đợi việc phá sản do 6 năm trước đó chiến trang đã khiến mọi hoạt động sản xuất ô tô của công ty bị tê liệt hoàn toàn. Những phát minh và sự thành công của Auto Union chỉ diễn ra trong vỏn vẹn 7 năm đầu thành lập. Sự sáng tạo và lành nghề của các kỹ sư tại đây được minh chứng bằng hơn 3000 bằng sáng chế được cấp tại Đức và những nơi khác. Cứ 4 chiếc xe chở người được đăng ký mới tại Đức trong năm 1938 thì có 1 chiếc do Auto Union sản xuất. Hơn 1/3 số xe môtô được đăng ký mới tại Đức là của DKW. Auto Union AG có rất nhiều phát minh, nghiên cứu và ý tưởng đóng vai trò tiên phong cho sự ra đời của những chiếc xe hiện đại.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Sau chiến tranh, các cơ sở sản xuất của Auto Union AG bị sung công và phá hủy do sự chiếm đóng của quân đội Sô Viết. năm 1948, công ty bị xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh tại thành phố Chemnitz. Trong thời gian này, những giám đốc cao cấp của công ty chuyển đến Bavaria và thành lập một công ty mới tại Ingolstadt.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Một khởi đầu mới tại Ingolstadt[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Một công ty mới với tên gọi Auto Union GmbH được thành lập vào ngày 03/09/1949 tại Ingolstadt để nối tiếp truyền thống sản xuất của Auto Union. Đây chính là tiền thân thực sự của công ty Audi AG sau này. Với trụ sở được đặt tại Tây Đức, mục đích chính của công ty là duy trì truyền thống sản xuất mà công ty Auto Aunion AG đã lập nên tại Saxony.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Cuộc sống tại thời điểm tái thành lập này rất khó khăn nên những chiếc xe có tính kinh tế cao là sự lựa chọn hàng đầu. Trong những năm đầu, những chiếc xe duy nhất được sản xuất tại Ingolstadt với biểu tượng 4 vòng tròn là những chiếc ô tô và mô tô của DKW sử dụng động cơ 2 kỳ của họ. Việc tái thành lập chính thức năm 1949 thực ra là bước đi thứ 2 trong sự phát triển mới sau chiến tranh. Bước đi đầu tiên diễn ra vào ngày 19/10/1945 khi công ty Zentraldepot für Auto Union Ersatzteile GmbH được thành lập tại Ingolstadt. Kho hàng trung tâm này có nhiệm vụ cung cấp phụ tùng cho các mẫu xe của Auto Union sản xuất trước chiến tranh vẫn “sống sót” được sau 6 năm chiến trang dữ dội. Có tổng cộng 60.000 xe như vậy trong các vùng bị chiếm đóng ở miền Tây.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Vậy tại sao lại ở Ingolstadt? [/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Một lý do để chọn Ingolstadt để đặt kho hàng trung tâm là vì nơi đây rất thuận lợi cho giao thông vì nằm ở trung tâm cùng Bavaria. Những nhân vật có ảnh hưởng trong chính quyền ở Ingolstadt cũng muốn công ty đặt kho hàng trung tâm tại đây nhằm giải quyết được số lao động nhàn rỗi tại địa phương. Tuy nhiên, lý do chính để chọn Ingolstadt làm nơi tái thành lập công ty là vì nơi đây có truyền thống qua hàng thế kỷ là nơi đóng quân của quân đội, nơi mà họ có thể có quyền sử dụng vô số những trại lính, tòa nhà, hầm quân sự… giúp giảm khá nhiều chi phí chjo việc xây dựng cơ sở vật chất mới.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Từ trụ sở chính của mình tại những văn phòng quân sự tại Schrannenstrasse, dần dần công ty được quyền sử dụng những tòa nhà khác như trại lính ở Friedenskaserne, xưởng vũ khí New Arsenal, tòa nhà của NCO, kho quân trang và khu đất rất lớn. Do cơ sở vật chất nằm rải rác khăp thành phố nên việc tối ưu hóa sản xuất là điều không thể. Các công nhân thường nói đùa rằng đây là công ty “Quân sự và Phân tán”[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]"Cuộc đình công Bavaria”[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Ngày 09/08/1954 chứng kiến sự bùng nổ của cuộc đình công trong ngành cơ khí ở Bavaria mà nhiều cư dân tại đây vẫn còn nhớ rất rõ. Đây là một trong những cuộc đấu tranh lớn đầu tiên diễn ra trong nước Cộng hòa Liên bang Đức còn non trẻ và những công ty hoạt động trong lĩnh vực cơ khí còn gọi nó là “sự kiện nổi bật nhất trong những năm sau chiến tranh”[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Auto Union, một trong những công ty có số lượng công nhân lớn nhất thành phố với gần 5000 người, cũng gặp phải tình trạng tương tự. Những yêu cầu của công nhân là tuần làm việc ngắn hơn, lương cao hơn và điều kiện làm việc cũng như sinh sống tốt hơn. "Cuộc đình công Bavaria” kéo dài tới ngày 31/08/1954 khi cuối cùng cũng đạt được một thỏa thuận thông qua phán quyết của tòa án, theo đó mức lương trung bình sẽ tăng 4%.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Mối liên hệ với Daimler-Benz[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Cuộc “đình công Bavaria” làm tiêu tốn của Auto Union một khoản tiến 920.000 mác Đức. Tuy nhiên năm 1954 vẫn là năm đầu tiên mà công ty đạt được doanh thu cao (khoảng 400.000 mác Đức). Cũng trong năm này, Friedrich Flick, một cổ đông lớn trong ngành thép là Eisenwerk-Gesellschaft Maximilianshütte mbH Sulzbach-Rosenberg, thường được biết đến với cái tên “Maxhutte”, mua cổ phần trong Auto Union GmbH. Một vài năm trước, ông đã nhận ra rằng hãng sản xuất ô tô ở Ingolstadt này một ngày nào đó sẽ cần một đối tác có nhiều vốn đầu tư.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1957, Flick ủng hộ việc Daimler-Benz mua lại Auto Union. Tại thời điểm đó, ông đang nắm giữ 41% cổ phần tại Auto Union và 25% cổ phần tại Daimler-Benz. Ông cũng có được sự ủng hộ của Ernst Gohner, trùm tư bản công nghiệp, người cũng đang nắm giữ 41% cổ phần của Auto Union. Daimler-Benz AG chấp nhận lời đề nghị. Trong bối cảnh sự cạnh trang của các đối thủ nước ngoài đang tăng cao, Daimler-Benz AG muốn mở rộng sản phẩm của mình xuống các phân khúc thấp hơn để tăng tính cạnh tranh. Flick cũng gợi ý với Daimler-Benz rằng ông cũng đang thương thảo với Ford.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Ngày 24/04/1958, Daimler-Benz mua khoảng 88% cổ phần của Auto Union với số tiền 41 triệu mác Đức. Một năm sau, số cổ phần còn lại cũng được bán cho Daimler-Benz. Người phát ngôn của Daimler phát biểu sau sự sáp nhập của 2 hãng sản xuất lớn thứ 2 và thứ 5 của Đức rằng “Chúng tôi vừa “cưới” được một người con gái quyến rũ xuất thân từ một gia đình có truyền thống tốt đẹp!”. Ngày 09/04/1958, tờ báo kinh tế “Handelsblatt” có viết: “Với việc mua lại Auto Union GmbH, một công ty có lợi nhuận hàng năm 400 triệu mác Đức và hơn 10.000 công nhân, Tập đoàn Daimler-Benz một lần nữa trở thành hãng sản xuất ô tô lớn nhất của Công hòa Liên bang Đức về phương diện lợi nhuận hàng năm.”[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Nhà máy mới tại Ingolstadt[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Tại thời điểm được Daimler-Benz mua lại, sản phẩm chính của Auto Union tại Ingolstadt chỉ là xe mô tô và xe tải chở hàng của DKW. Hoạt động sản xuất ô tô của Auto Union được tập trung tại nhà máy ở Dusseldorf hoạt động từ năm 1950.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Để tăng hiệu quả cạnh tranh, công ty đã sản xuất lại những mẫu xe hiện đại giá rẻ từng được phát triển vào giữa nhưng năm 1950 và được tung ra thị trường dưới cái tên “DKW Junior”. Mặc dù việc Daimler-Benz mua lại Auto Union sẽ đảm bảo cho nó có nguồn vốn đầu tư vào các dự án lâu dài, công ty vẫn thiếu doanh số sản xuất.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Do đó, một nhà máy mới phải được nhanh chóng xây dựng - ở Ingolstadt hoặc Zons, gần Dusseldorf, nơi mà công ty đã có sẵn địa điểm xây dựng. Fritz Bohrn, lúc đó là Chủ tịch Công đoàn và thành viên Quốc hội, đã cố gắng hết sức để kéo nhà máy Ingolstadt. Nhờ những mối quan hệ sâu rộng của ông với giới chính khách nên bang Bavaria luôn “đi trước” vùng North Rhine-Westphalia một bước. Mộ khoản đầu tư cho vay từ ngân hàng nhà nước bang Bavaria cũng đóng vai trò quan trọng trong việc công ty lựa chọn Ingolstadt làm nơi xây dựng nhà máy mới.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Một yếu tố khác khiến công ty chọn Ingolstadt là vì ngành công nghiệp mô tô 2 bánh sắp rơi vào tình trạng khủng hoảng và công ty có kế hoạch cắt giảm sản lượng xe 2 bánh của DKW xuống trong thời gian ngắn. Không giống như vùng Zons, Ingolstadt luôn có rất nhiều những công nhân lành nghề vào cuối những năm 1960 – một yếu tố quan trọng thu hút sự đầu tư của một công ty. Tháng 6/1958, công việc xây dựng nhà máy mới tại Ettinger Strasse, Ingolstadt cuối cùng cũng được khởi công. Số tiền đầu tư vào nhà máy này là 76 triệu mác Đức trong năm 1959, và thêm 51 triệu mác Đức nữa trong năm 1960. Donaukurier, một tờ báo địa phương, viết rằng “Một trong những nhà máy sản xuất ô tô lớn nhất cà hiện đại nhất châu Âu đang được xây dựng gần Ingolstadt.”[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Thỏa thuận giữa Volkswagen và Daimler-Benz[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Cuối năm 1958, Auto Union có 3700 công nhân tại Ingolstadt, và 12 tháng sau, con số này tăng lên 5,700 người. Việc xây dựng nhà máy mới không chỉ có nghĩa là lực lượng công nhân sẽ tăng lên, mà nó còn là yếu tố chính đằng sau quyết định của Auto Union chuyển hoạt động sản xuất của công ty về Ingolstadt vào năm 1961, và sau đó là trụ sở chính vào năm 1962. Sản lượng và doanh thu của Auto Union đều giảm mạnh trong khi công ty mẹ vẫn phát triển nhanh chóng.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1962, Auto Union phải đương đầu với tình hình tài chính rất khó khăn. Dainler-Benz AG quyết định giải pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề này là bán Auto Union cho Volkswagen. Quyền sở hữu Auto Union được chuyển cho Auto Union theo nhiều giai đoạn từ năm 1964. Chủ sỡ hữu mới của Auto Union đã phải trả khoản tiến lên tới 297 triệu mác Đức cho thương vụ này và đến năm 1966, Volkswagen đã nắm toàn quyền sở hữu công ty.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Thời gian phát triển, thời gian suy yếu…[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Việc Vokswagen mua lại Auto Union đã giúp công ty thoát khỏi phá sản trogn đường tơ kẽ tóc. Kỷ nguyên của động cơ 2 kỳ vốn rất phổ biến trước đây đã chấm dứt, và gần 30.000 chiếc ô tô của DKW chưa bán được phải đem “bán sắt vụn”. Chiếc Beetle của Volkswagen là cứu cánh cho Auto Union khi mà từ tháng 05/1965 đến tháng 06/1969, gần 348.000 chiếc Beetle đã được lắp ráp tại Ingolstadt. Từ tháng 08/1965, tình hình cũng được giảm bớt khi công ty cho ra mắt chiếc “Audi” mới. Chiếc là này là mẫu ô tô đầu tiên ử dụng động cơ 4 kỳ được sản xuất tại Ingolstadt. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến và đặt nền tảng cho sự thành công của những mẫu xe sau này. Tuy nhiên, sự hồi phục này cũng không kéo dài được lâu. Sau hơn 15 năm phát triển liên tục, nền kinh tế Đức bất ngờ rơi vào khủng hoảng năm 1966-1967 và ảnh hưởng nghiêm trọng đến Audi. Công ty phải cắt giảm tối đa việc sản xuất và tình trạng không có việc làm là điều tất yếu không thể tránh khỏi.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Ngày 10/03/1969, Auto Union GmbH đồng ý một thỏa thuận sáp nhập với NSU Motorenwerke AG. Việc này dẫn đến sự ra đời của công ty mới có tên Audi NSU Union AG. Công ty này có trụ sở chính tại Neckarsulm và doanh số của Audi và NSU tăng liên tục cho đến năm 1973 khi mà dấu hiệu ban đầu của một cuộc khủng hoảng dầu mỏ nổi lên. Năm 1974, sự suy giảm của nền kinh tế thế giới đã tác động mạnh mẽ lên thị trường khiến công ty phải giảm lượng xe sản xuất xuống còn 330.000 chiếc, so với sản lượng 400.000 chiếc vào năm ngoái. Cuộc khủng hoảng này cũng khiến cho công ty phải cắt giảm nhân công. Năm 1974, tổng số lượng lao động của công ty giảm từ 33.800 xuống còn 28.600 người và trong năm 1975 đã có 1700 người mất việc chỉ riêng tại nhà máy ở Ingolstadt.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]Tham gia vào sự phát triển mới[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Nến công nghiệp ô tô phục hồi vào cuối năm 1975, và có thể thấy được sự phát triển đó qua doanh số bán ra của các mẫu xe Audi. Chiếc NSU Ro 80 cuối cùng rời dây chuyền lắp ráp vào tháng 03/1977. Điều này cho thây sự biến mất của thương hiệu NSU, một thương hiệu có lịch sử hơn 100 năm. Kể từ năm này, tất cả ô tô được sản xuất tại Neckarsulm đều mang thương hiệu Audi.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1980, Audi khuấy động thị trường bằng việc giới thiệu chiếc Audi Quattro, chiếc xe thương mại đầu tiên sử dụng hệ thống dẫn động 4 bánh. Các hoạt động đua xe rally của Audi càng góp phần làm nổi bật mẫu concept Quattro: năm 1982, Audi trở thành hãng xe Đức đầu tiên giành chiến thắng tại cuộc thi Manufacturers World Championship và tiếp tục giành chiến thắng vào năm 1984.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1982, Audi thiết lập một kỷ lục mới với hệ số kéo ngang cD=0.30 qua đó là mẫu xe sedan có tính khí động học tốt nhất trên thế giới. Audi đã hành động rất kịp thời vối những thử thách tại thời điểm đó khi mà chiến dịch kêu gọi bảo vệ môi trường và cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu đang tăng cao.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Ngày 01/01/1985, Audi NSU Auto union chính thức đổi tên thành Audi AG. Trụ sở chính thức của công ty cũng nhanh chóng được chuyển từ Neckarsulm sang Ingolstadt. Vào giữa những năm 1980, Audi – cùng với các hãng chế tạo ô tô Đức khác – bắt đầu cảm thấy tác động của các cuộc tranh luận của công chúng về việc giới hạn tốc độ và giảm lượng khí thải. Trong khi doanh số bán ra trong nước giảm 7,5% trong năm 1985 thì lượng xe xuất khẩu lại tăng 9,4%.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Năm 1985, tổng số vốn đầu tư của Audi AG tăng lên 1 tỉ mác Đức, mức cao nhất trong lịch sử công ty. Các tiêu chuẩn liên quan đến sản phẩm và phát triển công nghệ kỹ thuật mới là những mục tiêu trọng tâm để đầu tư. Mùa thu năm 1986, chiếc Audi 80 với thân xe mạ kẽm được tung ra thị trường. Nó được bảo hành tới 10 năm khỏi sử rỉ sét, qua đó thiết lập những tiêu chuẩn mới trong dòng xe này. Năm 1988 chứng kiến sự xuất hiện của chiếc V8, chiếc xe hạng sang đầu tiên của Audi với động cơ V8 dung tích 3.6 lít sử dụng công nghệ 4 van.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Khẩu hiệu của Audi “Vorsprung durch Technik” có nghĩa là “Tiến bộ nhờ Kỹ thuật” (khẩu hiệu tiếng Đức có vẻ quen thuộc với các nước nói tiếng Anh hơn) cũng được minh chứng bằng mẫu động cơ ý tưởng TDI. Động cơ này có mức tiêu thụ nhiên liệu cực kỳ thấp và đã được chứng minh trong một vài thử nghiệm mức độ tiêu thụ nhiên liệu, ví dụ như năm 1992, chiếc Audi 80 TDI thực hiện chuyến đi vòng quanh thế giới với chặng đường dài 40.273 km và mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình là 3,78 lít/100 km với tốc độ trung bình là 85,8 km/h.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Đầu những năm 1990, thị trường thế giới đang trong thời kỳ suy yếu nhưng sự kiện sụp đổ của Bức tường Berlin dẫn đến việc thống nhất nước Đức và đồng tiền chung của Đức được lưu hành đã tạo ra làn sóng cung cầu tăng cao trong thị trường trong nước.Doanh số bán hàng tăng nhanh tại thị trường trong nước đã giúp Audi đạt được doanh thu kỷ lục là 14,8 tỉ mác Đức vào năm 1991. Tuy nhiên, năm 1993 cho thấy rõ ràng rằng sự bùng nổ của thị trường Đức chỉ làm dịu bớt được chút ít xu hướng đi xuống chung trong những năm kế tiếp.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Audi báo trước thời kỳ phát triển mới bằng việc giới thiệu nghiên cứu mẫu xe sử dụng nhôm ASF tại triển lãm ô tô Tokyo vào mùa thu năm 1993. Chiếc Audi bằng nhôm này được chính thức giới thiệu ra thế giới lần đầu vào tháng 03/1994 với tư cách là “hậu duệ” của chiếc Audi V8. Mẫu xe mới có tên A8 đánh dấu sự thay đổi lớn của Audi trong việc đặt tên các mẫu xe của mình. Chiếc A6 được ra mắt sau đó vào mùa hè và kế đó là chiếc A4 vào tháng 11/1994. Mẫu xe mới này nhanh chóng mang lại thành công cho Audi khi mà trong năm 1995 đã có 120.000 chiếc Audi A4 được bán ra chỉ riêng tại Đức.[/FONT]
Audi A8
Audi A6
Audi A4
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Mùa thu năm 1995, Audi nối tiếp sự thành công của mình bằng việc giới thiệu nghiên cứu mẫu xe thể thao TT Coupé và TT Roadster. Những chiếc concept này đã kết hợp một cách thành công đường nét thiết kế đặc biệt dựa trên sự hoài niệm kết hợp những đường nét hiện đại và công nghệ đỉnh cao. Một năm sau, Audi giới thiệu chiếc A3, một chiếc xe nhỏ 2 cửa quyến rũ, với mục tiêu thu hút thêm đối tượng khách hàng mới. Năm 1997, Audi giới thiệu mẫu Audi A6 mới và mẫu xe nghiên cứu AI2, một mẫu xe được chế tạo hoàn toàn bằng nhôm dựa trên công nghệ ASF thế hệ thứ 2. Mẫu xe TT Coupé và TT Roadster thương mại được trung ra thị trường vào năm 1998 và 1999.[/FONT]
[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Từ năm 1994, công ty đã được sự phát triển liên tục và trở thành nhà sản xuất và phát triển những chiếc ô tô cao cấp nổi tiếng thế giới. Công ty vẫn duy trì sản xuất tại Đức, Hungary, Bar-xin, trung Quốc và Nam Phi. Năm 2000, doanh số bán ra của Audi đạt 650.000 chiếc và lợi nhuận đạt 39 tỉ mác Đức. Hiện tại công ty có 50.000 công nhân là một trong những hãng sản xuất ô tô lớn nhất thế giới.[/FONT]