Em xin gom các bài viết về chuyện đời lính của Cụ
Giã từ vũ khí Nam chẫu đã biên để các cụ đọc cho tiện . ( Sẽ bổ sung dần các câu chuyện cụ chủ kể vào nếu còn tiếp)
Sau này nếu biên lại thành hồi ký in thành sách thì đề nghị cụ vẫn lấy tựa đề Hồi ký là " Giã từ vũ khí" ạ.
LÍNH MÀ EM…
Chắc ai đó cũng đã từng nghe nói: “Quân đội là trường học lớn”. Với ai đó thì gã không biết, nhưng với gã thì chính xác, chính xác đến từng mi li mét.
Ngày chưa nhập ngũ, nói gã chẳng biết gì thì không hẳn, nhưng không phải là không biết gì. Nhưng ở đại đội gã thì khác nha, có những thằng lính, trước khi nhập ngũ như 1 tờ giấy trắng. Không hút thuốc, uống trà, không uống rượu, chửi thề…
Vậy mà sau 2 tuần được anh em đồng ngũ huấn luyện, “bôi xám” thì cái gì cũng biết. Thuốc lá, thuốc lào chơi tất, rượu thì cả cây.
Mà môi trường quân đội dạy cho lính cái gì cũng phải biết, trong quân ngũ không hề có chuyện KHÔNG THỂ.
Những thằng lính Hà Nội như gã, ngày còn ở nhà có bao giờ biết mặt cái cuốc, cái kéo cắt đất hình thù ra sao đâu? Vậy mà chỉ sau 3 ngày lên trường huấn luyện hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu đã biết vật đất, phơi đất để đóng gạch (đóng gạch thật sự chứ không phải đóng gạch là đóng gạch...nhá ) Đã biết cuốc đất, trồng rau tăng gia sau những giờ huấn luyện trên thao trường.
Môi trường quân đội thì gã chẳng lạ lẫm gì. Khi xưa, do gã cũng “hơi hơi” nghịch nên ông già gã tống gã vào trường thiếu sinh quân trên Vĩnh Phúc để rèn luyện, để trưởng thành theo mong muốn của cụ.
Học được đúng 7 tháng thì gã "bổ quay", vì không chịu nổi các chế độ, nội quy của trường. Nhưng khi về huấn luyện tại trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu có nhiều cái vẫn làm gã thấy bỡ ngỡ, khác hẳn với thời ở trường thiếu sinh quân.
Ví dụ như khẩu hiệu chẳng hạn, đâu đâu cũng thấy có. Từ nhà ăn cho đến thao trường, nhan nhản luôn.
-“Nhắc nhau ăn đũa 2 đầu, ăn chậm nhai kỹ tránh đau dạ dày”,
-“Chuyện riêng xin để ở nhà, đồng chí nhớ hộ đây là nhà ăn”,
-“Ở đây tai vách mạch rừng, những điều bí mật xin đừng nói ra”,
-“Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”…đại loại là kính thưa các kiểu khẩu hiệu. Đến cái nhà “hôi” (Toilet, nhà vệ sinh) cũng có khẩu hiệu...
-“Đơn vị là nhà, súng là vợ, đạn là con”.
Mà cái nhà hôi của B (trung đội) nào thì B đó có trách nhiệm trông nom, nếu để B khác sang ăn trộm món “ngũ cốc luân hồi”, thứ 6 hàng tuần không đủ cân để bón rau thì sẽ bị hạ điểm thi đua.
Mà thiết thực nhất, hiệu quả nhất là quánh vào dạ dày bằng cách bớt khẩu phần ăn đi. Do vậy trung đội nào cũng sợ bị mất món “ngũ cốc luân hồi” lắm.
Ngay cả cái nước thải trong người cũng phải tích lại để tưới rau. Vì vậy, mà nhiều lúc lính vào dân chơi hay đi đâu đó gần đơn vị, nếu có mót đi nặng hay nhẹ cũng cố mà nhịn để chạy nhanh về nhà “hôi” của B để đi cho đủ cân và…đỡ phí.
Khổ nỗi bụng lính có cái đếch gì đâu, nên chuyện thiếu cân xảy ra thường xuyên. Nhưng lính thì bao giờ cũng lắm chiêu trò để đối phó, cái khó ló cái khôn.
Với món “ngũ cốc luân hồi” thì đào đất thịt cho thêm vào để đủ cân, với món cocktail thì dùng bồ kết đốt cháy hòa nước ao đổ thêm vào, rồi quánh cho sủi bọt lên thì có tài thánh cũng chẳng phát hiện ra.
Tuy vậy các cụ dạy “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn” không sai. Chuyện gian dối bắt đầu từ trung đội 3, đại đội 3, sau đó các trung đội ở các đại đội khác học tập theo:
-“gương điển hình”.
Qua mắt trực ban và nhà bếp được 1 thời gian, cho đến 1 buổi sáng mùa đông bầu trời xám xịt, ảm đạm thì bị lộ.
Trường cử 1 toán vệ binh thọc tay thẳng vào thùng “ngũ cốc luân hồi” của các B và lôi lên toàn đất thịt ở dưới. Hôm đó là ngày động trời khi có mấy B bị vỡ lở chuyện cho đất vào món “ngũ cốc luân hồi”, bị nâng cao quan điểm là làm việc dối trên lừa dưới. Lính của các B đó bị kỷ luật bằng giảm khẩu phần ăn, dọn chuồng heo và đi kiếm của trâu bò bù vào cho đủ số lượng.
Những việc tăng gia sản xuất đối với những thằng lính thành phố như gã đúng là khổ thật, nhưng cực hình nhất với tất cả những thằng lính mới, dù xuất thân nông thôn hay thành phố cũng vậy thôi.
Đó là gác đêm. Vào lính toàn 18-19 tuổi, toàn đang tuổi ăn tuổi ngủ mà đêm nào cũng mất 2 tiếng gác đêm.
Nếu đi ca đầu từ 21-23h là sướng nhất. Hết ca gác về ngủ thoải mái đến 5h sáng hôm sau hoặc ca gác cuối từ 3-5h sáng cũng tạm, cực nhất là ca gác 1h-3h sáng.
Trời mùa đông rét mướt, đang nằm ấm trong chăn với những giấc mơ ngọt ngào mà bị gọi dậy thay gác lúc 1h sáng trong mưa gió giá rét, thì lúc đó chỉ muốn quánh vào mặt thằng gọi 1 cái cho bõ tức thôi. Khi ra đến chốt gác, vừa ngáp vặt vừa đập muỗi, cổ áo kéo hết lên để che gió lạnh từ phía bờ sông ràn rạt thổi về mà thấy cái lạnh từ trong xương thấu ra, hai hàm răng va lập cập..
Tuy buồn ngủ nhưng hiếm khi dám bỏ gác hoặc ngủ gật. Vì đã có thằng ở bên trung đội 2, đại đội 1 ngủ gật trong 1 phiên gác, sĩ quan đi kiểm tra đem súng AK của nó cất đi, sau đó báo động toàn đơn vị với lý do: “Kẻ địch đã đột nhập đơn vị lấy được khẩu AK và 1 gói mỳ chính, trong lúc bị truy đuổi kẻ địch đã phi tang gói mỳ chính xuống ao sau chuồng heo của đơn vị.
Yêu cầu toàn bộ B2 của C1 xuống ao tìm bằng được…gói mỳ chính”. Mệnh lệnh ban ra mà tất cả các đại đội vừa ngạc nhiên vừa buồn cười. Lúc đầu mọi người còn cố nín lại, nhưng sau đó chẳng biết ai phá ra cười đầu tiên khiến tất cả cười ầm cả lên.
Mỳ chính mà ném xuống nước thì còn gì là mỳ chính. Vẫn biết là tội ngủ gật bị hành cũng là đúng, nhưng vì 1 thằng mà trị cả trung đội thì cũng hơi quá.
Chính sách quân đội là lấy 1 người để răn đe nhiều người, trừng trị những thằng không liên quan để giáo dục cho 1 thằng có liên quan (món này ai đã đi lính thì quá hiểu).
Mà cái ao sau chuồng heo thì bẩn vô cùng, nó chứa đủ thứ nước thải, phân heo, thức ăn thừa của heo xuống…Nhưng lệnh mà không thực thi cũng không được. Sau này nghe kể lại thằng đó lúc về bị anh em trùm chăn cho đi “thiết vận xa”, nghĩ cũng tội cho nó. Nhưng thôi kệ, nhà bao việc...
Phía trên là 2 cái khổ, nhưng còn 1 cái khó của lính. Cái khó đó là chống ăn cắp vặt giữa lính với lính. Những ngày đầu mới lên trường thì thằng nào cũng có tiền trong người, không nhiều thì ít, nhưng sang đến tuần thứ 2, thứ 3 thì chẳng mấy thằng còn tiền cả.
Lúc đó mới phát sinh chuyện chà đồ nhôm (chôm đồ nhà). Đồ dùng cá nhân thằng nào cũng như nhau, quần áo thì thêu tên, bát sắt ai cũng có, khăn mặt cũng ký hiệu riêng, mà kể cả không ký hiệu cũng chẳng ai màng lấy của nhau dăm ba cái lẻ tẻ đó. Cái mà “thăn” của nhau là tiền, vâng, là tiền.
Tiền để trong người chưa hẳn đã an toàn, bỏ ba lô thì càng nguy hiểm. Lúc đó lính nghĩ ra trăm phương ngàn kế để cất giữ tiền, để phòng thân. Thằng thì giấu tiền vào kèo tre trên mái nhà, thằng thì cho túi nylon rồi buộc xuống phần ống rỗng dưới điếu cày.
Riêng gã thì quái chiêu hơn, vì gã nghĩ nơi an toàn nhất là nơi bất ngờ nhất, cái này nằm trong bài huấn luyện của trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu ở khoa mục dò tìm mục tiêu. Gã gói tiền vào túi nylon, sau đó ra bụi chuối gần chuồng gà của B, tiếp đến gã thả 1 bãi “ngũ cốc luân hồi” lên đó.
Vậy là yên tâm, tuy hơi mất vệ sinh tý chút, nhưng chẳng lo mất trộm. Nhờ quái chiêu đó mà gã cùng mấy thằng trong tiểu đội luôn có tiền mua thuốc lá, chè bồm chiêu đãi anh em trong trung đội và các trung đội bạn sang “ké” đến 5 tháng sau mới hết tiền.
Nhớ lắm một thời lính tráng khổ mà vui
TUỔI TRẺ
Chợ Nghệ - Sơn Tây vào những ngày chủ nhật của những năm 80 thế kỷ trước, thì thôi rồi các sắc lính. Trên là trời, dưới là màu áo lính. Có câu nói không biết của ai đã từng mô tả: “Gái Hà Nội bộ đội Sơn Tây”. Nhìn đâu cũng thấy áo lính K82, lính mặc áo lính đã đành, dân thường cũng mặc áo lính. Thậm chí có lần 1 bà bị mất trộm hô: “Bắt lấy thằng ăn trộm mặc áo bộ đội kia kìa…”. Cả chợ ngơ ngác nhìn nhau, vì toàn màu áo lính nên chẳng biết thằng ăn trộm “mặc áo bộ đội” là thằng nào. Chợ Nghệ là chợ lớn, ngày thường cũng có lính ra vào chợ, nhưng ngày chủ nhật thì đông vô cùng. Lính đi chơi chợ cũng có, lính đi chợ mua đồ cải thiện cũng có, lính đi tán gái cũng có…
Tất nhiên trong các sắc lính đó không thể thiếu mặt được lính trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu và trường sỹ quan đặc công. Lính trường sỹ quan đặc công được đào tạo cận chiến tay không hết sức bài bản, lính trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu tuy không thiện chiến bằng nhưng cũng chẳng thua kém là bao.
Tuổi trẻ có chút đào tạo võ thuật nên lính 2 trường này luôn tỏ ra hiếu thắng, “ngứa tay ngứa chân” hơn so với các sắc lính của các trường khác như: Thông tin, phòng không, pháo binh, phòng hóa, biên phòng, trường cảnh khuyển biên phòng… Đã có vài vụ va chạm lẻ tẻ giữa học viên 2 trường, tuy chưa lần nào cả 2 bên bế người đi cấp cứu, nhưng u đầu, tím mặt thì cũng khá nhiều.
Có lần học viên 2 trường hẹn ngày giờ và chọn địa điểm phía trước bưu điện trung tâm thị xã để so tay. Hai bên đều đến theo ước hẹn, đến phút cuối chẳng hiểu sao xuất hiện 1 tốp “quỷ” (Kiểm soát quân sự) đứng bên đường ngó sang. Lần đó 2 bên hậm hực tan trận mà chưa phân định cao thấp.
Nếu nói về bản lĩnh thì lính trường sỹ quan đặc công được đào tạo kỹ năng chiến đấu tốt hơn hẳn so với lính trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu, nếu chơi “tay bo” thì lính trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu “chơi” không lại được với học viên trường sỹ quan đặc công. Nhưng bù lại, lính trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu đông hơn, nên hay chơi kiểu “chó đàn” “ruồi bu *** ngựa”…
Điều đó cũng làm cho học viên trường sỹ quan đặc công đôi lúc cũng “chờn”, ít khi dám đi 3-4 người ra chợ Nghệ chơi, còn đi lẻ 1 người thì cho ăn kẹo cũng chẳng dám. Học viên 2 trường đều được trang bị dao lê 5 tác dụng của Hungary cho khoa mục cắt dây thép gai. Thời đó trấn lột khá nhiều, do vậy mà lính đi chơi hay đi chợ rất hay thủ thứ “đồ chơi” này trong người. Nhưng dường như có 1 quy ước ngầm vậy, khi “so tài” với nhau, 2 bên đều chơi tay không, chưa bao giờ thấy ai rút “đồ chơi” ra cả, dù trong người thằng nào cũng dắt “đồ”.
Do vậy chuyện đổ máu, đi viện là chuyện chưa bao giờ xảy ra giữa lính của 2 trường. Cứ thỉnh thoảng lại va chạm như vậy vài lần thành quen, lâu lâu không được “nện” nhau lại thấy nhớ.
Rồi bỗng 1 ngày đẹp trời, các học viên trường sỹ quan đặc công mời học viên trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu ra quán nước nói chuyện nghiêm túc. Nghĩ rằng sẽ bị “úp sọt” nên trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu chuẩn bị rất kỹ và kéo ra gần 100 mống. Ra đến quán thấy nhõn có 5 người của trường sỹ quan đặc công ngồi đợi sẵn rồi, trong đó có 2 nữ. Bên trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu thấy hết sức bất ngờ, nhưng cũng cử 5 thằng biết ăn nói vào quán nói chuyện...
Qua màn chào hỏi mới biết 2 nữ quân nhân đó là 2 chị em ruột Kim Hải, Kim Yến, đang là giáo viên bộ môn võ thuật của trường sỹ quan đặc công. Thì ra các bạn học viên sỹ quan đặc công không muốn suốt ngày xảy ra “chiến tranh” triền miên giữa học viên 2 trường nữa. Ý các bạn, học viên trường sỹ quan đặc công phải thi mới vào được trường, tốn bao nhiêu cơm cha áo mẹ, không như học viên hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu, tinh lính nghĩa vụ.
Nếu cứ nện nhau liên miên vậy mà để trường biết được thì sẽ bị đuổi học, tệ nhất là bị “quỷ” tóm thì chắc chắn sẽ bị cắt quân tịch trả về địa phương ngay (Thời điểm bao cấp đó, bị cắt quân tịch cũng đồng nghĩa cắt hết cả tem phiếu, lương thực, không xin được việc vì sẽ không cơ quan nào nhận cả…). Còn học viên hạ sỹ quan là lính nghĩa vụ, nếu bị đuổi học có khi còn lấy làm mừng, khỏi mất 8 tháng huấn luyện vất vả trên thao trường, chỉ phải chuyển về các đơn vị bộ binh nên cũng chẳng cần sợ chuyện bị cắt quân tịch trả về địa phương.
Ừ…cũng đúng. Vậy bắt tay làm hòa nhau. Vì giữa học viên 2 trường đâu có hận thù gì đâu, chẳng qua học được chút kỹ năng chiến đấu tay không thì “ngứa chân tay” thôi. Dù vậy các học viên hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu cũng thấy chút tiếc nuối khi chẳng biết rủ ai quánh nhau nữa. Kể từ đó trở đi khu trung tâm thị xã Sơn Tây nói chung và chợ Nghệ nói riêng trở lại thanh bình như những gì vốn có của 1 vùng đất địa linh nhân kiệt.
Trong giai đoạn sau này, thỉnh thoảng học viên 2 trường đi chợ Nghệ gặp nhau cũng hay í ới gọi nhau vào quán nước làm chén trà, ăn mấy cái kẹo dồi, kẹo bột, hút vài điếu Sapa, tán phét với nhau. Đã gần 40 năm, không biết rằng những thằng lính “va chạm” ở 2 trường ngày đó, ai còn ai hy sinh ở chiến trường, cuộc sống ra sao, còn thằng nào tại ngũ, thằng nào đã phục viên, chuyển ngành…Mà cũng không biết là có thằng nào đọc được bài viết này để nhớ về kỷ niệm 1 thời tuổi trẻ nông nổi không nhỉ?
LẦN ĐẦU BỊ KỶ LUẬT
Tháng 4 năm 1984, sau khi mãn khóa loại ưu với quân hàm Trung sĩ tại trường hạ sĩ quan trinh sát luồn sâu gã được điều động về đại đội trinh sát luồn sâu sư đoàn bộ binh 7 (sư đoàn Bến Tre), quân đoàn 4 đang tham chiến trên mặt trận 479 trải dài qua các tỉnh sát biên giới Thailan từ Pursat, Pailin, Battambang, Poipet đến tận Anlong Veng của đất nước Chùa Tháp.
Quân đoàn 4 còn được gọi là binh đoàn Cửu Long và được phong tặng “Bức tường thép miền Đông Nam bộ”. Gã về đơn vị mới và được phân cùng nhóm với thằng Đực, thằng Phú “nhái” (Lúc đó thằng Long “Polpot” chưa về tổ). Một ngày đầu tháng 5 năm 1984 nhóm gã được tung đi “thám” khu căn cứ 14 của Khmer đỏ nằm chếch Poipet 25 độ về hướng Tây Nam. Đây cũng là lần đầu tiên gã và những thằng bạn đi “thám” thực tế sau thời gian huấn luyện tại Vietnam. Mọi việc khi đi “thám” đều suôn sẻ cho đến khi trên đường trở về.
Lúc về ngang đường chợt cả 3 thằng đều ngửi thấy mùi thuốc lá Samit thơm ngào ngạt. Thời đó thuốc lá Samit từ Thailan tuồn sang cho lính Pot khá nhiều và loại thuốc lá đầu lọc đó cũng ngon hơn hẳn loại thuốc lá Sapa hay Điện Biên mà lính ta được mua phân phối hàng tháng. Cái loại thuốc lá thời bao cấp khét lẹt như lông bò và không có đầu lọc. Ba thằng lò dò tiến về phía mùi thơm của thuốc lá Samit. Vượt qua mấy bụi cây lúp xúp thì thấy trước mặt có căn nhà lá nhỏ nằm cạnh rìa 1 trảng cỏ trống. Ba thằng bọn gã nhẹ nhàng áp sát căn nhà và cẩn thận quan sát xung quanh và trong nhà.
Thấy trong nhà có 1 thằng lính Pot đang nằm đung đưa trên võng, 1 thằng khác ngồi quay lưng ra cửa đang lau khẩu AK Tầu (Với lính chiến, nhất là lính trinh sát luồn sâu, bài học đầu tiên là không bao giờ được phép ngồi ở nơi trống trải không có che chắn hoặc ngồi quay lưng ra cửa để tránh bị tập kích bất ngờ). Tiếng 1 thằng nói gì đó, gã chỉ nghe được loáng thoáng có câu Sách cô (thịt bò).
Tuy mới đặt chân đến đất Miên nhưng mấy thằng gã cũng đã tranh thủ học được vài câu tiếng Miên thông dụng do các bậc đàn anh đi trước dạy cho. Tất nhiên những câu chửi bậy hoặc về ăn uống dễ học hơn với những câu thăm hỏi xã giao, ngoài câu Xua sơ đây (xin chào).
Có câu chuyện mà cánh lính cũ hay kể về tiếng Khmer và tiếng Việt, không biết là chuyện nghiêm túc hay chuyện hài nữa. Đại để, có một đơn vị bộ đội Việt Nam trên đường hành quân qua một phum nhỏ, mùa khô trời nắng nóng, anh em hỏi dân làng: “Nước ở đâu?”. Dân ở đây không biết tiếng Việt nên có nhiều người nói “Ót-che” (không biết). Anh em ta hỏi ở đâu cũng đều được trả lời như thế. Có mấy anh em hơi bực mình: “Tức thật! Tức thật!”. Bà con Khmer nghe nói tiếng “Tức” (trong tiếng Campuchia nghĩa là nước), liền cho người đưa nước đến cho lính.
Nhưng ở đây, người thì đông mà nước lại ít. Một anh lính quê khu Tư nói một câu bâng quơ: “Người “đôông” ra ri mà được từng nớ nác, thì ai uống ai nhịn đây!” (Người đông thế này mà được từng ấy nước thì ai uống ai nhịn đây). Dân nghe lính nói tiếng “đôông” (trong tiếng Campuchia “đôông” nghĩa là nước dừa), liền cho người lên hái dừa cho lính. Mỗi gia đình mang đến mấy trái, cả thôn tập trung lại được số dừa xếp thành đống. Lính ta cười hả hê, có anh chàng quê miền trong nói như tuyên bố: Uống “chết” bỏ. Bà con ở đây nghe tiếng “chết” (tiếng Campuchia “m’chếch” là chuối), tưởng lính Vietnam muốn ăn chuối, nên những buồng chuối chín lại được mang ra.........
(Tấm hình gã chụp cách đây 38 năm, năm 1984 tại thị xã Sơn Tây. Trước lúc lên đường đi chiến trường K. Tuy không nói ra nhưng trong gia đình, họ hàng, bạn bè ai cũng mặc định tấm hình đó sẽ được dùng làm ảnh thờ nếu gã đi mà không trở về)
Thời điểm đó gã không biết nhiều tiếng Miên nhưng nghe đến Sách cô là biết có thịt bò tươi để ăn, đỡ hơn ăn gạo sấy và thịt hộp, nước miếng tứa ra. Tính trẻ thơ, nghịch ngợm chợt nổi lên, gã lấy tay làm hiệu chỉ vào bụng, hai thằng kia mắt sáng lên cũng gật ngay tắp lự. Quan sát kỹ thấy xung quanh yên ắng không có bóng người, chỉ có tiếng chim bắt cô trói cột kêu đâu đó giữa trưa nắng và 2 thằng lính Pot trong nhà.
Thằng Đực chỉ tay vào thằng ngồi quay lưng ra cửa rồi chỉ vào nó, rồi nó chỉ gã và thằng Phú “nhái”, xong chỉ vào thằng nằm trên võng. Ba thằng thống nhất xong, thì thằng Đực rút dao lê 5 tác dụng lao vào nhà và chơi luôn 1 nhát giữa cổ họng thằng quay lưng ra cửa đang ngồi lau súng, gã và thằng Phú cũng lao nhanh vào nhà. Với sức trai trẻ và sự nhanh nhẹn của tuổi đôi mươi, gã và thằng Phú không khó khăn gì khi hạ nốt thằng trên võng khi nó chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra. Quả nhiên trong nồi để góc phòng có độ mấy ký thịt bò còn tươi nguyên, ngoài ra còn thu được chiến lợi phẩm là 8 cây thuốc lá Samit còn nguyên và vài bao lẻ, một can nhựa đựng chừng hơn 2 lít rượu thốt nốt. Lúc đi ngang qua cột nhà gã thấy treo 1 thắt lưng có gắn bao súng ngắn loại K54 phiên bản Tầu sản xuất cùng 2 băng đạn dự phòng, tiện tay gã…”mượn luôn”. Tiếc rằng khi ra quân, về qua cửa khẩu Mộc Bài đã bị quỷ (kiểm soát quân sự) thu mất.
Về đến đơn vị, với tính cách phóng khoáng, hào sảng đầy chất chơi, ba thằng gã đem thịt bò xuống bếp cho chị Hoa nuôi quân, rượu thì mấy thằng gã uống, còn thuốc lá thì chia đều cho anh em trong đại đội cùng các phòng ban, bộ phận khác trong sư bộ, chỉ giữ lại 1 cây.
Hôm đó lính tráng đốt thuốc lá Samit ngào ngạt đơn vị, nhưng cũng vì mùi thơm đặc trưng đó mà gã gặp họa. Sáng sớm hôm sau thiếu tướng Hoàng Kim, chủ nhiệm chính trị, phó tư lệnh quân đoàn 4 đi kiểm tra tình hình quân chính của các sư đoàn (khi đó thực hiện chế độ 1 thủ trưởng nên chưa có chính ủy, mãi đến những năm sau này mới tái thực hiện chính ủy cho đến bây giờ). Khi cụ đến sư đoàn, đi ngang qua phòng của ban thông tin và ban cơ yếu thấy có mùi thuốc lá Samit thơm lừng. Cụ thò đầu vào hỏi mấy thằng thông tin thuốc lá Samit kiếm ở đâu ra?
Thằng Bội nhà ở Roòng, Bố Trạch, Quảng Bình (thằng này sau hy sinh ở khu vực phía Tây đường số 5, Ni-mít đi Poipet, Sophi do mảnh cối cắt ngang cuống họng khi đi rải dây hữu tuyến kết nối với sư đoàn 9, quân đoàn 4) khai hết, đúng là thằng tên Bội nên nó phản bội cũng nhanh. Cụ ra lệnh cho vệ binh thộp cổ cả 3 thằng lên Phòng chính trị sư đoàn gặp mặt.
Trên đường từ lán trinh sát lên lán của Phòng chính trị gã đã thấy lành ít, dữ nhiều. Gã bảo 2 thằng bạn: “Tất cả do tao, tao làm tao tự chịu”. Nói thì vậy, khi gặp cụ và được hỏi thuốc lá kiếm ở đâu ra, gã và 2 thằng kia đều báo cáo khớp. Khó nhất cho cụ là lúc hỏi thằng nào đầu trò thì cả 3 thằng đều nhận tội. Gã nhất mực khẳng định mình mới là kẻ đầu têu và là tổ trưởng nên chịu trách nhiệm. Cụ yêu cầu kỷ luật gã thật nghiêm để giữ vững quân kỷ, nhưng do gã là tân binh mới chân ướt, chân ráo sang Campuchia, phần nữa lúc đó đang thiếu quân nên gã chỉ bị hạ cấp bậc từ Trung sĩ xuống làm binh bét (B2) và giao cho thằng Phú “nhái”, dân xã Hùng An, Kim Động làm tổ trưởng.
Kể từ thời điểm đó thằng Phú làm tổ trưởng tổ tam tam cho đến lúc ra quân. Kệ, gã không mấy quan tâm chuyện đó. Mà thằng Phú “nhái” tính tình nhu mì như con gái vậy, trừ khi giao chiến thì nó đúng là hổ dữ, còn đối với bạn bè anh em thì nó củ mỉ cù mì, bảo sao nghe vậy.
Tiếng là tổ trưởng, nhưng khi gã và thằng Đực bảo đi hướng Bắc thì cho ăn kẹo nó dám đi hướng Nam. Nó toàn bị gã và thằng Đực xúi bẩy làm những việc lãng xẹt, chẳng đâu vào đâu cả. Từ việc xuống nhà bếp “vay” con gà do chị em tăng gia để nhậu, cho đến “mượn” quần áo của chị em bên tiểu đoàn quân y mà “QUÊN” không trả lại cũng là do nó nghe gã và thằng Đực xúi trẻ con ăn cứt gà sát. Chuyện “mượn” quần áo nữ mặc là có nguyên nhân. Một năm, lính sẽ được cấp 2 bộ K82 và 1 bộ bổ xung, nhưng với lính trinh sát, quanh năm suốt tháng luồn rừng, cắt núi thì chuyện rách áo, thủng quần là chuyện cơm bữa, do vậy mà mấy thằng lính trinh sát luồn sâu hầu như chẳng có thằng nào có bộ quần áo nguyên vẹn cả.
Thậm chí có những thằng trinh sát luồn sâu hy sinh, tìm trong ba lô của nó cũng toàn quần áo rách, chẳng có cái nào lành lặn, tử tế để khâm liệm. Lúc đó lại phải đi xin, đi ứng của các phòng ban khác để có 1 bộ tươm tất liệm cho bạn trước khi chôn.
Cụ Hoàng Kim kỷ luật gã là đúng, gã tâm phục khẩu phục. Vì đã là lính trinh sát luồn sâu thì không thể vô kỷ luật như vậy được, chỉ vì 1 ý thích trẻ con nhất thời có thể làm hỏng cả 1 chiến dịch đã được lên kế hoạch hết sức công phu. Kể ra đây để ai đó chưa hiểu về lính trinh sát luồn sâu sẽ có thêm khái niệm về binh chủng đó.
Lính trinh sát luồn sâu khác với lính trinh sát bộ binh tầm gần, trinh sát pháo binh hay đặc công. Lính trinh sát, thông thường tránh chuyện nổ súng hay những đụng độ khi không đặc biệt cần thiết, lực lượng đặc công thì có thể đánh bôn tập hoặc công kiên, tóm lại đặc công được phép nổ súng chiến đấu, khác với lính trinh sát. Riêng lực lượng trinh sát luồn sâu là cánh tay nối dài của tình báo quân đội, Cục 2 (Cục quân báo, thời điểm đó chưa nâng cấp thành Tổng cục).
Trường hạ sỹ quan trinh sát luồn sâu thì sau cuộc chiến biên giới Tây Nam được đổi tên thành trường Cao đẳng trinh sát, trực thuộc Tổng cục 2, tình báo quân đội. Ngày đó nhập trường là do lựa chọn của cấp trên, cứ thằng nào đạt chỉ tiêu sức khỏe, nhanh nhẹn…đáp ứng được các yếu tố cần và đủ của lính trinh sát thì đưa đi học, làm gì có chuyện thi cử như bây giờ. Thậm chí thời điểm đó các bộ môn thể thao như kiếm, điền kinh, tạ hoặc tuyển phi công lái máy bay chiến đấu đều về các trường cấp 3 ở Hanoi như Việt Đức, Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Trần Phú, Phan Đình Phùng, Chu Văn An…để tuyển chọn, sát hạch mà chẳng cần qua bất cứ kỳ thi toán, lý, hóa nào cả. Miễn là đáp ứng được các tiêu chí đề ra.
Với lính trinh sát bộ binh tầm gần thì dùng thông tin đó trong 1 trận đánh, còn với lính trinh sát luồn sâu thì thông tin thu thập sẽ được phục vụ cho cả 1 chiến dịch, cho cả quân đoàn hoặc mặt trận. Do vậy chuyện gã và 2 thằng Đực, Phú chỉ vì 1 phút nhất thời “mượn” mấy cây thuốc lá Samit có thể sẽ làm lộ bí mật và phá hỏng cả 1 chiến dịch, sự trả giá có thể là bằng chính tính mạng của mình hoặc đồng đội. Gã chấp nhận bị kỷ luật, không 1 lời kêu ca. Đó cũng là bài học xương máu đầu tiên khi khoác áo lính chiến. Đó cũng là lần đầu tiên gã bị kỷ luật từ cấp quân đoàn. Một kỷ niệm đáng nhớ của đời lính chiến trong việc giữ bí mật trong chiến đấu với những bài học vỡ lòng “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”.
Những điều mà không có trường lớp nào dạy ngoài thực tế chiến trường rèn luyện, để rồi gã còn lành lặn trở về nguyên vẹn sau những năm dài chinh chiến nơi đất khách quê người.
Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng
Trường Thành xa lắm Hán Vương ơi
Chiêu Quân che khép mền chiên bạch
Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi. (Chiêu Quân - thơ Quang Dũng)
CHUYỆN TÌNH CỦA LÍNH
Trong hồi ức của gã, cái chết của thằng Tiến “méo”, dân Vĩnh Long ở vệ binh sư bộ và em Hằng người Thái Bình ở tiểu đoàn quân y, cái chết của đôi tình nhân mà gã luôn thấy ám ảnh khi hy sinh cùng ngày, cùng giờ, chỉ khác là cách nhau 5 tháng thôi.
Buổi chiều hôm đó (gã không còn nhớ ngày tháng nữa, nhưng lúc đó thằng Long “Polpot” đã được phân về tổ tam tam của gã rồi, nên có thể là tháng 7 hoặc 8 của năm 1985), sư đoàn bộ tổ chức đá bóng giữa phòng Tham mưu và liên quân phòng Hậu cần - Chính trị - Kỹ thuật. Bởi bên liên quân thiếu người nên anh Kỷ, tham mưu phó đẩy gã sang đá trong đội hình liên quân Hậu cần - Chính trị - Kỹ thuật. Bọn thằng Đực, Long “Polpot”, Phú “nhái” vẫn đá trong đội hình của tham mưu.
Nhập cuộc đâu chừng 10 phút gì đó, bóng đến chân gã, gã lại thấy thằng Phú “nhái đang đứng gần thủ môn, gã liền ban ngay bóng về cho thằng Phú “nhái”… VÀO…VÀO. Cả cầu trường vang lên tiếng reo hò. Bố Nguyên thượng tá, dân Tiền Giang (gã và cánh lính trẻ toàn gọi các thủ trưởng nhiều tuổi trong sư đoàn là bố), trưởng phòng Hậu cần từ ngoài sân chạy bổ vào sân chỉ mặt gã…”Đù má…mi biết đá bóng không hả? Sao lại ban bóng vào chân đối thủ để nó sút tung lưới đội nhà rứa? Ra…ra, thằng nào zô thay đi…”. Gã ớ người ra…ừ nhỉ…đi “thám” thì gã và thằng Phú “nhái” cùng 1 tổ tam tam, nhưng đá bóng thì nó lại là đối thủ của gã cơ mà. Gã gãi đầu cười trừ rồi đi ra sân để thằng khác vào thay.
Thật ra hôm đó gã cũng chẳng có tâm trạng nào mà bóng với bánh, vì lúc chiều gã đã hẹn với thằng Tiến “méo” người Vĩnh Long ở vệ binh sư đoàn đi đánh cá cải thiện ở cái đầm mà mấy hôm trước, khi trên đường đi “thám” ở Nek Khuon về gã đã tăm tia thấy. Đầm tuy không lớn lắm nhưng có vẻ nhiều cá...
Gã và thằng Tiến “méo” dắt theo mỗi thằng 3 trái lựu đạn chày loại R42 của Nga Xô. Loại này mà quẳng xuống nước để đánh cá thì tuyệt vời, ăn đứt loại M67 của Mỹ. Đến bờ đầm, hai thằng rút chốt và ném cả 6 quả R42 xuống, mỗi quả cách nhau độ 10 giây, thời gian đủ để sóng xung kích tạo sức ép lên các loại cá dưới đầm.
Từ loại ăn trên mặt nước đến cả loại ăn dưới đáy. Sau 6 tiếng “ục…ục…ục…” trời…cá ngửa trắng bụng lấp loáng mặt đầm. Hai thằng lội xuống vớt lia lịa, gã chỉ dám vớt loanh quanh bờ vì không biết bơi, thằng Tiến “méo” biết bơi nên nó ra hẳn xa để vớt. Chỉ 1 loáng đã được khá nhiều cá, hai thằng mặt mũi phởn lên khi bắt được nhiều cá.
Hì hục mãi 2 thằng cũng đem được mớ cá về đơn vị đưa xuống bếp cho thằng Tú “mọt” và chị Hoa ở bộ phận nuôi quân. Thằng Tiến “méo” bảo: “Làm hết đống cá này thì đến tối cũng chẳng xong. Mà có gọi thêm mấy thằng nữa làm thì cũng chẳng biết nấu cá với cái chi. Chẳng lẽ luộc tất hả?”. Chị Hoa: “Bây giờ sắp tối rồi thì biết kiếm cái gì mà nấu cùng, thôi ăn đại đi mấy ông tướng, đừng đòi hỏi nữa. Có cá cải thiện là tốt rồi. Ăn tạm đi, hết chiến tranh về Cần Thơ nhà chị, chị sẽ đãi mấy đứa món cá nấu bông điên điển, ngon tuyệt”. Gã chợt ồ lên: “Trưa nay tao thấy mấy đứa con gái bên tiểu đoàn quân y đi kiếm được nhiều măng lắm, tao với mày lên xin đi”. Chị Hoa ở nhà chia cơm nên không đi được, thằng Tú “mọt”, Tiến “méo” thì xấu hổ. Gã bảo: “Cứ đi theo tao, tao sẽ xin chúng nó, mà không xin được thì…”.
Gã bỏ lửng câu nói làm chị Hoa, thằng Tú, thằng Tiến cười toác miệng
Vì cả mặt trận hầu như đều biết tiếng gã, cái thằng dám to gan đột nhập kho gạo của mặt trận và kho gạo của quân đoàn để ăn trộm gạo dành cứu đói cho dân Khmer để nấu cháo cho thương binh của mình. Vi phạm chính sách tinh thần đoàn kết Cuốc tế, cho dù đó là các thương, bệnh binh mang dòng máu Lạc Việt trong người.
Cái tội tày đình, đáng ra phải đưa ra Tòa án binh xử, nhưng vì chắc do mối thâm giao của cha gã với các tướng lĩnh nên mọi chuyện rồi cũng êm xuôi. Mà không phải 1 lần, những 3 lần lận. Đó cũng là 1 trong những lý do mà sau 4 năm 8 tháng 12 ngày chiến đấu tại đất nước Chùa Tháp, lập được không ít công trạng mà gã vẫn mãi chỉ là binh nhì (B2 - binh bét) cho mãi đến ngày ra quân mới được chú Thượng tướng Lê Ngọc Hiền nguyên Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia phong quân hàm thượng sĩ (có lẽ cũng vì mối quan hệ bằng hữu với cha gã chăng? Gã chẳng rõ nữa).
Chuyện đó gã sẽ viết lại trong dịp khác, sẽ nói rõ hơn. Thấy gã xăm xăm đi về lán của tiểu đoàn quân y, thằng Tiến “méo” cũng lon ton chạy theo. Đến đầu lán gã đụng ngay em Hằng người Thái Bình, một cây chèo có tiếng của sư đoàn. Gã vừa cười, vừa đong đưa mắt ra vẻ hiền lành....
Gã vừa mở lời xin đã thấy em tươi cười rồi vào lán lôi ra cho mấy cây măng to tướng. Đó, đó chính là lần đầu tiên thằng Tiến “méo” được giáp mặt với danh ca chèo của sư đoàn 7 bộ binh. Vậy mà không biết sao thằng Tiến “méo” lại cưa đổ được em, người con gái đằm thắm, người trong mộng của khá nhiều sĩ quan, chiến sĩ của sư đoàn. Hôm đó sư bộ được chén bữa cá tươi đã đời, nhưng gã và thằng Tiến cũng bị cảnh cáo vì tội mang lựu đạn đi ném cá. Các thủ trưởng mắng thì mắng vậy thôi, nhưng chẳng thấy cụ nào chê món canh cá nấu măng chua cả.
Sau lần đánh cá bằng lựu đạn đó mấy tháng, khi sư đoàn bộ di chuyển về hướng Sangkea thuộc tỉnh Battambang. Buổi trưa hôm đó bầu trời âm u mà mãi chẳng thấy mưa. Lính tráng sư bộ mỗi người 1 việc, đột nhiên nghe thấy tiếng AK nổ rộ ở phía bên trái đội hình. Tiếng AK vọng vào vào vách núi rồi dội lại nên nghe thật gần, thật vang. Tiếng AK bắn cả tràng dài thì chắc là lính Pot, còn tiếng AK bắn tắc cú thì chắc lính mình rồi. Lính Pot được quân đội Việt Nam huấn luyện trước năm 1975 cũng có kiểu bắn đặt nấc liên thanh nhưng bắn tắc cú. Nhưng loại lính đấy đa phần thuộc vào các đơn vị chủ lực của Khmer đỏ, ít khi về các đơn vị thường. Còn lính Việt Nam đa phần rất thành thạo kiểu bắn tắc cú với băng đạn AK đảo chiều (tức là 2 băng đạn buộc lộn “tu” để thay băng cho nhanh).
Tất cả ôm súng lao về các vị trí chiến đấu. Bỗng anh Vĩnh, C trưởng vệ binh hét lên: “Bỏ mẹ…thằng Tiến “méo” và Đăng “dưa” đi đâu rồi chúng mày?”. Đứa nào đó trả lời: “Sáng em thấy 2 thằng đi về đúng hướng đó anh ơi…”. Nghe vậy anh Vĩnh bật lao về hướng có tiếng súng, mấy thằng vệ binh và trinh sát luồn sâu ở gần cũng ôm súng lao nhanh theo, trong đó có gã và thằng Long “Polpot”.
Chạy 1 đoạn thì thấy tiếng súng tắc cú thưa thớt dần rồi im hẳn. Mấy anh em nóng ruột băng lên, mặc kệ cành lá cào xước tay chân. Đến 1 gốc cây rất to thì thấy thằng Tiến “méo” nằm ngửa mặt lên trời, trên bụng nó có 1 giò hoa trắng muốt dính đầy máu. Cách đó không xa là thằng Đăng “dưa” người Thanh Hóa, cũng nằm bất động. Anh em ào đến, người xem thằng Đăng, người ôm thằng Tiến. Thằng Tiến trúng đạn vào đầu, thằng Đăng thì toàn bộ vùng ngực thủng lỗ chỗ. Căn cứ theo vết đạn thì hai thằng nó bị bắn trong khoảng cách khá gần.
Sau này mới biết 2 thằng bất ngờ chạm trán với lính trinh sát của Khmer đỏ. Lúc đó cũng không ai hiểu giò hoa phong lan đó từ đâu ra, đến lúc đưa xác 2 thằng về sư bộ mới biết. Do em Hằng vô tình khen loại hoa đó đẹp mà thằng Tiến rủ thằng Đăng đi trèo hái về tặng người yêu. Nhìn thấy đầu thằng Tiến “méo” bê bết máu, em Hằng khóc nấc lên. Bé cứ ôm mãi đầu thằng Tiến vào lòng không chịu buông. Chị em bên quân y phải xúm vào gỡ tay bé ra để anh em khâm liệm cho nó.
Nghe chị Thơm bên tiểu đoàn quân y kể lại, bé rất ân hận vì cảm thấy có lỗi trong cái chết của thằng Tiến và thằng Đăng, chỉ vì 1 câu khen bâng quơ hoa phong lan đẹp mà đưa 2 thằng vào chỗ chết một cách lãng xẹt. Cũng từ hôm đó bé như người mất hồn, hay đi lang thang vào trung tâm sóc (X`rốc) gần nơi trú quân (sóc là đơn vị hành chính của Campuchia tương đương như huyện vậy, dưới sóc có khum như xã và phum như thôn (ấp) của Việt Nam), mồm lẩm bẩm những câu vô nghĩa không ai hiểu được.
Tình trạng đó kéo dài đến 3-4 tháng vẫn không có tiến triển, sư đoàn thấy tình hình bé như vậy nên quyết định cho bé xuất ngũ, trở về địa phương. Trong lúc chờ đợi có đoàn về Việt Nam để gửi theo, thì bé vẫn hàng ngày lang thang đi chơi khắp nơi. Rồi 1 buổi trưa định mệnh chợt tìm tới bé, khi bé lang thang ra bờ suối cạn thì đạp phải trái mìn mồ côi nằm lẻ loi trong đám cỏ nước cạnh bờ suối. Khi mọi người nghe tiếng nổ tìm đến bờ suối thì bé đã lịm đi và chết trên đường về đơn vị vì mất máu cấp…
Khi dọn ba lô để gửi về cho gia đình, mọi người tìm thấy 1 trang giấy được xé ra từ quyển sổ tay nào đó, trên có ghi mấy dòng mà gã chỉ nhớ được đại ý như…”mong muốn sớm kết thúc chiến tranh để có thể làm người vợ, người mẹ tốt. Làm 1 người con dâu hiếu thảo ở đất Vĩnh Long…mong được mặc áo dài trắng trong ngày cưới (lúc đó ở chiến trường nên gã và mọi người không biết là đám cưới ở Việt Nam lúc đó có váy chưa, nhưng khi gã và mọi người nhập ngũ thì các đám cưới ở phía Bắc chỉ có áo dài trắng là sang trọng rồi, thời điểm đó cô dâu chưa có váy)…”...
Anh em chôn bé bên tay trái mộ thằng Tiến, bên phải là mộ thằng Đăng “dưa”. Trên mộ bé và thằng Tiến “méo”, Đạt “dưa” hôm đó được đặt mỗi mộ 1 giò phong lan trắng do gã, thằng Đực, Long “Polpot” và Phú “nhái” đi hái về với tất cả những gì trân trọng nhất dành cho đồng đội của mình.
Thầm cầu mong, nếu có kiếp sau các bạn sẽ mãi mãi bên nhau, nên vợ nên chồng với hạnh phúc bền lâu muôn đời. Thời điểm “ra đi” của thằng Tiến, thằng Đăng là lúc 11h17 ngày 24 tháng 10 năm 1985, của bé Hằng cũng 11h17 ngày 24 tháng 3 năm 1986, cách nhau đúng 5 tháng và đúng ngày, đúng giờ, một sự trùng hợp đến lạ kỳ. Sau này cả 3 được quy tập đưa về Gia Lai năm 1997. Thằng Đăng được gia đình đưa về Thanh Hóa năm 2001. Còn thằng Tiến và em Hằng được gia đình thằng Tiến đón về an táng tại Vĩnh Long, trên mảnh đất của vườn nhà và coi như 1 người con dâu của dòng tộc (chuyện xin phép gia đình của bé Hằng để cho bé an nghỉ ở Vĩnh Long lại là 1 câu chuyện dài khác).
Cuối cùng em cũng toại nguyện được làm dâu con đất Vĩnh Long như em từng ao ước. Chiến tranh là vậy đó, vừa hút chung điếu thuốc, vừa chia nhau ngụm nước, chỉ 1 ánh chớp nháng lên là đã âm dương cách biệt nghìn trùng. Chỉ những ai đã đi qua chiến tranh mới hiểu được sự tàn khốc của chiến tranh, mới hiểu được tình người nay còn, mai mất để có thể trân trọng những gì mình đã và đang có.
Áo cưới em chưa mặc một lần
Giờ cầm cảm thấy nặng ngàn cân
Tâm hồn tan nát không còn sức
Cố gắng đặt lên chốn mộ phần
Than ôi! Áo cưới em đã mặc
Anh hãy yên lòng khỏi phân vân
Đứng giữa đất trời...người trong họ
Em về chứng kiến nhận người thân...
LỌT Ổ PHỤC KÍCH
Banteay Meanchey là một tỉnh Tây - Bắc của Campuchia, tỉnh lỵ là thị xã Sisophon. Tỉnh này giáp biên giới với các tỉnh Buriram và Sa Kaeo của Thailan về phía Tây ở cửa khẩu Poipet. Phía Đông Bắc giáp tỉnh Oddar Meancheay. Phía Đông giáp tỉnh Siam Reap và phía Nam giáp tỉnh Battambang. Khmer đỏ đã mắc phải sai lầm lớn khi cho rằng quân đội Việt Nam không đủ sức và đặc biệt là không dám thực hiện tấn công toàn diện với sức mạnh tổng lực do phải chia quân để bảo vệ phía Bắc trước sức tấn công dồn dập của Trung Cuốc trên toàn tuyến biên giới.
Giới lãnh đạo chóp bu Polpot cho rằng, Việt Nam nếu có đánh tổng lực, cũng chỉ đánh tới Kompong Thom và vùng hồ Tonle Sap để tạo vùng đệm chiến lược với vùng giải phóng và lập căn cứ cho Mặt trận giải phóng dân tộc Campuchia (CPRP), nơi lực lượng Việt Nam sẽ bị sa lầy. Nắm rõ ý đồ này của địch, ta quyết tâm đánh lớn, đánh một trận tổng lực nhằm dành chiến thắng áp đảo trên mọi mặt trận, quét sạch tàn quân Polpot khỏi các tỉnh giáp ranh với biên giới Thailan trong thời gian ngắn nhất, tổn thất ít nhất.
Để lên kế hoạch hành quân tác chiến cho chiến dịch, toàn bộ các lực lượng trinh sát bộ binh, trinh sát luồn sâu, quân báo của các sư đoàn 7, 9 và quân đoàn 4 đều được tung vào điều nghiên, ngoài ra còn được tăng viện thêm một số phân đội đặc công của quân đoàn và mặt trận.
Đã 8 ngày tổ tam tam của gã vẫn loanh quanh khu vực Malaii (Banteay Meanchey) mà vẫn chưa tìm ra chút vết tích nào về nơi đóng quân của bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 164 Khmer đỏ. Đây là 1 trong các sư đoàn chủ lực của Khmer đỏ, được trang bị tốt bằng vũ khí của Trung Quốc và được chỉ huy bởi các chỉ huy dày dạn kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh vừa qua, gồm nhiều binh lính trung thành đến cuồng tín.
Sư đoàn này sau khi bị sư đoàn 9, quân đoàn 4 đánh cho nhiều trận thất điên bát đảo đã co cụm lại quanh khu vực tỉnh Banteay Meanchey và thực hiện chiến tranh du kích, phá hoại theo phương châm tác chiến của Khmer đỏ là “Địch tiến, ta lùi; địch dừng, ta quấy; địch mệt, ta đánh; địch rút, ta truy” (địch ở đây ám chỉ quân đội Việt Nam).
Sư đoàn 7 bộ binh được lệnh tăng phối cùng sư đoàn 9 để càn quét với quyết tâm chiến thắng toàn diện lực lượng Khmer đỏ, đó là phải bao vây, tìm và diệt, không cho đối phương rút lui tản mát để quay lại tiếp tục thực hiện lối đánh du kích.
Ở khu vực Malaii, ngoài tổ của gã còn có tổ 3 của trung đội 2 trinh sát luồn sâu sư 7, thêm 1 tổ quân báo của quân đoàn 4 do anh Đạt thiếu tá, phó phòng, dân Thái Bình trực tiếp nắm tổ. Khi mới xuống sư đoàn, thấy được phân cùng ô với tổ 4 của B3, anh quay ra hỏi thằng Hưởng, nhân viên ban tác chiến sư đoàn: “Thằng nào là Nam “chẫu”…”. Anh ra bắt tay làm quen, vỗ vai gã ra chiều thân mật và suồng sã: “Anh nghe tên chú từ lâu rồi, hôm nay mới gặp. Mong sau này anh em sẽ có nhiều cơ hội đi “thám” cùng nhau…”…
Theo kế hoạch đã định, tổ của gã sẽ tiến vào Malaii từ hướng Tây - Nam lệch 12 độ, tổ 3 trung đội 2 của thằng Khánh, người Nha Trang vào từ hướng Tây - Bắc, còn tổ quân báo 5 người sẽ bám theo trục đường xe lửa từ Pursat đi Sisophon. Để bảo đảm bí mật, tất cả các tổ tách riêng, mỗi tổ đi cách nhau 200m và hẹn gặp nhau tại đồi Con Voi. Đó là 1 ngọn đồi thấp không tên nằm trên ngã ba đường đi thị xã Paoy Poet, tên đồi Con Voi do lính mình tự đặt do thấy giống hình con voi đang nằm.
Tổ gã và tổ thằng Khánh đến điểm hẹn đã lâu mà vẫn chưa thấy tổ của bên quân báo đâu. Sau khi hội ý, thằng Khánh và thằng Phú quyết định chờ thêm độ 30 phút nữa. Nếu vẫn chưa thấy tổ quân báo đến thì 2 tổ sẽ tách hướng theo kế hoạch đã định, không đợi thêm nữa. Hai tổ chờ thêm độ 15-20 phút nữa mới thấy tổ quân báo 5 người của anh Đạt lò dò xuất hiện, thì ra các bố gặp suối mát nên tranh thủ tắm 1 chút. Đến chịu các ông, chiến trường giữa sự sống và cái chết mà các ông cứ làm như đi vũ trường vậy. Đúng là lính văn phòng có cách nghĩ và cách nhìn nhận vấn đề khác xa so với cánh lính tác chiến, những người trực tiếp đi vào nơi nguy hiểm…Một người lính quân báo buột miệng: “Lúc nãy bọn tôi đi qua phía kia, gặp 1 người nông dân đi ruộng, không biết là có nhìn thấy chúng tôi không…”.
Nghe vậy, thành viên 2 tổ trinh sát luồn sâu nhìn nhau rồi nhìn tốp quân báo. Anh Đạt: “Chắc không thấy đâu, mà người ta là nông dân đi ruộng thôi”. Thằng Long “Polpot” cau mày: “Các anh chủ quan quá, biết thế nào được là dân hay lính Pot. Cảnh giác vẫn là hơn”
Anh Đạt thấy tình hình có vẻ không thuận nên cố gắng xoa dịu các thành viên của 2 tổ trinh sát luồn sâu. Về mặt nguyên tắc của trinh sát luồn sâu, nếu thấy khả năng bị lộ thì có thể tự ý xóa bỏ chuyến “thám” rút về để đợi thời cơ khác sẽ lên đường.
Chẳng hiểu sao lần này cả 2 tổ không ai có ý kiến gì. Kể cả gã, cho dù trong lòng thấy gợn lên chút gì đó không lành, cảm giác mơ hồ thôi, nhưng kinh nghiệm chiến trường cho gã biết như vậy. Gã quay sang thằng Đực, thằng Phú và thằng Long thì thấy chúng nó cũng có cảm giác như gã…Cuối cùng tất cả các tổ vẫn quyết định đi. Có thể do thấy anh Đạt là sĩ quan và là người có quân hàm cao nhất đã nói vậy thì chắc là tin được (đó thật sự là cái ngu tin để rồi phải trả giá đắt bằng máu và sự hy sinh của đồng đội)…
Đã 2 hôm nay thằng Phú “nhái” lên cơn sốt, lúc nóng lúc lạnh. Gã và thằng Đực đi trước, thằng Long “Polpot” dìu thằng Phú theo sau 1 đoạn. Lương khô mang theo cũng gần hết, mỗi thằng chỉ còn độ 2-3 thanh, dù đã ăn rất dè sẻn. Nhưng riêng nước uống thì thật khổ, cho dù trên đường có khá nhiều con suối trong lành và mát mẻ. Nhìn thấy vậy mà không dám lấy để uống, cho dù khát khô cổ. Vì có lính của đơn vị nào đó uống nước suối có lá độc rụng trong đó, uống xong độ 1 tiếng thì “đi” luôn. Do vậy mà mấy thằng chỉ ngậm ngùi quay đi khi thấy suối, chỉ dám lấy nước ruộng, để lắng bùn rồi sử dụng. Mùi nước bùn hơi tanh, nhưng được cái an toàn, yên tâm không có lá cây độc.
May mà thời điểm đó đang chiến tranh nên dân Miên không có thuốc trừ sâu hay phân bón hóa học để sử dụng. Lúc đó đã quá trưa, nắng gay gắt như thiêu đốt. Mấy thằng tấp vào 1 bụi cây gai thấp lè tè ven đường để nghỉ và ăn tạm chút lương khô để lấy sức đi tiếp
Thằng Phú “nhái” sốt cao nên không muốn ăn, gã bẻ phong lương khô ra thành từng miếng nhỏ rồi cho vào bi đông, tiếp đó gã ra sức lắc bi đông cho các miếng lương khô nhão ra rồi đưa cho thằng Phú: “Cố uống 1 chút lấy sức còn lên đường mày…”. Thằng Phú ngoan ngoãn dốc bi đông lên, mặt nó nhăn lại, nhìn nó lúc đó thật tội, thật thương. Ba thằng gã nhìn nó “uống” lương khô mà không dám ngó lâu, vì còn bao nhiêu nước thì mấy thằng dồn hết lại 1 bình để “pha” lương khô cho thằng Phú rồi. Trời vẫn nắng, cổ họng thì khô, gã móc phong lương khô ra bẻ 1 góc nhỏ cho vào miệng, cứ ngậm vậy thôi. Phần thừa gói lại vào giấy nến rồi cho vào túi áo ngực. Thằng Long và thằng Đực rút lương khô ra rồi lại cất vào, gã nghĩ chắc khô quá nên chúng nó không nuốt được…
Đi thêm độ hơn tiếng nữa, vừa đặt chân xuống hết con dốc ngắn thì nghe tiếng đề - pa của cối 82…”ùng…oàng…”, kèm theo đó là tiếng đại liên 12,7 ly nổ toang toác. Gã quay lại, trong khói bụi mù mịt chẳng thấy thằng Phú và thằng Long đâu cả. Gã gọi thất thanh: “Long…Long ơi… Phú ơ…ơi…”, gã gọi liền 5, 6 câu mà không thấy tiếng trả lời. Đạn cối vẫn tiếp tục rót xuống. Thằng Đực: “Có lẽ 2 thằng dính rồi…”, trong đầu gã cũng nghĩ vậy nhưng chỉ không dám nói ra câu đen đủi đó mà thôi. Đạn cối của bọn Pot lấy lại tầm và bắt đầu “ăn ra” (bắn xa dần ra), nếu như bây giờ gã và thằng Đực chạy trở lui con đường vừa đi thì chắc chắc sẽ dính cối hoặc 12 ly 7 nã theo. Nếu đứng lại thì chỉ mấy phút sau, theo đúng bài bắn cối tọa độ thì nó sẽ “ăn vào” (bắn rút lại khoảng cách), lúc đó chỉ có nước chết. Muốn sống chỉ có 1 con đường duy nhất, đó là chạy thẳng vào hướng của nó rồi tính tiếp. Gã quát to: “L…ên…”, dứt câu gã bật mình lao thẳng về hướng phát ra tiếng đạn cối, thằng Đực ôm súng lao theo. Được độ 30m thì gã ngoặt sang bên phải rồi tiến lên tiếp. Quả nhiên, không thấy tiếng đại liên bắn đuổi theo, luồng đạn vẫn nhằm vào vị trí sau lưng, nơi lúc nãy mà gã và thằng Đực nằm.
Gã và thằng Đực thận trọng men theo chân đồi tiến lên, lúc này bọn Pot đã ngừng bắn. Lên gần đỉnh đồi thì đã nghe rõ tiếng bọn lính Pot nói chuyện. Thằng Đực trèo lên cây bằng lăng, tìm vị trí thích hợp để quan sát. Theo như thằng Đực nhìn thấy, thì trên chốt đó có 2 cối 82, 1 ụ súng 12,7 ly và độ 8-9 thằng lính Pot. Gã thống nhất với thằng Đực, nếu thấy ngon thì “ăn” luôn, còn đông quá thì tạm ém mình lại, chờ trời tối hẳn sẽ xuống lượm xác thằng Long, thằng Phú. Hai thằng gã bò men theo các lùm cây và đám cỏ tranh cao gần bằng đầu người để tiến dần. Gã và thằng Đực tiếp cận vị trí ở khoảng cách vài mét không quá khó mà chúng vẫn không phát hiện ra là bình thường. Hai thằng gã rút lựu đạn, bật chốt, ngón tay thằng Đực bật lên…1…2…3, khi ngón tay nó vừa bật lên lần thứ 3 thì cả 2 quả da láng đã bay vèo vào chốt. Hai tiếng nổ xé tai vang lên, gã và thằng Đực đứng dậy quạt thêm mấy loạt AK ở cự li gần vào mấy thân người mặc áo đen đang loay hoay trong công sự quây bằng bao cát…
Dưới chân đồi phía bên kia có tiếng Miên kêu to: “Duôn…duôn…” (cách gọi miệt thị bộ đội Việt Nam của lính Pot). Gã lao nhanh vào khẩu đại liên 12,7 ly quay súng xuống chân đồi, nơi phát ra tiếng kêu và kéo 1 loạt đạn dài. Thằng Đực cũng quay AK điểm xạ nhịp nhàng vào những bóng người thoắt ẩn thoắt hiện dưới chân đồi bên kia. Từ vị trí của chốt nhìn xuống đồi bên kia, nhìn thấy rõ con đường chạy cắt qua những cánh đồng mượt mà màu xanh của lúa non. Vị trí đặt chốt thoáng tầm nhìn và dễ quan sát con đường đó, còn nhìn về chỗ tổ tam tam của gã lúc nãy thì hơi bị khuất. Vậy đã rõ rồi, vị trí chốt này được đặt để phục kích con đường đó, chứ không phải về hướng đi của tổ gã…
Bọn lính Pot dưới chân đồi vừa bắn vừa men theo các gốc cây, bờ bụi tiến lên. Thì ra bọn lính Pot đặt chốt trên đồi để tiện quan sát, còn lại chúng nó bố trí phục kích dưới chân đồi, sát đường đi. Thằng Đực cúi xuống nhặt khẩu B40 của lính Pot, nó ngắm vào tốp lính Pot đang nấp sau tảng đá giữa đồi điểm xạ “oành…”, khói bụi bốc lên, vài thằng lính Pot nằm im, còn mấy thằng chạy ngược xuống đồi, gã xoay khẩu đại liên lia đuổi theo 1 tràng dài, thêm 3-4 thằng nằm im không thấy cử động. Lúc đó gã bắn như chưa bao giờ được bắn, lòng gã sục sôi khi nghĩ đến 2 thằng bạn chiến đấu thân thiết bị hy sinh. Gã thay thùng đạn mới rồi mím chặt môi lại siết cò vào những bóng người đang ẩn hiện sau các lùm cây trong bóng chiều chạng vạng hoàng hôn.
Đang mải bắn, chợt thằng Đực kéo tay gã: “Mày…mày nghe đi”. Gã ngừng bắn, lắng tai nghe, ngoài tiếng la hét của lính Pot, tiếng rên la của những thằng bị thương, tiếng gió chạy ràn rạt trên đầu ngọn cỏ thì còn có tiếng AK nổ phía bên trái đồi “tằng tằng tằng…tằng tằng tằng…”, tiếng súng cứ điểm xạ phát một, ba phát một.
Gã mừng rú lên: “Thằng Long…thằng Long “Polpot” còn sống mày ơi…”. Thằng Đực chĩa AK lên trời bắn: “tằng tằng tằng…tằng tằng tằng…”. Cách để AK ở chế độ liên thanh nhưng điểm xạ 3 viên một thì cả quân đoàn 4 có mình thằng Long xài và cũng chính nó dạy 3 thằng còn lại trong tổ cách bắn điểm xạ AK 3 phát một như vậy. Tiếng AK bắn 3 phát một cất lên như đáp trả, lần này nghe rõ có 2 khẩu AK nổ cách nhau vài giây. Vậy là 2 thằng kia còn sống, chúng nó còn sống. Gã và thằng Đực nhìn nhau thoáng mỉm cười.
Tiếng bọn chỉ huy Pot dưới đồi thúc lính lao lên mỗi lúc 1 gần. Bọn lính Pot cứ leo lên lưng chừng đồi là gã lại kéo 1 loạt 12 ly 7. Bỗng bụi cây bên cạnh gã lay động, rồi cái đầu bù xù của thằng Phú “nhái” thò ra: “Đừng bắn…đừng bắn tao đây…”. Hai thằng chúng nó trèo qua các bao cát nhẩy vào chốt, chẳng kịp chào hỏi nhau, kê luôn súng lên bao cát bắn về phía bọn lính Pot. Lúc đó gã thấy thật sự ấm lưng khi cả tổ lại đầy đủ để cùng nhau tác chiến. Thằng Phú đứng không vững, mặt đỏ gay vì sốt cao, nhưng nó vẫn bình tĩnh nhả đạn về phía chân đồi…Thấy trời đã nhá nhem, nhận thấy bọn Pot hình như được tăng viện thêm và thấy đã đến lúc cần rút lui, không ham đánh nữa. Gã quát thằng Đực: “Mày cõng thằng Phú, tao và thằng Long cản hậu, đi đi…”. Gã bắn nốt loạt đạn cuối, rồi cúi xuống mò xác mấy thằng lính Pot gỡ mấy trái lựu đạn quả na của Tầu.
Thấy thằng nằm góc hầm phía xa bị thương khá nặng, tiện chân gã sút 1 cú thật mạnh vào giữa mặt nó, khiến nó bật ngửa ra. Thấy cạnh nó có cái xà cột bằng da cứng của Tầu, tiện tay gã đoạt luôn mà chẳng cần biết trong đó có gì. Gã rút lẫy rồi cài khẽ quả lựu đạn vào chân khẩu đại liên, tiếp đến gã vần xác 1 thằng lính Pot che lên phía trên. Thằng Long cũng bật chốt 2 trái da láng rồi tọng vào nòng 2 khẩu cối. Hai tiếng nổ “bục…bục” phát ra, vậy là nó đã vô hiệu hóa xong 2 khẩu cối. Thằng Long: “Tao đánh lạc hướng, chúng mày đưa thằng Phú về, hẹn nhau ở đồi Con Voi nhé…”. Nó quơ súng bắn thêm mấy phát rồi chạy sang bên trái quả đồi, nơi nó và thằng Phú xuất hiện lúc nãy. Khi bước ra ngoài vòng tròn được quây bằng bao cát, gã quay lại thả nốt 2 quả lựu đạn vào chốt, rồi bước đi không thèm ngó xem còn thằng nào bị thương nữa không, nhưng chắc chắn với 2 trái na đó thì khả năng thằng lính Pot nào bị thương trong chốt chắc cũng sẽ khó sống được.
Thằng Đực thì cứ loay hoay mà không thể cõng nổi thằng Phú. Thằng Phú thều thào: “Tao cản cho, 2 thằng mày chạy đi”. Thằng Đực gắt lên: “Câm…”.
Gã thấy ngạc nhiên hết sức, lần trước nó bẫy được con lợn hoang nặng gần 40 ký mà cõng ngon ơ, chẳng hiểu sao lần này cõng thằng Phú lại khó khăn đến vậy (nếu ai đã cõng bao gạo 50kg và bế 1 cháu bé sẽ thấy. Bao gạo tuy nặng, nhưng nó là vật chết, chỉ nặng nhưng dễ cõng.
Còn em bé chỉ độ chục ký nhưng bé cứ giẫy, đạp thì rất khó để bế). Con lợn nó giẫy mạnh như vậy mà nó cõng có sao đâu? Đã vậy thái độ nó nói với thằng Phú, thằng bạn chiến đấu vào sinh ra tử rất cục súc. Nó quay sang: “Hay mày cõng nó đi”. Gã vừa vòng tay qua cõng thằng Phú thì nó nói nhanh và gấp gáp: “Mày đưa nó về nhé! Tao theo thằng Long”, nói xong nó băng nhanh xuống trảng cỏ đuổi theo về hướng thằng Long “Polpot” vừa chạy. Lúc này thì gã đã hiểu, nó cố tình làm vậy để ở lại đánh lạc hướng cho gã và thằng Phú thoát thân...
Nghĩ đến đó mà nước mắt gã trào ra. Thằng Phú thẫn thờ: “Sao chúng mày làm vậy, cứ để tao cản hậu cho…”. Không để thằng Phú nói hết, gã xốc thằng Phú lên và chạy nhanh xuống phía bên phải chân đồi, ngược với hướng thằng Long, thằng Đực. Gã cõng thằng Phú, trên vai nó đeo 2 khẩu AKMS, tổng trọng lượng cũng khá nặng. Vậy mà không hiểu lúc đó gã lấy đâu ra sức mạnh mà cõng thằng Phú xuôi xuống dốc băng băng…Tiếng AK điểm xạ 3 phát một phía bên trái vọng lại và tiếng súng của bọn lính Pot cũng xa dần khỏi đồi…
Trong tổ tam tam của gã có 1 quy định ngầm giữa mấy thằng với nhau. Nếu lần này đi “thám” mà gã đi đầu, thằng nào đó sẽ đi sau đoạn hậu. Lần sau đi “thám” thì thằng nào đó đi đầu, gã đoạn hậu. Lần sau nữa thì gã đi giữa, thằng nào đó sẽ đi đầu và đoạn hậu. Lý do, vì thằng đi đầu và cuối là dễ “dính”nhất. Nếu dính mìn thì thằng đi đầu sẽ lãnh đủ hoặc bị phục kích thì thằng đi đầu và đi cuối bao giờ cũng là những thằng bị hạ đầu tiên. Thời kỳ đầu, lúc thằng Long chưa về tổ thì trong tổ đã có quy ước với nhau vậy rồi. Thằng nào cũng tranh đi đầu, nhường cho bạn đi sau. Tự chọn nguy hiểm về mình mà nhường sự sống, sự an toàn cho bạn.
Lúc chưa vào lính, khi đọc những mẩu chuyện người lính sẵn sàng lấy thân mình đỡ đạn cho đồng đội cứ tưởng là mấy ông nhà văn nói phét, là bịa tạc. Nhưng khi đi chiến trường thì thấy đó là sự thật, không hư cấu chút nào. Tình đồng đội là ở đó, những điều đó chỉ có trong chiến tranh mới thấu hiểu được tình người, nghĩa đồng đội cao cả như thế nào. Trong chuyện phân chia đi trước hay sau không có bốc thăm may rủi, vì có thể sẽ có thằng bốc phải thăm lần nào cũng đi đầu thì thiệt cho nó quá, vì vậy mà mấy thằng gã chia phiên cho đỡ tranh nhau…
Với tất cả sức mạnh của tuổi trẻ, gã lúc thì cõng, khi thì dìu thằng Phú cuối cùng cũng về đến được đồi Con Voi. Ngồi thở 1 lúc thì thằng Long và thằng Đực cũng mò về đến nơi. Mấy thằng ôm nhau vui mừng, vậy là còn sống rồi, cả tổ an toàn rồi…Về đến sư bộ cũng vào quãng 9h tối, chẳng kịp tắm giặt nghỉ ngơi, mấy thằng lên ngay tham mưu - tác chiến báo cáo và nộp cái xà cột mà gã thu được của bọn Pot trên chốt. Sau khi xong, về qua lán trung đội 2, thằng Khánh chạy ra (tổ nó và tổ quân báo quân đoàn đã về trước đó 4 ngày và chẳng thu hoạch được gì) túm mấy thằng lại: “Chúng mày về rồi hả? Đừng có nói chuyện tốp quân báo gặp dân trên đường đi nhé!”.
Thằng Đực hỏi xem có chuyện gì đã xảy ra, thì ra tốp quân báo bị phục kích. Hy sinh 2, bị thương 1, còn lại ông Đạt và 1 thằng lính người Sài Gòn (gã không nhớ tên khu cư xá đó, vì nghe nhưng không để vào tai, cũng bởi chẳng quen biết gì thằng lính đó). Nghe vậy, bốn thằng gã cũng đồng ý giấu chuyện tốp quân báo đi tắm và gặp dân. Vì đối với 1 người chỉ huy, chỉ vì chủ quan, đánh giá sai tình hình đến nỗi thiệt quân thì đau lắm.
Nỗi đau này nó sẽ day dứt, ám ảnh anh Đạt hết cả cuộc đời. Anh nợ gia đình những thằng hy sinh vô nghĩa đó 1 lời tạ lỗi đau đớn nhất, một món nợ xương máu, không bao giờ trả được cho sinh mạng của con em họ. Đau lòng nhất là thằng lính quân báo bị thương, nó dẫm phải quả mìn giấy của Tầu và phải cưa bỏ 1 chân. (Tầu sản xuất và đưa sang Campuchia rất nhiều loại mìn giấy. Loại mìn đó được làm bằng giấy có tẩm thuốc độc, ai bị thương hoặc xây xước bởi loại mìn đó sẽ bị hoại tử, thối cả vùng đó. Muốn giữ mạng sống chỉ có cách cưa chân thì mới sống được). May mắn là không ai bị rơi vào tay bọn lính Pot cả.
Với anh em đã quen trận mạc thì luôn để lại 1 viên đạn hoặc quả da láng để khi cần sẽ “tự xử”, tránh bị rơi vào tay lính Pot. Một khi đã rơi vào tay lính Pot thì sống không bằng chết. Nó sẽ cắt cổ hoặc chặt đầu. Thậm chí có người bị chúng nó giết xong còn dùng xẻng quân dụng hoặc dao phay băm nát mặt, đến nỗi đồng đội không thể nhận ra. Đó cũng là lý do mà nhiều khi lính ta không muốn bắt tù binh là vậy. Ai hiểu sao thì hiểu…
Nhưng người tính không bằng trời tính. Thằng lính Pot bị gã đá vào mặt và lấy xà cột chính là trung đoàn trưởng của trung đoàn 37, sư đoàn 164 Khmer đỏ (nếu biết nó là trung đoàn trưởng thì gã đã tóm “lưỡi” mang về rồi, tiếc đứt ruột). Trong xà cột có bản đồ ghi rõ nơi đóng quân của sư đoàn 164 Khmer đỏ và vị trí bố phòng của các trung đoàn và tiểu đoàn thuộc sư 164 cùng binh hỏa lực trong vùng. Quan trọng nữa, đó là tờ giấy tiếng Miên viết về sự xuất hiện của tốp lính Việt Nam, đó chính là tốp quân báo của anh Đạt. Nhóm quân báo bị phục kích tại ngọn đồi trước đó mấy ngày. Nghĩ rằng bộ đội Việt Nam trinh sát tuyến đường đó thì chắc sẽ theo đường đó truy kích, nên đích thân thằng trung đoàn trưởng của trung đoàn 37 Khmer đỏ dẫn quân đến phục kích ở ngọn đồi, nơi tổ tam tam của gã đã vô tình chạm trán. Câu chuyện loang ra, anh Đạt sau đó bị hạ cấp xuống đại úy và chuyển sang bộ phận khác.
Tổ gã được khen từ mặt trận và quân đoàn, nhưng chỉ khen thế thôi, quân hàm vẫn giữ nguyên và không có thưởng. Lý do, bản thân gã tội lỗi chồng chất, không đưa ra Tòa án binh đã là may, những thằng khác trong tổ cũng vì thế mà bị vạ lây.
Thằng Đạo cùng trung đội với gã khi còn huấn luyện tại trường hạ sĩ quan trinh sát luồn sâu. Sang Campuchia thì nó được phân về tổ 1, trung đội 1 của thằng Trượng “khỉ”, Hải “trố” dân Gia Viễn, Ninh Bình và nó hy sinh do dính đạn M79 khi tổ nó chạm trán với trinh sát của sư đoàn 201 Khmer đỏ tại Tonle Sap. Thằng này nghịch ngầm có tiếng, từ lúc còn huấn luyện cho đến khi sang Campuchia. Hồi còn huấn luyện ở trường, một buổi tối nó trèo rào ra ngoài nhà dân chơi, đơn vị tổ chức báo động thì thiếu mặt nó. Hôm sau nó bị kỷ luật phải đi dọn chuồng lợn 1 tuần liền, nó cay cú lắm. Độ 2 hôm sau nó thả hạt đậu xanh vào tai lợn, làm con lợn như bị điên vậy, cứ lấy đầu đập vào tường. Thấy vậy ban hành chính quyết định cho thịt kẻo nó đập đầu chết thì hỏng ăn.
Chuyện này sau nó kể lại mà cả trung đội cười và khen nó mãi, vì nhờ vậy mà chẳng phải Tết, cũng chẳng phải 30/4 hay 2/9 hay 22/12 mà vẫn được ăn thịt lợn. Còn gã thì khỏi phải nói rồi, cũng thuộc dạng hiền lành chứ bộ, thỉnh thoảng mới “nghịch nghịch” chút thôi. Do vậy mà toàn bộ chúng nó nhìn 2 thằng gã và cười ý nhị pha chút đểu đểu như vậy. Thằng Đạo: “Được rồi, chúng mày thích ăn lòng lợn chứ gì, để tao với Nam “chẫu” kiếm về. Chúng mày cứ chuẩn bị rượu trước đi…”. Tất cả vỗ tay cười nói rôm rả. Đúng lúc đó thằng Tú “mọt” anh nuôi ở đâu lò dò xuất hiện: “Có chuyện gì đó tụi bay? Cho tao tham gia với?”.
Thấy thằng Tú, tất cả ngồi im, thằng thì nói lảng sang chuyện khác, thằng thì lơ đãng quay đi như không hề biết chuyện gì vừa xảy ra, thằng lăn ra sạp giả vờ ngủ. Thằng Tú “mọt”: “Tao nghe thấy hết rồi, tụi bay đừng dấu tao, cho tao tham gia với”. Tất cả lại ồ lên, mỗi đứa 1 câu như cái chợ. Cuối cùng tất cả nhất trí cho nó tham gia và chúng nó cử gã cùng thằng Đực xuống nhà bếp “thám” trước…Thấy bé Lý đang trong bếp rán mỡ, thằng Đực vào bếp nói chuyện với bé để đánh lạc hướng.
Gã thì đứng ở cửa bếp mồm huýt sáo, mắt đảo như rang lạc, đầu ngó lung tung các góc để tìm xem “kẻ địch tên là RỔ LÒNG” nằm đâu. Đang ngó nghiêng, chợt tay gã bị giật mạnh. Gã quay người lại thấy chị Hoa nuôi quân và chị Thơm quân y đang đứng sau gã tủm tỉm cười. Chị Hoa: “Có thích ăn lòng lợn không?”, gã giật mình “Sao bả biết hay vậy ta? Hay thằng nào nói lộ mịa ra rồi?”. Gã không trả lời chỉ cười cười chữa ngượng. Chị Thơm bảo: “Vào đây đi, vào đây với chị”. Hai bà chị đẩy gã vào bếp. Thằng Đực thấy gã bị 2 bà chị “áp giải” vào bếp, mặt nó cứ thuỗn ra, chẳng hiểu chuyện gì cả. Nó hất hàm ra hiệu, gã lắc đầu như muốn trả lời “không biết”.
Chị Hoa nhấc cái rổ to ở góc bếp trong cùng…trời…cả 1 chậu lòng, có cả chậu tiết canh nữa. Gã và thằng Đực há hốc mồm, chẳng hiểu ra sao cả. Bé Lý cứ nhìn 2 thằng gã tủm tỉm cười càng làm cho gã và thằng Đực bối rối. Chị Hoa bẻ lại cái cổ áo trận sờn rách cho gã và trìu mến: “Em mang về cho anh em trinh sát luồn sâu nha”, rồi chị quay sang chị Thơm giọng xót xa: Khổ…mấy thằng luồn sâu chẳng bao giờ được ăn no, ngủ kỹ cả. Lúc nào cũng tất bật, hết đi chiến dịch này lại chiến dịch khác. Có khi cả tháng chẳng được miếng cơm nóng, 1 hớp nước ấm. Có mặt ở đơn vị 5-10 ngày thì đi “thám” cả tháng cũng chẳng thấy mặt. Tội và thương chúng nó lắm. Em trai chị ngang tuổi chúng nó mà ăn còn có người gọi, ngủ thì trưa trật còn chưa dậy. Thương mấy đứa nó quá, chị coi chúng nó như em trai vậy”.
Chị Thơm cũng nghẹn ngào: “Lính luồn sâu như chúng nó vất vả nhất và cũng hy sinh thầm lặng nhất. Các bộ phận khác hy sinh còn đưa được xác về. Mấy thằng này có sao thì chỉ vùi xác giữa rừng thiêng nước độc chứ có mang được xác về đâu. Nhiều khi em thấy chúng nó lúc đi thì vui vẻ và đông đủ. Khi trở về thấy thiếu vắng 1-2 thằng, những thằng còn lại, thằng nào mặt cũng buồn thiu là biết có chuyện.
Nhiều hôm xuống nhà ăn thấy chúng nó bày thêm bát đũa trống vào chỗ ngồi trống của thằng hy sinh mà không thể cầm được nước mắt. Thương lắm”. Rồi chị quay qua gã: “Em về xem còn quần áo nào rách, lát mang sang tiểu đoàn chị vá cho…”. Hai bà chị nhắc gã mang lòng về cho anh em. Tự dưng gã thấy ngại vì đại đội trinh sát luồn sâu có gần 60 thằng chứ đâu có nhiều nhặn gì, đã vậy còn 1 số tổ đi “thám” chưa về, lấy tất về thì nhiều quá. Chị Hoa, chị Thơm phải giục gã mấy lần thì thằng Đực và gã mới cúi xuống bê mỗi thằng 1 chậu rồi rảo bước về lán trung đội 3 trinh sát luồn sâu. Đi 1 quãng quay lại vẫn thấy 2 bà chị tần ngần đứng cửa nhà bếp nhìn theo.
Chợt bé Lý gọi với theo: “Anh Nam…anh Nam, mang thêm cái này về cho Lê Na đi anh” (Lê Na là tên con chó hoang mà gã nhặt được trong lần đi “thám” ở Sisophon về. Gã sẽ kể về con chó trong 1 bài viết khác). Bé chạy theo dúi cho gã một bọc xương cục khá to: “Người ăn Tết thì cũng cho nó ăn Tết chứ anh?”…Thằng Đực bảo: “Mày được lòng chị em phụ nữ ghê hén”. “Thì mày cũng vậy mà”, thằng Đực chỉ nhe răng cười trừ…
Chuyện gì cũng có nguyên nhân sâu xa của nó. Có 1 lần gã xuống bếp báo ngày mai cắt cơm để chuẩn bị đi “thám” dài ngày thì thấy chị Thơm và mấy em gái bên tiểu đoàn quân y đang phụ giúp chị em nuôi quân nhặt rau, vo gạo. Gã thấy các chị em nói chuyện gì mà: “…em cũng hết rồi, mỗi năm được mấy chục phân vải xô thì đâu còn…”. Đại để như vậy. Thấy gã, các chị em ngừng nói chuyện.
Gã tò mò hỏi: “Vải xô gì mà thiếu vậy chị”. Chị em phụ nữ nhao nhao lên: “Tò mò quá, chuyện chị em phụ nữ thì có gì mà hỏi”. Chị em cứ nhao lên trêu chọc gã (Ai đó lạc vào đội hình chị em khi đi 1 mình, đơn thương độc mã thì biết. Bình thường chỉ có 1 chọi 1 hoặc với 2 em thì không sao. Nhưng vô phúc lạc vào đội hình có từ 3 em trở nên thì các em nói chuyện rất mạnh mồm, vẻ thùy mị, nết na biến mất tiêu đâu hết rồi.
Bác nào đã lạc vào phòng nữ trong ký túc xá nữ rồi thì sẽ hiểu. Đến ngay Tôn Ngộ Không phép thuật đầy mình còn sợ Tinh Nhền Nhện nữa là người trần mắt thịt như gã)…
Khi lên tham mưu để báo cáo về sự chuẩn bị cho chuyến “thám”, gã hỏi anh Pha, sĩ quan tham mưu về chuyện vải xô của chị em. Anh phá lên cười: “Thằng cả ngố! Chúng nó bảo mày tò mò cũng đúng rồi, cãi gì” “Ơ em không biết thì mới phải hỏi, em đâu dấu dốt…”. Anh kéo gã vào phòng rót nước cho uống rồi giải thích chuyện vải xô cho gã nghe.
Thì ra vậy, vải xô dùng cho chị em khi đến kỳ kinh. Nào, từ bé đến giờ, lần đầu tiên gã mới nghe, mới biết chuyện đó (hồi đó có nằm mơ chắc chị em cũng không bao giờ nghĩ sau này có Diana hoặc Kotex có cánh bảo đảm không trào ngược ra 2 bên mép. Cũng như thời điểm đó mà nói sau này có điện thoại không cần dây, đi đâu cũng mang theo được, thậm chí có cả loại điện thoại gọi điện mà nhìn thấy cả mặt nhau là chuyện hoang tưởng).
Chị em nào sinh vào trước những năm 1970 thế kỷ 20 chắc đều biết dùng vải xô vào việc gì. Vải xô thì nhẹ, giặt xong phơi mà không để ý sẽ bị gió thổi bay mất tiêu luôn, mà lính thì làm chi có kẹp quần áo, món hàng cực xa xỉ với lính, nhất là lính chiến. Đã vậy, đơn vị hành quân liên tục. Nay đây mai đó, để quên hoặc bị rách nên thiếu vải xô là chuyện bình thường. Nghe vậy gã thấy thương chị em lính chiến quá, cũng chỉ vì chiến tranh mà chị em phải khổ vậy, đến chức năng của phụ nữ cũng không có đủ dùng cho hợp vệ sinh.
Suy từ cánh lính nam ra thì thấy. Toàn lính trẻ, hừng hực sức sống, chưa vợ con, thậm chí nhiều thằng giống gã, đến người yêu còn chẳng có. Bàn tay người phụ nữ duy nhất chúng nó được nắm là bàn tay chai sạn của bà, của mẹ, lấy đâu ra bàn tay mềm mại của con gái. Sáng ra 100 thằng thì có đến 98-99 thằng đi lom khom để “tìm dép”, mặc dù dép trước mặt. Tối đi ngủ thì chuyện “vẽ bản đồ tác chiến” là chuyện bình thường, khỏi cần quay “ma ni ven”…
Khi trở về lán, nhìn cái màn cá nhân gã nghĩ ra cách giúp chị em, tuy không được nhiều, nhưng cũng giúp chị em được chút xíu. Nghĩ sao làm vậy, gã lấy dao lê 5 tác dụng rọc hết đường chỉ bao cạp rồi gỡ tung hết ra. Mục đích rọc đường chỉ bao cạp và gỡ ra là để chị em muốn ngồi khâu lại cũng không khâu được, bắt buộc chị em phải nhận, không thể từ chối. Không phải gã hào hiệp, quân tử hay trượng nghĩa gì gì đó đâu. Chẳng qua là lính thì thương nhau, đơn giản vậy thôi.
Cũng như cha gã cũng đã từng nói: “Đi chiến trường đến tính mạng còn chẳng tiếc thì tiếc gì những cái lặt vặt”.
Do vậy mà thời những năm 1980 trở về trước, chuyện các quân nhân cho nhau 50 hay 100m vuông đất để xây nhà ngay tại Hanoi không phải là chuyện hiếm…Các chị em nhận được mấy tấm vải màn của gã thì vui mừng lắm và gã cũng thấy thật vui khi giúp được chị em.
Vì chuyện này mà sau đó gã không có màn nằm nên bị muỗi đốt truyền bệnh sốt rét và cũng vì vậy mà bị chị Thơm la mãi. Sau này ra quân, thỉnh thoảng gã có dịp đi qua Lạng Giang, Bắc Giang ghé thăm chị, lần nào chị cũng ôn lại câu chuyện tình người 1 thưở đó, đến nỗi thằng cháu nội của chị thuộc lòng luôn. Mà lúc đó gã nghĩ, không có màn thì ngủ chung với thằng Đực hoặc thằng Long hay Phú “nhái” cũng được.
Đâu ngờ, sau khi gã phá màn đem tặng chị em thì 3 thằng kia cũng học theo, để rồi cuối cùng cả 4 thằng, chẳng thằng nào còn màn mà dùng nữa. Mãi đến khi kiếm được màn chiến lợi phẩm của sĩ quan Pot bằng loại pha nylon do Tầu sản xuất thì mấy thằng gã mới lại biết đến nằm màn tránh muỗi đốt (loại đó pha nylon nên chị em không dùng được, nếu dùng được chắc gã cũng lại cắt ra tặng chị em). Nhưng cũng phải mất một thời gian khá dài 4 thằng gã nằm không màn.
Cũng kể từ đó, mỗi lần đi “thám” hoặc tham gia tác chiến gã đều tìm chiến lợi phẩm là những loại vải xô hoặc vải mỏng làm quà cho chị em, mặc kệ những thằng khác tìm kiếm các loại vật dụng khác. Có lần tổ gã còn khuân về được cả súc vải trắng của Thailan, loại vải gần giống như trúc bâu của Việt Nam để tặng chị em. Cũng từ đó đi “thám” anh em trinh sát luồn sâu cũng hay tìm kiếm chiến lợi phẩm như vậy để tặng chị em…
Và cũng chẳng biết tự bao giờ mà thỉnh thoảng chậu cơm của tổ gã có thêm mấy miếng cháy vàng rộm. Miếng cháy nồi gang còn nóng hổi đó mà được rưới lên chút mỡ lợn hoặc mỡ gà thì ngon hết biết. Có cái gì ngon 1 chút lại được chị em nuôi quân và quân y để dành cho tổ, ai xin cũng không cho: “Cái đó để dành cho mấy thằng tổ 4, B3 luồn sâu đó…”. Thật dịu dàng, thật thân thương, thật đầm ấm, đầy tình nghĩa và hết sức xúc động.
Hôm đó đại đội trinh sát luồn sâu cả quan lẫn lính được ăn 1 bữa lòng thoải mái. Thằng Liên “toét” kiếm được cả can 20 lít rượu thốt nốt nên cuộc vui thêm xôm tụ. Cái tang rượu thốt nốt uống hơi chua chua và nhẹ phều, anh này nhẹ như bia vậy, nhưng với lính trận xa nhà thì như thế cũng đã đủ vui rồi, Tết rồi.
Đã vậy thằng Tú “mọt” xin khéo được 1 cái thủ lợn và mấy cái lưỡi lợn nên cuộc vui đã vui còn vui hơn. Đây là cái Tết đầu tiên và cũng là cái Tết cuối cùng tại đơn vị mà tổ tam tam của gã được tham dự đầy đủ. Từ những ngày giáp Tết cho đến hết giao thừa. Tết Ất Sửu 1985 trước đó và những năm sau nữa thì tổ tam tam của gã toàn đón giao thừa trên đường đi “thám” và món ăn đón Tết những ngày xuân đó thường chỉ có gạo sấy hoặc lương khô.
Vì đặc thù thông tin do trinh sát luồn sâu cung cấp cho cả chiến dịch và toàn mặt trận nên lần nào đi thám cũng dài ngày. Ít thì cả tuần, nhiều thì 15-20 ngày là thường. Vì vậy ăn Tết, đón xuân trên đường cũng là chuyện đương nhiên. Bây giờ cuộc sống đầy đủ hơn thì không có nhiều cơ hội để tụ họp vào ngày Tết và cũng có những thằng đã ra đi về miền xa, mãi mãi không còn biết Tết là gì nữa. Thương và nhớ các bạn bè chiến đấu mỗi khi Tết đến xuân về thật nhiều.
TRẬN CHIẾN THUNG LŨNG TỬ THẦN
Bộ tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia có mật danh là 719. Phía dưới là các mặt trận 479, 579, 779 và 979. Ác liệt nhất và tổn thất nhiều nhất chính là mặt trận 479, chiến tuyến trải dài mấy tỉnh giáp với đất Thái Lan. Trong đó quân đoàn 4 và trực tiếp là sư đoàn 7 bộ binh là đơn vị luôn đứng mũi chịu sào trong tất cả những trận đánh khốc liệt nhất. Nhắc đến các trận chiến của sư đoàn 7 mà không nhắc đến trận đánh vào căn cứ thung lũng tử thần (căn cứ Sơ-đa của sư đoàn 320 Khmer đỏ) nằm giữa Svay Cheek và Poipet sẽ là 1 thiếu sót lớn.
Một buổi sáng tháng 9 năm 1985, hai tổ tam tam vàng, thiện chiến nhất và ưu tú nhất là tổ 1 và 4 của đại đội trinh sát luồn sâu sư 7 được lệnh lên hội trường nhận lệnh khẩn do đích thân phó tư lệnh mặt trận giao nhiệm vụ. Lên đến nơi đã thấy các cấp tướng tá, ai cũng vẻ mặt quan trọng chờ sẵn tại hội trường với thiếu tướng Võ Văn Dần, tư lệnh quân đoàn 4.
Nhiệm vụ của tổ 1 và 4 là đi “thám”, soi đường căn cứ Sơ-đa để sau dẫn đường cho tiểu đoàn 1 của trung đoàn 761, sư 9. Tiểu đoàn 4 của trung đoàn 165, sư 7 và sư đoàn bộ binh 286 của Mặt trận cách mạng Campuchia (CPRP) đánh chiếm căn cứ Sơ-đa. Đây là 1 căn cứ khá mạnh của Khmer đỏ với 1 trung đoàn hỗn hợp, 1 lữ đoàn bộ binh độc lập và 1 tiểu đoàn cối với loại 60 và 81 ly. Vòng ngoài căn cứ được cài dày đặc mìn Claymore, mìn cóc và mìn phân mảnh chống bộ binh. Căn cứ này đã nhiều lần bị ta tấn công, nhưng chưa lần nào thành công mà tổn thất lần nào cũng rất lớn, do vậy mà cánh lính ta gọi là căn cứ thung lũng tử thần.
Lần này Bộ tư lệnh mặt trận giao trách nhiệm cho quân đoàn 4 phải “bứng” căn cứ này bằng mọi giá, không để cái gai đó cắm sâu vào những vùng đất đã được giải phóng để làm bàn đạp cho những trận phản kích của Khmer đỏ sau này. Sau khi nhận lệnh, hai tổ trở về chuẩn bị để sẵn sàng lên đường thực hiện nhiệm vụ.
Mấy em gái lính thông tin người Khmer của sư đoàn bộ binh 286 của Mặt trận cách mạng Campuchia (CPRP) hết sức ngạc nhiên khi thấy các “boòng” (anh) lính trinh sát luồn sâu Việt Nam mang có 3 băng đạn AK, trong đó có 2 băng buộc lộn “tu” cắm sẵn trên súng, lựu đạn thì 2 trái, nhưng gạo sấy và nước thì mang rõ nhiều. Đúng vậy, lính trinh sát luồn sâu mỗi lần đi “thám” hay tác chiến đều mang nhẹ nhất có thể để tăng sự cơ động, không như lính bộ binh mang theo đến 6-7 băng đạn AK, lựu đạn cũng phải 5-6 trái/người...
Thay vì phải mang bao tượng gạo, trong cuộc hành quân này, do yêu cầu bí mật và tốc độ, cũng như có thể phải chiến đấu trong vài ngày, nên bộ đội được phát mỗi người 3 ngày cơm sấy. Đó là thứ gạo sấy sẵn, đóng thành bịch kín 200g/bịch, thân bịch có một vạch xanh, một vạch đỏ và hướng dẫn khi dùng nước sôi thì đổ nước đến vạch đỏ, dùng nước lã thì đổ đến vạch xanh. Sau khi đổ nước, khoảng 30 phút sau có thể ăn được.
Điều khác với các đơn vị bạn là tổ của gã có thêm món mắm Bò Hóc (Prahok) do gã và thằng Đực đi dân vận xin được. Món mắm đó là đặc sản của Campuchia chỉ dành để thết khách quý trong các đại tiệc, nhưng do gã và thằng Đực hay đeo huy hiệu Norodom Sihanouk (Hoàng thân Xi Ha Núc) to như chén đựng nước chấm vào phum, sóc chơi nên bà con bản xứ thấy quý mới xin được để thỉnh thoảng ăn kèm. Đối với người dân Campuchia, họ luôn sùng bái Norodom Sihanouk như Phật sống, lúc đó cứ ai đeo huy hiệu Hoàng thân là họ thấy quý, mà loại huy hiệu đó Tầu sản xuất và mang sang Campuchia khá nhiều, kiếm vài cái để đeo chơi đối với mấy thằng lính khéo mồm thì chỉ là chuyện nhỏ.
Khi còn huấn luyện tại trường, khoa mục tự sinh tồn độc lập có hướng dẫn các loại động thực vật ăn được, nhưng đó là động thực vật ở Việt Nam. Còn ở Campuchia thì có nhiều loại cây chẳng biết là cây gì và cũng chẳng thấy nhắc đến trong sách vở, chẳng biết lành dữ thế nào, cứ ăn các loại mắm cho nó lành.
Buổi chiều của hai hôm sau, tổ 1 và 4 được lệnh ăn cơm nhanh, khẩn trương để chập tối xuất phát đúng giờ G. Chị Hoa, bé Lý và bé My sắp mâm cơm riêng cho 2 tổ. Bữa ăn hôm đó của 2 tổ có món gà rừng rim với ớt xanh cay xé lưỡi, mấy khúc cá suối nấu với khế chua, một bữa ăn cực kỳ thịnh soạn của lính chiến. Chị Hoa không nhìn đứa nào và nói trống không: “Ăn đi các em, cơm bữa nay không độn đâu”, giọng chị hơi run, mấy thằng đều cảm nhận thấy vậy, lòng chùng hẳn xuống.
Nhìn xung quanh các mâm khác vẫn ăn độn, riêng mâm của 2 tổ đúng là hôm nay không độn sắn thật. Thức ăn các mâm khác cũng vậy, cũng chỉ lèo tèo vài cọng rau luộc, ít nước chấm, vài lát thịt lợn muối…Thằng Tú “mọt” từ dưới bếp mang theo 1 đĩa trứng rán cuộn tròn như khúc nem rán: “Gà anh em nuôi quân tăng gia đẻ đó, mấy thằng bay ăn thử đi, trứng tươi và ngon lắm…”. Thằng Đực chơi luôn câu: “Vậy là mấy cha nội định làm lễ truy điệu sống tụi này sao?”, cả nhà ăn lặng đi, không ai nói gì. Gã phá tan bầu không khí trầm lặng: “Tao đi trận này, nếu có làm sao thì đồng hồ tao cho thằng này, cái quần còn mới cho thằng kia, quyển nhật ký thì mang về cho ông già tao…”. Thằng Trượng “khỉ” nhà ở Chèm Vẽ, Hanoi, tổ trưởng tổ 1, mặt nhăn lại như khỉ (có vậy mới gọi là Trượng “khỉ”): “Đ.M sắp vào trận mà mày nói kinh bỏ mẹ, ra rửa mồm đi”.
Gã cứ hềnh hệch: “Sống chết có số mày ơi, tao sẽ trở về nguyên vẹn để khi ra quân còn lên nhà mày xin học nghề Tổ kiếm sống chứ…” (Khu vực Chèm và Cổ Nhuế khi xưa có nghề thu gom phân tươi, có cả chợ phân hẳn hoi. Ngày đó còn có câu đồng dao chẳng biết từ đâu ra “Thanh niên Cổ Nhuế xin thề, không đầy 2 sọt không về quê hương” hoặc so sánh “Đào Nhật Tân, phân Cổ Nhuế”). Thằng Trượng biết tính gã nên đành cười trừ sau khi khuyến mại cho gã 1 cái nhăn mặt nữa.
Chị Hoa: “Mấy em cố ăn thêm cơm, còn nhiều cơm, cứ ăn no đi”, giọng chị nghẹn hẳn lại, như người bị ngạt mũi, cảm giác như có nước mắt chảy trong câu nói của chị vậy. Bé My thì mắt hoe đỏ và rơm rớm nước mắt đứng nhìn mấy gã ăn mà cứ xụt xịt. Bình thường, với tuổi ăn tuổi ngủ như vậy thì 2 chậu cơm với 7 thằng chỉ 1 loáng là không còn hạt nào, nhưng hôm đó thằng nào cũng có tâm trạng. Tuy rằng cười nói vậy, nhưng trong lòng hồi hộp và cũng có đôi chút lo lắng khi phải dấn thân vào thung lũng tử thần nên thằng nào cũng chỉ ăn đến bát thứ 2 là buông bát. Trước khi ra khỏi nhà ăn, anh em trong đại đội trinh sát luồn sâu và các bộ phận khác đều chúc 2 tổ “mã đáo thành công và đi sao về vậy, trở về nguyên vẹn”.
18h45, bố Hưng đại tá, tham mưu trưởng sư đoàn xuống, lệnh cho tập trung tại sân bóng và bố đi đến bắt tay, ôm chặt từng thằng vào người: “Cố gắng các con…”…
Màn đêm buông xuống đen kịt, bao kín xung quanh khu căn cứ thung lũng tử thần. Kim đồng hồ chỉ đúng 21h30 thì tổ của gã đã dẫn tất cả các đơn vị vượt qua được bãi mìn dày đặc và tiến vào chiếm giữ từng vị trí chiến đấu, từng cửa mở. 21h40 tất cả các máy thông tin PRC.25 được đồng loạt bật và bắt đầu sôi rào rào để dò sóng. Khẩu đội cối 82 đã lấy xong phần tử bắn. Tất cả hồi hộp chờ đợi.
Đúng 21h45 lựu pháo 105 ly của quân đoàn và pháo 155 ly của mặt trận bắt đầu bắn cấp tập về các cửa mở để chi viện cho các cánh bộ binh, kèm theo đó là các khẩu đội cối 82 cũng bắt đầu bắn.
Đạn pháo bắn rất chụm, khiến cho lính Pot không thể ngóc đầu dậy để phản pháo. Pháo bắn chuyển làn độ 20 phút, dứt loạt pháo cuối cùng, cả 3 phía của căn cứ vang dội tiếng hô xung phong bằng cả tiếng Việt, tiếng Miên. Tiếng AK, RPD, RPK, B40, B41, phóng lựu M79 rộ lên, có cả tiếng 12,7 ly bắn áp chế ở tất cả các hướng.
Tất cả ào lên, thằng Long “Polpot” chạy đầu tiên, kế đó là gã và thằng Đực cùng bám sát bảo vệ ở 2 bên cánh, thằng Phú “nhái” chạy cuối để đoạn hậu. Chạy qua cửa mở độ 50m thì thấy cánh lính Khmer của CPRP đang lúp xúp bò trở ra. Thằng Long nhao lên túm lấy 1 thằng hỏi sao rút lui, nhưng chẳng thằng nào biết tiếng Việt cả. May lúc đó có 1 ông lính cựu của đơn vị nào đó chạy đến và hỏi bằng tiếng Miên nên mới biết là phía trước có ổ hỏa lực đại liên 12,8 ly của lính Pot. Bọn Pot cũng đã phát hiện ra đội hình bên hướng của gã đang định tiến lên, chúng quay khẩu đại liên bắn ghìm đầu cả đội hình lại.
Thằng Phú “nhái” bò đến nấp sau 1 chiếc ô tô Giải Phóng hỏng cách đó độ 25-30m. Đoán được ý đồ của thằng Phú, gã nhoài người sang giật lấy khẩu B40 trên tay của 1 gã lính CPRP nằm bên cạnh và nhắm thẳng vào chớp lửa đầu nòng bóp cò. Thằng Đực, thằng Long cũng lia những loạt AK cực căng về hỏa điểm để kéo sự chú ý của lính Pot khỏi thằng Phú “nhái”. Thằng Phú rút quả US, bật chốt rồi rướn mình lên ném về phía lính Pot. Nếu nói về ném lựu đạn, thì trong quân đoàn 4 thằng Phú là 1 trong những thằng ném “mả” nhất. Nó ném vừa xa vừa chính xác. Khi chưa nhập ngũ nó chuyên đi làm thợ đấu đào ao, đào giếng cho mấy xã, mấy huyện vùng Hưng Yên nên sức tay của nó cực khỏe. Người khác ném được 35-40m là hết nấc, nhưng với nó thì khoảng cách tầm 50m đổ lại thì “muỗi”, mà nó ném lại còn chính xác nữa.
Quả US vừa nổ là ba thằng gã và mấy thằng lính CPRP nằm cạnh bật dậy lao thẳng lên phía trước. Vọt qua ụ súng được quây bằng bao cát, dưới ánh lửa chập chờn thấy phía sau có 3 đứa lính Pot mặc áo đen, cổ quấn khăn Cà-ma (Krama) nằm đó. Hai đứa con trai và 1 đứa con gái. Nhìn qua mặt 1 thằng lính Pot thấy nó còn quá trẻ, trẻ hơn cả bọn gã, chắc chỉ 14-15 tuổi là cùng.
Trận đánh kéo dài đến 13h chiều hôm sau mới kết thúc, căn cứ thung lũng tử thần chính thức bị khai tử. Ngoài ra có 1 đơn vị Pot đến ứng cứu cũng bị 1 đại đội của tiểu đoàn 1, trung đoàn 761, sư 9 phục kích, đánh cho chạy có cờ, bỏ lại 14 xác. Bắt sống 6 tên thu 25 súng các loại. Còn trên chính diện toàn căn cứ thì số lính Pot chết là hơn 300 tên, không có tù binh (Có thể không muốn bắt, do nuôi tốn cơm.... Còn sao chỉ có xác chết mà không có tù, hàng binh hoặc bị thương thì có trời biết. Kể cả các anh lính vừa chiến thắng cũng chẳng biết vì khói của súng đạn làm chảy hết nước mắt, chả nhìn thấy gì). “Ở đây lúc nãy có bác
savisevic có hỏi em, nhưng em cũng không biết trả lời về vụ này thế nào!?”.
Lực lượng lính của CPRP truy kích lính Pot 1 đoạn dài cũng trở về tay không mà không có tù, hàng binh, chỉ thấy đếm xác để báo thành tích lên trên…Trời nắng nóng như lò bát quái, gã thấy cổ họng đắng nghét khói súng, đầu ong ong. Mùi máu tanh và tử khí gặp nắng nóng bốc lên nồng nặc, đàn ruồi ở đâu thấy hơi máu tìm đến vo ve bay rợp đất mỗi khi có người đi ngang qua.
Tổ của gã lững thững đi xuống chân đồi, ngang qua các tốp lính của CPRP đang thu dọn chiến trường, gã đi cuối cùng. Đi qua 1 đoạn hào bị lở, chợt gã nghe thấy tiếng rên ở dưới vọng lên. Theo phản xạ gã ôm súng lăn 1 vòng và quát hỏi xem ai ở dưới đó, không thấy tiếng trả lời. Ba thằng đi phía trước cũng tản ra, nòng súng hướng về phía tay gã chỉ, sẵn sàng nhả đạn khi cần.
Gã bò về phía miệng hào thấy có người ngồi dưới, gã chĩa súng lên đỉnh đầu định bóp cò thì thấy cánh tay trái có đeo dải băng in hình Angkor Wat, vậy là lính của CPRP rồi. Gã làm hiệu an toàn cho tổ rồi tụt xuống hào. Thì ra là 1 em gái Khmer, lính của CPRP, gã hỏi tiếng Việt xem em làm sao, nhưng em gái không biết tiếng Việt. Mà gã thì chỉ biết tiếng Miên chứa đầy lá mít, đủ để chửi nhau hoặc mô tả đồ ăn, chứ đâu có biết nhiều. Em gái thều thào chi đó, gã chỉ nghe được câu: “…T`rau ro-buos..” (bị thương), thì ra em gái bị thương ở bắp chân, gã nhanh tay tháo cuộn băng cá nhân băng chân cho em. Xong xuôi gã đẩy người em lên miệng hào để bọn thằng Phú “nhái” kéo bé lên và đưa về tiểu đoàn quân y…
Sau này nghe nói trận chiến đó tổn thất của lính tình nguyện Vietnam không nhiều, nhưng của lực lượng CPRP thì khá nhiều, phần lớn do không có nhiều kinh nghiệm chiến trận như lính Vietnam. Riêng 2 tổ của lực lượng trinh sát luồn sâu, đi sao về vậy, không rụng 1 cọng lông nào.
Chiều của ba hôm sau, lúc gã và thằng Long “Polpot” đi bắt ốc ở suối vừa về đến lán của trung đội đã thấy có 1 em gái trắng trẻo đang ngồi nói chuyện với thằng Đực. Cơ mà thằng Đực nói chuyện hay lắm, 2 tay nó khua lên, mồm thì nói, mắt thì đung đưa. Tóm lại nó chuyện bằng mồm, bằng mắt và bằng cả điệu bộ cơ thể. Thấy gã và thằng Long về, hắn mừng ra mặt.
Qua sự nói chuyện bằng tay chân và mồm của thằng Đực thì ra đó là em gái mà gã cứu được dưới hào (chẳng biết sao nó hiểu được em nói gì, còn nó nói gì thì không biết em gái Miên có hiểu không nữa, vì tiếng Miên của nó còn tệ hơn gã).
Gã lúng túng chẳng biết nói gì, cuối cùng cũng lại giống y chang thằng Đực, nói chuyện bằng tay, bằng mồm và bằng cả cơ thể. Thằng Long thấy thế cứ ngoạc mồm ra hơ hơ cười, làm gã xấu hổ đỏ hết cả lưng (mà dân Vinh nó nói tiếng Việt còn khó nghe, nhất là lúc nó nói nhanh hoặc cáu thì có trời hiểu nó nói cái chi, vậy mà nó cười gã, thằng chết bầm). Dù sao thì gã cũng hiểu được chút xíu, em tên là Sôm Phia, lính truyền tin của sư đoàn 286 CPRP.
Em qua để cám ơn gã và mấy thằng trong tổ đã ứng cứu kịp thời, cũng may là viên đạn đi vào phần mềm nên không sao. Hôm đó mặt mũi em toàn bụi đất, đen nhẻm nên gã cũng chẳng biết thế nào, hôm nay gặp lại thấy mặt thật trắng trẻo. Nếu so với các em gái Miên khác, thì em này trắng trẻo và xinh hơn các bé mà gã từng gặp. Mũi gã phổng lên khi nghe em nói: “Boòng Nam chất lô-o nắs - Anh Nam tốt lắm”. Em còn hỏi dò gã: “Boòng miên cru-xar tôôch hơi nâu - Anh đã có vợ chưa?”… Gã cũng không ngờ, đó là lần đầu được tiếp xúc với 1 người đẹp Khmer (đẹp thật sự chứ không phải nịnh đầm) và đó cũng là lần cuối gặp em.
Sáng hôm sau tổ gã được lệnh đi “thám” ở Sala Krau (Pailin), 5 hôm sau trở về thì bé đã xuất viện về đơn vị cũ rồi. Từ đó cho đến hết chiến tranh gã chưa bao giờ gặp lại em, người con gái Khmer xinh đẹp. Năm 2001, khi cùng đoàn của phòng chính sách quân đoàn 4 đi tìm mộ liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh tại Campuchia, trong lần cất bốc hài cốt thằng Đực, lúc đi ngang qua chiến trường cũ, căn cứ thung lũng tử thần. Nơi đó giờ bạt ngàn màu xanh của cây keo tai tượng, gã thấy lòng bâng khuâng khi nhớ về trận đánh “bứng” căn cứ năm nào và chợt nhớ đến em, cô gái người Khmer, tên Sôm Phia.
Gã tự hỏi, không biết là em còn sống hay đã hy sinh? Còn sống thì em chồng con gì chưa? Bây giờ em sinh sống ở đâu trên đất nước Chùa Tháp vậy? Ngồi trên xe ô tô gã cứ hỏi lòng như vậy với tiếng thở dài khi nghĩ về những ngày chinh chiến, những tháng ngày nhiệt huyết của một thời tuổi trẻ trôi đi trong lửa đạn chiến tranh nơi đất nước.
Campuchia, đất nước có những bức tượng 6 mặt như con thò lò vậy… Giá như được 1 lần gặp lại em…giá như ngày đó gã mạnh mồm nói: “Boòng sro lanh on”…giá như và giá như…hồi ức những ngày “…lửa đạn đêm đan ngón tay mềm…” mãi là những hoài niệm đẹp về 1 thời đáng nhớ.
CHUYỆN NGƯỜI CHẾT TRỞ VỀ
Từ Hải Hậu về đến thành phố Nam Định, gã bảo bạn dừng xe ở đầu phố Hàng Thao - Trần Hưng Đạo để gã đi bộ hưởng thụ chút không khí phố phường thành Nam. Đang lững thững thả bộ, ngắm nghía dọc phố Trần Hưng Đạo hướng về phía Trần Nhân Tông, chợt có tiếng gọi (Nam…Nam “chẫu” phải không?).
Gã giật mình quay sang, thấy 1 người đàn ông mặt mũi lạ hoắc, trạc 80 tuổi đang chăm chăm nhìn gã. Nhất thời gã không thể nhận ra người đó là ai, nhưng biệt danh của gã thì chỉ có anh em lính ở Campuchia gọi. Do lúc tham chiến ở chiến trường K, gã và các chiến hữu hay đi bắt rắn, cá, ốc, lươn, ếch, chẫu chàng… để thêm chất tươi cải thiện cho bữa ăn hàng ngày. Thằng nào được giao nhiệm vụ bắt con nào thì gọi kèm theo vào tên, cứ lần hồi như vậy sau chết thành tên. Như gã là Nam “chẫu”, thằng Phú “nhái”, Minh “ốc”, Minh “rắn”, Tùng “ếch”, Trung “cóc”, Quang “rắn”, Hồng “lươn”, Tiến “chuột”…
Mặt mũi thì không quen lắm, nhưng gọi biệt danh của gã thì chắc chắn là lính, mà phải lính Campuchia mới gọi. Chứ hồi huấn luyện ở trường hạ sỹ quan trinh sát tại Việt Nam thì gã và mấy thằng cùng trung đội, nếu thiếu tiền mua đồ cải thiện thì cũng chỉ ra sông vớt con vờ về rang để ăn chứ đâu biết chuyện ăn cóc, nhái. Vậy thì người đàn ông lạ mặt đang nhìn gã là ai vậy? Tuy vậy, gã vẫn thuận miệng “Vâng!” theo thói quen khi có người gọi đúng biệt danh của mình.
Người đàn ông vòng tay lao vào người gã như 1 cơn lốc, ôm chầm lấy gã và nhấc bổng gã lên (cha này người gầy mà khỏe ghê). Nước mắt ông ta chảy tràn trên gò má đen sạm, mồm méo hẳn đi, tiếng nói thì nghẹn lại “Anh đây, anh là Hữu…Hữu “loi choi” đây mày…”. Trời, thì ra người đàn ông đó là anh Hữu “loi choi”, người sĩ quan Tác chiến trung đoàn 165 sư đoàn 7 của gã, người mà gã đã cứu khỏi cái chết cận kề của thằng lính Pot tại Tarưng đây sao? Anh vẫn còn sống sao? Mắt gã cũng nhòe đi, hai anh em ôm nhau quay tròn giữa phố như 2 thằng điên, mặc kệ hàng phố, mặc kệ người đi đường. Xung quanh 2 anh em lúc đó như chẳng còn ai, chỉ còn 2 anh em với khuôn mặt đầm đìa nước mắt, bóp tay, nắn lưng, sờ đầu nhau như để kiểm tra thật hay mơ…
Hôm đó là 1 đêm không trăng sao, giữa mùa khô năm 1987. Tổ tam tam 4 thằng của gã nhận lệnh đi cùng trinh sát pháo binh quân đoàn xuống tiểu đoàn 3 của trung đoàn 165 trinh sát nắm địa hình, địa vật lần cuối để sư đoàn lên phương án phối hợp với pháo binh quân đoàn trong việc tấn công tiêu diệt, chặn đường rút của tàn quân Pot qua rừng Ma, không cho chúng luồn sang đất Thái Lan để củng cố lại đội hình. Xong việc thì cũng đã tối muộn, mấy anh em xuống đại đội 4 ven rừng xin ăn và nghỉ qua đêm, sáng mai sẽ về sư bộ báo cáo sau.
Đêm đó, lúc tất cả đang say giấc nồng thì nghe tiếng RPD rít lên, tiếng đạn găm phầm phập vào các gốc cây quanh nơi trú quân của C4, cùng đó có cả tiếng nổ đinh tai của RPG-7 (B41). Tất cả nháo nhào lao ra, mỗi người mỗi hướng. Riêng gã, ôm khẩu AKMS lăn 1 vòng từ trên sạp xuống đất rồi lần ra phía cửa rồi điểm xạ tắc cú 2 phát 1 về phía ánh lửa đầu nòng nơi xa...
"Hai anh em chụp chung tấm ảnh làm kỷ niệm tại đường Trần Hưng Đạo, chân cầu Đò Quan, Nam Định ngày ....../2022. Và 1 tháng sau, sau NGƯỜI CHẾT TRỞ VỀ sẽ là HỒI ỨC NGÀY GẶP MẶT có rất nhiều anh, em cựu chiến binh của sư đoàn 7 bộ binh giai đoạn 1983-1989 hiện đang sinh sống và làm việc từ Hà Tĩnh trở ra."
Vậy mà hôm nay người chết đó vẫn còn đây, bằng xương bằng thịt. Thì ra, sau khi bị thương ở trận Pailin, anh được chuyển về chữa trị và an dưỡng tại Sài gòn. Sau khi hồi phục thì anh được phục viên, về lại quê nhà nơi thành phố Nam Định và công tác tại nhà máy Dệt Nam Định cho đến lúc nghỉ hưu.
Qua cơn xúc động, anh em tâm sự xem ai còn, ai mất, ở đâu, làm gì. Vợ anh đã mất cách đây vài năm, giờ anh sống cùng con trai và mở 1 hàng nước nho nhỏ trước cửa nhà để vui qua tháng ngày. Tiếp theo anh bốc máy gọi em Quế, cô bé ở tiểu đoàn quân y năm xưa, hiện lấy chồng và sống tại thành phố Nam Định để hẹn hò. Em Quế thì gã nhớ mang máng, nhưng em Hằng, người yêu thằng Tiến “méo” ở bên vệ binh sư bộ, người Vĩnh Long thì gã nhớ, rất nhớ và thương.
Hai đứa chúng nó hy sinh cách nhau 5 tháng, đúng ngày và cũng trùng giờ, một trong những sự hy sinh ám ảnh gã nhiều năm sau này. Hai em Quế và Hằng đều dân Thái Bình, em Hằng có giọng hát chèo nuột và hay cực. Chính em là người đã dạy gã và mấy thằng khác hát điệu chèo Đào Liễu lời cổ…Gã cũng bốc máy gọi cho thằng Quảng thông tin và thằng Quân “nhăn” bên tuyên huấn và mấy thằng nữa để hẹn ngày về thành phố Nam Định tụ họp để mừng cho người chết trở về...
Bố con anh muốn giữ gã ở lại nhậu 1 trận đã đời để mừng ngày gặp lại, gã từ chối. Vì đã có hẹn về ăn cơm với bố mẹ đẻ của ca sĩ HH và cũng là bố mẹ nuôi của gã, không muốn thất hẹn với các cụ nên gã hẹn bố con anh sẽ gặp lại ngày gần nhất. Dù rất tiếc, nhưng 2 bố con anh đành để gã đi sau khi biết gã có lý do chính đáng.
Trước khi chia tay, gã thấy anh rót 1 cốc rượu đầy, loại cốc Liên Xô. Tưởng rằng anh mời gã, nhưng không phải. Anh ứa nước mắt nói: “Tao bị xơ gan nặng, bác sĩ dặn phải kiêng rượu, nhưng hôm nay tao sẽ uống 1 cốc này để mừng gặp mày. Đợt tới chúng mày về đông đủ thì mấy anh em hàn huyên kỷ niệm quân ngũ và tao sẽ say hết ngày đêm với chúng mày”. Gã khuyên anh đang bệnh thì cố gắng kiêng, nhưng con trai anh bảo: “Từ ngày mẹ con mất, đến hôm nay gặp lại chú thì bố con mới vui vậy đó. Cứ để cụ vui chú ạ”.
Gã chợt thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn và cô đơn khủng khiếp khi chợt nghĩ về thân phận người lính thời hậu chiến và những người ra đi chẳng bao giờ trở về nữa. Gã thầm hứa trong lòng, khi về Hà Nội gã sẽ nấu cao chữa bệnh xơ gan cho anh. Phải, gã sẽ chữa cho anh. Chắc chắn là như vậy, chữa cho một người anh, một người bạn vong niên, trên hết là 1 người lính của sư đoàn 7 bộ binh anh hùng đã trở về từ cõi chết.
P/S: Hai anh em gã vẫn nhớ những câu: “Kò đùi thum thum ôn xà lanh bòng tê muôi bi buôn 1 2 3” và "Ôn ôn đạch kho oi bong mơ...tích tích…”
THẰNG LONG “POLPOT”
Tên thật của nó là Đặng Văn Long, sinh năm 1963. Nó được sinh ra và lớn lên tại thành phố Vinh, Nghệ An. Cha nó nguyên là sĩ quan của Công an vũ trang (sau này chuyển sang Bộ quốc phòng và đổi tên thành bộ đội biên phòng). Nó gia nhập quân đội là do lý tưởng muốn phụng sự Đảng và nhà nước cũng như muốn tiếp nối truyền thống gia đình, khác xa với hoàn cảnh nhập ngũ của gã và thằng Đực.
Nghe nó kể lại, cụ tổ nhà nó nguyên là 1 võ tướng dưới trướng của Quang Trung - Nguyễn Huệ. Khi theo đoàn quân của vua Quang Trung tiến ra Bắc thành để chinh phạt vương triều của Lê Chiêu Thống và chống lại đại quân của Mãn Thanh, lúc đến đất Nghệ An đã để lại 1 giọt máu, nơi khởi thủy cho chi họ Đặng nhà nó. Chính vì vậy mà cha nó đã dạy võ cho nó từ lúc 5 tuổi, cũng như dạy cho nó sự tự hào về truyền thống 1 gia đình con cháu nhà võ tướng của vua Quang Trung từ lúc nó còn bé tẹo. Đến tuổi nhập ngũ nó xin đăng ký vào lực lượng “khọm” (bộ đội đặc công - bộ đội đặc biệt tinh nhuệ).
Trong thời gian huấn luyện ở trường, nó đánh nhau với đồng đội (nguyên nhân vì sao thì không bao giờ nó hé răng và gã cũng chưa bao giờ hỏi nó lý do), nên bị kỷ luật chuyển về 1 đơn vị bộ binh đóng quân tại Việt Nam. Nhưng nó đề đạt nguyện vọng xin đi chiến trường K (lý tưởng + sản mà), cũng do ông già nó nhờ quan hệ thân quen và cũng 1 phần cấp trên thấy tiếc cho 1 thằng có tố chất trinh sát nên chuyển nó sang đại đội trinh sát luồn sâu sư đoàn 7 đang chiến đấu tại mặt trận 479, chiến trường Campuchia.
Nơi có tổ tam tam, mà sau này đã trở thành mái nhà thứ 2 của nó và cả 3 thằng còn lại, nơi chứa đựng nhiều vui buồn, máu và nước mắt của 1 thời chinh chiến. Thằng này có biệt tài để súng AK ở nấc liên thanh nhưng điểm xạ 3 viên một cực chụm. Dù là bia số 4 hay số 7, bắn ngày hay đêm, ở tư thế đứng, nằm hay quỳ nó bắn cực nhanh và cũng cực chính xác, vì lý do đó mà nó mới được điều về trinh sát luồn sâu. Với kiểu AK bắn nhanh của nó, nhiều sĩ quan trong quân đoàn đã qua đào tạo tại các trường lục quân 1, lục quân 2 bị mất thuốc lá khá nhiều với nó khi thách nhau bắn nhanh, bắn chính xác...
Tính nó ít nói, nhưng đã mở mồm thì thâm thúy như nhà nho vậy, y như 1 cụ đồ Nghệ. Tuy ít nói, nhưng nó cũng là thằng cục tính có tiếng (chắc đó là lý do mà nó gây gổ đánh nhau khi còn ở bên “khọm” chăng?).
Cục tính là với người khác, với bộ phận khác, còn đối với anh em trong đại đội trinh sát luồn sâu hoặc trong tổ tam tam thì nó sống rất chan hòa, hết lòng với anh em, ăn ở như bát nước đầy vậy.
Những ngày đầu về tổ, nó luôn trầm ngâm và buồn. Có lẽ, những lúc đó nó nhớ về ngày còn ở bên “khọm”. Vẫn ăn chung, ngủ chung, đi “thám” chung với nhau, nhưng nó vẫn cách biệt, ngại giao tiếp và mở lòng với anh em trong tổ, ít trò chuyện, tâm sự cùng anh em. Cho dù gã và thằng Phú “nhái”, thằng Đực tỉ tê tâm sự, thậm chí khi ngồi nhậu với nhau nó cũng chỉ cười khi mấy thằng gã trêu chọc nó. Nó cứ lầm lỳ như vậy cho đến ngày xảy ra 1 biến cố…
Sáng 1 ngày hạ tuần tháng 5 năm 1985. Hôm đó bầu trời toàn màu mắm tôm, le lói chút nắng vàng như c.ứ.t trẻ con ị bậy, báo hiệu sắp bắt đầu 1 cơn mưa đầu mùa của mùa mưa 1985. Ngay từ sáng sớm, ngủ dậy đã không thấy thằng Long và súng của nó đâu rồi. Chăn màn của nó đã được gấp gọn lại, ba lô quần áo của nó vẫn ở trên giá phía đầu giường. Có lẽ nào nó “bổ quay”, nếu nó “bổ quay” thì phải mang ba lô theo chứ ai lại đi tay không vậy? Cả 3 thằng gã thắc mắc, đặt ra nhiều câu hỏi và không thấy câu trả lời nào khả dĩ để giải thích về sự vắng mặt của thằng Long cả.
Quãng 10h30 lệnh trên tham mưu - tác chiến đưa xuống, tất cả đại đội tập trung điểm danh để nghe phổ biến mệnh lệnh hành quân tác chiến sáng sớm hôm sau. Ba thằng gã nóng ruột mà không biết tìm lý do nào để có thể giải thích về sự vắng mặt của thằng Long. Khi anh Phước, trợ lý tác chiến sư đoàn điểm danh, gọi đến tên ai thì người đó hô “có”, tất cả đều có mặt. Nhưng khi đến tổ của gã, anh gọi đến 3 lần vẫn không thấy thằng Long trả lời. Anh Phước hỏi lý do vắng mặt của thằng Long. Gã nhanh nhảu trả lời, thằng Long đi rừng tháo bẫy nhím đặt chiều qua.
Tuy bất ngờ, nhưng thằng Đực, thằng Phú thấy gã nói vậy thì cũng trả lời đại giống gã luôn. Anh Hòa C phó chính trị cáu lắm, ông ấy cứ đi đi lại lại mồm cứ “đù má…đù má…” suốt.
Anh Kỷ phó tham mưu trưởng sư đoàn lệnh cho tổ gã: “Ba anh ở chung với cậu ta mà không nhắc nhở, để cậu ta coi thường kỷ luật, quân hồi vô phèng. Nếu 12h trưa nay cậu ta không về tôi sẽ cho kỷ luật các anh. Cậu ta về thì báo lên gặp tôi ngay”. Nói thật, kỷ luật thì kỷ luật, mấy thằng gã cóc có ngán. Cùng lắm nằm boong ke cho muỗi đốt và ăn cơm nhạt mấy hôm là cùng, nhưng lo cho bạn thì là thật. Vì lúc đó ở Ek Phnom (Battambang) tàn quân Pot trà trộn trong dân chúng rất nhiều. Thậm chí có những lúc trang bị quân trang, vũ khí cho 1 đại đội người Khmer buổi sáng thì buổi tối chúng kéo hết nhau vào rừng và sau đó dùng đúng vũ khí đó để chống lại quân tình nguyện Việt Nam.
Chỉ lo bạn chiến đấu của mình có thể gặp nguy hiểm khi đi 1 mình, thật sự là lo. Đồng hồ vẫn cứ nhích, 3 thằng gã như ngồi trên đống lửa vậy....
Vào lúc 11h hơn 1 chút, chuẩn bị xuống nhà ăn để ăn trưa thì có thằng nào ở đầu lán hét toáng lên: “Thằng Long về rồi…thằng Long về rồi chúng mày ơi…nó bắt được cả tù binh nè…”. Tất cả trung đội 3 ào ra thì thấy thằng Long đang áp giải 2 thằng lính Pot mặc bà ba đen, chân đi đất về phía nhà bộ tham mưu. Anh em lẽo đẽo chạy theo sau nó, gã và thằng Phú, thằng Đực cũng hòa vào dòng người chạy theo sau.
Sau này thằng Long kể lại câu chuyện rời đơn vị và bắt tù binh của nó. Đêm trước nó nghĩ đến việc 3 thằng trong tổ đi đến đâu cũng kiếm được X`ra (rượu) rủ nó nhậu, chẳng lẽ cứ ăn chực mãi, xấu hổ, chính vì vậy mà hôm sau nó dậy sớm lần mò đi tìm dân bản xứ để hỏi mua rượu (nó nghĩ thật sai lầm, vì mới về tổ nên chưa hiểu nhau. Đã là anh em lính chiến, sống nay chết mai, vào sinh ra tử có nhau thì ai hơi đâu tính toán dăm ba cái lẻ tẻ, đến tính mạng còn chẳng để ý, huống hồ…nhưng tính thằng này nó kì vậy đó).
Nó đang lần mò tìm phum nào ở gần thì gặp 2 thằng lính Pot đang lủi trong rừng, nó thấy dễ ăn nên lao vào quật ngã cả 2 thằng, sau đó lấy dây giày và dây quần đùi trói tay 2 thằng lại để giải về đơn vị (quần đùi K82 của lính thì ngoài chun còn được luồn thêm sợi dây vải, không ngờ lại có tác dụng tốt trong trường hợp này), để chắc ăn nó còn bắt 2 thằng lính Pot cởi giày đi chân đất trên đường đá nhọn để khỏi chạy. Nghe thì có vẻ dễ dàng như ăn xôi gấc, nhưng sau đó lại xảy ra 1 chuyện chấn động sư đoàn và cũng chết tên “Polpot” của nó.
Sau khi hỏi cung mới biết 1 trong 2 thằng là tiểu đoàn trưởng trong sư đoàn 616 của Polpot, thằng còn lại là dạng công vụ kiêm lính hầu. Quân đoàn gọi điện xuống yêu cầu chuyển tù binh lên ngay quân đoàn để khai thác thêm thông tin. Trong lúc chờ xe để áp giải tù binh lên Bộ tư lệnh quân đoàn ở Prasat Bakong (Siem Reap), tạm giao cho đại đội vệ binh canh giữ. Trong lúc 3 vệ binh áp giải tù binh từ nhà của tham mưu về phòng giam của vệ binh, ngang qua sân bóng thì thằng lính hầu tự cởi trói được và bay người quơ tay đạp chân đánh gục 2 trong số 3 vệ binh của sư bộ chỉ bằng vài đòn. Khi nó chuẩn bị “ăn vã” nốt thằng Lự “trố” người Trà Vinh thì anh em trinh sát luồn sâu của trung đội 2 quây lại hạ nốc ao nó. Tuy rằng hạ được nó bằng đòn hội đồng, nhưng lính mình cũng có vài anh sưng mặt, ê người với nó, cái giá không hề rẻ chút nào.
Thì ra thằng này vốn là 1 võ sĩ L`bokator có tên tuổi trong hàng ngũ lính của Polpot. Sau này qua tìm hiểu dân bản xứ, gã và đồng đội mới biết. Campuchia có môn võ cổ truyền cực kỳ lợi hại có tên là L`bokator. L`Bokator sử dụng một loạt các kỹ thuật tấn công bằng cùi chỏ, đầu gối, cánh tay, cẳng chân, đầu. Trong đó, hông và ngón tay có thể được sử dụng để giết người bằng những đòn sát thủ. Hệ thống đòn thế của L`bokator vô cùng đa dạng, trong đó hầu hết các động tác đều được bắt chước theo phong cách chiến đấu của các động vật hoang dã như ngựa, sư tử, rắn, đại bàng, khỉ, voi, cá sấu, vũ nữ Apsara, cua, thậm chí cả vịt. Vì những điểm tương đồng đó nên L`bokator thường bị hiểu nhầm là Muay Thái. L`bokator có rất nhiều chiêu thức bắt chước động vật và có tuyệt kỹ ra đòn khác với Muay Thái. Muay Thái chỉ là võ thuật sử dụng chiêu thức cơ bản của L`bokator như đấm, cùi chỏ, đá và đầu gối, nhưng không bắt chước động vật.
hằng lính Pot là dạng cao thủ vậy mà bị thằng Long hạ gục, như vậy đủ chứng tỏ trình của thằng Long không phải dạng vừa, không thể coi thường được. Cũng kể từ đó, anh em trong đơn vị nhìn nó với con mắt khác hẳn, ngưỡng mộ cũng có, thân thiện cũng có, tin tưởng cũng có (tất nhiên ngưỡng mộ nó chỉ là chị em thôi). Cũng vì vậy mà không thấy anh Kỷ hay ai nhắc đến chuyện kỷ luật nó và 3 thằng gã nữa. Cũng từ đó tổ tam tam của gã cảm thấy rất yên tâm khi đi “thám” mà có 1 cao thủ võ lâm ở ẩn trong tổ. Câu chuyện thằng Long hạ gục 1 cao thủ L`bokator truyền từ sư đoàn bộ đến các trung đoàn của sư, rồi sau đó lan ra toàn bộ quân đoàn, rồi đến nhiều đơn vị khác của mặt trận 479.
Cũng từ lúc đó nó chết biệt danh Long “Polpot”, cái biệt danh theo nó về đến tận thành phố Vinh khi những thằng lính phục viên, ra quân mà nhà ở Nghệ An - Hà Tĩnh mang về kể ở quê hương trong những lúc trà dư tửu hậu. Khi nó biết chuyện gã, thằng Đực, thằng Phú “nhái” bao che cho nó mà suýt bị kỷ luật, nó cảm động lắm và từ đó trở đi nó sống mở lòng với anh em hơn. Cũng kể từ giờ phút đó 4 thằng gã luôn coi nhau như anh em ruột thịt, coi tổ tam tam như mái nhà thứ 2 của mình, vui buồn có nhau, sướng khổ cũng có nhau…
Nhưng…
Số phận cũng thật nghiệt ngã, khi 1 thằng lính vào sinh ra tử như nó, khi ở chiến trường đạn toàn tránh nó. Vậy mà lại “ra đi” trong 1 sáng sớm mưa bão năm 1994 lúc 4h sáng khi chở rau cho mẹ để kịp buổi chợ sáng. Nó “ra đi” khi chưa biết yêu là gì. Cứ đến ngày 14 tháng 6 hàng năm, ngày hy sinh của thằng Đực là gã lại mua đồ làm lễ để tưởng nhớ đến nó, thằng Đực và Phú “nhái” để cho 3 thằng chúng nó không cảm thấy cô đơn, buồn tủi. Để chúng nó thấy rằng, thằng bạn chiến đấu năm xưa không bao giờ và chưa bao giờ thôi nghĩ về chúng nó với tất cả những gì trân trọng nhất. Để cho chúng nó thấy rằng tổ tam tam vàng năm nào vẫn luôn trong tim gã.
P/S: Thằng Định “mốc” lính ban bảo vệ, phòng chính trị sư đoàn, dân Nga Liên, Nga Sơn, Thanh Hóa, gọi điện: “Mày viết về vụ thằng L…”chột” đi, đã viết về đời lính thì phải viết hết, xấu tốt gì cũng là chuyện đời lính mà”. Chuyện không hay nên thật lòng gã không muốn viết. Vậy mà thằng Định “mốc” không buông tha cho gã, nó dọa: “Mày mà không viết, lần sau tao ra Hà Nội dell mang nem chua cho mày nữa…”. Nghe nó dọa gã thấy cũng hãi: “Ừ…thôi để tao viết, lần sau ra thì đừng mang nem chua. Nem nhà chúng mày lá chuối nhiều hơn thịt. Cứ mang cho tao cua bể mà dân Nga Sơn nhà mày đang nuôi là được rồi ”. Vâng, theo yêu cầu của mấy thằng bạn chiến đấu Hoa Thanh Quế, Hoa Thanh Táo gã sẽ viết về chuyện QUÂN TA ĐÁNH QUÂN MÌNH vào 1 ngày gần nhất.
LƯƠN XANH
Trong cuộc đời gã, nhiều lần bước chân lãng du đã đưa gã về với xứ Quảng - Đà. Những món ăn của vùng đất đó như mỳ Quảng, Cao Lầu, cơm gà Tam Kỳ… gã đã ăn nhiều lần. Nhưng ở sâu trong tâm khảm gã vẫn luôn khắc ghi 1 món ngon, có thể là gọi là 1 trong những món đặc sản ngon nhất mà gã đã được thưởng thức. Đó là món lươn xanh, một món ăn hết sức dân dã mà thật sự để lại nhiều ấn tượng.
Khi còn huấn luyện tại Việt Nam gã nghe lỏm mấy C, D trưởng nói với nhau không để tụ tập dân 1 tỉnh vào cùng 1 đơn vị. Để tránh lính tráng phân biệt vùng miền, kì thị tỉnh này với tỉnh khác. Ví dụ như B (trung đội) nào có lính Nam Định thì không thể nhốt chung mấy ông Hải Phòng. B nào có nhiều lính Hà Nội thì tránh lính Thanh Hóa, để chung khó mà sống yên ổn. Nhưng khi sang đến chiến trường Campot, đối mặt với sự sống chết từng ngày, từng giờ thì những tư tưởng kỳ thị vùng miền đã không còn nữa. Tất cả đều thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Tất cả các rào cản vùng miền đã bị chiến tranh binh lửa xóa nhòa, chỉ còn lại tình anh em sinh tử nơi trận mạc.
Trong đại đội trinh sát luồn sâu của Sư đoàn 7 lúc đó có thằng Hà “đen”, dân Hòa Vang tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (lúc đó chưa tách tỉnh). Gọi đại đội cho oai, chứ thật ra có hơn năm chục mống, thì ban chỉ huy đại đội và liên lạc đã chiếm mất 6 “bố” rồi. Nói về thằng Hà “đen”, “đen” không phải do nước da mà “đen” do số. Người khác ngủ gật trong lúc gác đêm thì không sao, nhưng cứ đến ca nó thì lần nào cũng bị tóm “dính”. Ngủ gật trong lúc gác là chuyện bình thường, vì lúc đó thằng nào cũng chỉ 18-19 tuổi, đang tuổi ăn tuổi ngủ cả, tránh sao được.
Nhưng riêng chuyện bắt lươn thì nó đúng là số zách, đỏ chứ không đen. Nó chỉ cần ra suối 1 lúc, khi quay về kiểu gì cũng có vài con lươn đã được làm sạch và vài quả chuối hoang cùng ít rau dại cho anh em trong C có bữa tươi. Nó kể, quê nó có món lươn xanh, ăn ngon lắm, coi như đặc sản vùng nhà nó. Nghe nó nói mấy thằng lính thành phố như gã há hốc mồm nghe nó tả, nhưng mấy thằng lính vùng quê cãi: Làm mẹ gì có lươn xanh, chỉ có lươn nghệ, lươn cát, chỉ giỏi tào lao. Nhưng nó khẳng định là có. Tô cháo nghi ngút khói bổng xanh biếc ra khi thả mớ cải xắt nhỏ, rồi chợt ửng hẳn lên khi nung núc từng miếng lươn vàng cong cong rớm mỡ xúm xít để vào. Bẻ rùm rụm cái bánh tráng nướng, chan tý nước mắm rin... từng muỗng cháo bần bật liền, ui, nó thoang thoảng mùi lúa quê, beo béo thơm ngọt vị lươn nghệ, cay nồng của cải xanh... cắn thêm miếng ớt... lại lên muỗng khác, liên tục và liên tục...Nghe nó kể mà mấy thằng gã nuốt nước miếng ừng ực, đói, đói vàng mắt nên chỉ nghe cũng đã thấy ngon rồi. Kết thúc câu chuyện nó hứa: Khi mô ra quân thì chúng mày về nhà tau, mạ tau sẽ làm cho chúng mày món lươn xanh ăn chán thì thôi.
Nhưng tất cả những điều đó chẳng bao giờ thành hiện thực.....
Chiến tranh kết thúc. Tạm biệt đất nước Chùa Tháp với những người dân hiền hòa, chất phát. Nơi mà bao giọt máu, mồ hôi của bạn bè, đồng đội đã thấm đậm trên những địa danh của đất nước này, bao kỉ niệm đồng cam cộng khổ, dìu nhau, cáng nhau, chia nhau giọt nước, điếu thuốc, viên đạn, những đêm ôm nhau nằm ngủ tại trận địa để vơi đi những nỗi nhớ nhung về đất mẹ, vơi đi cơn sốt rét rừng quái ác, những lần chia tay bạn bè hoàn thành nghĩa vụ về cố hương, những lần tiễn biệt đồng đội ra đi mãi mãi…. Thế hệ của gã cũng dần dần giã từ binh nghiệp. Chiến tranh đã lùi xa, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã trở về Tổ quốc, nhiều người phát triển lên sĩ quan cao cấp, tướng lĩnh, nhiều người chuyển sang các lĩnh vực khác, nhiều người quay về với cuộc sống đời thường, hàng vạn người bị thương tật và hàng vạn liệt sĩ được qui tụ về các nghĩa trang trên mọi miền Tổ quốc, có nhiều người còn mất tích nằm mãi ở đất bạn tận vùng biên giới xa xôi. Nhưng gã và những thằng lính C trinh sát, sư 7 bộ binh mãi mãi nhớ về hương vị món lươn xanh dù chưa bao giờ được thưởng thức.
Yêu lắm, nhớ lắm món lươn xanh xứ Quảng – Đà
CHỊ CẢ TRUNG ĐOÀN
Hôm nay em có tí "Bỗng", nhưng có một mợ vẫn thức và cùng bác
DurexXL động viên. Lại có dính đến mợ, em sẽ biên về câu chuyện một người CHỊ với biệt danh "CHỊ CẢ TRUNG ĐOÀN" của bọn em.
Trước khi viết, em thằng Nam "Chẫu" xin gửi (Một nén tâm nhang gửi về chị của em, trung tá quân y Vũ Trần Bích Loan. Khánh Vĩnh - Khánh Hòa. Do dịch bệnh nên em của chị đã không thể về thắp cho chị yêu của em một nén nhang nhân ngày giỗ đầu của chị. Chị hãy đại lượng với em chị nha. Cầu mong chị siêu thoát nơi miền cực lạc. Mãi mãi là em, là bạn chiến đấu của chị)
Chị về cạn chén thanh xuân
Nồng cay mấy giọt gian truân cuộc đời
Sương đêm ướt lạnh bờ môi
Phố khuya loang vết trăng rơi bên đường
Chị về gói lại câu thương
Đem chôn cuối nẻo dặm trường truân chuyên
Trách ai buông lái lệch thuyền
Bơ vơ sóng đẩy về miền không nhau
Chị về cười với niềm đau
Xuân xanh bỏ mặc mái đầu mà đi
Tuổi ơi tuổi khóc thương gì
Thu hoen lệ ướt đôi mi thật buồn
Bao mùa hoa cải rụng bông
Chị về lại bến không chồng năm xưa .....
Hôm đó, một ngày đầu tháng 6 của năm 2019 với ánh nắng đầu hè, tuy không gay gắt nhưng tạo cho con người thấy mỏi mệt với nắng mới. Gã, một kẻ ăn mày dĩ vãng đang trên đường rong ruổi từ Hà Nội đi Điện Biên với con Dream già cỗi gần 30 năm tuổi của gã. Chợt tiếng điện thoại di động vang lên điệu nhạc được cài đặt riêng cho các cuộc gọi của các cựu chiến binh sư 7 bộ binh.
Gã ghé con la già sát vệ đường, nheo mắt cho khỏi chói nắng và đọc tên người gọi: Quang “ngố”. Quang “ngố” người Hải Dương nguyên lính vệ binh sư 7 bộ binh tại chiến trường Campot từ năm 1985-1989, sau khi ra quân thì công tác bên ngành lâm nghiệp. Gọi là “ngố” vì thằng này có tật nói lắp, nhất là khi hồi hộp hoặc có công chuyện gì đó. Những lần như thế, chờ nó nói được 1 câu để người đối diện hiểu được phải mất mấy phút, bực cả cái cửa mình. Giọng Quang “ngố” vừa phấn khích vừa hồi hộp. Như mọi lần, nó lắp bắp mấy lần thì gã mới hiểu: “Nam ơi! Tao đang ở Khánh Hòa, tao tìm được chị Loan mày ơi…”...
Khi nghe và hiểu được Quang “ngố” nói gì thì tai gã ù đi, cổ họng gã khô lại, lời nói của gã lúc đó cũng tự nhiên lắp bắp hệt như thằng Quang “ngố” vậy. Sững sờ mất mấy giây, giọng nghẹn lại gã hỏi: “Thật không? Mày đừng có đùa nha”. Thằng Quang không trả lời mà đưa máy cho người bên cạnh. Tiếng một người phụ nữ miền Nam có chất giọng hơi thanh vang lên: “Nam hả em…?”,
chỉ có vậy rồi 1 tiếng nấc nghẹn vang lên trong máy. Ôi, giọng nói này trong mơ gã cũng ước được nghe lại, dù chỉ trong mơ. Lúc đó 2 chị em trao đổi với nhau mấy câu, chẳng có đầu có đuôi gì cả, gã cũng chẳng nhớ mình đã nói gì và chị nói gì nữa. Chỉ biết rằng khi buông máy thì nước mắt gã đã trào ra, trời đất như chao đảo, gã phải ngồi thụp xuống, móc thuốc ra hút cho tĩnh tâm. Sau khi bình tĩnh, gã bấm số gọi điện cho những thằng bạn lính cùng đơn vị, cùng thời gian ở mặt trận 479 để hẹn nhau bay vào Nha Trang - Khánh Hòa...
Mùa mưa năm 1986, sư đoàn 7 của gã vận động hành tiến truy kích tàn quân Polpot từ Battambang về phía Pailin sát biên giới Thái Lan. Sau 3 ngày 2 đêm đi trinh sát khu vực xung quanh thị xã Pailin về. Trên đường trở về gã lên cơn sốt rét, người lúc nóng, lúc lạnh, nhìn cái gì cũng thấy mờ mờ ảo ảo. Đang đi thì tổ trinh sát luồn sâu của gã bất ngờ đụng độ với 1 nhóm tàn quân Polpot khi còn cách trung đoàn bộ của trung đoàn 141 độ 2km. Cuộc tao ngộ chiến này thật không cân sức khi tổ của gã với 4 súng AKMS đối đầu với lực lượng tàn quân Polpot đông hơn, hỏa lực mạnh hơn. Đang lúc căng thẳng thì bên cánh trái có tiếng rít của những luồng đạn AK cực căng vào giữa đội hình của địch. Đám tàn quân Polpot tán loạn chạy, lúc đó gã thấy trời đất quay cuồng và lả đi...
Trong cơn nửa tỉnh, nửa mê gã vẫn biết là có người nào đó đang dìu gã đi. Sau đó thì gã lịm đi. Khi tỉnh dậy thì gã thấy mình nằm trên giường, trong 1 căn lán bưng tre nứa, có mái lợp bằng lá thốt nốt màu vẫn còn tươi.
Sau này gã được nghe kể, khi tổ của gã đụng với đám tàn quân Polpot, thì cũng là lúc có nhóm quân y và anh nuôi của trung đoàn 141 đi tìm rau rừng và cây thuốc ngang qua nên đã nổ súng trợ chiến. Những ngày dưỡng bệnh tại E 141, gã được chị chăm sóc hết sức tận tình, từ hớp cháo, miếng nước. Thậm chí tất cả quần áo trong ngoài của gã cũng được bàn tay chị giặt giũ sạch sẽ, vá mạng lại những chỗ rách.
Chị, người con gái miền biển Nha Trang với mái tóc dài ngang lưng và nước da trắng hồng. Chị thật đẹp, cái đẹp tiêu biểu của người con gái Nam bộ. Thời gian rảnh, chị cũng thường hay đi rừng để tìm cây cỏ thảo dược để chăm sóc sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ của E. Gã cũng thỉnh thoảng sang xem chị châm cứu chữa bệnh cho anh em trong đơn vị. Bản thân gã cũng được chị tìm cây cỏ chữa cho gã bệnh sốt rét rừng. Quan sát cách chị chữa bệnh và các loại cây cỏ chị hái từ rừng về làm thuốc, tự dưng gã thấy châm cứu, bốc thuốc thật là hay. Vô tình hay cơ duyên thì gã chẳng lý giải và cũng chẳng muốn lý giải làm đếch gì cho mệt óc. Chị chính là người đã truyền lửa và dạy cho gã những bài vỡ lòng về y học cổ truyền bằng các bài giảng đơn sơ nhưng hết sức hữu dụng cũng như tính thực tiễn cao trong khói lửa chiến tranh.
Nhiều, rất nhiều các cán bộ, chiến sĩ của E 141 đã được chị cứu chữa chỉ bằng cây cỏ lá rừng và xoa bóp bấm huyệt. Chị trở thành người nổi tiếng của trung đoàn với biệt danh thân thương CHỊ CẢ TRUNG ĐOÀN. Đến mức nhiều khi mọi người quên cả tên ba má đã đặt cho chị mà chỉ gọi chị bằng biệt danh, thậm chí đến E bộ 141 chỉ cần nói đến biệt danh của chị là ai cũng biết và kể những câu chuyện hết sức chân tình, mộc mạc về chị.
Sau khi bình phục gã lại quay về đơn vị cũ. Thi thoảng chị từ dưới trung đoàn lên sư bộ họp, hai chị em lại gặp nhau tâm sự những buồn vui chiến trường. Chị cũng đã từng yêu và được yêu. Anh ấy là lính quân báo trên Bộ tư lệnh quân đoàn 4, cùng quân đoàn với 2 chị em gã. Nhưng chiến tranh đã lấy đi tình yêu đầu đời của chị khi anh hy sinh vì 1 quả đạn pháo mồ côi ngay khi quân đoàn được điều về mặt trận 479...
Từ đó chị khép chặt cửa lòng, cho dù không ít sĩ quan trẻ và đẹp trai muốn được làm người trong mộng của chị.
Đầu năm 1988 khi trung đoàn 141 tiến sát về phía biên giới Thái Lan thì chị bị thương và được chuyển về tuyến sau. Từ đó cho đến khi quân tình nguyện Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, gã vẫn chưa thể gặp lại chị dù đã dò hỏi tin tức ở tất cả những nơi gã có thể hỏi thăm mà vẫn bặt vô âm tín.
Ra quân gã và bạn bè ở E 141 tiếp tục tìm kiếm các thông tin về chị theo những gì chị kể lại. Miền đất Nha Trang - Khánh Hòa cũng đâu có rộng vậy mà bóng chim tăm cá, không một ai biết về người nữ cựu chiến binh của trung đoàn 141, sư đoàn 7 anh hùng.
Chỉ đến khi Quang “ngố” tình cờ gặp được chị khi đi kiểm tra rừng được giao cho các hộ dân ở Khánh Hòa thì gã và các cựu chiến binh của E141 mới tìm được chị. Lúc mấy chị em gặp nhau, nếu chị không lên tiếng thì chẳng ai có thể nhận ra người đứng trước mắt là chị, người nữ quân y đẹp nức tiếng sư đoàn 7 bộ binh, giai đoạn những năm 80-90 của thế kỷ trước.
Tóc chị xác xơ, người gầy nhỏ, mắt hơi bị lồi ra ngoài do bị khối u trong não chèn ép, nhìn chị thật thương.
Mắt chị không còn nhìn được rõ, chị nắm tay từng thằng em sờ đầu, sờ mặt, nắn tay chân như để xem mấy thằng em của chị có thằng nào bị què cụt gì không, có lành lặn khi từ chiến trường trở về không.
Chị cầm tay đứa nào thì đứa đó tự xưng tên là chị nhớ ngay, chị hỏi han công việc, gia đình, cuộc sống của những thằng em như chưa hề có sự chia xa 31 năm mới được gặp lại...
Trước kia chị nhận nuôi 1 bé gái bị bỏ rơi, nuôi từ lúc 3 tháng tuổi, vẫn còn đỏ hỏn. Khi lớn biết được gia đình thật sự của mình nó đã bỏ chị để đi tìm lại gia đình của mình, đôi lúc về thăm chị.
Vậy mà khi biết chị bị bệnh thì nó bỏ đi luôn, không thèm đoái hoài đến người mẹ “công sinh không bằng công dưỡng”, không 1 lời hỏi thăm làm chị suy sụp hẳn.
Nó tìm lại được gia đình, đó cũng là điều mừng cho nó, nhưng bỏ đi hẳn, không quan tâm đến người đã vì nó mà chịu bao vất vả nuôi nó ăn học thành tài, để bây giờ nó thành đạt, là người có địa vị trong xã hội thì quả thật là quá bạc bẽo....
Thỉnh thoảng trên mạng có những dòng stt vui vui giữa cánh đàn ông về Sugar baby: “con gì nuôi cũng chỉ để thịt…”. Tuy không phải con nuôi nào cũng bạc với cha mẹ nuôi như vậy, đó chỉ là thiểu số, nhưng số rất ít đó lại rơi vào đúng hoàn cảnh của chị.
Rồi chị đã rời xa cõi tạm trong 1 ngày trời Khánh Hòa xám xịt mây của cơn áp thấp nhiệt đới, sau bao đau đớn của bệnh tật hành hạ. Chị đã đi để đoàn tụ với anh, người mà chị yêu thương, chung thủy đến trọn đời.
Đưa chị về nơi an nghỉ cuối cùng, ngoài làng xóm, họ hàng, bạn bè còn có những người lính cựu chiến binh như gã
Những gã trai năm nào giờ tóc đã điểm bạc, có thằng đã lên chức ông nội, ông ngoại. Tất cả về bên chị với niềm tiếc thương vô hạn.
Ngoài nghĩa tử là nghĩa tận còn có cả tình nghĩa đồng đội chia ngọt sẻ bùi nơi chiến trường năm xưa. Trước mộ chị, gã chắp tay thầm khấn: “Chị ơi! Chị hãy yên nghỉ bên anh nơi cõi vĩnh hằng và chẳng còn chia xa chị nhé!”.
Trời già không chiều lòng người khi giỗ đầu của chị đúng vào đỉnh dịch cúm Tàu, khiến cho gã và các chiến hữu không về thắp được cho chị nén tâm nhang. Thương chị, nhớ chị, gã gửi lòng mình vào những dòng thơ để tưởng nhớ đến 1 người chị đã cứu gã khỏi căn bệnh sốt rét rừng và đã dạy cho gã những bài vỡ lòng về y học cổ truyền. Hãy yên nghỉ chị nhé! Chị của em!
CHỊ...
NẤM MỘ KHÔNG CHỒNG
(Viết cho chị, quân y trung tá Vũ Trần Bích Loan. Mãi nhớ về người chị cả của trung đoàn, người bạn sát cánh chiến đấu trên chiến trường Campot. Cầu cho linh hồn chị siêu thoát nơi miền cực lạc)
Chị tôi một kiếp không chồng
Tuổi xanh héo úa, má hồng còn đâu
Chẳng khăn tang chít trắng đầu
Mà thành góa phụ với câu ước thề
Heo may xao xác chân đê
Ngỡ hồn lính trận tìm về...ngày xưa...
Những mùa ngâu đếm nhặt thưa
Nỗi cô quạnh hóa giường thừa...mênh mông...
Đá còn con bế, con bồng
Chị là xương thịt mà không có gì
Tủi hờn nặng trĩu bờ mi
Giữa đêm gió lạnh thầm thì...gọi anh
Chị ơi cỏ đã lên xanh
Ngủ yên chị nhé...bên anh...ngàn đời...
QUÂN TA ĐÁNH QUÂN MÌNH
Xe đỗ trên đường cái, gã xuống xe, vẫy tay chào anh lái xe rồi ngửa mặt hít 1 hơi bầu không khí oi nồng nhưng chứa đựng sự tự do, sau đó sốc lại ba lô rồi rảo bước về hướng đơn vị.
Vừa trên dốc xuống đã thấy 1 nhóm lính khá đông tụ tập dưới chân dốc, gã tiến nhanh về phía đám đông.
Mấy thằng đứng ở vòng ngoài nhìn thấy gã liền lao ra ôm chầm lấy gã rồi bắt tay, sờ người. Mấy thằng vòng trong cũng quay ra chào hỏi rôm rả.
Trong đám gã nhìn thấy có cả thằng Đực, Phú “nhái”, Long “Polpot”, chúng nó giơ tay lên vẫy, làm hiệu đã nhìn thấy gã.
Nhưng gã thấy không khí có gì đó căng thẳng, mặt thằng nào cũng nghiêm trọng. Gã lách mấy thằng đứng ngoài để chen vào trong xem chuyện gì mà khiến cho chúng nó chăm chú và quan trọng đến mức thấy thằng bạn về mà cũng không hỏi han câu nào.
Gã thấy thằng Hội “điếc” nhà ở Hà Văn Mao, thị xã Thanh Hóa đang mặt đỏ tía tai chỉ vào mặt thằng đứng đối diện: “Đan mạch mày…mày làm xấu hổ dân Thanh Hóa, tao nể mày là em họ thằng Đăng, (thằng Đăng “dưa” đã hy sinh cùng thằng Tiến “méo” vệ binh sư bộ trong lần đi hái hoa phong lan cho bé Hằng) vậy mà mày vẫn như thế thì bố mày kệ mẹ mày…”.
Nó vung tay, đá chân chửi như hát hay mà thằng kia mặt vẫn câng câng như thách đố. Thằng đó gã không quen, mặt nó lạ hoắc...
Gã quay qua hỏi thằng Dũng “lợn” bên ban doanh trại đứng bên cạnh, vì sao thằng Hội “điếc” chửi thằng kia ghê vậy. Thằng Dũng “lợn” kể sơ qua cho gã nghe.
Thì ra trong 1 tháng gã được quân pháp mặt trận mời lên “uống nước trà”, hỏi thăm về vụ đột kho gạo dành cứu đói cho dân Campuchia “mượn” tạm 2 bao gạo về nấu cháo cho thương bệnh binh thì sư đoàn nhận thêm tân binh.
Thì ra thằng này tên L…là em họ cô cậu của thằng Đăng “dưa”, nhà ở Quảng Cơ, Quảng Xương, Thanh Hóa.
Nó mới được phân về ban thông tin sư bộ được 20 ngày. Trong 20 ngày mà đơn vị đã có nhiều thằng bị mất đồ, tuy là đồ lặt vặt, việc chưa bao giờ xảy ra trong đơn vị.
Anh em rất ức chế nên rình mãi mới bắt được quả tang nó. Lấy của người sống đã đành, nó còn đang tâm lên hội trường lục ba lô di vật của các liệt sĩ hy sinh để “chôm” đồ, anh em lục ba lô nó tìm thấy cả cây bút Hồng Hà có khắc tên của thằng Rớt người Bình Đại, Bến Tre hy sinh ở ven rừng Nưk.
Tang chứng vật chứng rõ ràng, anh em bàn tính cho nó đi tàu bay (chùm chăn xông hơi, vật lý trị liệu), do nói to quá nên nó nghe được. Nó thấy anh em vì thương thằng Đăng không muốn làm to chuyện, vì vậy nó được đà nên thách đố anh em dám làm gì nó.
Thái độ nó làm cho mấy anh em đồng hương Thanh Hóa cũng không thể chấp nhận nổi nên mới kéo nó ra ngoài với ý đồ dạy cho nó bài học.
Nó cho rằng anh em cậy đông nên định chơi bề hội đồng. Thằng Định “mốc” dân Nga Sơn bên ban vận tải đứng ra khuyên giải 2 thằng (thằng Định có chị gái lấy chồng về làm dâu bên Quảng Ninh, Quảng Xương nên nó cũng ngại).
Nhưng thái độ thằng L…vẫn rất hỗn xược, nó nói chỉ ngại chơi hội đồng, còn sẵn sàng quánh “tai bo” với bất cứ thằng nào...
Gã thấy tình hình có vẻ căng, vả lại gã cũng vừa mới được quân pháp mặt trận “mời đi uống nước trà” về việc “mượn” 2 bao gạo nấu cháo cho thương bệnh binh mà chẳng hẹn ngày “trả”, nghĩ mình cũng chẳng tốt đẹp gì nên gã tính bài chuồn về lán ngủ 1 giấc.
Thằng Trân “đùn” người Hải Phòng bảo, nếu muốn quánh nhau “tai bo” với thằng nào thì cứ chỉ, tụi nó đứng ngoài sẽ không tham gia.
Thằng L…đảo mắt 1 vòng rồi chỉ vào gã.
Gã ngạc nhiên, nhưng thực tế gã cũng chẳng muốn đánh nhau với nó làm chi, cứ để các anh em khác dạy nó bài học là đủ rồi nên gã tìm cách lảng đi.
Nhưng thằng L…vẫn không buông tha, nó chỉ mặt và đòi đánh tay đôi cùng gã...
Thằng Sơn vệ binh, dân Thiệu Sơn, Thanh Hóa ghé tai: “Nện bỏ mẹ hấn đi…”. Gã cau mày: “Tao cũng hơn gì nó đâu mà đánh nhau với nó”.
Thằng Giang “choắt” thủ kho quân khí: “Mày khác, mày mang gạo về nấu cháo cho thương bệnh binh chứ mày có phải ăn cắp đâu. Nó là thằng ăn cắp rõ ràng”.
Gã tảng lờ bỏ đi, thằng L…vẫn chỉ mặt gã và buông lời thách đố. Thằng này nó cũng to gan, vì khi nó về sư bộ thì gã đang làm việc với quân pháp mặt trận nên nó không biết mặt, biết tên.
Đã vậy lúc đó cân vội cả người lẫn quân trang gã nhõn 49kg, nước da mai mái do sốt rét rừng nên nó coi thường.
Nó thì cao đến trên 1,7m nên nó nghĩ rằng đánh tay đôi với gã thì sẽ nắm chắc phần thắng trong tay.
Nó buông thêm vài câu xúc phạm nữa, trong khi anh em đứng xung quanh đổ dồn mắt nhìn gã, chờ phản ứng của gã ra sao.
Gã thấy mình bị đẩy vào thế không “chiến” không được. Gã nghĩ thầm:
- “Ừ chơi thì chơi, TỪ BÉ ĐẾN GIỜ ĐÃ CÓ THẰNG NÀO BIẾT SỢ THẰNG NÀY ĐÂU”.
Gã ném ba lô xuống đất, cởi áo vứt cho thằng Dũng “lợn”. Lúc đó có mấy em gái bên quân y cũng ghé vào xem.
Có em nào đó kêu to lên: “Ơ…anh Nam, anh Nam “chẫu” về rồi này…”
Nghe thấy tên Nam “chẫu”, mặt thằng L…tái lại, thái độ hung hăng lúc đầu của nó bay đâu hết, nhưng nó đã ở thế cưỡi lưng hổ thì không thể xuống được nữa rồi.
Nhìn thấy nó thủ thế gã biết ngay thằng này không có nghề, chỉ được cái to xác. Nó xông vào đấm thẳng mặt gã, gã lách người tránh được, nhưng do tay nó dài nên gã vẫn bị quệt vào miệng.
Gã thấy ê hẳn một bên hàm, có vị mặn chảy trong mồm, cơn điên ở đâu ập đến...
Thằng L… vung tay lần nữa, lần này gã không còn khách khí nữa, 1 tay gã chặn đòn, tay kia gã bẻ phía dưới khớp khuỷu tay vặn ngược lại (thế võ này rất nhiều môn phái sử dụng trong tay không đoạt dao và uy lực công phá của nó đáng sợ thế nào thì người học võ đều biết).
Một chút gì hơi vấp tay gã lại và sau đó tiếp tục đi nhanh xuống. Thằng L…rú lên như lợn bị cắt tiết, đổ vật sang 1 bên, thuận đà gã đưa 2 ngón tay nhắm thẳng vào đôi “đèn pha” của nó chọc mạnh 1 phát…bất ngờ thằng Long “Polpot” nhảy vào gạt tay gã ra: “Thôi mày…đủ rồi, dạy nó bài học thế là được rồi”.
Tuy vậy ngón giữa bàn tay trái của gã cũng đủ chọc vào sát khóe mắt bên phải của thằng L…và kéo 1 vệt đến sát mang tai để lại vết máu chảy khá nhiều.
Vết đến mang tai sau này thì lành, nhưng riêng vết sát đuôi mắt chạy về phía mang tai dài độ 5-6 phân thì không lành được.
Về sau nó kéo sẹo khiến mắt thằng L…hơi lệch sang 1 bên, vì vậy nó chết tên L…”chột”.
Thằng Hội “điếc” hậm hực: “Ông can làm chi, để thằng Nam đập chết mẹ hấn đi”. Thằng Long “Polpot” trừng mắt, gằn giọng: “Thằng Nam nó ít tội lắm sao mà chúng mày để nó dính tiếp chuyện này.
Thằng khác nện nó thì tao không can, nhưng thằng Nam thì không thể được”. Thằng Hội ớ người ra không cãi câu nào cả, nó cứ lúng búng trong mồm cái gì đó.
Thằng Hội dân thị xã Thanh Hóa (lúc đó chưa lên thành phố), thằng này sống trực tính, thảo với bạn bè, nhưng tính tình thì nóng như “kem”. Một khi nó đã điên tiết lên thì ông trời còn là bé, điếc luôn. Vì vậy anh em đơn vị mới gọi nó là Hội “điếc”.
Sau này khi ra quân nó về đi buôn lâm sản (bè tre nứa), mỗi lần qua Hà Nội nó hay rủ gã đi nhậu. Lần nào nó cũng đưa tiền cho gã, lúc vài tờ 50 đồng, khi thì dúi cho cả chục tờ (tiền 50 đồng lúc đó có giá trị lắm), không nhận nó cũng ép phải cầm bằng được.
Cái thằng tốt tính và hết lòng với bạn bè mà vắn số. Nó mất vì ung thư gan, bạn bè không ai biết. Cho đến khi thằng Lương ở pháo binh quân đoàn nhà trên Ngọc Lặc xuống chơi mới biết, thì lúc đó nó “đi” đã được 5 tháng rồi.
Sau này nhờ có quan hệ với 1 người anh, dân Ý Yên, Nam Định ở Tổng công ty Sông Đà (sau anh chuyển về Bộ GTVT) xin cho vợ nó về bộ phận hành chính của Cienco 5 dưới thời anh Thân Đức Nam.
Con trai nó thì phụ trách bộ phận lễ tân khách sạn cho bác sĩ - lương y Lê Hữu Minh ở Huế, con gái nó được lương y Lê Hữu Bình hướng theo nghiệp y và cháu đã tốt nghiệp cao đẳng y học dân tộc, hiện con đang công tác tại Saigon.
Thằng L…chảy khá nhiều máu, vai trái của nó bị gã đánh bật khớp, rách gân chóp xoay vai và nó được đưa về tiểu đoàn quân y (cánh tay trái của nó sau lần đấy bị tật vĩnh viễn).
Mấy anh em đồng hương Thanh Hóa đi theo nó. Đi theo không phải vì thương nó, anh em bám theo nó để đe dọa, khủng bố tinh thần nó, đại để nó mà khai ai đánh thì anh em sẽ không để nó yên và trên chiến trường có nhiều vụ đạn lạc hoặc bắn nhầm lắm…vân vân và mây mây…
Cũng vì gã ra đòn “thân thiện” quá mà ông Tiếp, tiểu đoàn phó quân y sau này mè nheo gã suốt…
Lúc về đến lán, thằng Long “Polpot” nó mới nói:
-Khi thấy gã bị dính đòn là nó biết ngay, gã mà điên lên thì kiểu gì cũng sẽ ra đòn sát thủ, nếu nó không ngăn gã lại thì tội chồng tội, lần này khó có thể thoát được Tòa án binh.
Gã công nhận nó nói có lý, cái thằng ít nói, nhưng khi mở mồm thì thâm thúy hệt như mấy cụ đồ Nghệ xưa vậy.
Nó cũng phân tích (lính trinh sát luồn sâu mà), nếu thằng L…mà biết gã là Nam “chẫu” thì có cho ăn kẹo cũng không dám thách đánh tay đôi.
Nhưng do nó về đơn vị khi gã đang được mời “uống nước trà” với quân pháp mặt trận nên nó không biết mặt gã, đã vậy lại thấy gã nhỏ con hơn nên nó mới chọn gã để thách đấu… Sau khi nó phân tích xong, thằng Đực mới hề hề cười: “Ngu thì chết nghe con…”
Câu chuyện gã đánh thằng L…”chột” tí mù mắt sau cùng cũng đến tai các thủ trưởng.
Vào 1 ngày chẳng đẹp trời lắm, bố Hưng đại tá, sư phó, tham mưu trưởng sư đoàn sai thằng Loan công vụ gọi gã lên uống nước.
Bố khuyên nhủ gã không nên vi phạm kỷ luật chiến trường nữa, đại khái bố chỉ dạy bảo gã nhẹ nhàng chứ không lên án hành động của gã hoặc đưa ra mức kỷ luật như bọn thằng Long “Polpot” dự đoán...
Còn về thằng L…”chột” sau đó được đưa về trung đội 3, đại đội công binh.
Trung đội đó toàn anh em hảo hớn người Hải Phòng, nghe đâu nó được anh em “dạy dỗ” bài bản nên cũng có “ngoan” đi.
Sau này gã nghe anh em Thanh Hóa kể lại, nó ra quân về lấy vợ và mở cửa hàng bán giải khát, ăn uống gì đó ở bãi biển Sầm Sơn.
Nhưng giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Bán hàng quá đát mà giá thì khét lẹt và hay chèn ép khách du lịch.
Cho đến lần 2 vợ chồng nó bán hàng đểu với giá cao cho mấy anh em xã hội ở thành phố Thanh Hóa nên bị úp sọt đến đi viện tí chết.
Đến năm 2011 hay 12 gì đó, nó tham gia đường dây làm giấy chứng nhận thương bệnh binh giả bị bắt đi tù, ăn cơm cân, mặc áo số mấy năm. Ra tù 2 vợ chồng nó bỏ xứ đi biệt tích và không bao giờ thấy xuất hiện. Âu cũng là cái số của những kẻ thích ăn lười làm...
LÊ NA
Tên nó là Lê Na. Nó không phải tên người, nó là tên con chó hoang mà gã nhặt được trong lần đi “thám” ở chiến trường Campuchia.
Buổi sáng hôm đó tổ tam tam của gã vừa kết thúc chuyến đi “thám” tại Sisophon, trên đường về đến ngã 3 Tư-a-ron.
Mấy thằng đang hàng 1 lầm lũi trên đường, gã đi cuối đội hình, chợt nghe có tiếng ăng ẳng như tiếng trẻ con bị bóp cổ ở bụi cây ven đường.
Gã vén các cành cây nhìn vào thì thấy 1 con chó con chỉ độ 4-5 tháng, lông xác xơ và bết thành từng mảng, gầy trơ hết cả xương.
Gã định quay bước đi, nghĩ thế nào lại quay lại. Con chó nhìn gã vẻ đề phòng, dù đuôi vẫy có vẻ mừng.
Gã xoa đầu nó thì nó thụt lùi lại, nhưng không có thái độ gì muốn cắn cả, chỉ có vẻ nhút nhát, sợ sệt mà thôi.
Gã móc túi lấy phong lương khô, bẻ 1 miếng nhỏ ném ra đất. Nó nhìn miếng lương khô rồi nhìn gã, sau đó nó tiến gần lại miếng lương khô hít hít rồi từ từ đưa lưỡi ra liếm miếng lương khô, cuối cùng thì nó cũng lùa miếng lương khô vào mồm.
Gã nghĩ, chắc nó đói lắm. Gã bẻ thêm mấy miếng nhỏ nữa rồi đặt vào lòng bàn tay, nó rụt rè 1 chút rồi tiến đến ăn hết chỗ lương khô trên tay gã.
Gã bẻ nốt cho nó ăn rồi xoa tay đứng dậy, ngẩng mặt lên đã thấy thằng Đực, thằng Long “Polpot”, thằng Phú “nhái” đã quay lại và đang đứng nhìn gã cho con chó ăn. Gã bảo: “Thôi…về chúng mày”.
Bốn thằng quay gót trở ra đường cũ, vừa đi vừa tán láo: “Con chó bé quá, chẳng được miếng chúng mày nhỉ, nếu to to 1 chút thì hôm nay anh em mình lại được bữa tươi.
Lâu lắm rồi chẳng biết đến miếng thịt tươi…”. Bốn thằng đang nói chuyện rôm rả, tự nhiên cả 4 thằng đều nghe thấy tiếng lạo xạo trên lá khô (lính trinh sát nên tai thính lắm và sự cảnh giác cũng luôn cao độ. Cảnh giác cao đến mức nhiều khi căng thẳng thần kinh).
Không ai bảo ai, cả bốn thằng đồng loạt lách nhanh sang bên và quay lại, nòng súng hướng về phía phát ra tiếng động, tay đặt vòng cò sẵn sàng bắn ngay.
Mấy thằng nhìn thấy vật nhỏ nhỏ vừa đen vừa vàng men theo bụi cây, sau đó chạy hẳn ra chỗ mấy thằng đang đứng. Thì ra là con chó, nó đi theo bọn gã.
Thằng Đực: “Nó đang đói, mày cho nó ăn nên nó đi theo đó”. Nói xong nó quay sang thằng Long, thằng Phú chìa tay ra.
Hai thằng kia vét túi đưa nốt những mẩu lương khô cuối cùng của chúng nó cho thằng Đực.
Thằng Đực cũng lấy phong lương khô từ túi của nó, nó bẻ ra thành từng miếng, ném cho con chó.
Lạ điều tuy đói và ánh nhìn thì thèm thuồng, nhưng nó không chịu ăn miếng lương khô từ tay thằng Đực ném ra. Gã ngồi xuống huýt sáo, tay vẫy vẫy thì con chó từ từ tiến đến, gã nhặt từng mẩu lương khô lên đưa sát miệng thì nó ăn ngay, ăn ngon lành.
Thằng Long “Polpot”: “Mày có duyên thuần hóa chó ghê”. Chúng nó đâu có biết, gã đã từng nuôi dòng Becgie Đức từ lúc lên 7-8 tuổi, từ cái thời muốn nuôi chó Tây phải có giấy phép do công an cấp.
Con chó đó là của trường cảnh khuyển Suối Hai, Sơn Tây, trung tâm nuôi dạy chó nghiệp vụ của Công an vũ trang.
Con chó do cha gã xuống tận nhà riêng ở 12 phố Đinh Công Tráng, nằm phía ngoài Bộ tư lệnh Công an vũ trang để xin cụ trung tướng Phạm Kiệt, thứ trưởng Bộ Công an, tư lệnh kiêm chính ủy đầu tiên của Công an vũ trang (sau này được đổi tên thành Bộ đội biên phòng).
Trong lúc luyện tập khoa mục chạy vượt vật cản, do huấn luyện viên để súng cướp cò bắn xuyên tai nó, nổi khùng, nên nó quay lại cắn luôn huấn luyện viên.
Nó bị kết án tử hình, nhưng vì cha gã tha thiết xin cho gã nên cụ cho cha con gã mang về nuôi.
Lúc đó nó cũng được hưởng chế độ tem phiếu như người vậy, nó cũng được cung cấp tem để mua thịt ở chợ Hàng Da.
Do nuôi chó nhiều năm, tuy không thể gọi là chuyên gia nhưng ít nhiều gã cũng hiểu được tập tính của loài chó. Vì vậy để làm quen với 1 con chó cũng không khó lắm, nhất là lúc nó đói mà mình cho nó ăn.
Thằng Phú “nhái” bàn: “Nhìn nó tội quá, hay là anh em mình mang về nuôi đi”. Thằng Long thì phản đối, vì đơn vị di chuyển tác chiến theo chiến dịch liên miên.
Nay địa bàn này, mai vùng khác, sợ không chăm được. Ngoài ra còn sợ các thủ trưởng không cho nuôi, mà có cho nuôi thì lấy gì nuôi nó, đến miếng ăn cho người đôi lúc còn thiếu thì lấy đâu mà cáng thêm con chó.
Mấy thằng bàn đi tính lại, bỏ nó ở đó thì thương, mà mang về thì lại sợ, sợ hết cái nọ đến cái kia.
Cuối cùng thằng Đực quyết định: “Thằng Nam cho nó ăn, nó đi theo mày, coi như là có duyên. Mày cứ mang về, mấy anh em bớt ăn đi chút là xong chứ bàn cái mẹ gì”. Ừ…thì mang về, gã bồng con chó lên, nó để yên cho gã bế, người nó nhẹ bỗng.
Thỉnh thoảng nó lại thè chiếc lưỡi đen, ướt ướt ra liếm tay gã, gã thấy có chút gì đó vui vui và ấm lòng…
Con chó được đưa về lán trung đội. Gã tìm gặp anh Kỷ tham mưu phó sư đoàn, gãi đầu gãi tai nhờ anh can thiệp nếu các thủ trưởng không cho phép nuôi chó trong đơn vị.
Anh Kỷ nhìn gã, trầm ngâm chút: “Các ông nuôi thế nào thì nuôi, đừng để nó cắn người lung tung. Nó mà cắn người là tôi cho riềng mẻ luôn đó…”. Gã mừng hết biết, quay về lán bế nó ra suối tắm và cho nó nằm ngủ ngay dưới chân sạp, nơi gã nằm.
Con chó thật ngoan, ăn và ngủ, hiếm khi thấy sủa bậy. Mấy thằng trong trung đội bàn cách đặt tên cho nó.
Gã bảo: “Chó cỏ thì cứ tên ta mà đặt, cứ gọi nó là CHÓ thôi”. Mỗi thằng 1 ý kiến như cái chợ vỡ, thằng nào cũng muốn bảo lưu ý kiến của riêng mình, chẳng thằng nào chịu thằng nào.
Thằng Long “Polpot”: “Thế này nhé! Chó là thằng Nam phát hiện ra và đưa nó về. Nó có duyên với thằng Nam, tên thằng Nam là Lê Nam, vậy thì cắt bớt chữ M ở tên thằng Nam đi.
Gọi nó là LÊ NA đi, tên cũng rất “đàn bà” vì nó là chó cái. Vừa dễ gọi, đã vậy nghe Tây và hay hơn mấy cái tên chúng mày đặt”.
Tất cả ồ lên, công nhận cái thằng có suy nghĩ độc đáo. Vậy là từ đó con chó được mang tên là Lê Na.
Kể từ khi trung đội có con chó, không khí trong trung đội có vẻ giống như 1 gia đình vậy.
Tiếng rằng gã là chủ của Lê Na, nhưng thực tế chủ của nó là toàn thể anh em trung đội 3.
Thằng nào có cái gì ngon cũng để phần cho nó. Từ sữa bột bồi dưỡng của thằng bị ốm, cho đến đi suối tắm bắt được con cá, con ếch cũng mang về cho Lê Na.
Chẳng biết từ lúc nào mà con chó đã trở thành 1 thành viên không thể thiếu trong B3 trinh sát luồn sâu.
Con chó dường như cũng biết thân biết phận của nó khi sống với lính chiến, nó ăn bất cứ cái gì anh em cho.
Lính ăn gì thì nó ăn như vậy. Cơm, “nắp hầm”, khoai tây, khoai lang, sắn, bánh cám…cái gì cũng ăn và ăn cái gì cũng được (bánh cám là những thanh cám được đóng thành bánh để ăn cho đỡ thiếu Vitamin, chống phù người.
Cái này lính chiến mặt trận biên giới phía Bắc và Tây Nam thời điểm đó biết rất rõ).
Thỉnh thoảng chị em nuôi quân, tiếp phẩm lại cấu thêm cho nó ít thịt bạc nhạc khi đơn vị có thịt ăn.
Có điều lạ, nó không bao giờ bước chân xuống nhà ăn khi mọi người đang ăn cơm, chỉ khi nào mọi người ăn xong, giải tán hết rồi thì nó mới từ trên lán chạy xuống nhà ăn ve vẩy đuôi xin ăn.
Mà nó như có linh tính vậy, thường thì nó chơi loanh quanh đơn vị. Thỉnh thoảng nó chạy đâu đó từ sáng đến chiều, lúc quay về bê bết bụi đỏ kín người.
Nhưng mỗi lần tổ gã chuẩn bị quân trang để đi “thám” thì nó chỉ quanh quẩn chỗ gã, không rời nửa bước.
Những lúc đó nó hết ngửi người gã, lại liếm tay, liếm mặt đủ kiểu. Khi tổ lên đường, gã gọi nó lại, vuốt đầu nó: “Ở nhà ngoan nhé! Không được chạy lung tung đâu.
Mày cứ chạy lung tung lính Pot nó bắn làm thịt đó…”. Chẳng biết nó có hiểu những điều gã nói không, nhưng khi về nghe mấy thằng ở nhà kể lại.
Từ khi tổ đi, thì nó chỉ loanh quanh trong lán, không bao giờ đi xa lán quá 100m. Ban ngày nó nằm ở cửa lán, đầu quay ra ngoài cổng doanh trại như chờ đợi, tối thì nó rúc xuống gầm sạp nơi gã nằm và ngủ ở đó, đầu gác lên cái áo may ô cũ mà gã thải ra để đắp cho nó trong những đêm trời trở gió.
Tổ xách súng ra khỏi lán thì nó chỉ đứng ở cửa lán nhìn theo chủ, chứ không chạy theo như những lần gã ra suối hay sang các bộ phận khác chơi.
Khi gã đi đâu đó về hoặc khi tổ đi “thám” về, cách đơn vị tầm 1 con dốc độ 3-400m, còn chưa nhìn thấy mái lán vọng tiêu của vệ binh đã nghe thấy tiếng sột soạt từ bụi rậm.
Rồi bất chợt nó từ bụi cây nào đó lao ra như tên bắn, cái đuôi thì ngoáy tít lên, cổ họng thì rên ư ử.
Gã vừa cúi người xoa đầu là nó cuống quýt rúc cả người vào chân gã, thè lưỡi liếm tay bằng được mới thôi…
Cơm lính chiến chẳng có gì, vậy mà chỉ sau mấy tháng, từ 1 con chó nhách gầy trơ xương nó đã có da có thịt hơn. Lông mượt hơn và lớn rất nhanh.
Tuy là chó cỏ, nhưng chân nó cao, mình dài, ngực nở. Hình như nó là 1 loại chó săn bản địa thì phải. Ở quanh những bụi cây gần đơn vị hoặc đâu đó trong rừng có khá nhiều gà hoang.
Loại gà này không phải gà rừng, đó là những con gà nhà. Do chiến tranh, bom đạn nên không ai chăm sóc, nuôi nấng nên đàn gà bỏ đi hoang và cứ tự sinh tự diệt trong rừng xanh núi đỏ.
Lê Na thỉnh thoảng mất hút đi đâu đó, khi về nó ngậm lúc thì con gà, lúc thì con cá hoặc chuột đồng.
Chẳng biết sao mà nó bắt được cá dưới suối nữa. Đồ nó tha về anh em làm sạch, rồi dành làm thức ăn cho nó.
Thằng Phú “nhái” còn tranh thủ lúc rảnh đi bắt thêm chuột đồng làm ruốc, làm khô chuột cho nó ăn vào những hôm không có thức ăn.
Có lần thằng Kiểu bên công binh sang chơi, gạ gẫm đem nó “riềng mẻ”, tý chút nữa thì thằng Long “Polpot” cho ăn cả cái báng súng AKMS vào mồm nếu anh em không kịp can .
Sau đận đó không thằng nào dám mở mồm đòi thịt nó nữa. Tuy rằng nó bắt gà hoang vậy, nhưng gà nuôi cải thiện của bên quân y, thông tin và nuôi quân, tiếp phẩm thả ở sân không bao giờ nó bén mảng.
Điều đặc biệt nữa, anh em trong đơn vị chơi đùa với nó thì không sao. Riêng với anh Lặc phó ban bảo vệ chính trị, người Văn Giang, Hưng Yên. Cứ lần nào thấy ông ấy từ xa là nó trốn biệt, không ai gọi được, trừ gã.
Tuy gọi nó về được nhưng nó nép vào sau gã, đuôi thì quặp lại, vẻ sợ hãi hiện rõ. Hỏi chuyện, hóa ra nhà anh Lặc có mấy đời làm nghề buôn bán và thịt chó, thảo nào mà nó sợ vậy.
Cả đại đội trinh sát luồn sâu ai cũng quý Lê Na. Hoàn cảnh lính chiến xa nhà, đôi lúc thấy cô đơn, chạnh lòng và tủi thân nhớ nhà, nhất là những đêm mưa gió.
Mấy thằng kiếm ấm trà hoặc mấy lít rượu thốt nốt ngồi quây quần bên đống lửa kể cho nhau nghe về những ước mơ, những dự định, hoài bão sau khi xuất ngũ mà có nó nằm bên cạnh thấy thật ấm lòng…
Một ngày đầu tháng 5 năm 1988, hôm đó thằng Tiêu bên tuyên huấn đi nhận tài liệu tuyên truyền từ trên quân đoàn về, ngang đường về gần đơn vị nó phát hiện có con lợn hoang rất to.
Theo nó mô tả cũng khoảng 6-70 ký, nó nã cả băng AK mà chẳng viên nào trúng con lợn cả.
Mấy thằng trinh sát luồn sâu nghe nó kể thì cười trêu nó: “Đúng là lính văn phòng, có con lợn to thế mà cả băng AK chẳng trúng viên mẹ nào. Nếu đụng lính Pot thì đánh đấm sao”.
Trêu nhau thì vậy thôi, sáng hôm sau mấy thằng gã báo cáo với anh Toản C trưởng trinh sát luồn sâu, để xin phép đi bắn con lợn làm tí thịt tươi cải thiện cho anh em sư bộ.
Anh Toản dặn mấy thằng đi cẩn thận kẻo gặp lính Pot. Để chắc ăn, gã bỏ khẩu AKMS ở nhà, lên vệ binh xách theo khẩu trung liên RPD cùng hộp đạn 100 viên còn nguyên đai nguyên kiện.
Tốp của gã có 7 thằng đi theo đoạn đường mà thằng Tiêu chỉ, Lê Na thấy mấy thằng gã đi mà không mang ba lô nên biết chỉ đi ra suối hoặc đi chơi nên lẵng nhẵng đi theo, mấy thằng cứ mặc kệ cho nó theo cùng.
Con chó cứ theo mấy thằng, lúc nó chạy lên trước, lúc lùi lại sau, khi thì nó đi, khi thì chạy gằn lên như ngựa tế.
Khi đến cách bìa rừng độ 200m, chợt nó dừng lại. Nó cúi thấp người xuống, hai chân trước thì bươi đất.
Mấy thằng nghĩ chắc nó đánh hơi được con lợn gần đâu đây nên vội tản ra theo hình vòng cung để vây con lợn lại.
Con chó nhìn vào bụi cây cách đó độ 50m sủa liên tục, sủa dữ dội, một hành động mà trước nay gã và anh em chưa thấy bao giờ. Bụi cây chợt rung mạnh, một nòng súng ghếch ra phía Lê Na.
Gã nghĩ nhanh: “Lính Pot rồi…”, gã gọi to: “Lê…Na…quay lại…”. Con chó định chồm lên, nghe gã gọi, nó vừa quay đầu định chạy về phía gã thì khẩu súng trong bụi rậm khai hỏa, ánh lửa nháng lên kèm theo 2 tiếng nổ khô khốc “đoàng…đoàng”.
Lê Na vật người ra 1 bên, nó cố lê thêm 1 đoạn rồi nằm im, nhìn rõ vết máu kéo dài trên đất.
Gã thấy tim mình thắt lại, đầu óc quay cuồng. Thằng Long “Polpot” rút quả da láng ném thẳng vào bụi cây.
Hai bóng người mặc áo xanh từ trong bụi cây nhao ra và chạy về hướng bìa rừng, nhìn rõ cả khẩu K63 mà chúng nó cầm trên tay.
Thằng Uẩn vệ binh và thằng Phú “nhái” định nổ súng thì gã quát: “Để tao…”. Gã tỳ khẩu RPD vào vai đứng thẳng người dậy, nghiến chặt răng và không thèm lấy đường ngắm cơ bản, gã xiết cò.
Đường đạn thẳng căng quật ngã ngay thằng chạy phía sau. Thằng đằng trước đã chạy gần đến bìa rừng, chỉ mấy bước chân nữa là nó thoát được vào rừng.
Nó chạy nhanh, nhưng đường đạn của gã còn nhanh hơn, gã kéo cả băng đạn vào lưng nó.
Thằng lính Pot rơi súng, tay nó chới với bám vào thân cây trước mặt, gã vẫn tiếp tục nhắm bắn vào lưng, vào đầu thằng lính Pot, bắn cho đến khi nó quỵ hẳn xuống.
Thằng Long “Polpot” và 2 thằng nữa chạy ra chỗ 2 thằng lính Pot. Gã quay qua thì thấy thằng Phú “nhái” đang ôm Lê Na vào lòng, máu nó chảy ướt đẫm cả vạt áo thằng Phú.
Thấy gã chạy lại gần, con chó cố vươn người về phía gã. Gã đỡ con chó từ tay thằng Phú “nhái”. Con chó ngước lên nhìn gã, từ trong đôi mắt to tròn và đen như hạt nhãn của nó ứa ra 2 dòng nước mắt đùng đục...
Đây là lần đầu tiên trong đời gã nhìn thấy chó biết khóc, gã lặng người đi. Nó ngửi tay gã, thè chiếc lưỡi ấm nóng và hơi ram ráp liếm vào mu bàn tay gã rồi nhắm mắt ra đi thanh thản…
Thằng Đực lén quay đi lau nước mắt, thằng Phú và mấy thằng nữa cũng bật khóc.
Gã cởi chiếc áo K82 rách tay đang mặc, bọc lấy cái xác còn ấm nóng của con chó và ôm chặt nó vào lòng như ôm 1 đứa con…
Gã chôn Lê Na và chiếc áo đẫm máu của nó ở sau vọng tiêu số 1 của vệ binh, cách vọng tiêu độ 50m, chếch về bên trái.
Gã đắp cho nó nấm mộ, trên mộ nó được phủ ít bánh cám, lương khô và cả món khô thịt chuột đồng mà thằng Phú “nhái” đã mất công mấy buổi trốn ngủ trưa đi bắt về làm món ăn dành cho nó những khi nhỡ bữa…
Chiều hôm đó, cả B3 trinh sát luồn sâu im lặng khác thường. Chẳng thằng nào muốn nói chuyện cả, mỗi thằng trầm tư theo đuổi 1 suy nghĩ riêng.
Gã cũng vậy, gã thấy lán trung đội hôm nay thật rộng và thấy thiếu vắng 1 cái gì đó hết sức thân thuộc, thấy thèm được nghe tiếng rên ư ử quen thuộc của Lê Na…
Buổi tối, đang ngồi uống trà thì thằng Hoan chợt nói: “Tao thấy các cụ bảo, nuôi chó mà chó chết là đen, là xui lắm đó”.
Thằng Phú “nhái” bác bỏ: “Tao thì chỉ nghe nói, nhà nuôi chó mà chó chết thì dễ bị trộm đột nhập và khoắng thôi, chứ đâu có nghe chuyện xui đen gì ở đây. Trộm nó theo dõi rồi đánh bả cho dễ trèo vào nhà mà”.
Thằng Đực thì: “Mấy thằng tụi bay toàn tin mấy cái tào lao ở đâu, chẳng có sao cả”. Bản thân gã cũng không tin, làm gì có chuyện như vậy.
Vậy mà điều đó không ngờ lại xảy ra với thằng Đực, khi nó hy sinh do dẫm phải mìn nhảy KP2 sau đó hơn 1 tháng.
Khi viết những dòng này về con chó, người bạn thân thiết của toàn thể B3 trinh sát luồn sâu, sư đoàn 7 bộ binh, cách nay 34 năm mà gã cảm thấy như chuyện mới xảy ra hôm qua vậy...
“…Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó được làm kẻ bảo vệ ta trước nguy hiểm, giúp ta chống lại kẻ thù. Và một khi trò đời hạ màn, thần Chết đến rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, khi mà tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của mình. Thì khi ấy bên nấm mồ ta, con chó cao thượng của ta, nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở to cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã chết rồi…” Georges Graham Vest (1830-1904)
THẰNG ĐỰC
Tháng sáu lại về, tháng sáu của 1 thời khói lửa chiến tranh chưa bao giờ tắt trong lòng gã.
Mỗi năm, cứ đến những ngày tháng 6 là gã lại thấy buồn, thấy đau, thấy nhớ thằng bạn chiến đấu của gã:
Thằng Đực.
Một người lính thông minh, nhanh nhẹn, dũng cảm, khéo tay và cũng rất đa tài đa nghệ. Một thằng có biệt tài xác định hướng khi đi rừng mà không cần đến la bàn, một thằng có tố chất trinh sát từ trong huyết quản.
Đã 34 năm, nhưng cái chết của thằng Đực vẫn ám ảnh gã cho đến tận bây giờ...
Tháng sáu năm 1988, mùa mưa tại đất Campuchia.
Lúc đó sư đoàn 250, 1 sư đoàn chủ lực của Polpot, từ thị xã Sisophon, tỉnh lị của Banteay Meanchay cách biên giới Thailan 30km mở chiến dịch phản công theo hướng Battambang về Pailin để hội quân với tàn quân của Ta Mok. Bí thư thứ 2 - Tổng tham mưu trưởng quân Khmer đỏ hòng tái chiếm lại Pusat làm bàn đạp tiến về Koh Kong, tìm đường vươn ra biển để nhận viện trợ của Trung Quốc bằng đường hàng hải.
Đây là 1 sư đoàn thiện chiến nhất, tinh nhuệ nhất và cũng tàn ác nhất của Khmer đỏ.
Sư đoàn này đã gây ra rất nhiều tội ác, nợ máu với nhân dân Việt Nam ở vùng biên trước khi Việt Nam đưa quân tình nguyện sang giúp Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Polpot.
Chỉ huy và lính của sư đoàn này, phần đông được chính quân đội nhân dân Việt Nam huấn luyện trước năm 1975.
Thậm chí có 1 số còn được đào tạo bởi “khọm” (bộ đội đặc biệt tinh nhuệ - đặc công Việt Nam) và cũng đã từng có thời gian dài sát cánh với quân đội Việt Nam chống lại quân đội của Lon Nol dọc vùng biên giới 2 nước Việt - Cam. Sau này được chuyên gia Trung Quốc huấn luyện thêm...
Vì vậy các cách đánh bọc hậu, vu hồi, công kiên, diệt viện, bao vây, hay đánh đồng bằng, rừng núi, thành thị hoặc du kích cũng như các chiến thuật phòng ngự, phản công, truy kích…Đều thông thạo và chúng cũng chẳng xa lạ gì với các cách đánh của quân tình nguyện Việt Nam.
Sau các chiến dịch bình định của quân tình nguyện Việt Nam, thì đây cũng là sư đoàn tổn thất ít nhất, hầu như còn nguyên vẹn với toàn bộ quân số và hỏa lực.
Để bao vây, tiêu diệt sư đoàn 250 của Khmer đỏ, không cho chúng hội quân tại Pailin.
Quân đoàn 4 quyết định tung sư đoàn 7 và 1 phần của sư đoàn 9 chặn đánh địch ngay tại cửa ngõ ra vào của tỉnh Banteay Meanchay.
Nhận lệnh trên đưa xuống, toàn bộ đại đội trinh sát luồn sâu F7 chia thành từng nhóm nhỏ cắt rừng ngày đêm hướng về Banteay Meanchay và thị xã Sisophon để “thám”.
Tổ tam tam của gã đi lệch trục đường tỉnh lộ 21 khoảng 35 độ so với đường sắt từ Battambang đi Banteay Meanchay.
Đã 3 ngày tổ của gã lăn lộn trong những cánh rừng già, trời lúc mưa khi tạnh, quần áo hết ướt lại khô để vẽ bản đồ chi tiết theo ô vuông được phân công.
Lúc 7h30 sáng ngày 14 tháng 6 năm 1988 thì tổ của gã đã đến suối Mưr, điểm cuối mà tổ gã đảm trách.
Trời lúc đó mưa rất to, mưa trắng trời, nước suối đục ngầu tràn lên mấp mé 2 bên bờ. Đang đi, chợt thằng Phú “nhái” đi đầu giơ tay lên làm hiệu, cả tổ ngồi thụp xuống.
Quan sát thấy cách đó độ hơn 300m các bụi cây lay động mạnh và chim bay lên…có địch...
Cả tổ nhanh chóng tụt xuống lòng suối, nước ngập ngang cổ, lạnh và chảy khá xiết.
Toàn tổ núp vào những lùm rễ cây mọc sát ở bờ ta-luy dương của con suối. Phía bước chân từ xa đi tới, rồi đi ngang qua chỗ tổ gã đang núp, vọng xuống là tiếng Miên và mùi thuốc lá Samit ngào ngạt.
Nghe tiếng chân thì áng chừng tốp lính Pot có độ hai chục tên. Tổ của gã vẫn núp dưới suối, chờ một lúc lâu, cho đến khi yên hẳn tiếng bước chân mới ló đầu ra quan sát.
Xung quanh lặng như tờ, chỉ có tiếng gió rít ù ù và mưa rơi mỗi lúc một nặng hạt...
Thằng Phú “nhái” và gã dò dẫm đi trước để tìm chỗ bờ suối thấp leo lên, thằng Long “Polpot” và thằng Đực ở cách sau độ 50m sẵn sàng nổ súng yểm trợ khi cần thiết.
Gã và thằng Phú leo lên khỏi suối, vẫy tay làm hiệu để 2 thằng sau tiếp tục trèo lên. Gã và thằng Phú “nhái” tách nhau sang 2 bên cánh phải và trái, cách nhau độ 20-25m để cảnh giới cho 2 thằng lên sau.
Thằng Long “Polpot” lên được liền tiến về phía trước để cảnh giới, thằng Đực là thằng cuối cùng lên khỏi suối.
Thằng Đực tiến về phía thằng Long, khi nó vòng qua 1 thân cây mục bị đổ ngang đường, đột nhiên thấy nó hụt chân xuống…rồi 1 tiếng “oành”. Ba thằng nhao về phía thằng Đực.
Nó hụt chân xuống 1 vũng nước và dẫm phải quả mìn KP2 (mìn cóc, mìn nhảy, K69) của Tầu, sức nổ của quả mìn hất ngược thằng Đực lại phía sau.
Thông thường mìn cóc sẽ nhẩy đến ngang đùi mới phát nố và cắt cụt chi dưới của người lính, nhưng do thằng Đực hụt chân xuống, trái mìn nhẩy lên, vì vậy toàn bộ từ phần bụng thằng Đực trở xuống nát bét.
Nó nằm ngửa mặt lên trời, ruột gan nó lòng thòng ra ngoài. Mìn KP2 là loại mìn dã man nhất của Trung Quốc và là cơn ác mộng với các sắc lính khác nói chung và lính trinh sát bộ binh, trinh sát pháo binh, đặc công, lính trinh sát luồn sâu nói riêng.
Loại mìn này có vỏ ngoài là thép pha gang, nặng khoảng hơn 1kg, sử dụng thuốc nổ TNT, bán kính sát thương bằng mảnh văng khoảng 15m. Khi bị kích nổ, một lượng thuốc nổ sẽ phóng quả mìn lên 90cm đến 1m rồi mới phát nổ.
Mìn đánh vào ngang thắt lưng nên rất nguy hiểm, loại mìn này không gây chết ngay lập tức, mà để nạn nhân chết từ từ do mất máu và hết sức đau đớn, tạo gánh nặng cho những đồng đội còn sống, từ đó gây ảnh hưởng đến khả năng cơ động tác chiến.
Việc cấp cứu cho nạn nhân cũng trở nên vô nghĩa, vô cùng khó khăn và vô phương cứu chữa. Có trường hợp đồng đội khi cấp cứu chẳng còn biết bắt đầu băng cho thương binh từ đâu vì phần bụng và bộ hạ đã "tan hoang" rồi.
Mắt thằng Đực lạc đi vì đau, nó cố thều thào: “…bắn tao…bắn tao đi…”.
Kinh nghiệm chiến trường cho gã và 2 thằng bạn chiến đấu biết rằng, thằng nào bị thương nặng mà vẫn tỉnh táo thì hầu như khó “qua” được. Ba thằng nhìn nhau, thằng Long “Polpot”: “Cố lên, chúng tao sẽ đưa mày về, mày phải sống”.
Nó nói vậy để động viên thằng Đực, dù trong lòng thằng nào cũng biết là KHÔNG THỂ và KHÔNG CÁCH NÀO có thể cứu được thằng Đực, nhưng làm cách nào thì cả 3 thằng đều không biết.
Gã quỳ xuống bùn để cởi bao “set” đạn khỏi người bạn, thằng Đực nắm chặt tay gã, gã cầm bàn tay bạn mà thấy đau, khi thấy bạn phải chịu đau đớn và sẽ chết trước mắt mà không làm cách nào cứu được, đau, đau lắm.
Thằng Đực rướn cong người lên nhìn gã, máu mồm, máu mũi nó ộc ra “bắn đi…chúng mày…bắn tao đi…”, nói xong nó lả đi, mắt dại lại. Thằng Phú “nhái” đề nghị:
“Bây giờ rút thăm, thằng nào que ngắn thì nổ súng”..
Gã và thằng Long “Polpot” nhìn nhau lưỡng lự mấy giây rồi gật đầu. Gã rút đúng que ngắn, số phận đã chọn gã.
Gã phải tự tay bắn bạn mình. Bình thường trêu đùa nhau vẫn hay nói:
“Láo là tao bắn chết bầm giờ…”
Vậy mà giờ đây phải thật sự nổ súng bắn bạn mình, người anh em đã từng vào sinh ra tử.
Người đã ăn cùng mâm, ngủ cùng sạp, nhường nhau từng miếng cơm, miếng cháo lúc đau ốm, từng ngụm nước khi đi “thám”, đọc chung nhau từng bức thư nhà, kể nhau nghe về những ước mơ sau khi xuất ngũ thì bình thường nghĩ cũng không dám, không làm nổi... Cho dù đó là phát súng giải thoát cho bạn, cho đồng đội.
Gã kê nòng súng vào bên trái ngực thằng Đực, nước mắt gã ứa ra “tha lỗi cho tao…tha lỗi cho tao Đực ơi…”.
Thằng Đực mở mắt ra nhìn gã, miệng nó mấp máy và nở nụ cười héo hắt..
Nó cố hết sức tàn lấy 2 bàn tay ấn nòng súng vào đúng phía trên bầu ngực bên trái, nơi trái tim tuổi 23 của nó đang đập những nhịp cuối cùng…
Gã nhắm mắt lại, cố không nhìn vào mặt thằng bạn chiến đấu thân thiết và…
Lúc đó đồng hồ chỉ 9 giờ 42 phút, ngày 14 tháng 6 năm 1988. Gã buông súng lảo đảo rồi ngã úp mặt xuống đống bùn nhão.
Gã nôn thốc nôn tháo, cảm giác như nôn ra cả tim gan phèo phổi. Cổ họng gã khô và đắng nghét.
Nỗi đau như hóa đá, gã muốn khóc mà không thể khóc được, trong lòng cảm thấy tan vỡ, tất cả trở nên trống rỗng...
Khi gã nhấc mặt khỏi đám bùn thì thấy thằng Phú “nhái” và Long “Polpot” đang dùng dao lê moi đất ở dưới ba gốc cây to có lá như lá xoài, cách đó 4m có 1 cây thông cô đơn (mọc đơn lẻ).
Gã lết về chỗ thằng Đực, ôm xác bạn lên như 1 kẻ mất hồn. Gã cứ ôm bạn như vậy, không biết bao lâu, đến khi thằng Phú và thằng Long kéo tay gã: “Thôi mày, để bọn tao chôn nó” gã mới sực tỉnh.
Gã vuốt mắt cho thằng Đực, thấy ngực áo bên phải phồng lên, gã mở khuy và rút ra nửa phong lương khô ăn dở, phía ngoài lớp giấy nến dính đầy máu của thằng Đực.
Thương quá, thằng bạn gã ra đi trong đau đớn khi suất ăn lính chiến còn chưa kịp ăn hết…
Ba hôm sau bộ phận chính sách xuống nhà C bộ nhận bàn giao đồ của các liệt sĩ, trong đó có cả chị Thơm ở tiểu đoàn quân y, người Lạng Giang - Hà Bắc.
Từ hôm về đến sư bộ, lúc nào gã cũng thấy bồng bềnh như người mất hồn. Cứ nhìn vào cái sạp, nơi gã và thằng Đực thường ôm nhau ngủ chung cho đỡ lạnh trong những đêm trở gió mà thấy thương và nhớ bạn. Nhớ và thương bạn xé lòng, muốn khóc mà không thể khóc được.
Gã chẳng muốn ăn gì, lúc nào cũng rúc ra 1 góc ngồi đốt thuốc. Thằng Phú “nhái” thấy gã như vậy liền đi các trung đội và các bộ phận khác xin thêm thuốc lá cho gã.
Thằng Tú “mọt” anh nuôi kiếm đâu con gà về nấu cháo, giục gã ăn cho có sức, mấy thằng khác cũng xúm vào động viên, nhưng thật lòng gã không thấy đói, mồm miệng luôn đắng ngắt và lúc nào gã cũng nhìn thấy ánh mắt và nụ cười cuối cùng của thằng Đực.
Thấy đoàn xuống, gã cùng mấy thằng cũng đi theo về nhà C bộ. Dãy ba lô 18 chiếc được xếp thành 2 hàng thẳng, cạnh nhau.
Trong lúc cán bộ chính sách làm thủ tục bàn giao, chị Thơm đi đến sờ nắn, vuốt ve từng chiếc ba lô như vuốt ve những thằng em còn sống. Đến chiếc ba lô cuối cùng, cũng là ba lô của thằng Đực, chị nấc lên, nghẹn ngào: “Các em ơi…các em ơi…”,...
Chị vươn rộng hai tay vun đống ba lô lại và ôm chặt vào lòng. Gã đang đứng ở cửa, nghe tiếng chị gọi các đồng đội mà gã không thể cầm lòng được nữa, gã òa lên khóc, đó là lần đầu tiên kể từ ngày thằng Đực “đi” gã mới khóc được.
Mấy thằng đang đứng trong nhà C bộ cũng bật khóc theo…Đại đội trinh sát luồn sâu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong việc trinh sát, giúp cho việc lên phương án tác chiến tiêu diệt toàn bộ sư đoàn chủ lực cuối cùng của Khmer đỏ, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của tàn quân Polpot, nhưng cái giá phải trả quá đắt với 18 hy sinh, 9 bị thương...
Trung đội 3 của gã gần như bị xóa sổ hoàn toàn. Đây có lẽ là tổn thất nhân mạng lớn nhất của C trinh sát luồn sâu F7 chỉ trong 1 trận đánh, kể từ khi tham chiến tại chiến trường Campuchia.
Điều mà mỗi lần anh em cựu chiến binh trinh sát luồn sâu F7 giai đoạn 1983-1989 gặp nhau đều cảm thấy hết sức đau đớn, mỗi khi nhớ về những đồng đội, những hồi ức buồn, đau thương của ngày tháng đó
Ngày ra quân, ngoài tư trang cá nhân thì trong túi quần gã có thêm chiếc bật lửa xăng do thằng Đực làm từ đạn súng trường K44 và đạn AK. Thằng Hà “choắt” bên cơ yếu thấy thằng Đực khéo tay nên mượn về làm mẫu để mày mò bắt chước, sau khi đoàn chính sách đi rồi nó mới biết để trả.
Gã nhận lại kỷ vật của thằng bạn với mong muốn đem về Sài Gòn giao lại cho gia đình nó.
Khi về đến Saigon để chờ nhận chế độ, chính sách ra quân và giấy đi đường, gã tranh thủ tìm đường đến thăm gia đình thằng Đực. Thấy gã đi, những thằng khác cũng xin đi theo.
Chúng nó 1 phần muốn đến thắp hương cho bạn, phần cũng muốn biết hòn ngọc Viễn Đông khi lần đầu trong đời được đặt chân đến.
Nhà thằng Đực ở trong 1 con hẻm nhỏ nằm bên cạnh kênh Nhiêu Lộc, đứng quay lưng lại Thảo Cầm Viên - cầu Thị Nghè thì nhà nó bên tay phải (nay là đường Hoàng Sa), trước khi rẽ vào hẻm nhà nó độ vài trăm mét có mấy quán thịt Trừu nướng (thịt cừu).
Gọi là nhà cho sang, thực tế cả nhà nó 7 người chui rúc trong 1 miếng đất hẹp, nằm giữa 2 bức tường hông của 2 nhà bên cạnh. Cửa ra vào là tấm tôn được cắt ra từ 1 chiếc thùng phuy đựng gì đó, mái nhà là những tấm tôn, vải dầu, nylon… chắp vá, thủng lỗ chỗ và nóng kinh khủng.
Ban thờ thằng Đực đơn sơ bằng tấm gỗ tạp gắn nhờ trên bức tường hông của nhà hàng xóm, trên đó chẳng có gì ngoài bát hương, tấm bằng Tổ Quốc ghi công và tờ giấy báo tử gói trong nylon bị ố vàng đôi chỗ vì ngấm nước mưa.
Chẳng có tấm hình nào của nó trên ban thờ cả. Cô bác chòm xóm thấy bạn chiến đấu của thằng Đực đến thắp hương nên qua thăm hỏi, nói chuyện.
Má nó hỏi về trường hợp hy sinh của nó, thằng Long kể lại chuyện nó bị dính mìn và dấu tiệt đoạn sau đi...
Nhà thằng Đực nghèo lắm, ba nó đạp xích lô, má nó thì đi bán rau dạo. Chị lớn nó đi làm ô sin cho nhà người ta, ăn ở luôn đó, thỉnh thoảng mới về thăm nhà.
Dưới nó còn có 5 đứa em lít nha lít nhít, sàn sàn tuổi nhau. Gia đình nó là dân miền Tây, lưu lạc lên Saigon và được người quen cưu mang cho ở nhờ trên miếng đất “nhẩy dù”.
Chính vì gia đình nghèo vậy nên nó mới xung phong nhập ngũ để bớt đi 1 miệng ăn trong gia đình, ngoài ra còn có cơ hội xin việc sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
Trong những ngày đó, má dẫn 23 thằng tụi gã đi thăm thú 1 số nơi tại đất Saigon, chiêu đãi bọn gã món hủ tiếu.
Món đó do 1 bác người Quảng Nam bán gần chỗ nhà thằng Đực, tất cả bọn gã ăn thấy thật ngon, đó là lần đầu tiên trong đời, gã và những thằng bạn được ăn hủ tiếu.
Một buổi trưa, trước ngày lên tầu ra Bắc 2 ngày, má thằng Đực mua thịt trừu về làm bữa cơm chia tay.
Trong lúc thằng Trượng “khỉ” nhà ở Chèm đi mua thuốc lá, tình cờ nghe được mấy dì chòm xóm buôn chuyện về việc má thằng Đực bán 2 chỉ vàng để thết đãi bọn gã.
Nghe thằng Trượng kể lại, cả bọn sững sờ vì sự vô tâm và thấy có lỗi với ba má quá.
Một chỉ vàng thời điểm tháng 9 năm 1989 vào quãng trăm ngàn hay hơn chi đó, với người giàu thì 2 chỉ vàng không là gì, nhưng với ba má nghèo vậy, thì đó là cả 1 gia tài, thậm chí đó có thể là tiền dưỡng già hoặc lo cho mấy sắp nhỏ em thằng Đực có manh áo mới hoặc cuốn tập đi học.
Ân hận quá…
Lúc ăn cơm, ba má liên tục tiếp thức ăn cho mấy thằng gã.
Má nghẹn ngào: “Ăn đi các con, thằng Đực hy sinh, nhưng mấy đứa bay giờ cũng là con của ba má rồi. Ăn mạnh lên, ăn thay cả cho thằng Đực nữa. Tụi bây không ăn là ba má buồn lắm nghen”.
Ba má ăn ít, cả mấy đứa em thằng Đực cũng vậy, hình như cả nhà có ý nhường cho mấy thằng gã.
Miếng thịt trừu ngon vậy mà nuốt không trôi khỏi cổ họng. Thằng Phú “nhái” giục mãi mấy đứa em thằng Đực và ba má mới ăn chút gọi là.
Đến ngày lên đường, ba má còn qua nhà khách quân đoàn đưa cho mấy thằng gã 20 nghìn và 1 túi xoài cát to tướng với lời dặn:
“Các con cầm ăn đường, ba má nghèo chỉ có bây nhiêu, chúng bây cầm cho ba má vui lòng. Về mạnh giỏi. Khi nào có điều kiện vô đây thì cứ coi nhà ba má như nhà của các con vầy. Nhìn thấy các con, là ba má vui vì như thấy thằng Đực nó còn sống, trong lòng ba má cũng thấy được an ủi nhiều. Ba má coi các con và thằng Đực là 1 thôi, đừng ngại ngần, khách sáo nha…”.
Tấm lòng người miền Nam, cụ thể là miền Tây như vậy đó. Rất ân cần và chân tình. Chúng con nợ ba má nhiều quá… Vì mưu sinh cuộc sống, phần đi lại lúc đó cũng khó khăn, phương tiện liên lạc không có. Mãi đến năm 1999 gã mới có dịp vào Saigon và tìm lại căn nhà xưa.
Nơi đó giờ đã giải tỏa, tất cả những gia đình không có hộ khẩu thành phố buộc phải di dời để giải tỏa. Gã đi hỏi thăm mấy ngày liền mà không có 1 chút tin nào về ba má.
Tên ba má là gì gã cũng chẳng biết, chỉ biết chòm xóm gọi ba má là dì Ba, thím Ba, dượng Bảy, chú Bảy “xích lô”.
Sau này các bạn chiến đấu của gã vào Sài gòn cũng đi tìm, nhưng vẫn chẳng có chút thông tin nào về ba má và gia đình.
Lần nào vào Sài Gòn gã cũng đi tìm. Gã nhờ bạn bè anh em, kể cả bên đài truyền hình HTV, ủy ban, các học trò…
Tất cả những nơi gã hy vọng có thể giúp, gã đều gõ cửa. Tiếc rằng đến giờ gã vẫn chưa tìm được ba má.
Ngày nào chưa tìm được ba má thì trong lòng gã vẫn còn day dứt, vẫn còn trăn trở…Gã muốn được quỳ xuống chân ba má và nói: “Con xin lỗi ba má…”
Thằng Đực được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ quân tình nguyện ở nghĩa trang liệt sĩ đồi 82, huyện Tân Biên, Tây Ninh vào năm 2001, nghĩa trang nằm cách cửa khẩu Xa Mát độ hơn 10km.
Trên bia mộ nó chỉ có họ tên và đơn vị, còn dòng quê quán, địa chỉ để trống.
Gã cũng hay vào thắp hương cho nó mỗi khi có điều kiện, đồ lễ thì tùy theo hoàn cảnh. Do đi bằng xe đò nên chẳng mang được sẵn đồ từ Saigon, nên tiện gì thì mua đó.
Có năm thì gã sắm được con gà và chai rượu để thắp hương cho bạn, có năm chẳng kịp mua sắm gì, mua được 2 ổ bánh mỳ kẹp thịt cùng chai nước suối, bao thuốc lá ở quán ven đường, cúng bạn chỉ đơn sơ vậy thôi.
Từ ngày xuất ngũ, năm nào cũng vậy. Cứ đến ngày 14 tháng sáu, gã đều làm lễ giỗ cho thằng bạn. Đồ lễ cũng chẳng cao sang gì cả, 1 đĩa thịt heo quay, món mà thằng Đực, khi còn sống kể rằng rất thích. Bao thuốc, chai rượu, thẻ hương và đặc biệt không thể thiếu là phong lương khô.
Sau này, khi thằng Long “Polpot” và Phú “nhái” chết, gã tưởng niệm cả 3 thằng chung ngày luôn, để 3 thằng bạn chiến đấu trong tổ tam tam ngày nào luôn được bên nhau như khi còn trong khói lửa chiến trường.
Đồ lễ lúc đó thêm món cháo lươn, món “tủ” của thằng Long “Polpot”, món cá rô rán của thằng Phú “nhái”.
Vào ngày đó, gã thường mang theo đồ lễ, tìm đến 1 nơi vắng vẻ để cúng 3 thằng bạn.
Ngày đó gã không muốn liên lạc với ai, thậm chí tắt điện thoại để 1 mình suy tư và nhớ về những kỷ niệm vui buồn với các chiến hữu của mình, để được thầm thì tâm sự với các bạn như ngày nào.
Những lúc đó gã thấy trong lòng cô đơn và trống trải vô cùng.
Chiến tranh đã lùi xa 34 năm, anh em đồng đội người còn kẻ mất, người làm doanh nghiệp, kẻ vinh hoa phú quý, có người lại về với đồng ruộng là anh dân cày, nhưng gã chưa bao giờ quên được những năm tháng hào hùng mà đầy bi thương, thấm đẫm máu và nước mắt của 1 thời tuổi trẻ trên đất nước Chùa Tháp xa lạ.
Lại 1 mùa hè nữa đã đến, lại 1 tháng 6 nữa đã về, để cho gã sống lại với những hồi ức chiến trường năm xưa…
P/S: “Em” từng có lần hỏi gã: “Em thấy anh cứ hay nghĩ nhiều về ngày 27 tháng 7 và 22 tháng 12…”,
“Anh nhớ về bạn bè chiến đấu năm xưa em à”.
Gã trả lời rất thật và hết sức nghiêm túc, nhưng chắc em không hiểu được điều đó, chỉ có ai qua sinh tử nơi hòn tên mũi đạn sa trường mới có được những cảm xúc đó.
Có điều rất lạ, khó giải thích được, đó là những lần gã gặp chuyện nguy hiểm thì lần nào cũng cảm thấy như có thằng Đực đứng bên cạnh an ủi gã vậy.
Lần gã bị tai nạn vỡ xương bánh chè ở thị xã Quảng Yên năm 2004, trong lúc mê man gã cảm thấy như thằng Đực đứng bên cạnh vẫn nụ cười đó và cầm tay gã: “Mày không sao đâu, sẽ qua thôi…”.
Đến đầu năm 2021, lúc gã bị sốc thuốc do rối loạn chuyển hóa toan hô hấp khi tham gia tình nguyện viên tiêm thử nghiệm Vaccine Covid-19 Nanocovax cũng thấy thằng Đực về bên cạnh để an ủi.
Với gã thì thằng Đực, thằng Long “Polpot”, thằng Phú “nhái” vẫn hiện diện đâu đó quanh cuộc sống thường ngày của gã và chúng nó vẫn mãi sống trong tim gã, trong tâm tưởng của gã, đồng hành trong cuộc đời cùng gã với những vết thương chưa lành sẹo theo thời gian…
Nghĩa trang liệt sĩ quân tình nguyện đồi 82, Tây Ninh tháng 06/2022
BÀI HỌC KHÔNG CÓ TRONG KHOA MỤC HUẤN LUYỆN VÀ NHỮNG ĐIỀU KHÔNG TƯỞNG
Đã gần 5h sáng, trời cũng tang tảng, sương mù dày đặc, tầm nhìn bị thu hẹp lại, chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy bóng người ở khoảng cách gần.
Đó là 1 đêm se lạnh của tháng 3 năm 1986 tại Surin, một tỉnh ở Đông Bắc của Thái Lan sát với tỉnh Oddar Meanchey của Campuchia, nơi đóng quân của tiểu đoàn đặc công 23 của Polpot.
Tiểu đoàn này do 1 gã tên Nuol, kẻ mang 2 dòng máu Việt Miên làm tiểu đoàn trưởng.
Tên Nuol này trước năm 1975 thuộc lực lượng đặc công biệt động của quân đội nhân dân Việt Nam, sau năm 1975 thì hắn về lại Campuchia và đi theo Khmer đỏ.
Nghe nói, trước kia hắn thuộc lữ đoàn 316 đặc công biệt động dưới quyền anh hùng lực lượng vũ trang Tư Cang (Nguyễn Văn Tàu), cũng chỉ nghe đồn vậy thôi, chứ lính tráng như gã thì có biết chi mấy chuyện xa xưa đó.
Tiểu đoàn này là 1 trong những tiểu đoàn khó nhằn của Khmer đỏ. Tiểu đoàn này chuyên trà trộn vào dân chúng rồi thỉnh thoảng tổ chức phục kích bắn trộm lính Việt Nam đi đơn lẻ, hoặc chặn đường bắt cóc những người dân Campuchia có thái độ thân thiện, hợp tác với bộ đội Việt Nam để hành quyết hoặc đặt mìn chặn đánh các xe ô tô của quân đội Việt Nam.
Cái kiểu đánh quấy rối đó cực khó chịu. Cụ thiếu tướng Lê Nam Phong, tư lệnh phó, tham mưu trưởng quân đoàn 4 xuống sư 7 (trước khi về Bộ tham mưu quân đoàn cụ là nguyên sư trưởng sư đoàn 7 bộ binh thời điểm trước năm 1975).
Và sau khi họp với đảng ủy - tham mưu - tác chiến sư đoàn, đã quyết định tung tổ 1 của thằng Trượng “khỉ” và tổ của gã vào đất Thái Lan để truy tìm vị trí đóng quân của tiểu đoàn 23.
Lệnh trên yêu cầu, sau khi đã xác định được vị trí thì phải tìm hiểu kỹ về binh - hỏa lực của tiểu đoàn 23 để cấp trên tìm cách câu nhử tiểu đoàn 23 về đất Campuchia tiêu diệt.
Nhưng nghiêm lệnh, tuyệt đối không được nổ súng hay để lộ tung tích trên đất Thái Lan vì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chính trị trên trường thế giới.
Ngoài ra, hóa trang thế nào thì tùy, nhưng không được mặc quần áo lính Pot, vì có thể bị ăn đạn nhầm. Cũng không được mặc quân phục của bộ đội Việt Nam. Tất cả các loại giấy tờ có tiếng Việt phải bỏ lại hết, không mang theo bất cứ vật dụng gì có liên quan đến Việt Nam…
Sau khi điều nghiên kỹ lưỡng quân số, địa hình, trang bị vũ khí của tiểu đoàn 23 Polpot, hai tổ cùng gặp nhau để trở lại đất Campuchia.
Lúc này cả 2 tổ đã hoàn thành nhiệm vụ và hội quân để rút về đất Campuchia.
Hai tổ đang lầm lũi đi theo hàng dọc, chợt thằng Đạo, dân Nam Định, đang đi đầu giơ tay làm hiệu và nằm lăn xuống đất. Tất cả cũng theo nó, nằm rạp xuống đất và nhìn về hướng tay thằng Đạo chỉ...
Cách đó không xa lắm có 1 con ngỗng đang lững thững đi kiếm ăn sớm hay lang thang vì vấn đề gì đó thì gã không biết và hướng nó đi đúng luôn về vị trí 2 tổ đang nấp.
Cách đó bên trái độ 50-60m có 1 chòi canh. Phía dưới, cách chòi canh 1 đoạn không xa lắm có mấy căn lều bạt, trên nóc lều có cắm lá cờ có các sọc đỏ, trắng, xanh da trời, gần chỗ con ngỗng thấy thấp thoáng nòng đại liên M60 trong làn sương mờ giăng giăng…thôi xong…lọt vào trại bảo vệ cơ động của biên phòng Thái rồi…
Nhưng không thể trách thằng Đạo được, vì trời mù mịt sương, đã vậy còn bị cây rừng cổ thụ che khuất.
Bảy thằng nhìn nhau mà chưa biết cách nào, vì gã cùng đồng đội đã được nghe kể về tập tính bảo vệ lãnh thổ của loài ngỗng và nó cũng rất thính, thính hơn chó Becgie nhiều.
Về mùi thì toàn đội không sợ, vì đi trong sương đêm nên hơi người bay hết, chỉ sợ tiếng động. Một tiếng động nhỏ cũng đủ để con ngỗng kêu quàng quạc ngay và chắc chắn lính biên phòng Thái sẽ lập tức nổ súng về phía con ngỗng.
Lúc đó chỉ có đường đánh trả hoặc nằm im chịu chết. Lúc đó chẳng ai nghĩ đến chuyện thể diện quốc gia, đất nước, nhưng sợ chạm súng thì cả 7 thằng sẽ “đi” luôn.
Vì lực lượng cơ động biên phòng của Thái phải 1 trung đội với 30 người là ít, đã vậy họ còn có cả đại liên M60, lại thuộc thung thổ hơn (dù sao cũng là đất nước của họ). Thằng Trượng “khỉ” đưa mắt nhìn gã rồi lấy tay vỗ vào bao dao lê 5 tác dụng ở thắt lưng.
Gã hiểu, ý thằng Trượng muốn gã phi dao để tiêu diệt con ngỗng. Gã lắc đầu để tỏ dấu hiệu không thể làm được. Mấy thằng còn lại đưa mắt nhìn gã như ngầm thúc gã cứ làm thôi, nếu để con ngỗng tiến đến gần hơn nữa thì chắc chắn nó cũng sẽ phát hiện ra người lạ và lúc đó kiểu gì nó cũng kêu.
Gã đưa mắt nhìn 1 lượt các bạn đồng đội, thằng Đực khẽ gật đầu như tỏ ý đồng tình với phương án của thằng Trượng. Từ ngày bước chân vào trường hạ sĩ quan trinh sát luồn sâu cho đến khi sang chiến trường Campuchia, gã đã tham chiến và đi “thám” đến gần trăm trận lớn nhỏ, nhưng chưa bao giờ, kể cả trong giấc mơ gã cũng không nghĩ sẽ có ngày phải phi dao giết con ngỗng.
Các khoa mục trong trường khi được huấn luyện chỉ có dạy cách làm bay hơi người để tránh chó phát hiện, cận chiến tay không, cận chiến với dao găm, leo dây tử thần, vượt tường, cắt rào, sử dụng các chất nổ như mìn và lựu đạn, sử dụng các loại vũ khí bộ binh, sử dụng các loại điện đài thông dụng như máy 2W hay PRC-25, cách sử dụng la bàn, cách tìm đường đi trong rừng khi không có la bàn, cách tránh rắn, vắt, cách thức tự sinh tồn…
Ngày còn huấn luyện ở trường, gã là thằng đỗ thủ khoa về khoa mục phi dao và cận chiến với dao găm, nhưng tuyệt nhiên chẳng có bài huấn luyện nào về cách đối phó với ngỗng cả.
Ở trong tình thế này, thật sự không có phương án nào hay hơn bằng cách phải tiêu diệt con ngỗng trước khi nó phát hiện ra toàn tổ, nhưng phi dao để giết con ngỗng thì quả thật là điều không tưởng, là điên rồ, tự sát.
Nhưng không tiêu diệt cũng không được, đành liều thôi. Gã đưa tay xuống thắt lưng rút cây dao lê 5 tác dụng của Hung, tay gã ra mồ hôi rin rít, hơi thở dồn dập, nhịp tim đập nhanh hơn. Gã cũng cảm thấy mồ hôi rịn ra ở lưng trong tiết trời se lạnh lúc sáng sớm. Gã nắm lấy lưỡi cây dao lê, chất thép lạnh buốt của cây dao lê làm cho gã thấy bình tĩnh hơn chút. Gã khẽ nhắm mắt và điều hòa hơi thở.
Xung quanh vẫn yên ắng, không 1 tiếng động, ngoài tiếng bước chân lạch bạch chậm chạp của con ngỗng như bước chân ghê rợn của tử thần.
Yên lặng đến mức gã cảm thấy như nghe được nhịp tim của chính mình vậy. Gã mở mắt và đảo nhìn các đồng đội, gã thấy thằng nào cũng lộ rõ vẻ căng thẳng trên khuôn mặt.
Thấy gã mở mắt, tất cả mấy thằng đồng loạt hạ chốt an toàn của các khẩu AKMS...
Với súng của các sắc lính khác thì khi bật chốt an toàn luôn phát ra tiếng “cách”, cho dù nhẹ đến mấy vẫn vang ra tiếng động.
Nhưng riêng súng của lính trinh sát luồn sâu sư đoàn 7 thì không bao giờ phát ra tiếng, dù tiếng động nhỏ nhất.
Đó là do anh Khánh ở ban thông tin sư bộ, 1 người lính truyền tin của lực lượng Biệt động quân - Việt Nam cộng hòa, được động viên nhập ngũ sang chiến trường Campuchia chỉ cho cách mài chốt an toàn của binh chủng Biệt động quân và Liên đoàn Biệt cách dù 81 của quân lực Việt Nam cộng hòa.
Đầu tiên dùng dũa nhám, dũa khe an toàn trên thân súng thấp xuống, sau đó dũa tiếp chốt an toàn cho mỏng đi, do vậy mà khi bật chốt an toàn không bao giờ có tiếng động phát ra, dù nhỏ nhất…
Con ngỗng chỉ còn cách chỗ 2 tổ đang nấp độ 6-8m. Gã ước lượng hướng gió, tốc độ gió và cách gật gù đầu của con ngỗng để tính toán góc ném.
Phải ném làm sao để đập được chuôi dao lê vào đầu nó mới là quan trọng, nếu ném dao cắm vào bất kể chỗ nào trên cơ thể nó cũng không thể gây sát thương chết ngay, ngược lại sẽ khiến nó kêu toáng lên, lúc đó sẽ nguy hiểm vô cùng.
Thần kinh gã căng như dây đàn, điều kiện tiên quyết là chỉ được ném 1 lần và bắt buộc phải trúng, nếu trượt sẽ không bao giờ có cơ hội cho lần thứ 2…
Con ngỗng cúi đầu xuống đám cỏ mò gì đó, đợi khi nó vừa ngửng đầu lên, gã hít 1 hơi dài rồi vung mạnh tay…cây dao lê 5 tác dụng rời tay gã bay vút về phía con ngỗng…chuôi dao đập mạnh vào đầu con ngỗng và 1 tiếng bộp nhẹ như quả dừa khô rơi xuống cỏ.
Con ngỗng nằm quay ra đất như nằm xuống ngủ vậy…Ơn trời, cú phi dao đó của gã đã trúng đích và có hiệu quả.
Gã thở ra 1 hơi nhẹ và cảm thấy các cơ bắp như giãn hẳn ra…Tất cả nằm im không cử động đến vài phút, chỉ vài phút chờ đợi mà gã cảm thấy như cả tiếng đồng hồ đã trôi qua.
Đợi 1 hồi vẫn không thấy con ngỗng cử động hay dấu hiệu bất an nào từ phía lính biên phòng Thái Lan. Thằng Hải “trố” dân Gia Viễn ở tổ thằng Trượng “khỉ” nằm gần chỗ con ngỗng nhất, nó ngóc đầu lên quan sát rồi trườn như rắn đến chỗ con ngỗng, 2 tay cầm cổ con ngỗng vặn ngược 1 vòng cho chắc ăn, tiện tay nhặt con dao lê rồi bò trở lui nhanh như cơn lốc…
Khi về đến sư bộ với chiến lợi phẩm là 1 con ngỗng béo, cả doanh trại xôn xao về chuyện gã phi dao giết con ngỗng.
Thằng Đạo khoa chân, múa tay mô tả đoạn gã phi dao. Tất nhiên là nó có thêm mắm dặm muối vào câu chuyện cho sinh động, gã nghe thấy chỉ lắc đầu cười.
Thằng Thông bên tiểu đoàn quân y: “Nam ơi! Mày thử ném con gà đang chạy kia cho bọn tao xem đi”. Gã: “Mày đùa à, ném sao trúng được, chẳng may chó đớp phải ruồi thôi”.
Mấy thằng xung quanh cũng nhao nhao cho rằng gã khiêm tốn và thúc gã phi dao cho chúng nó xem…Đang loạn như cái chợ thì bố Hưng đại tá, tham mưu trưởng, sư đoàn phó cùng anh Kỷ tham mưu phó đi qua, bố Hưng nói:
“Thôi đừng ép nó nữa, trong chiến tranh người ta có thể làm được những chuyện xảy ra ngoài sức tưởng tượng mà bình thường không thể làm được. Thời chiến tranh chống máy bay Mỹ đánh bom cầu Hàm Rồng, có 1 chị dân quân ở Thanh Hóa đã vác hòm đạn pháo cao xạ nặng gấp đôi cân nặng cơ thể cơ mà (sau này gã mới được biết, người nữ dân quân năm đó là anh hùng lực lượng vũ trang Ngô Thị Tuyển).
Mà nói đâu xa, mấy đứa còn nhớ vụ thằng Nam bật tường trong vụ trường học ở Anlong Veng không? Đó…sau này có cho kẹo nó cũng chẳng bay qua được bức tường thấp hơn thế…”
Bố Hưng nhắc lại vụ gã bay vọt qua bờ tường cao hơn 3m trong vụ bắt sống thằng cố vấn của NƯỚC LẠ.
Chuyện đó cũng mới xảy ra cách đó mấy tháng. Đó là 1 ngày đầu tháng 6 năm 1985. Lần đó, tin tức quân báo của quân đoàn đưa xuống cho sư 7. Sau khi khai thác thằng tiểu đoàn trưởng của sư đoàn 616 Khmer đỏ (thằng bị thằng Long “Polpot” bắt sống đã được kể trong bài viết THẰNG LONG “POLPOT”).
Hiện nay ở khu vực Anlong Veng có 1 nhóm người nước ngoài đang làm cố vấn quân sự cho sư đoàn 616 Khmer đỏ.
Phòng quân báo của quân đoàn yêu cầu sư 7 cử 1 tốp đi trinh sát, nếu bắt được “lưỡi” để công bố cho thế giới biết về sự hậu thuẫn, can dự của NƯỚC LẠ vào cuộc chiến ở Campuchia là tốt nhất (Cái nước lạ đó nằm ở biên giới phía Bắc của Việt Nam và có tên là NƯỚC LẠ NHÂN DÂN CỘNG HÒA CUỐC).
Sư đoàn có 2 tổ thiện chiến nhất, thì lúc đó tổ thằng Trượng “khỉ” đang đi “thám” ở Samraon chưa về, mà tổ đó lại là tổ thông thuộc địa bàn Anlong Veng nhất.
Cân nhắc kỹ, tham mưu - tác chiến sư đoàn quyết định tung tổ gã vào chuyến “thám” này mà không đợi tổ thằng Trượng “khỉ” về nữa. Thay mặt tổ, trước khi lên đường, thằng Phú “nhái” hứa sẽ bắt được “lưỡi”, bằng mọi giá.
Bố Ngữ sư trưởng và bố Hưng sư phó yêu cầu, nếu có cơ hội bắt được “lưỡi” thì bắt, không bắt được thì thôi, cần bảo toàn bằng được lực lượng, không nên vì ham lập chiến công, bệnh thành tích mà trả giá đắt…
Sau 5 ngày đeo bám, tổ gã đã nắm được vị trí bọn chuyên gia - cố vấn nước ngoài hiện đang ở.
Đó là nơi trước khi Khmer đỏ cướp chính quyền là 1 ngôi trường với các bức tường bao quanh cao hơn 3m. Bảo vệ cho tốp chuyên gia - cố vấn nước lạ là khoảng 1 trung đội lính Khmer đỏ được trang bị khá mạnh, có cả 12,7 ly, B41.
Đường vào chỉ có duy nhất con đường độc đạo bị chắn bởi 1 công sự quây bằng bao cát có hỏa lực đại liên 12,7 ly trấn giữ, trên tầng 2 chếch bên trái cũng thấy 1 ổ đại liên nữa.
Qua 1 khoảng sân trường rộng, bên tay phải có 1 dãy nhà ngang 2 tầng, lúc nào cũng có 2 thằng lính Pot mặc bộ quần áo Tô châu của Tầu cộng có màu giống như quân phục K82 của lính Việt Nam, cổ quấn khăn Cà-ma (Krama) đứng gác.
Lúc 24h đêm hôm đó cả tổ công kênh nhau đu dây, vượt tường bên phía Tây Nam để “đột” vào trong trường học…Mất khá nhiều thời gian mà cả tổ vẫn không biết được bọn cố vấn ngủ ở phòng nào, thời gian cứ vùn vụt trôi. Đã gần 3h sáng, bọn lính Pot cũng đã đổi ca gác đến 2 lần mà tổ vẫn loay hoay....
Chẳng lẽ vào đến đây rồi lại quay về? Thằng Đực: “Mất bao nhiêu công sức mới vô được đây, giờ mà quay ra thì phí lắm. Theo tao cứ ở lại đợi đến tảng sáng. Nếu có cơ hội thì “chơi” luôn, còn nếu không có cơ hội thì rút ra cũng chưa muộn”.
Mấy thằng gã nghe cũng thấy hợp lý, thêm nữa với tuổi trẻ thích phiêu lưu, mạo hiểm, không biết sợ là gì, nên mấy thằng gật đầu cái rụp. Mấy thằng cứ im lặng nằm đợi trong sương và để mặc cho lũ muỗi đốt thích thì thôi…
Gã có cảm giác vừa hồi hộp xen lẫn háo hức khi mình thành kẻ đi săn, săn lũ quỷ NƯỚC LẠ đội lốt người…Tổ gã cứ nằm im vậy cho đến lúc 5h30, trời đã sáng hẳn…
Chợt thấy cánh cửa phòng đầu tiên bên trái được mở mạnh ra, 1 thằng cố vấn người nước lạ đầu húi cua mở cửa ra ngoài vươn vai, hít thở làm vài động tác khởi động nhẹ nhàng, nói vài câu “hảo sư cù, lăng lủng trẻo…” với thằng lính Pot đang gác, sau đó nó bắt đầu chạy xung quanh khoảng sân trước mặt.
Phía trong, qua cánh cửa sổ cũng vừa được mở thấy thấp thoáng bóng 1 thằng nữa trong phòng.
Hai thằng lính Pot thấy thằng cố vấn đã dậy và trời cũng đã sáng nên tụ về góc nhà đầu kia đứng hút thuốc. Thời cơ đã đến…thằng Phú làm hiệu cho gã ở lại cảnh giới, còn nó, thằng Long “Polpot” và thằng Đực vòng qua đám cỏ rậm và những lùm dứa (thơm) dại tiến dần về phía dãy nhà.
Từ xa, gã thấy thằng Phú “nhái” và Long “Polpot” áp sát rồi bất ngờ tặng cho mỗi thằng lính Pot 1 đường dao lê cứa ngang cổ họng, còn thằng Đực lao như cơn lốc vào căn phòng có bóng người vừa xong.
Sau khi hạ được 2 thằng bảo vệ, thằng Long cũng lao theo thằng Đực, thằng Phú nấp sau góc tường cảnh giới cho 2 thằng kia.
Gã đảo mắt quan sát xung quanh, chợt…thấy có 1 thằng lính Pot vận đồ đen, tay xách 1 cái xô đựng gì đó bên trong tiến lại phía thằng cố vấn người NƯỚC LẠ nói gì đó.
Hai thằng vừa trao đổi vừa tiến lại căn phòng mà bọn thằng Phú đang ở trong. Tình hình nguy cấp, không thể để lộ tung tích mấy thằng đó được, cần phải kéo sự chú ý và hỏa lực để đánh lạc hướng cho mấy thằng chúng nó, gã tính toán rất nhanh trong đầu…
Gã kê khẩu AKMS lên thân cây phượng bên cạnh, lấy đường ngắm cơ bản vào phần thân dưới của thằng cố vấn.
Khi nó và thằng lính Pot đến cách cửa độ 10m thì gã xiết cò…tằng…tằng…tằng.
Gã để súng ở nấc liên thanh và bắn điểm xạ nhanh 3 phát một, 3 phát một. Cả 3 viên đạn thẳng căng của gã đều quất trúng đích, viên cuối cùng làm toác hẳn 1 bên đầu thằng cố vấn, gã rê nòng súng bắn tiếp thằng lính Pot, nó đổ vật ra dẫy dẫy mấy cái rồi nằm im…
Cách để súng ở chế độ liên thanh nhưng điểm xạ 3 phát một là của thằng Long “Polpot” dạy lại cho mấy thằng trong tổ.
Cách bắn này nguy hiểm hơn, độ sát thương cao hơn kiểu bắn tắc cú 2 viên một. Vì bắn 2 viên một, thì viên đầu có thể trúng, nhưng viên sau khả năng trượt là rất lớn, vì nòng súng khi bị bắn sẽ ghếch lên 1 chút.
Cũng với cách bắn 2 viên một thì khả năng sát thương, gây tử vong thấp hơn so với kiểu bắn 3 viên một của thằng Long “Polpot”. Cách bắn là, viên đầu tiên ngắm dưới đầu ruồi 1 ly, để khi nòng súng bị giật nẩy lên thì bắn tiếp viên thứ 2 và khi nòng súng ghếch thêm lên thì bắn tiếp viên thứ 3, do vậy khả năng dính đạn cao hơn và sác xuất bắn chết luôn cũng cao hơn.
Cụ thể trong trường hợp này, gã lấy đường ngắm viên đầu tiên dưới xương chậu và viên đạn trúng bờ phía trên mông của tên cố vấn độ 10cm.
Khi nòng súng hơi giật lên, gã bắn tiếp viên thứ 2, viên này trúng giữa lưng. Viên thứ 3 ăn lệch sang phải 1 chút và bắn vỡ toác nửa đầu thằng cố vấn…
Nhưng muốn bắn chính xác được như vậy phải quen súng, súng với người phải là 1 thể thống nhất, như câu khẩu hiệu mà các đơn vị bộ đội hay viết trên thao trường “yêu súng như vợ, yêu đạn như con”.
(Các đơn vị lái xe Trường Sơn thời trước năm 1975 thì có câu “yêu xe như con, quý xăng như máu”. Công nhận, quân đội có nhiều Slogan cực hay và thú vị).
Phải thật quen súng thì bắn điểm xạ 3 viên một, mới có hiệu quả. Người sử dụng cần phải biết độ giật nẩy lên của súng trong 100m thì ăn lên bao nhiêu cm, 200m thì bao nhiêu cm, 300m thì ăn lên bao nhiêu cm…
Ngày còn huấn luyện tại trường, các giáo viên huấn luyện xạ kích luôn nói: “Một viên đạn có giá bằng 7kg gạo, do vậy các anh phải bắn tiết kiệm và đã bắn thì phải chính xác”
(Thời đó 1 viên đạn AK là 7kg gạo - tính theo giá gạo - còn bây giờ không biết số gạo đó là bao nhiêu kg và có còn tính theo giá gạo như thế nữa không?).
Cũng vì tiết kiệm kiểu keo kiệt đó mà đợt huấn luyện của gã, khi đến bài bắn đạn thật chỉ được dùng đến 3 băng là 90 viên đạn.
Nhưng khi sang đến chiến trường Campuchia thì đạn AK vô thiên lủng, tập bắn thoải mái.
Do súng của lính Pot sử dụng cũng là AK, được Trung Của sản xuất theo giấy phép của Nga Xô và cùng sử dụng chung 1 cỡ đạn 7,62x39mm như của Nga Xô.
Súng AK của Tầu cộng thì cực phò phạch, rất hay bị hóc đạn và dễ bị nóng nòng sau khi bắn liên thanh, đã vậy lưỡi lê gắn chết chứ không tháo rời được như súng của Nga Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc hoặc của Ba Lan sản xuất.
Cũng vì dùng chung 1 cỡ đạn nên lính trinh sát, đặc biệt là trinh sát luồn sâu và đặc công ở chiến trường Campuchia mang rất ít đạn.
Chỉ cần mang 3 băng, 2 băng buộc “lộn tu” đảo đầu để thay băng đạn cho nhanh, 1 băng nữa thì nhét vào túi đựng mìn Claymore cùng với lương khô và bông băng cá nhân.
(sau năm 1975 thì mìn chiến lợi phẩm do Mỹ sản xuất có rất nhiều và được đưa vào tham gia tác chiến - phòng ngự khắp chiến trường Campuchia)
Hoặc bỏ vào “set” đựng đạn trước ngực. Chính vì nhiều đạn như vậy nên hàng ngày lính sư 7 mang hàng thau đạn ra tập bắn.
Từ bắn bia cố định cho đến bắn vật di động như gà, sóc, chuột…bắn bất cứ cái gì trong tầm súng để luyện khả năng tác xạ nhanh và chính xác. Bắn nhiều nên thành thục và cũng khá chính xác, kể cả chị em phụ nữ ở các bộ phận như nuôi quân, quân y, thông tin, cơ yếu, bảo mật…các chị em bắn chính xác không kém gì cánh lính nam.
Thậm chí nhiều chị em bắn còn “mả” hơn so với 1 số lính nam. Tất nhiên tập bắn khi mà phạm vi 20km quanh doanh trại không có tàn quân Pot để tránh bị lộ vị trí đóng quân, không phải lúc nào cứ thích là vác súng ra để tập bắn.
Khi hạ xong thằng lính Pot, gã quay súng sang phía khẩu đại liên trên tầng 2 bắn điểm xạ thêm 3 phát vào cái đầu vừa nhô lên khỏi lan can, tiếng súng chưa kịp dứt, gã co cẳng lao thẳng về phía bờ tường bên tay phải...
Nơi mà gã đã quan sát thấy có mấy bụi dây leo và cây cối um tùm khi nằm phục kích hồi đêm, chỗ đó cũng là góc chết của khẩu 12,7 ly trên tầng 2.
Tiếng 12,7 ly và AK bắn đuổi theo sát sạt. Gã chạy lắt léo hình chữ chi, thỉnh thoảng vẩy súng lại điểm xạ vài viên rồi chạy tiếp.
Chạy 1 đoạn thì khẩu 12,7 ly bị vướng góc chết nên không thể bắn đuổi theo được nữa, phía sau chỉ còn mấy thằng lính Pot đeo bám theo sát sau lưng gã…
Gã đã chạy đến sát bờ tường, quan sát thấy có 1 cành cây cao quá đầu người. Gã nhẩy lên, chỉ 1 chạm gã đã bám được cành cây, khoảng cách từ cành cây sang bờ tường độ 2m. Gã trèo lên, dùng toàn bộ sức nặng cơ thể rung cành cây để tạo lực bật và sau 1 cái nhún, gã đã đứng ở trên bờ tường cao phía trước mặt.
Gã quay lại bắn 1 loạt AK ngắn, tung tiếp 2 trái da láng về phía bọn Pot. Lựa đúng lúc quả lựu đạn nổ, bọn lính Pot nằm xuống để tránh mảnh lựu đạn, gã tháo cái túi mìn Claymore phía trong đựng bông băng cá nhân và mấy phong lương khô, rồi ném mạnh cái túi ra phía đường mòn ở ngoài bờ tường.
Lúc đó gã mới biết là có viên đạn nào đó đã bắn thủng một bên cạnh của túi đựng Claymore, gã thấy mình thật may phúc…
Sau đó gã bám gờ tường và đu ra phía ngoài, nhưng gã không nhảy xuống. Phần vì gã không thể bỏ rơi đồng đội, phần nữa gã nghĩ rằng nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất.
Đúng như gã suy đoán, bọn lính Pot tưởng rằng gã đã nhảy qua bờ tường nên chúng nó hò hét kéo nhau ra cửa chính để truy lùng gã. Gã căng tai nghe ngóng…thấy tiếng bọn lính Pot đã ra xa bờ tường, gã cẩn thận thò đầu lên quan sát thấy không có ai.
Gã lập tức búng người leo lên bờ tường, rồi từ bờ tường gã lại vọt về phía cái cây và tìm chỗ um tùm nhất để nấp.
Gã vừa ổn định chỗ nấp thì thấy bọn lính Pot chạy phía dưới, tiếng hét “chô…chô” của bọn chỉ huy vọng đến chỗ gã nấp...
Chúng nó nhặt được túi Claymore của gã và chúng nó cứ theo hướng đường mòn đuổi theo…
Gã nhìn về phía dãy nhà thì thấy bọn thằng Đực đang kéo cổ thằng cố vấn nước lạ tiến về đoạn bờ tường ở phía xa xa…
(cách chúng nó đưa thằng cố vấn nước lạ vượt bờ tường, nếu không nhìn tận mắt thì khó mà tin được. Chuyện đó gã sẽ mô tả kỹ khi có điều kiện).
Khi biết chắc các bạn đồng đội đã thoát được, gã cũng nhảy quay lại bờ tường, tụt xuống đất và chạy ngược lại với hướng của bọn lính Pot.
Khi đã đi khá xa doanh trại, gã nhìn ánh mặt trời âm u để xác định hướng cần đi và gã cứ căn theo hướng Đông Nam để cất bước.
Trời bắt đầu mưa nặng hạt, báo hiệu cho một mùa mưa Campuchia đã về…
Gã cắt rừng và cứ đi lang thang trong rừng, không dám đi ra đường cái hoặc đường mòn vì sợ chạm trán tàn quân Polpot.
Lương khô thì không còn, vì tất cả số lương khô dự phòng trong túi đựng mìn Claymore đã bị gã ném đi để đánh lạc hướng bọn lính Pot. Gã tìm ăn những quả vả dại mọc đầy trong rừng, tuy nó hơi chát, nhưng cũng đủ để chống lại cái đói cồn cào.
Nước thì gã không lo, vì lúc này Campuchia đã bắt đầu vào mùa mưa, gã hứng nước mưa đầy bi đông để dùng dần. Cái khổ nhất là những cơn mưa dai dẳng, mưa tối trời tối đất.
Quần áo, người ngợm gã lúc nào cũng ướt sũng nước mưa và lạnh run người, cái lạnh thấm vào đến tận xương, nhất là khi có những cơn gió mạnh thổi qua, chân tay thì bợt bạt bởi nước.
Lúc này đôi giầy Bát kết đúng là 1 cực hình, nếu không đi thì khó tránh được gai góc. Mà đi, thì nước làm ướt sũng đôi giầy, các ngón chân trong giầy ngâm nước lâu bị bợt hết da.
Nhất là lớp da mỏng ở các đầu ngón chân, chúng bở ra, loét ra, tóe cả máu, đau vô cùng, mỗi bước đi đau thấu óc. Vì đi xuyên rừng, nên quần áo của gã bị gai tre và các cành cây móc rách mấy chỗ to bằng bàn tay…
Sau 3 ngày gã đã cắt rừng về đến Tur, nơi chỉ còn cách đơn vị độ 15km đường chim bay, còn tính đường chim…đi bộ thì quãng gần 45km nữa…
Đến chiều muộn ngày thứ tư gã đã nhìn thấy nóc vọng tiêu của vệ binh sư đoàn.
Lúc này gã đã thấm mệt, người thì gây gây sốt. Gã cứ đi loạng choạng độ vài trăm mét lại đứng thở…
Lúc đó đang là ca gác của thằng Tiến “méo” dân Vĩnh Long, từ trên vọng tiêu thằng Tiến soi ống nhòm nhìn thấy gã đang lắc lư như thằng say rượu trên đường.
Nó quay xuống hò hét gì với ai đó ở dưới, chỉ 1 loáng đã thấy anh em của các bộ phận ùa ra và chạy về phía gã.
Thằng Đực chạy đầu tiên, nó lao đến ôm chặt lấy gã, chẳng hiểu nước mưa hay nước mắt nó chảy tràn trên mặt. Nó ôm gã: “Tao biết mà…tao biết mày sẽ về mà, mày cao số lắm, không “tiêu” được đâu…”.
Bọn chạy sau cũng thằng trước, thằng sau chạy ra chỗ gã và thằng Đực. Gã lả đi trong vòng tay đồng đội...thằng Long “Polpot” ghé lưng lại, thằng Trượng “khỉ”, thằng Lân “choắt” xốc nách gã để thằng Long cõng gã về lán của trung đội.
Chẳng biết thằng nào đưa cho gã cái bát sắt đựng nước đường, gã ngồi dậy nhấp vài ngụm thấy tỉnh táo hẳn ra.
Gã nhìn khắp lượt những thằng bạn chiến đấu, thấy mặt thằng nào cũng hân hoan, cười ngoác cả mồm. Gã thấy thằng Tiến “chuột” ngồi ở đầu sạp của gã, lén lút dấu cái gì đó trong chiếc mũ vải cầm ở tay. Gã hất hàm: “Ê…Mày dấu cái gì đó…”, nó lắp bắp: “Không…em có dấu gì đâu…”.
Gã thấy thằng Long “Polpot” đưa mắt nhấm nháy với thằng Tiến “chuột” làm gã càng nghi: “Đưa đây…mày dấu cái gì…tao đập chết bây giờ…”, gã trợn mắt, gằn giọng với thằng Tiến “chuột”.
Thằng Tiến “chuột” sợ quá, líu ríu rồi ngoan ngoãn đưa cho gã bát cơm dấu trong chiếc mũ vải.
À…thì ra chúng nó tưởng gã “tiêu” rồi, nên đặt cho gã bát cơm cúng nơi sạp tre gã nằm thường ngày...
Bụng đang đói, gã bốc một nhúm nhỏ cho vào mồm. Miếng cơm nguội ngắt, khô khốc mà sao gã thấy ngon thế.
Anh Toản C trưởng đang ở trên nhà C bộ, nghe thấy mấy đứa nói gã đã trở về, anh chạy ngay xuống lán trung đội 3.
Thấy gã bốc cơm cho vào mồm, anh quát to: “Thằng kia…bỏ xuống…không ăn nữa. Mày có muốn chết không mà ăn cơm hả?
Mày đang nhịn đói mấy hôm thì uống nước cháo mấy bữa đã rồi mới được ăn cơm…” “Nhưng em đói…” “Đói cũng không được ăn cơm ngay…thằng nào xuống bếp xin nắm gạo nấu cho nó bát cháo, nhớ là nấu loãng thôi, để nó uống nước là chính…thằng nào nhanh chân chạy lên phòng tao…trong cóc ba lô còn ít đậu xanh, mang xuống bếp cho thêm vào cháo cho nó”.
Thằng Quân “nhăn” bên tuyên huấn, láu táu: “Em có hộp sữa bột chiến lợi phẩm, để em chạy về mang cho nó…” “Không…nó đang như vậy mà cho uống loại sữa bột đó là đi ngoài ngay.
Cứ cho nó uống nước cháo loãng với đậu xanh thôi…Còn bây giờ giải tán, chỗ thằng nào ở đâu về đó, để nó nghỉ ngơi. Lát báo quân y lên kiểm tra sức khỏe cho nó”…
Húp xong 1 bát nước cháo, gã lăn ra sạp ngủ luôn, chẳng biết trời đất gì nữa.
Khi gã mở mắt thì đã thấy gần trưa ngày hôm sau rồi, lán vắng tanh. Mọi người đi đâu hết, chỉ còn thằng Trung “cóc”, trung đội trưởng đang ngồi lau súng ở bậu cửa.
Thấy gã dậy, thằng Trung “cóc”: “Bố Hưng nhắn, khi nào anh dậy thì gọi cả anh Long, anh Đực và anh Phú lên gặp bố ngay” “Có chuyện gì vậy mày”, “Dạ, em không biết, thấy thằng Loan công vụ nhắn vậy thôi anh”, “Chúng nó đi đâu hết mà vắng tanh vậy mày”, “Các lán đi be bờ bắt cá suối hết rồi. Em đau chân nên ở nhà”…
Gã cùng bọn thằng Đực, Phú “nhái”, Long “Polpot” khoác miếng vải mưa chạy vội lên Phòng tham mưu...
Lên đến nơi thấy bố Ngữ sư đoàn trưởng, bố Linh sư phó, chủ nhiệm chính trị và bố Hưng sư phó, tham mưu trưởng đang ngồi uống trà và bàn bạc gì đó.
Thấy mấy thằng gã thập thò ở cửa, bố Hưng vẫy tay; “Vào đây, vào cả đây mấy ông mãnh…thằng Nam đỡ mệt chưa con?”.
Gã đáp: “Dạ, con khỏe rồi bố. Ngủ 1 giấc đã mắt, thêm mấy bát nước cháo đường nên khỏe hẳn rồi ạ”.
Bố Hưng cho phép mấy thằng ngồi xuống và rót nước cho mấy thằng, đoạn bố nói: “Uống nước, ngồi chơi rồi lát nữa cả tổ về viết báo cáo và làm đơn xin được xét duyệt chiến sỹ thi đua năm nay của quân đoàn nhé!”.
Gã hơi bất ngờ, sững lại mấy giây rồi không cần suy nghĩ lâu, trả lời ngay: “Con không viết đâu, nếu tụi con đủ thành tích và xứng đáng để xét duyệt thì quân đoàn xét duyệt, nhưng làm đơn để xin xét duyệt thì tụi con không viết…”.
Ba thằng kia thấy gã trả lời bố Hưng rồi nên cũng chẳng thằng nào dám lên tiếng nữa.
Bố Hưng giải thích: “Thì cách làm theo bài bản nó phải như vậy, xét thì vẫn xét, nhưng cũng cần có đơn đề nghị. Nếu tổ khác thì bố không nói, nhưng tổ của mấy đứa là tổ quá nhiều tội lỗi, nếu không có đơn đề nghị thì chẳng ai xét duyệt đâu”.
Bị chạm tự ái, gã nói luôn: “Đã vậy con thấy càng không cần thiết…”. Gã nói thêm mấy câu nữa, bố Hưng nghe mà quai hàm bạnh ra. Gã biết, cụ đang bực ghê lắm rồi.
Thằng Đực mấp máy môi định nói gì đó, gã lừ mắt, câu nói chưa ra khỏi miệng, nó đã vội im bặt. Thằng Long “Polpot” lấy chân đá khẽ vào chân gã.
Gã kệ cho nó đá chân, mặc kệ cả bố Hưng đang bực, gã cóc cần cái danh hão. Gã nghĩ, một khi đã xứng đáng thì sẽ được duyệt, còn đã không được xét duyệt thì viết đơn xin xét duyệt cũng chỉ làm trò cười cho các bộ phận khác, chua mặt lắm…
Bố Ngữ thấy không khí căng thẳng, quay qua bảo bố Hưng: “Thôi ông, để chúng nó suy nghĩ rồi lúc nào viết cũng được…”.
Mấy thằng đứng dậy lí nhí chào các thủ trưởng để quay về lán thì bố Hưng gọi giật lại: “Thằng Nam…chờ bố lấy cho hộp sữa, mang về mà bồi dưỡng…cầm thêm mấy bao thuốc về anh em chia nhau mà hút, tao cũng chỉ còn mấy bao thôi…”.
Rồi bố lục ngăn bàn đưa cho gã mấy bao du lịch Vĩnh Hội bao trắng cùng 1 túi nylon đựng ít trà mạn.
Bố Linh: “Bố cũng có mấy bao Bông Sen, mấy đứa cứ về lán đi, lát bố bảo thằng Loan nó cầm xuống cho…”.
Bố Ngữ cũng cho tổ 2 bao du lịch Vĩnh Hội (Thời đó thuốc lá du lịch Vĩnh Hội loại bao trắng và thuốc Bông Sen đều là loại có đầu lọc mà lính tráng hay gọi là thuốc có cán, thuộc hàng cao cấp nhất. Chỉ dành cho cấp bậc trung tá trở lên.
Từ chuẩn úy đến thiếu tá thì Sông Cầu bao bạc hoặc Thủ Đô. Lính tráng thì mỗi tháng được cấp phát 5 bao Sapa hoặc Tam Đảo hoặc Điện Biên trong định lượng nhu yếu phẩm hàng tháng. Lính thì được cấp miễn phí, sĩ quan thì phải mua.
Thời điểm đó trong quân đội còn tồn tại quân hàm chuẩn úy với 1 gạch bạc, cấp hàm này sau bị bãi bỏ). Mấy thằng cầm mấy bao thuốc và hộp sữa hí hửng chào các cụ để về, ra đến cửa còn nghe bố Hưng “ném” thêm câu: “thằng hâm…” vào lưng mấy thằng.
Các cụ mắng vậy đó, chửi vậy đó nhưng rất yêu và thương lính, coi lính tráng đứa nào cũng như con cháu trong nhà vậy…
Mấy thằng khúc khích cười trong tiếng mưa rơi rào rào như ném đỗ xanh xuống chiếc mâm…
Anh Toản C trưởng nghe chuyện gã không đồng ý cho tổ viết đơn xin xét duyệt thì cũng lắc đầu rồi phán: “THẰNG HÂM”, rồi đến thằng Trượng “khỉ” và thằng Đạo cũng bảo “HÂM…”, mấy thằng cùng trung đội, rồi khác trung đội cũng bảo tổ của gã TOÀN THẰNG HÂM. Ừ…có lẽ gã hâm thật, nhưng 3 thằng còn lại trong tổ, chẳng thằng nào bảo gã hâm cả, thế cũng đủ an ủi cho thằng HÂM rồi…
Đến giữa tháng 11 năm 1985, dưới sức tấn công mạnh mẽ của quân tình nguyện Vietnam, đánh vào các tuyến phòng thủ của tàn quân Pot đang phòng ngự ở Anlong Veng, khiến chúng rút về sát biên giới Thái Lan...
Sư bộ của sư đoàn 7 bộ binh chuyển đến đóng quân đúng trường học, nơi mà tổ gã đã bắt sống thằng cố vấn nước lạ, cũng là nơi gã đã cong đít chạy như trối chết và lập được kỳ tích chỉ 2 lần chạm đã đứng vững được trên bờ tường cao hơn 3m.
Lần chạm đầu tiên bám được vào cành cây, chạm thứ 2 nhảy sang đúng bờ tường. Nhảy ra, rồi lại nhảy vào. Hôm đó, mấy thằng tụ tập lên phòng của trung đội 1 (B của thằng Trượng “khỉ”) uống trà, tán láo.
Mấy thằng bên thông tin, tuyên huấn, vận tải, quân khí…thấy bờ tường khá cao mà gã lại khoe chỉ nhảy 2 chạm lên được bờ tường nên chúng nó thách đố gã làm lại: “Bây giờ, nếu mày nhảy lại đúng 2 chạm như vậy thì bọn tao sẽ mất 1 tút Sapa, nếu không nhảy được thì thôi, bọn tao không bắt mày “ọe” cái gì cả”.
Nghe thấy bùi tai, nhảy được thì có thưởng, không được cũng chẳng mất cái mịe gì.
Vả lại giải thưởng cũng quá “thơm”, bờ tường đó thì gã đã từng nhảy rồi nên nghĩ bụng: “Kèo này ngon ta…chơi luôn…”.
Cả bọn kéo nhóc ra xem gã biểu diễn…Gã bật cao người túm được cành cây, chẳng hiểu sao lại không văng được người lên cành cây như lần trước, dù gã đã cố hết sức.
Gã phải vắt chân lên cành cây để leo lên…gã nhún người lấy đà vọt về phía bờ tường, chưa đến bờ tường đã hết đà, gã rơi “huỵch” xuống đám cây dại bên dưới.
Bọn đứng ngoài xem lấy tay chỉ trỏ rồi cười ầm cả lên. Gã thấy cuống, mặt mũi nóng bừng, mồ hôi bắt đầu túa ra: “Cười cái méo gì…Tao mới thử thôi, để tao làm lại”...
Chúng nó đồng ý cho gã làm lại lần nữa. Lần trước, khi gã nhảy có cả súng, cả đạn sơ cua, lựu đạn…mà gã nhảy ngon ơ thì hà cớ gì lần này người không mang gì, lại không nhảy được.
Cú nhảy thứ 2 đưa gã bay xa hơn lần trước, nhưng vẫn không đủ lực. Ngực gã đập vào bờ tường đau điếng, gã rơi mạnh xuống đất và thấy khục ở khớp cổ chân, cơn đau khủng khiếp ập đến…hỏng rồi…trật khớp rồi…
Bọn kia thấy gã bị trật khớp thì xanh mặt, dính cú này mà chẳng may ngày mai nhận lệnh đi “thám” hoặc tác chiến là toi luôn. Gã nhịn đau, cố gắng đứng dậy mà không nổi.
Thằng Long “Polpot” vẹt đám đông ra, nó ngồi xổm xuống nắm cổ chân gã bẻ mạnh 1 cái như muốn lấy mạng gã vậy…”khục”, gã rên lên, nhìn thấy hoa vàng hoa đỏ bay đầy trước mắt, nước mắt ứa ra, thấy thấp thoáng cả hình bóng cụ tổ 10 đời trước mắt.
Thằng Đực và thằng Long dìu gã đứng lên, gã bám vai 2 thằng bạn, tập tễnh lê bước theo 2 thằng bạn chiến đấu.
Bọn kia cũng vội giải tán, không thằng nào còn cười đùa nữa…Lần đó gã cà nhắc mất 4-5 hôm. Chuyện đó rồi cũng đến tai các thủ trưởng, may mà các cụ không nói gì.
Cũng từ bài học đó mà gã nhận ra rằng, khi con người ta đang hăng máu trong chiến đấu hoặc bị đẩy vào 1 tình huống cực kỳ nguy hiểm thì có thể làm được những việc mà bình thường không thể hoặc hết sức vất vả mới làm được…
Ngày con trai lớn của gã sinh năm 1990, lúc đó mới được 2 tuổi đang tập đi, thời điểm đó cha gã bị đau chân, đi đâu cũng phải chống nạng, không có nạng thì chẳng lê được bước nào.
Vậy mà lần đó thấy cháu nội tập đi thì ngã ở sân. Nghe tiếng cháu khóc ré lên, ông nội vội vàng phi từ trong nhà ra đỡ cháu.
Đỡ được cháu xong lúc đó mới nghĩ đến cái nạng và gọi vợ gã mang nạng ra cho cụ để cụ đi vào nhà, lúc phi ra đỡ cháu thì chẳng thấy đau chân chút nào, cứ như giả vờ vậy...
Vậy đó, những điều này chẳng có trường lớp nào dạy, toàn được rút ra từ thực tế chiến đấu và được chiêm nghiệm qua các trận đánh.
Như lần gã 1 mình 1 đại liên 12,7 ly, vừa thay thùng đạn, vừa hiệu chỉnh súng, vừa kê kích giá súng mà vẫn thấy nhẹ như không (gã đã viết trong bài LỌT Ổ PHỤC KÍCH, tuy nhiên bài viết đó không viết được chi tiết lắm).
Tóm lại, có những việc mà khi được huấn luyện trên thao trường chẳng bao giờ có, nhưng khi vào thực tế cuộc sống, thực tế chiến đấu thì gặp. Lúc đó bắt buộc người lính phải thích ứng để giữ lại cái “gáo” biết ăn cơm chiên, biết tán gái và hoàn thành nhiệm vụ được giao…
Nhiều lúc gã tự hỏi, chẳng hiểu sao lần đó mình làm việc đó ngon lành mà giờ lại chẳng thể nào làm lại được…
Ai không tin bản thân mình có thể chạy nhanh như Thần Hành Thái Bảo - Đới Tung trong Thủy Hử truyện thì có thể chọc giận 1 con chó Pitbull rồi để nó đuổi thì sẽ thấy…
Bản năng sinh tồn giữa sự sống và cái chết là vậy đó. Thật khó, cũng thật dễ để giải thích…
EM VÀ MỘ GIÓ
Vào một ngày giữa tháng 05-2023 nghe tiếng chuông, mở máy thấy thằng Tùng “ếch” bên đại đội trinh sát sư 7 oang oang gọi: “Nam ơi…con gái thằng Thái “min tu” chuẩn bị lấy chồng, nó muốn vào Kiên Giang thắp hương cho bé Tuyền. Mày đi với bọn tao nhé!”
OK, để tao điện cho Trượng “khỉ” về Hà Nội rồi mấy anh em mình đi cho vui.
Bọn tao cũng đang rảnh việc và cũng muốn vào thắp hương cho bé…mấy chục năm rồi…”, gã bỏ lửng câu nói…
Bé Tuyền là người yêu, là mối tình đầu của thằng Thái “min tu” ở đại đội trinh sát của sư 7, dân Đông Anh (do mặt nó rỗ hoa nên anh em đơn vị gọi nó là “min tu”).
Đại đội trinh sát đó quân số đông hơn đại đội trinh sát luồn sâu, nhưng mức độ thiện chiến lại không bằng lính luồn sâu.
Còn bé Tuyền thuộc bên quân y, lính của chị Thơm. Đợt đó vào quãng tháng 7 năm 1987, giữa mùa mưa Campuchia.
Lúc đó sư bộ đang đóng gần chùa Lay, Battambang. Cách đó độ 25km, qua 1 nhánh sông nhỏ là nơi đóng quân của D5, E209.
Lần đó chẳng hiểu anh nuôi bên đó hái phải loại rau độc nào cho lính tráng ăn mà gần như toàn tiểu đoàn miệng nôn trôn tháo, mất sức chiến đấu, tình hình hết sức nguy ngập.
Ông Huy, tiểu đoàn phó điện về báo cáo và xin chi viện từ quân y sư đoàn.
Sư đoàn cử 1 tổ gồm em Tuyền (dân Hà Tiên), em Chi (hình như dân Bình Thuận thì phải) bên quân y mang thuốc và dụng cụ y tế sang bên đó trước, tiểu đoàn quân y sẽ cử người lên quân đoàn xin thêm thuốc và sẽ sang chi viện sau.
Ngoài ra sư bộ cử thêm thằng Lến (dân Quảng Bình), thằng Tòng (dân Nghĩa Bình, giờ gọi là Bình Định) ở ban doanh trại đi theo hộ tống, đề phòng bất trắc trên đường đi.
Lúc đó đại đội trinh sát luồn sâu và đại đội trinh sát đang đi “thám” hết, ở nhà chỉ còn đại đội vệ binh cùng lính tráng 1 số phòng ban. Mà số đó đa phần không có kinh nghiệm tác chiến hay sinh tồn độc lập, nói chung là lính “kiểng”, không có kinh nghiệm chiến trường.
Khi nhóm vượt sông, còn cách bờ bên kia độ vài mét thì nước lũ tràn về...
Cả 4 người trong nhóm không ai kịp lên bờ, tất cả đều bị nhấn chìm trong dòng nước đục ngầu, hung hãn trên đất Miên…Đơn vị chỉ tìm được thi thể em Chi, thằng Lến, thằng Tòng.
Riêng em Tuyền thì không thể tìm được, dù đơn vị đã cử người đi dọc con sông về phía hạ lưu đến 50km mà vẫn không thể tìm thấy.
Thằng Thái “min” như người mất hồn. Nó cũng mới chỉ ngỏ lời yêu với em Tuyền được 1 tháng. Nhưng chiến tranh đã lấy đi của nó, người mà nó yêu thương nhất.
Cả đơn vị ai cũng thương em Tuyền và cũng buồn cùng nó. Nỗi đau chẳng của riêng ai. Nỗi đau mất đồng đội mà chẳng thể tìm được thi thể, khiến nỗi đau đó in hằn vào tâm trí người còn sống và day dứt vô cùng…
Khi kiểm tra di vật để sau này gửi về cho gia đình thì tìm thấy mấy quyển sách toán, lý lớp 10 trong ba lô của em. Thì ra em dự định sau này ra quân sẽ thi vào trường y…
Thằng Thái “min” ra quân cũng chưa bao giờ quên em, mối tình đầu của nó, dù năm tháng đã qua khá lâu.
Ngày vợ nó sinh con gái đầu lòng nó định đặt tên là Tiên, với ý định là Hà Tiên, nơi em sinh ra, lớn lên.
Nó có hỏi ý gã và thằng Trượng “khỉ”, gã không đồng ý: “Tên là Tiên nghe không hay.
Này nhé…lúc bé gọi cái Tiên, nghe không hợp.
Lớn chút nữa gọi chị Tiên cũng không hợp.
Già chút xíu, gọi cô Tiên thì được, nhưng bác Tiên thì nghe chướng tai lắm.
Nếu gọi bà Tiên thì cũng hay, nhưng đến lúc nó lên nóc tủ buôn hoa quả mà con cháu cứ khấn “con mời cụ Tiên…TIỆN CU về ăn cỗ” thì phản cảm lắm…”.
Cuối cùng mấy thằng thống nhất lấy luôn tên em Tuyền đặt cho con gái đầu lòng của nó, cũng là cách để nhắc nó luôn nhớ về em, nhớ về mối tình đầu của nó, về một người đồng đội, về một người lính đã ra đi mà chẳng bao giờ tìm thấy thi thể…
Riêng về mộ phần của em Tuyền tại Hà Tiên chỉ là 1 ngôi mộ gió, không có hài cốt.
Trong mộ em chỉ có mấy quyển sách mà em đã dùng để ôn tập khi còn sống.
Hôm nay 4 thằng gã đứng đây để tưởng nhớ về em, để nghe thằng Thái thì thầm tâm sự với người nó yêu thương nhất.
Trong khói hương trầm ngan ngát, gã chỉ kịp xé tờ giấy viết vội vài dòng tâm sự với em, với người đồng đội năm xưa.
Từng thằng một bước đến ôm lấy mộ em và đặt lên bia mộ em 1 nụ hôn nồng thắm của tình đồng đội…an nghỉ nha em…cô nhóc của các anh…chúng mình mãi mãi sư 7 em nhé…
MỘ GIÓ HÀ TIÊN
Tháng Năm ơi…sao mà nghe buốt nhói
Anh trở về chiều biên giới năm xưa
Em băng băng dưới làn đạn quân thù
Rồi nằm lại khi vừa tròn 20 tuổi
Anh quỳ xuống đốt nén hương thầm gọi
Bích Tuyền ơi…hồn em ở đâu đây
Đồng đội trở về tìm em chiều nay
Kia mộ gió mấy mươi năm vẫn gió
Chiều tháng Năm biên giới xanh mầu lúa
Anh bồi hồi nhớ đôi mắt em xanh
Là chiến sĩ em cũng là sinh viên
Tổ Quốc gọi sẵn sàng ra biên giới
Đứa trở về có đứa nằm đây mãi
Để loang chiều giọt nước mắt lại rơi
Hát ru em một bài hát không lời
Của người lính cũng một thời như thế
Ngủ đi em bao năm rồi lặng lẽ
Như ngày nào bên cánh võng à ơi...
Nghe đâu đây tiếng gọi cứ xa vời
Vọng lên từ chỗ người nằm dưới cỏ
Anh cúi xuống rồi ôm hôn mộ gió
Em ở đâu…sao đi mãi không về
Biển Hà Tiên vẫn hát tặng em nghe
Điệu Lý Cái Mơn chiều sang sông con sáo
Ống khói lò cao vươn dài biên giới
Để cho người nơi mộ gió bình yên.
Khoảng trời anh qua chiều nay Hà Tiên
Nghe tiếng sóng ru lời ru biển nhớ
Tạm biệt em người nằm đây mộ gió
Cơn mưa nhòa ướt đẫm nỗi nhớ thương…
(Nghĩa trang liệt sĩ TP. Hà Tiên, Kiên Giang 23/05/2023)
Hôm nay là kỷ niệm 13 năm ngày mất của bố vợ ông anh rể, ngoài đủ các món như thường có trong các ngày giỗ của mọi nhà. Mâm cơm của nhà gã vẫn có một đĩa thịt ba chỉ và một bát mắm tép.
MẮM TÉP
Chị dâu trưởng, con bác gái cả từ Phủ Lý "Em cũng mới được biết chị chính là Dì của anh
Chaukga " biết gã thích ăn mắm tép, nên dù đã 80 tuổi vẫn thỉnh thoảng lọ mọ đi tìm mua mớ tép ngon để làm món mắm tép cho thằng em.
Do tính chất công việc nên việc di chuyển của gã từ tỉnh này đến tỉnh kia, từ vùng này sang vùng khác khá thường xuyên.
Cũng vì vậy mà các loại mắm ngon, hầu như gã đã được thưởng thức hết.
Từ mắm Pồ hoóc, mắm cá, mắm tôm, mắm moi, mắm cáy, mắm xương, mắm gà, mắm chua, mắm Huế…nhưng có lẽ món mắm gã thấy ngon hơn cả là mắm tép tự tay nhà làm.
Chẳng phải cao lương mỹ vị gì, chỉ là món ăn quê nghèo dân dã của những người dân vùng châu thổ sông Hồng.
Một món ăn hết sức bình thường, nhưng với gã thật là ngon. Tép ở đây đúng là con tép, 1 loại thuộc họ nhà tôm, nhưng nhỏ hơn rất nhiều. Cách gọi này khác với cách gọi ở một số vùng khi gọi những mớ cá con là tép hoặc có nơi gọi con moi là tép. "Vụ tranh, cãi tôm, tép này mà làm khá nhiều lính choảng nhau
"
Tép sau khi được mua về sẽ được rửa sạch, đãi hết ốc con, cá nhỏ thì mang hong khô trong bóng râm cho ráo nước. Rang gạo để làm thính và thái thêm mấy miếng riềng già.
Tiếp đến cho tép, muối, thính, riềng vào hũ buộc chặt lại, rồi ra sông Châu Giang lấy ít đất gần giống đất sét về bao quanh nắp. Đặt hũ cạnh bếp củi. Để 1 thời gian sẽ có món mắm tép dân dã.
Nếu muốn ngon thì có thể cho thêm chút rượu trắng vào hũ. Món mắm tép đạt chuẩn thì khi múc ra bát phải có màu hơi đỏ, con tép không bị nát và thơm mùi thính, riềng…
Khi xưa lúc mới nhập ngũ, đang huấn luyện tân binh tại trường hạ sĩ quan trinh sát luồn sâu, các bác gái của gã đã làm cho gã, thằng cháu đích tôn, trưởng chi, những hũ mắm tép cực ngon để mang lên đơn vị.
Cơm đơn vị quân đội chẳng có gì, chỉ vài ngọn rau muống già, cằn cỗi do đơn vị tự tăng gia, dăm miếng đậu phụ luộc bé như ngón tay cái cho 1 mâm 6 thằng.
Thỉnh thoảng được bữa thịt lợn muối, đã được anh nuôi thái rất khéo, mỏng như cánh con chuồn chuồn, đến mức có thể dán lên mắt để thay kính râm khi ra ngoài trời nắng.
Với lính xuất thân từ nghề nông thì bữa ăn của lính có thể không vấn đề gì, chỉ hơi ít.
Còn đối với lính thành phố như thằng Cơ “trắng” Hải Phòng, thằng Đạo ở ngay thành phố Nam Định và gã…thì bữa ăn thật sự rất khó để nuốt.
Sau 2 tháng thì cũng quen, nhưng những ngày đầu mà không nhờ có món mắm tép của các bác gái gã tự tay làm thì đúng là không thể nuốt trôi được miếng cơm.
Nhờ có nó, mà bữa cơm gạo dính sau khi được chan 1 chút mắm tép vào đã trở thành món đặc sản của toàn trung đội.
Thằng nào ăn cũng tấm tắc khen ngon…Đến khi ra quân các bác vẫn hàng năm muối mắm tép gửi từ Phủ Lý lên cho cha, con gã. Một bát mắm tép, 1 đĩa thịt ba chỉ hoặc thịt chân giò luộc, dăm miếng khế chua, vài quả chuối xanh, thêm chút rau ngổ, bạc hà, húng quế, mấy cọng hành trần hoặc để sống…là 2 cha con gã có thể khề khà ngồi đưa cay hết cả chai 65…
Bây giờ cả ba bác gái của gã, những người biết làm món mắm tép cổ truyền cực ngon đã rủ nhau theo hầu ông bà hết rồi. Các cháu gái và em gái thì chẳng đứa nào biết làm, nếu thèm ăn thì chúng nó phi xe ra chợ mua…cho gọn lẹ.
Ngay chợ Hàng Bè cũng có bán món mắm tép chưng thịt, nhiều người khen ngon, nhưng gã chỉ nhận xét: “Ăn được…”.
Vì gã chỉ thích ăn món mắm tép hoặc mắm tôm sống, còn khi chưng rồi sẽ làm mất đi mùi vị rất riêng của nó, kiểu như nước mắm đem hâm vậy.
Người duy nhất biết làm mắm tép trong nhà giờ chỉ còn lại chị dâu trưởng, con của bác gái cả.
Hơn 80 tuổi nhưng vì sở thích và khẩu vị của thằng em mà hàng năm chị vẫn lọ mọ đi lùng mua cho bằng được mớ tép ngon để làm mắm tép cho thằng em.
Vì tép ngon bây giờ rất khó mua, phần do chết vì dính những hóa chất như thuốc trừ sâu, phần bị chết do xuyệt điện khi dân đi đánh cá…Nhận lọ mắm chị gửi mà thấy trong lòng rưng rưng bao cảm xúc.
Đó…quà quê là thế đó, món mắm tép nhà quê đã nuôi cha gã và gã trưởng thành là thế đó.
Món ăn bình dị, dân dã mà chứa đựng bao tình cảm quê hương. Sinh ra và nhớn lên tại Hà Nội nhưng có lẽ muôn đời gã chỉ mãi là THẰNG NHÀ QUÊ thôi!
MỘT LẦN CẬN CHIẾN VÀ NHỮNG CHUYỆN CHƯA KỂ PHÍA SAU
Sau khi hoàn thành kế hoạch “thám” ở Paoy Poet (Banteay Meanchey), bốn thằng bọn gã lững thững cắt rừng để về Sisophon.
Chiều muộn của ngày thứ 3, khi còn cách Sisophon khoảng 30km. Lúc vừa ra khỏi cửa rừng thì cả nhóm nhìn thấy một nhóm người Khmer độ chục người, có cả 1-2 đứa trẻ độ 14-15 tuổi đang ngồi nghỉ ở 2 bên đường mòn, cạnh họ là những chiếc cuốc, xẻng.
Cả tổ đi vào giữa hai bên và gật đầu chào những người dân Campuchia 1 cách thân thiện: “Xua sơ đây - xin chào”.
Những người dân Khmer chỉ hơi ngước mặt lên nhìn mấy anh em, thoáng trong ánh mắt của họ có gì đó lành lạnh, không lành.
Gã chợt giật mình, đây là cửa rừng, quanh đây không có nhà dân. Đã vậy mìn được cài khá dày đặc, vậy những người này thực chất là ai? Họ ngồi đó làm gì?
Thằng Đực, thằng Long và thằng Phú chắc cũng nghĩ như vậy, nên không hẹn mà cả 4 thằng đồng loạt quay người nhìn lại...
Đúng lúc đó 1 lưỡi cuốc từ phía sau nhằm thẳng đầu gã bổ xuống. Mắt gã liếc thấy mà chưa kịp phản ứng thì thằng Đực đã lao vào, hai tay nó đưa cả thân khẩu AKMS lên và chặn vào cuối cán cuốc.
Bị chặn đúng vào gốc lực nên lưỡi cuốc chỉ khẽ chạm vai gã. Tuy bị tập kích bất ngờ, nhưng 4 thằng gã đều là những thằng được đào tạo bài bản và cũng đã trải qua nhiều hiểm nguy nơi trận mạc nên thằng nào phản xạ cũng rất nhanh.
Gã quay báng súng vụt 1 đòn chí mạng vào giữa mặt tên cầm cuốc…một tiếng “bốp…” khô khốc như tiếng quả dừa khô rơi mạnh trên nền bê tông cứng và cảm giác có 1 sự vụn vỡ, tan nát nơi chiếc báng sắt của khẩu AKMS chạm vào.
(hình khẩu AKMS trong phim ảnh thường còn nguyên phần báng gập, nhưng thực tế chiến trường thì lính của ta hay tháo bỏ phần báng gập bằng sắt để giảm bớt trọng lượng và cũng đỡ cồng kềnh, vướng víu trong tác chiến).
Thuận tay gã rút con dao lê 5 tác dụng dưới thắt lưng, đâm bổ nghịch từ trái qua phải, theo chiều từ trên xuống dưới.
Đường lê sắc ngọt cắt từ động mạch cảnh, đi qua cuống họng và chỉ chịu dừng lại khi vướng xương quai xanh bên phải của kẻ tập kích. Bọn thằng Đực, Long và Phú “nhái” cũng đã rút dao lê, lao vào tả xung hữu đột với nhóm tập kích.
Hai tốp người lao vào quần nhau trong khoảng cách gần san sát, chính xác là thành 1 đống hỗn độn, ta địch lẫn lộn, khó phân biệt.
Tất cả bọn gã chỉ dùng dao lê, không dám nổ súng vì sợ trúng đồng đội...
Sợi dây đeo ở những khẩu AKMS được luồn qua bắp tay và cuộn chặt vào cổ tay, bàn tay nắm lấy đầu nòng súng, chỉ đủ thò ra chút đầu nòng.
Khi siết chặt sợi dây thì toàn bộ thân súng được ép chặt vào tay như 1 cây Tonfa, biến cả thân súng thành 1 chiếc mộc đỡ hoàn hảo, bảo đảm che chắn được các đòn đánh từ xẻng, cuốc của bọn tập kích.
Khi còn thụ huấn tại trường hạ sĩ quan trinh sát luồn sâu, gã thường nghe các bậc đàn anh và giáo viên võ thuật trong trường kể rằng, cách sử dụng súng AKMS như Tonfa là của cụ võ sư Trần Công, một võ sư nổi danh với tên gọi “Vua ám khí Việt”.
Mà bài này, hình như cũng chỉ được dạy trong các trường đặc công và trinh sát luồn sâu, do chỉ có 2 binh chủng này là được cấp AKMS. Còn các trường trinh sát bộ binh, trinh sát pháo binh hay trường biên phòng dùng AK47 hay AKM thì không được huấn luyện do súng quá dài và nặng nên khó có thể thi triển tuyệt kỹ này.
(Không biết là có đúng không. Nếu bác nào là lính của các trường đó thời 1980 xin vui lòng cho biết để hiệu đính lại bài viết. Xin chân thành cám ơn ạ).
Phần đầu nòng súng được bàn tay nắm chắc lấy, thò ra 1 đoạn ngắn dùng để chọc vào các khớp xương như ngực, lưng, mặt…
Phần báng sắt đằng sau khuỷu tay cũng thừa ra 1 đoạn, ngoài việc thay thế mộc đỡ để che chắn thì cũng có công dụng như khi sử dụng cùi chỏ vậy. Còn toàn bộ thân súng có thể dùng để đỡ đòn và đập ngang vào mặt…
Cách sử dụng súng để thay thế Tonfa trong cận chiến cực kỳ hữu dụng và lợi hại, cụ thể trong trận đánh này.
Mấy thằng gã được dạy trong trường rằng, trong cận chiến mà phía đối thủ đông và chơi chiến thuật “ruồi bu c.. ngựa”, thì cách chống trả hiệu quả nhất là cứ đeo dính sát đối thủ, khiến cho đồng bọn của chúng không dám ra đòn liều vì sợ nện trúng đồng bọn.
Cộng thêm với ưu thế là biến súng thành Tonfa nên sự di chuyển hết sức nhanh nhẹn và cực kỳ hiệu quả trong tấn công cũng như phòng thủ, khác với bọn người tập kích.
Chúng dùng vũ khí dài như xẻng, cuốc để đánh cận chiến đã là 1 sai lầm, khi vừa khó xoay trở, lại vừa khó tấn công dứt điểm được đối thủ. Đánh từ xa vào thì chúng nó vướng đồng bọn, đánh sáp lá cà thì không bổ, không vụt được.
Trong những trường hợp như thế này chỉ có đâm, nhưng với quân tình nguyện Việt Nam luôn đeo “set” đựng đạn dự phòng bằng bạt dày trước ngực. Với các băng đạn AK dự phòng bên trong thì “set” đạn giống như 1 chiếc áo giáp che kín toàn bộ phần ngực thì có đâm cũng thành vô ích, đã vậy cuốc, xẻng cũng chẳng có lưỡi nhọn để đâm.
Thật đúng với câu nói nổi tiếng trong giới võ thuật “lấy đoản chế trường”…
Một thằng tập kích lao đến ôm chặt thằng Đực từ phía sau lưng. Rất nhanh, thằng Long “Polpot” cũng lao đến...
Nó cắm cây lê 5 tác dụng vào giữa 2 xương bả vai của thằng tập kích và rạch mạnh 1 đường từ trên xuống theo chiều cột sống.
Gã cũng nhanh chóng áp sát lưng vào lưng thằng Long “Polpot” để che chắn mặt sau cho đồng đội, phòng có thằng đánh trộm.
Trong chiến đấu rất cần sự hiểu ý và ăn ý với nhau. Đặc biệt với các lực lượng tác chiến theo cấp phân đội như lính trinh sát hay đặc công, điều đó lại càng quan trọng hơn.
Một thằng lùi ra để lấy khoảng cách bổ lưỡi xẻng xuống, thằng Phú “nhái” bay người đến. Một chân co, chân duỗi, nhìn như nó đang quỳ trước vùng bụng thằng tập kích vậy. Tay nó tuốt 1 đường dao lê nghịch từ phải qua trái của kẻ tập kích.
Chúng ta hãy hình dung chút, với người thuận tay phải như thằng Phú “nhái”. Nếu nó tuốt đường dao lê thuận từ trái qua phải kẻ tập kích, tức từ bên phải của nó sang bên trái, thì điểm chạm đầu tiên sẽ ngang sườn trái đối thủ, ra đến gần rốn chắc chắn sẽ là cuối lực, cuối tầm với và khi đó sẽ không đủ lực để hạ gục 1 kẻ đang say máu như kẻ tập kích liều chết kia.
Nhưng nếu nó tấn công bằng đường dao lê nghịch từ phải qua trái của kẻ tập kích thì điểm chạm đầu tiên sẽ là vùng gan, nhưng điểm cuối lực sẽ nằm ở toàn bộ từ rốn ra đến hết vùng sườn trái của kẻ tấn công theo chiều giật về của cánh tay và cổ tay.
Chỉ với 1 vết rạch dài cực hiểm ngang bụng như vậy, thằng tập kích đổ sập ngay xuống như thân chuối bị đốn, khi lưỡi xẻng của nó còn chưa kịp giơ cao đến vai.
Thằng tập kích vừa ngã xuống thì thằng Phú phi luôn con dao lê về phía thằng gầy, mặt choắt.
Hình như thằng đó là chỉ huy của nhóm tập kích sao đó. Con dao lê của thằng Phú “nhái” cắm đúng hốc mắt bên phải, ăn thẳng vào hộp sọ, ngập đến 2/3 lưỡi dao lê.
Thằng Đực sau khi được thằng Long “Polpot” giải vây khỏi thằng ôm sau lưng thì nó cũng kịp tặng cho thằng tập kích đứng đối diện 1 lê vào vùng ngực phải với cú xoáy ngược chiều kim đồng hồ…
Trận đánh cận chiến xảy ra quá nhanh, chỉ vài lần tả xung hữu đột, phía bên tập kích đã có 6 thằng nằm tại chỗ.
Ba thằng còn lại co chân tháo chạy, thằng Đực bung sợi dây súng khỏi tay. Khẩu súng “tonfa” từ trên cẳng tay tụt xuống bàn tay mở sẵn, không cần lấy đường ngắm cơ bản, nó siết cò ở khoảng cách gần…ba thằng tập kích chạy chưa được 10m đã dính loạt đạn thẳng như kẻ chỉ của thằng Đực.
Chúng nó loạng choạng, chới với rồi nằm im tại chỗ. Bốn thằng gã buông dao lê và súng rồi ngồi bệt xuống đám cỏ ven đường thở hồng hộc.
Người bốn thằng đỏ lòm màu máu, thằng nọ khám thằng kia xem có làm sao không, nhưng may mắn là không có thằng nào bị thương. Ngoại trừ thằng Long “Polpot” có quả ổi trên đầu khi được bọn tập kích tặng cho 1 cán cuốc, nhưng quả ổi cũng không nặng lắm.
Bốn thằng đang ngồi thở dốc sau 1 trận cận chiến không cân sức trong bóng chiều chạng vạng thì bất chợt nghe tiếng…rắc…
tiếng cành cây gãy dưới bước chân ai đó theo chiều gió vọng đến. Cả 4 thằng ôm súng nhoài xuống bãi cỏ và lăn về 4 góc, súng chĩa về hướng phát ra tiếng động chờ đợi…1 phút…2 phút…
Thời gian như đứng im bất tận…một lúc nghe có tiếng thì thào “…vừa thấy có người ở đây mà đâu hết rồi…” “…chúng nó chỉ quanh đâu đây thôi…cẩn thận kẻo nó bắn tỉa và dẫm mìn đấy…”.
Lính Việt rồi…thằng Đực lên tiếng: “Công trường 7 đây…đơn vị nào đó?” “Công trường 9 đây…công trường 9 đây…đừng bắn…anh em ta cả…”.
Thì ra mấy anh em của D3, E761, F9 đi nhận tân binh trên sư bộ F9 về, khi đi ngang qua cánh rừng thấy súng nổ, nghĩ có quân ta bị phục kích nên ghé vào tiếp ứng…
Một lính cựu trong đoàn nhìn chăm chăm mấy thằng gã rồi reo to: “Ơ…các anh là Long “Polpot”, Phú “nhái”, Nam “chẫu” và anh Đực ở luồn sâu sư 7 nè tụi bay…”,
Các cậu khác nghe vậy vội ùa lại bắt chân bắt tay thân mật, như những người bạn cũ lâu ngày gặp lại nhau.
Thằng Đực hỏi: “Sao mấy ông biết tụi tui?” “Biết, bọn em biết các anh. Tên và mặt mũi các anh thì báo mặt trận và báo quân đoàn đăng mấy lần rồi…”.
Thằng Long “Polpot” chun mũi: “Ừ…đưa cả chuyện tốt lẫn chuyện xấu chứ gì?”. Nói xong nó đưa mắt diễu cợt nhìn 3 thằng gã, gã tủm tỉm cười quay mặt đi chỗ khác tránh ánh mắt như trêu ngươi của nó.
Trong lúc mấy anh em lính cựu đang nói chuyện thì mấy cậu tân binh tản ra kiểm tra xem bọn này có giấy tờ gì trong người không và cũng kiểm tra những kẻ tập kích xem có thằng nào còn sống không.
Thấy thằng bị thằng Đực xiên 1 đường lê vào ngực phải lúc nãy vẫn còn thoi thóp thở, một cậu tân binh giơ súng dí sát đầu kẻ tập kích định bắn...
Một lính cựu cùng đoàn vội ngăn lại: “Đừng bắn…mày bắn phí đạn. Nhìn thấy nhát đâm vào phổi không?
Đó…cứ mỗi lần nó thở là máu nó sủi thành bọt khí kia là biết. Thằng này không cần bắn, cứ để đó chỉ 1 lúc nữa nó sẽ chết thôi.
Nhát đâm này quá hiểm và chuyên nghiệp nè…Lấy lựu đạn ra…tao sẽ hướng dẫn chúng mày cách cài lựu đạn dưới lưng bọn này.
Thằng nào đến lấy xác chúng nó, chỉ cần lật xác lên là lựu đạn sẽ kích nổ…”…
Sau hôm bị tập kích đó 5 hôm, vào lúc gần 4h chiều, sư đoàn bộ “được đón” 3 vị khách “quý” của quân báo mặt trận xuống thăm.
Gã và thằng Long “Polpot” đang chuẩn bị dây dù, cật tre già để đi đặt bẫy kiếm chút đồ cải thiện.
Thằng Loan công vụ chạy hộc tốc từ trên nhà chỉ huy sư bộ xuống: “Các anh ơi…có chuyện rồi…”.
Thằng Đực: “Mi làm cái chi cứ như cháy nhà, chết người zậy? Cứ bình tĩnh kể đầu đuôi bọn tao nghe”.
Thằng Loan vừa thở dốc vừa hổn hển nói: “Mấy ông phòng 2 trên mặt trận xuống họp với các thủ trưởng và yêu cầu kỷ luật tổ 4 B3 các anh đó. Các cụ đang phản đối, không đồng ý kia. Cãi nhau to lắm”...
Thằng Long ngẩn người ra: “Ơ…bọn tao có làm cái dell gì đâu mà đòi kỷ luật”...
(P/ s Thực ra trận cận chiến trên ở ngoài nó còn khốc liệt hơn, nếu là "phía bên kia" viết thì nó sẽ tàn khốc, man r.......Và để đưa lên đây em phải cắt, lược đi khá nhiều đoạn dính máu me, những đoạn mà đoạt mạng kẻ địch khó tưởng tượng. Mong các bác thông cảm).
nói xong nó quay mặt nhìn gã như dò hỏi. Nhìn ánh mắt nghi ngờ của nó mà gã thấy lộn ruột: “Độ này tao có làm gì đâu…đi…anh em mình lên xem có chuyện gì mà mấy ông đòi kỷ luật anh em mình”.
Thằng Trung “cóc” B trưởng: “Đi, em cũng lên…xem vì sao mà các ông lại muốn kỷ luật tổ”.
Bốn thằng bọn gã vội sấp ngửa chạy lên lán chỉ huy sư bộ, đằng sau thằng Trung “cóc” và mấy thằng ở trung đội 1, 2 cũng bám sát theo. Thằng Loan nói với theo: “Các anh nhớ cẩn thận nhé, kẻo chết em vì tội nhiều chuyện đó…”.
Mấy thằng men theo các bụi cây dại rồi đến nấp ngay phía dưới cửa sổ. Cách đó không xa là chiếc Gaz 69 loại đít tròn mang biển MT…qua ô cửa thấp thoáng mấy chiếc ba lô mà không thấy lái xe đâu.
Tiếng bố Linh, đại tá, sư đoàn phó, chủ nhiệm chính trị gay gắt: “…chúng nó có 4 thằng mà phải chiến với 9 thằng, thử hỏi lúc đó chúng nó lo giữ mạng còn khó chứ đâu còn nghĩ được cái gì mà bắt lưỡi với túm lưỡi...
Chỉ có loại lính bàn giấy, lính “cảnh” ngồi không, suốt ngày đút chân gầm bàn, chẳng biết hòn đạn mũi tên vuông hay tròn, nghe tiếng súng nổ còn đái ra quần, chỉ giỏi ăn tục nói phét mới nghĩ ra được cái trò đó thôi…các anh cứ nâng cao quan điểm…
Lính của tôi nên tôi hiểu chúng nó lắm. Nếu có điều kiện thì chúng nó chắc chắn sẽ túm lưỡi, không cần ai nhắc cả, nhưng ngộ biến tòng quyền...
Nếu hôm đó mà chúng nó ham bệnh thành tích bắt lưỡi để dẫn đến tổn thất nhân mạng, thì tất cả những thằng còn sống về đây tôi sẽ cho cột cổ lại cạo đầu, chứ ngồi đó mà đòi kỷ luật chúng nó”.
Có tiếng bố Hưng, đại tá, sư đoàn phó, tham mưu trưởng tiếp theo, cũng không kém phần nóng nẩy:
“Nếu mấy đứa mà hám thành tích, muốn lập công mà chết 1 cách lãng xẹt. Thì chúng ta, trong đó có các anh, có tôi đều có tội với chúng nó, với gia đình, cha mẹ của chúng nó. Các anh ngồi văn phòng nên phát biểu không sát với thực tế chiến trường. Nếu chúng nó là con em, là cháu của các anh thì các anh có dám để chúng nó ngu xuẩn xông vào cái chết 1 cách mù quáng như vậy không? Lập công thì ai chẳng ham, nhưng lập công mà chết lãng nhách thì chẳng ai cần…”.
Mấy thằng gã nấp phía ngoài nghe vậy đã đoán được phần nào lý do mà các cán bộ phòng 2 của mặt trận muốn kỷ luật tổ rồi.
Chỉ có điều gã thấy lạ, nếu như bố Hưng là sĩ quan tham mưu nóng tính đã đành. Còn bố Linh là chủ nhiệm chính trị, mà dân chính trị thì đa số nói năng nhẹ nhàng, khúc triết, hiếm khi thấy nổi nóng.
Vậy mà chỉ vì chuyện mấy thằng gã quyết tiêu diệt bọn tập kích, không bắt lưỡi đã làm cho cụ nổi nóng với cán bộ phòng 2, những sĩ quan cả đời ngồi văn phòng, đòi kỷ luật những thằng lính thiện chiến nhất của đơn vị.
Những sĩ quan mang tiếng là lính chiến trường K mà chỉ mới nổ súng được vài lần, nghe tiếng súng nổ cũng chẳng phân biệt được đâu là tiếng AK, đâu là tiếng CKC hay M16…
Sau khi biết được nguyên nhân các sĩ quan phòng 2 yêu cầu kỷ luật tổ, thằng Đực vẫy tay ra hiệu cho tất cả rút ra ngoài.
Khi đã về đến lán, tất cả tụm lại bàn bạc. Thằng Hải “trố” lên tiếng đầu tiên: “Mấy cha này quan liêu, chẳng hiểu mẹ gì về lính chiến cả, tao nghe bố Hưng, bố Linh mắng mà thấy hả dạ quá”.
Mỗi thằng 1 câu như cái chợ vỡ vậy, thằng nào cũng thấy cay mũi và ấm ức. Thằng Đực nói to: “Tao có ý kiến thế này. Thằng Tiến “chuột” ra gác đi, thấy ai đến thì nhớ báo cho bọn tao biết…”.
Kế hoạch mà thằng Đực đưa ra đều được tất cả anh em ủng hộ. Chỉ có gã, Trượng “khỉ” và thằng Long “Polpot” còn chút lấn cấn, sợ kế hoạch đổ bể.
Trượng “khỉ”: “Nếu mấy ông không về qua lối đó thì sao?”. Thằng Đực quả quyết: “Các ông xuống lúc chiều muộn thì sẽ không đi đơn vị khác nữa mà sẽ quay thẳng về Bộ tư lệnh. Kiểu gì cũng phải đi đường đó, đó là con đường về Bộ tư lệnh gần nhất, thoáng nhất. Đi đường khác vừa xa lại dễ dính mìn nên chắc chắn sẽ đi đúng con đường này…”.
Tất cả chụm đầu bàn bạc thêm các phương án dự phòng, cách đối đáp nếu kế hoạch không thành. Sau đó tản ra, mỗi nhóm 1 việc, thằng nào làm việc thằng đó…
Gần nửa đại đội trinh sát luồn sâu cắt rừng đi tắt ra ngã 3 đường từ Sisophon đi Banan (Battambang), cách sư bộ độ 8km nằm phục kích. Đúng như dự đoán của thằng Đực, lúc đã nhọ mặt người thì nhìn thấy ánh đèn xe quét loang loáng từ phía xa lại.
Độ mấy phút sau thì nghe thấy tiếng xe ô tô tiến đến gần. Chờ cho xe vào cách ngã 3 độ 20m thì thằng Trượng “khỉ” xiết cò khẩu RPK, đường đạn ăn thẳng lên tàng cây bên kia đường làm lá rụng lả tả xuống đường, mồm nó hô to “Chô...chô…”.
Tất cả cũng đồng loạt nổ súng và gào “Chô...chô” ầm cả lên. Hô thì to, bắn thì hăng nhưng không xung phong mà chỉ nằm 1 chỗ để hô và bắn, còn các đường đạn toàn “tìm chim” vào các ngọn cây…
Sau loạt đạn dài không thấy phía xe ô tô có động tĩnh gì cả, dù máy xe vẫn đang nổ, đèn pha vẫn bật...
Thằng Đạo bò dần lên quan sát. Nó ngó nghiêng rồi đứng hẳn lên mặt đường nhòm ngó xung quanh, sau đó nó quay người lại vẫy tay làm hiệu an toàn.
Tất cả chạy ùa đến thì thấy xe trống không, chỉ thấy mấy cái ba lô vứt chỏng chơ trên sàn xe, còn người thì chẳng thấy ai cả. Cả lũ buồn cười quá, cười cho sự nhát như thỏ đế của mấy ông trên xe. Thằng Phú “nhái”:
“Lúc nãy anh em mình bị đèn pha ngược sáng chói hết cả mắt nên không nhìn thấy mấy cha tụt xuống xe chạy mất tiêu lúc nào…thôi nhặt mấy cái ba lô rồi lặn luôn kẻo mấy cha quay lại thì hỏng hết”.
Sáng hôm sau, mấy thằng đang tụ ở lán B2 uống trà tán láo thì thằng Hà “thằn lằn”, dân Hà Tuyên (tên cũ của Hà Giang), liên lạc viên của đại đội trinh sát luồn sâu xuống truyền đạt:
“Anh Toản có lệnh, tất cả đại đội trinh sát luồn sâu đúng 9h có mặt tại nhà C bộ để họp khẩn”.
Cả bọn lục tục kéo nhau lên nhà C bộ đã thấy anh Toản C trưởng, anh Hòa C phó chính trị và thằng Quan C phó quân sự ngồi đợi ở bàn rồi. Anh Toản mặt lạnh tanh, thỉnh thoảng rít 1 hơi thuốc rồi ngửa mặt thả khói lên trần nhà.
Thái độ khác hẳn với vẻ “nước sôi” thường ngày, báo hiệu sắp có “bão” to. Thằng Quan thì hí hoáy ghi chép gì đó trong cuốn sổ tay.
Anh Hòa thì mặt mày cau có, đầy vẻ bực bội…Khi tất cả đã ổn định chỗ ngồi, anh Toản ngước nhìn toàn đại đội:
“Các trung đội kiểm xem đủ người chưa? Hay lại thiếu như tối qua”.
Nghe vậy nhiều thằng giật thót mình, kể cả gã. Dù ngoài mặt thì thằng nào cũng tỏ vẻ thản nhiên và bình tĩnh như không hiểu ý anh nói gì cả. Cả lán C bộ im phăng phắc và đầy căng thẳng, chờ đợi bão nổi, gió giật. Anh nói tiếp, vào thẳng vấn đề, không vòng vo rào trước đón sau:
“Hôm qua ông nào đầu têu vụ nổ súng vào xe của ông M…?"...
Tất cả đại đội vẫn ngồi im với vẻ mặt tỏ ra ngây thơ nhất, vô tư nhất có thể. “Nào, nói đi chứ…ông nào đầu têu vụ này…câm hết cả lũ với nhau rồi à?
Trước khi gây chuyện tày trời như vậy có nghĩ đến hậu quả không hả?”. Anh dừng lại chút rồi tiếp:
“Nếu không ai nhận tôi sẽ yêu cầu cấp trên kỷ luật cả đại đội, lúc đó đừng trách sao tôi quá đáng”.
Thằng Đực đứng lên gãi đầu, lí nhí: “Dạ, em ạ”. “Tôi thừa biết vụ này là các ông gây ra nên đừng cố mà cãi là không biết gì, không làm gì. Khi mà tốp của ông M…chạy bộ ngược về đây báo cáo bị lính Pot phục kích ở ngã ba.
Tôi xuống ngay lán để lấy người ra hiện trường, vì dù sao lính luồn sâu về ngành dọc cũng thuộc bên phòng 2 quản lý nên không thể làm ngơ được.
Trừ 1 số tổ đi “thám” chưa về thì lán trung đội 1 và 3 không có 1 bóng nào ở nhà cả. Trung đội 2 còn lại vài ông đang đi tắm ngoài suối chưa về. Vậy các ông đi đâu thì tôi cũng đã lờ mờ đoán được rồi.
Khi tôi ở ngã ba về thì thấy các lán của các trung đội đều đã đông đủ, chẳng thiếu mặt ông nào cả. Sau đó tôi lên vệ binh để hỏi, thì tay Vĩnh (C trưởng vệ binh) nói là các ông xuống lấy mấy khẩu RPD, RPK đi đâu đó, vừa mang trả được 1 lúc.
Tôi ngửi nòng súng thấy mùi còn khét lẹt, đã vậy còn làm rất lộ liễu, ai nhìn cũng có thể đoán được…”.
Anh ngừng 1 chút rồi nhìn khắp đại đội: “Các ông có biết việc các ông bị lộ do sơ hở là gì không?”.
Anh vừa dứt lời, thằng Long “Polpot” ngồi bên cạnh thúc mạnh khuỷu tay vào mạng sườn gã 1 cái đau nhói làm gã buột miệng: “Ái…cái xe…”. Anh quay qua chỗ ngồi của nhóm gã: “Ông nào vừa nói cái xe đó…đứng dậy tôi xem nào?”.
Gã đứng lên: “Dạ…em nói ạ”. “Ờ thì cái xe làm sao? Ông phân tích cho tất cả nghe đi”.
Gã ấp úng: “Dạ…báo cáo anh…nếu là lính Pot phục kích thì bắn thẳng vào xe…không chết người thì cũng vỡ kính hoặc thủng lốp, hỏng xe ạ” “Biết vậy sao không bắn?
Đến gạo cứu đói dân Miên mà còn dám trộm, vậy mà chuyện vặt vãnh này lại không chú ý để dọn dẹp sạch sẽ là sao?
Khôn ranh ở đâu?
Kinh nghiệm ở đâu mà cái việc cỏn con đó không chịu động não hả? Ăn cái gì mà ngu rứa?...”.
“Dạ, bắn dọa cho mấy ông sợ thì được, còn bắn hỏng xe của quân đội thì cho kẹo bọn em cũng không dám ạ”
“Biết sợ mà còn rủ nhau đi gây chuyện, mà đã cả gan làm chuyện tày đình mà không biết xóa dấu vết, để ai nhìn cũng có thể đoán được. Đã không làm thì thôi, đã làm thì phải giống, còn không giống, không xóa được dấu vết thì đừng có làm. Ngu xuẩn lắm”.
Anh cứ đứng độc thoại chửi tuốt luốt, cả đại đội cúi mặt im re, chẳng thằng nào dám cãi.
Quát mắng rồi giáo huấn 1 tràng, sau cùng anh kết lại bằng giọng diễu cợt: “Tôi chẳng hiểu khi ở trường người ta dạy các ông ra sao mà sang đến đây, những bài vỡ lòng như vậy cũng không làm nổi. Thế mà đi đâu cũng vỗ ngực lính trinh sát luồn sâu được đào tạo bài bản. Bài bản là thế sao?”.
Thằng Trung “cóc” rụt rè:
“Bọn em trót dại rồi, bây giờ phải làm sao ạ?”.
Anh Toản cười nửa miệng: “À, biết là dại rồi hả? Còn chờ để các ông phát hiện ra sơ hở của mình thì quân pháp mặt trận và quân đoàn cũng phát hiện được. Lúc này đứng nói chuyện với các ông ở đây sẽ không phải là tôi mà là bên quân pháp đó”.
Cuối cùng, sau một hồi tràng giang đại hải anh ngồi xuống để anh Hòa C phó chính trị, dân Vĩnh Long có ý kiến.
Anh Hòa hỏi: “Mấy cái ba lô đâu? Trong ba lô có gì?”. Thằng Phú “nhái” đứng dậy báo cáo: “Dạ, trong ba lô chẳng có gì quan trọng, chỉ có mấy bộ quần áo và 1 đôi dép.
Dép thì em cho thằng Khải “dế” vì giầy nó thủng hết rồi. Quần áo thì em chia cho mấy đứa bị rách. Em lấy mỗi cái quần đùi thôi ạ”.
Anh Hòa: “Gan các ông to thiệt đó. Đến cán bộ của mặt trận mà các ông cũng dọa, không chừa 1 ai cả”.
Thằng Phú chớp chớp mắt ra vẻ hiền lành, thật thà:
“Dạ, để em kêu mấy đứa trả lại đồ rồi đem lên nộp lại cho các anh ạ”. Anh Hòa đập mạnh tay xuống bàn:
“Không…không trả cái gì hết…bây giờ mà đem trả khác gì lạy ông tôi ở bụi này. Tuyệt đối không trả”.
Chữ KHÔNG TRẢ anh kéo dài giọng ra. Nói xong tự dưng anh đứng ngẩn người ra, rồi quay qua nhìn anh Toản.
Bất chợt 2 ông cười phá lên, cả đại đội thấy buồn cười trước việc anh Hòa cấm mang trả lại đồ và nhất là nhìn vào điệu bộ của anh ấy. Lúc đầu thì còn vài tiếng khúc khích cố nín lại, sau đó thì cả đại đội bò lăn ra cười.
Tiếng cười lan ra nhanh chóng, không khí buổi họp đang căng thẳng chợt biến mất, mặt ai cũng dãn cả ra.
Chờ ngớt tiếng cười, anh Toản lên tiếng: “Chuyện này chỉ trong đại đội biết với nhau, tôi cấm các ông bép xép ra ngoài.
Từ nay trở đi, định làm cái gì thì dùng cái đầu mà suy nghĩ trước khi hành động, đừng có ngu xuẩn như vậy kẻo có ngày quân pháp xuống hỏi thăm đó.
Cũng may trong ba lô không có giấy tờ quan trọng, nếu không chuyện vỡ lở ra thì cả đại đội rủ nhau ra Tòa án binh hết”.
Anh Hòa tiếp lời: “Các “bố” cứ chơi dại thế này thì có ngày nào đó, các “bố” sẽ đưa toàn bộ ban chỉ huy huy đại đội ra trước vành móng ngựa cả lũ thì nhục lắm”.
Thằng Đực đứng lên hỏi: “Dạ, chuyện này ngoài các anh biết thì các thủ trưởng có biết không ạ?”.
Anh Hòa: “Sao ông hỏi vậy? Có chuyện gì sao?” “Dạ, lúc nãy trên đường xuống nhà C bộ, em gặp bố Hưng. Em chào cụ mà cụ gườm mắt nhìn em, không trả lời”.
Anh Toản, anh Hòa và thằng Quan đưa mắt nhìn nhau. Lính tráng cả đại đội thì thấy lo và hồi hộp. Chuyện này mà để các thủ trưởng biết được thì đúng là to chuyện rồi, không phải là chuyện dọa dẫm mấy ông sĩ quan “kiểng”, sĩ quan “nhà trẻ” nữa rồi.
Anh Hòa: “Không biết, nhưng giờ các cụ có biết thì cũng đành chấp nhận thôi. Sự liên đới này thì cả ban chỉ huy đại đội cũng có phần trách nhiệm trong việc quản lý chiến sĩ của mình.
Dù sao việc không muốn cũng đã xảy ra rồi, nếu bị kỷ luật thì tất cả cùng chịu, không đổ lỗi cho cá nhân nào hết. Vui sướng có nhau, hoạn nạn có nhau. Còn bây giờ giải tán và nhớ kín miệng”…
Cuộc họp giải tán mà thằng nào cũng lo canh cánh trong lòng, nhưng rồi theo thời gian câu chuyện cũng chìm dần vào quên lãng.
Không thấy ai nhắc đến, các thủ trưởng cũng chẳng thấy đả động gì. Tất cả bình thường như chưa hề có chuyện tày trời đó xảy ra. Cho đến ngày ra quân cũng không thấy thủ trưởng nào nói về chuyện đó.
Năm 2002, khi bố Hưng ốm nặng, bệnh viện trả về, mấy thằng luồn sâu năm xưa đã về Ninh Bình thăm bố.
Tuy mệt nhưng cụ vẫn tiếp chuyện vui vẻ với những thằng lính mà cụ coi như con khi còn ở chiến trường Campuchia năm nào.
Cụ nhắc về những kỷ niệm với chúng nó, vui có, buồn có, nhưng riêng chuyện này không thấy cụ nhắc đến. Đến bây giờ, gã và những thằng bạn trinh sát luồn sâu năm đó cũng không biết là các thủ trưởng có biết về câu chuyện này hay không nữa…
Riêng về ông M…sau này (năm 1989 hay 1990 gì đó), chuyển về làm sĩ quan chính trị của trung đoàn nghi lễ - quân nhạc 781, Quân khu Thủ đô. Nghe nói là chủ nhiệm hay phó chủ nhiệm chính trị gì đó. Lúc đó Quân khu Thủ đô chưa mang tên Bộ tư lệnh Thủ đô như bây giờ và trung đoàn nghi lễ - quân nhạc 781 vẫn trực thuộc quân khu, chưa tách về Bộ quốc phòng.
Thời điểm đó trung đoàn kiểm soát quân sự 147 và trung đoàn nghi lễ - quân nhạc 781 là 2 trung đoàn độc lập của quân khu nên cấp hàm trung đoàn trưởng thường là đại tá, nếu là chủ nhiệm chính trị thì có thể là cấp thượng tá hoặc đại tá.
Gã cũng chỉ nghe anh em kể lại vậy, chứ từ lúc ra quân đến giờ, đã mấy chục năm trôi qua chưa bao giờ gặp lại ông ta.
Sau này mấy thằng vệ binh kể lại câu chuyện anh Toản đã ra tay cứu nguy cho mấy thằng em dại trong vụ đó như thế nào.
Hôm đó, trong lúc sư bộ đang chuẩn bị bố trí lực lượng đi ứng cứu cho mấy ông sĩ quan mặt trận. Thì anh Toản đã ra ngã 3 trước với mấy lính C trinh sát bộ binh, vệ binh bằng chiếc Com măng ca đít vuông (Gaz 69). Ra đến nơi nhìn thấy chiếc xe còn nguyên, không có vết đạn nào anh lầm bầm chửi vì phần nào đoán biết được những ai đã bố trí phục kích ở đó.
Anh liền nổ súng bắn chếch từ dưới lên qua kính bên phụ, thủng cả bạt, bắn bể 1 đèn pha và lốp. Anh cũng cấm chúng nó về không được kể lung tung.
Khi về đến đơn vị, việc đầu tiên là anh phi ngay vào lán vệ binh kiểm tra tủ đựng súng, không ngoài dự đoán, mấy khẩu RPD, RPK còn khét nguyên mùi thuốc súng.
Sư bộ có 5 đại đội, cùng 4 tiểu đoàn trực thuộc là đại đội trinh sát luồn sâu, đại đội trinh sát bộ binh, đại đội phòng hóa, đại đội phòng không, đại đội vệ binh, tiểu đoàn quân y, tiểu đoàn công binh, tiểu đoàn hỗn hợp độ 25 chiếc vừa tăng T54 vừa thiết vận xa M113, đại liên 12,7 ly, DKZ 82, cối 81…và tiểu đoàn vận tải.
Hai đại đội trinh sát bộ binh và trinh sát luồn sâu, do đặc thù tác chiến cần gọn nhẹ nên không có hỏa lực mạnh như M79, RPD, RPK, B40, B41…tất cả các loại hỏa lực mạnh, kể cả tên lửa vác vai Igla đều được để tập trung tại tủ vũ khí trên lán của vệ binh.
Trong trường hợp sư bộ bị tấn công hoặc cần tác chiến hay cần tăng cường hỏa lực thì ai cần sử dụng loại hỏa lực nào cứ lên vệ binh lấy), do vậy mà khi kiểm tra súng anh thừa biết lính của mình đã gây ra chuyện động trời này.
Nhưng những thằng lính trẻ tuổi bốc đồng năm đó cũng hết sức may mắn khi nhờ có anh ra tay “dọn dẹp” mà thoát được những rắc rối nếu bị phát hiện.
Anh thật sự là người đại đội trưởng hết lòng vì các em, những thằng lính tinh quái 1 thời dưới quyền chỉ huy của anh.
Trong những lần gặp mặt lính trinh sát luồn sâu sư đoàn 7 bộ binh giai đoạn 1984-1989 anh em luôn nhắc đến anh với lòng kính trọng sâu sắc, xen lẫn tự hào. Người anh cả của đại đội trinh sát luồn sâu 1 thời vào sinh ra tử cùng nhau...