[Funland] Dịch tài liệu cổ: Thư, Nhật ký các giáo sĩ viết về nhàTây Sơn, nhà Lê, chúa Trịnh và Nguyễn Ánh.

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trước, em cũng công bố bản dịch Nhật ký ở Bắc Hà hay là: Ghi chép về những sự kiện đáng nhớ nhất trong Sứ mệnh Bắc Hà, từ tháng 7 năm 1786 đến cuối tháng 7 năm 1787, và giai đoạn 1788-1789 của giáo sĩ Jean Davoust.
Qua cuốn nhật ký này, khắc họa một giai đoạn chiến tranh kinh hoàng giữ Tây Sơn, quân Lê-Trịnh, quân Thanh. Khắc họa những nhân vật Lịch sử khá rõ nét như: Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Hữu Chính...
Nay, có điều kiện tìm thêm được tài liệu mới, tức là thêm những lá thư khác của các giáo sĩ trực tiếp sống tại cả 2 miền Nam-Bắc giai đoạn ấy, xem họ đã viết gì, thái độ của họ thế nào? và, họ miêu tả cuộc sống người dân ra sao?
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Các bức thư là những trao đổi cá nhân giữa các giáo sĩ, hoặc các ghi chép cá nhân, được lưu trữ ở thư viện Vatican và văn khố hội Thừa Sai Paris.
Những thông-tin trong thư hoàn toàn mang cách đánh giá cá nhân, vì vậy, thông tin các cụ coi như tham khảo, để đọc và có một góc nhìn sâu hơn về 1 giai đoạn Lịch sử.
Do văn phong các giáo sĩ là văn phong ngôn ngữ nhà thờ, có thư bằng tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Latin...nên khi dịch, em cố giữ lại văn phong gốc, nhưng sẽ có chú thích cho rõ.
Do trình độ ngoại ngữ tiếng Pháp, Tây Ban Nha và Latin rất ngu dốt, văn phong quê mùa, trình độ hạn chế, mong các cụ lượng thứ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sắc lệnh của vua Đàng Trong về Kitô giáo
Sắc lệnh của vua Đàng Trong, trao quyền tự do cho những người xưng tội bị giam giữ từ năm 1749, và cho phép họ tự-do hành đạo.
Ta, người ký tên dưới đây, Cận thần trong cung Hoàng gia và của triều đình, thay mặt nhà vua, thông báo cho tất cả các thần dân của Vương quốc về các mệnh lệnh sau, Cụ thể là:
[Ta cầu-xin và] Bệ hạ [đã] ban ân-xá chung và tự do hành đạo Thiên chúa cho tất cả những ai trước đây đã bị kết án cắt cỏ voi hoặc làm nô lệ vĩnh-viễn trong quân [ đội], vì đã không muốn bỏ đạo và chà đạp lên hình tượng của Jesus.
Hoàng thượng mệnh rằng sau khi sắc lệnh này được ban hành, tất cả các quan lại, đứng đầu các tỉnh và những người khác, phải trả tự do cho những người có tên trên và cho họ được yên ổn tuyên xưng đạo; ra lệnh cho triều đình của mình gửi ngay lệnh này đến tất cả các quan lại, tổng đốc các tỉnh và những người khác, để được công bố ở tất cả các trấn và làng mạc trong xứ của mình, và nhờ đó mọi thần dân đều biết về ; ra lệnh cho các quan nói trên, tổng đốc các tỉnh và những người khác, lấy danh sách chính xác tất cả những người theo đạo Thiên chúa trước đây bị trừng-phạt vì tôn giáo của họ, và phải trình danh sách đó trong thời gian ngắn để chứng nhận cho đức vua việc thi hành mệnh lệnh của mình; rằng cuối cùng những người theo đạo Thiên chúa nói trên, sau khi được giải thoát, phải trình-diện trước triều đình, để tạ ơn Bệ hạ vì đã ban ơn lớn như vậy, và để các quan lại, tổng đốc các tỉnh và những người khác thấy rõ điều này, nhanh chóng thực hiện mệnh lệnh này.
Lệnh này được dán ở khắp mọi nơi trong Vương quốc.
Ngày 12 tháng 3 năm Giáp Ngọ [tức ngày 22 tháng 4 năm 1774].
Theo lệnh của nhà vua.
Bộ Sinh, cận thần của Hoàng gia và triều đình.
[Lệnh này của chúa Nguyễn Phúc Thuần, [1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777], hay Nguyễn Duệ Tông, còn có tên khác là Nguyễn Phúc Hân, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa Nguyễn. Sau cái chết của phụ vương, Nguyễn Phúc Thuần được quyền thần Trương Phúc Loan lập làm Vương khi chỉ mới 12 tuổi, và người này sau đó thâu tóm hết chính quyền ở Nam Hà, và làm nhiều việc khiến triều đình Phú Xuân ngày càng lụn bại, suy yếu.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông La Bartette gửi ông Alary, ngày 24 tháng 7 năm 1780
[Giáo sĩ Jean La Bartette, quê gốc giáo phận Bayonne, đến Đàng Trong vào tháng 12 năm 1773. Năm 1792, ông được tấn phong Giám mục và được bổ nhiệm làm phó sứ vụ. Năm 1799, ông nhậm chức đại diện tông tòa. Ông mất ngày 6 tháng 8 năm 1823 tại Cổ Vưu, nay là làng Trí Bưu thuộc phường 2 thị trấn Quảng Trị. Ông được chôn cất trong nhà thờ này].
[ Giáo sĩ Alary Georges, quê thuộc giáo phận Albi, đến Xiêm vào tháng 3 năm 1763. Năm 1764, trong cuộc xâm lược của người Miến Điện, ông ở Merguy ông bị đánh bằng gậy và bị bắt làm nô lệ. Năm 1767, ông đến Trung Quốc và ở đó cho đến năm 1773, đến Đàng Trong và được triệu hồi về Paris và làm lưu trữ ở Hội thừa sai]
Trong những bức thư của tôi năm trước, tôi đã nói về một sắc lệnh mà người Bắc Hà đã ban hành chống lại các Kito hữu. Lệnh này vẫn chưa bị thu hồi. Ngay khi thấy sắc lệnh này, có một số cộng đồng Kitô giáo ở xa các nhà truyền giáo đã kéo sập nhà thờ của họ vì sợ bị [ triều đình] gây khó dễ, nhưng [tôi thấy vấn đề này] không nghiêm trọng lắm, các giáo dân ngay lập tức xây dựng lại [ các nhà thờ]. Ông biết rõ rằng lỗi này đã không bị trừng phạt; vì họ đã làm điều này một cách thiện chí, sau đó họ đã phản đối lệnh phá nhà thờ.
Bất chấp sự cấm đoán này, chúng tôi vẫn đi trên con đường của mình: tất cả các Kitô hữu của chúng tôi vẫn thường xuyên được thăm viếng và chăm sóc như trước đây....
Ở Bắc Hà, tất cả các nhà truyền giáo của chúng tôi đều làm tốt như ở nhà. Tôi rất thường nhận được thư từ các vị này và đặc biệt là từ cha Sérard [Giáo sĩ Philippe Sérard, quê ở Normandy, đến Đàng Ngoài năm 1767, ông đã thi hành thánh chức cho đến ngày 2 tháng 10 năm 1804, ngày ông qua đời. Ông đã dịch sang tiếng Việt một số lượng lớn sách châu Âu, để phục vụ cho việc giảng dạy cho các linh mục và Kitô hữu bản xứ, trong số đó có cuốn Perfection Chrétienne của Rodriguez] người đã viết thư cho tôi khoảng 20 ngày trước và nói với tôi rằng đã lâu rồi chúng tôi không được hưởng sự yên bình và thanh bình tuyệt vời như vậy ở Bắc Kỳ, cả về tôn giáo hay về chiến tranh.
Năm nay chúng tôi hoàn toàn không có tin tức gì từ các cha từ Đồng Nai. Vương quốc này luôn bị chia làm 3, cụ thể là phần Bắc Kỳ nơi của ông, phần của những kẻ nổi loạn nơi tôi [tức là miền Trung]. Tôi vẫn chưa gặp cha d ‘Arcet, nghe nói ông đã được diện kiến gia đình hoàng gia [ chúa Nguyễn], 2 phần còn lại của vương quốc [ An Nam] [ tức là miền Bắc và Nam] về phần Đạo là còn tự do nhất, phần còn lại [ miền Trung] có hơi gò bó, nhưng vì chiến tranh đang xảy ra, và thậm chí mạnh hơn bao giờ hết [ chỉ cuộc nổi dậy của Tây Sơn].
Nam Hà, ngày 24 tháng 7 năm 1870.
[ Văn khố M-E, 746, số trang 2-3]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông La Bartette gửi ông Blandin, ngày 13 tháng 4 năm 1784
[ Giáo sĩ La Bartette trước thuộc phái bộ truyền giáo Nam Hà, sau đó mở rộng từ sông Gianh, phía bắc Quảng Bình, cho đến Campuchia, ông La Bartette đã cư trú gần trọn đời ở các tỉnh phía bắc của phái bộ này, nghĩa là ở Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị, Quảng Bình ngày nay].
[ Giáo sĩ Blandin Pierre-Antoine, quê thuộc giáo phận Amiens, rời Pháp vào ngày 7 tháng 12 năm 1778. Trên đường đến Bắc Hà, ông bị giao cho các quan tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc, và giam giữ vài tháng. Năm 1785, ông được phái bộ Đàng Ngoài vào cử vào Đại chủng viện Paris. Trong cuộc Cách mạng Pháp, ông lánh nạn ở Anh và qua đời tại Luân Đôn vào ngày 22 tháng 6 năm 1801. Một lá thư từ cùng một nơi gửi cho cùng ngày, ngày 19 tháng 5 năm 1784 nằm ở Lưu trữ M-E, 746, tr. 50, cho biết địa chỉ của ông là ở Xứ Nam, một vùng tương ứng với hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình hiện nay].
….... Xin mạn phép nói với ông Sérard rằng tôi đang chờ một tin tức xác định nào đó từ [ xứ] Quảng [Người An Nam ở các tỉnh lân cận Huế ngày nay vẫn hiểu rằng từ Quảng tất cả vùng phía Nam, đặc biệt là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, toàn bộ khu vực này hợp thành một tỉnh duy nhất, gọi là Quảng-nam], tức là từ phần [ Nguyễn] Nhạc, để viết thư cho ông. Chúng tôi đã không có tin tức nhỏ nhất về [Nguyễn Nhạc] trong gần 4 tháng; rất có thể Chúa Nguyễn [Ánh] sẽ lại tiếp quản Đồng-nai, vì Nhạc, người hôm trước sắp đến đây, đã lui bước và không xuất hiện nữa....
Nam Kỳ, ngày 13 tháng 4 năm 1784.
[ Lưu trữ M-E, 746, p.36]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Longer gửi ông Blandin, ngày 13 tháng 4 năm 1784
[Giáo sĩ Longer Jacques-Benjamin, quê ở Hâvre-de-Grace, giáo phận Rouen, cử nhân Sorbonně, lên đường đi Nam Hà ngày 4-12-1775. Vừa đặt chân đến xứ này, ông đã bị bọn cướp bắt và bắn trọng thương. Sau đó ông hai lần rơi vào tay quân Bắc Hà và bị giam. Năm 1790, ông được tấn phong Giám mục và được bổ nhiệm làm Đại diện Tông tòa Tây Đàng Ngoài. Ông qua đời vào ngày 8 tháng 2 năm 1831, thọ 80 tuổi]
…...Có vẻ như quân nổi dậy sẽ không đến thăm chúng tôi trong năm nay. Ở đây có tin đồn rằng vua Đàng Trong, được sự giúp đỡ của vua Xiêm La, đã thu phục được Đồng-nai, điều này buộc quân Tây Sơn phải chú ý đến vùng này của Vương quốc nghèo nàn...
Cổ Vưu, ngày 13 tháng 4 năm 1784. [ Lưu trữ M-E, 746, p.29]
[Nước Đại Việt ngay sau khi thống nhất một thời gian ngắn sau chiến tranh Lê-Mạc lại bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17 tới cuối thế kỷ 18 thành Đàng Ngoài và Đàng Trong. Năm 1771, anh em Tây Sơn nổi dậy chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chính quyền chúa Nguyễn đổ. Chúa Trịnh Sâm ở Đàng Ngoài nhân cơ hội đó phái Hoàng Ngũ Phúc mang quân vào đánh Phú Xuân. Đầu năm 1775, quân Trịnh đánh chiếm Phú Xuân, chúa Nguyễn Phúc Thuần bỏ chạy vào Nam Bộ.
Quân Trịnh tiếp tục đánh thắng quân Tây Sơn khiến Nguyễn Nhạc phải quy phục và nhận làm tiên phong đánh chúa Nguyễn. Từ năm 1776 đến năm 1785, Tây Sơn nhiều lần tấn công chúa Nguyễn ở Nam Bộ, giết 2 chúa Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương và đuổi chúa Nguyễn Ánh chạy sang lưu vong ở Xiêm La.
Sau khi làm chủ Nam Trung Bộ và Nam Bộ, Tây Sơn quay sang phía bắc đánh Trịnh]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Le Roy gửi ông Blandin, viết ngày 6 tháng 12 năm 1786

Kẻ Vĩnh, Bắc Hà ngày 6 tháng 12 năm 1786

[ Giáo sĩ Le Roy Jean-François, quê ở Vesoul, thuộc giáo phận Besançon, lên đường đi truyền giáo ngày 8 tháng 10 năm 1780. 24 ở Đàng Ngoài hầu như ông chỉ dành cho việc hướng dẫn và đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm 1805]

[ Kẻ Vĩnh, nay thuộc Ninh Bình]

Ngày 11 tháng 7 [1786]. Vì bức thư này không được viết vào cùng một ngày, nên ngày nay mọi thứ đã thay đổi rất nhiều. “Giặc [để nguyên văn, chú thích của giáo sĩ là: “những kẻ nổi loạn”. Vào thời điểm đó, điều này có nghĩa là Tây-sơn. Xa hơn nữa, chúng ta sẽ thấy “giặc” Quảng, “những kẻ nổi loạn ở đất Quảng”], nghe nói là Côù Chính [ Nguyễn Hữu Chỉnh, gọi là Cống Chỉnh] và [Nguyễn] Nhạc, v.v., được cho là đã chiếm lại Nam Hà và đánh đuổi người Bắc Hà. Hôm nay chúng tôi vừa được biết rằng những người giặc này đã đến “dưới cầu” [ để nguyên văn, chú thích của người viết nghĩa là nơi giáo sĩ Le Roy đang ở, nằm ở hạ lưu Kẻ Vĩnh, nghĩa là con kênh hay cống dẫn nước] với 400 chi'èc [ chiếc, để nguyên văn, tác giả chú thích thêm là chiếc thuyền chiến có buồm], và họ muốn đến Ké-cho [ Kẻ Chợ, tức là Thăng Long]
Ở phần trên chúng ta cũng chỉ nói về những khó khăn. Chúng ta sẽ ra sao đây, ngài thân mến...?
Ngày 18 tháng 7, đêm 18 rạng ngày 19 tháng 7, quân “giặc” đánh chiếm Vị-hoàng [thủ phủ vùng Sơn Nam Hạ, tức là thuộc Nam Định] và đang ở Hiến-nam [thủ phủ của Sơn Nam Thượng, nay thuộc Hưng Yên] có trận đánh với quân Bắc Hà, kéo dài gần một đêm. Cuộc chiến đấu rất ác liệt giữa phe hoàng gia [ nhà Lê-Trịnh] và phe Cống Chỉnh: chúng tôi đã nghe thấy ở Kẻ Vĩnh tất cả tiếng đại bác của họ. Quân Bắc Hà có chống cự, sau bại trận và bỏ chạy, nhưng không mất nhiều binh lính.
Ngày 20 [ tháng 7 năm 1786], “giặc” Quảng tiến vào Kẻ-chợ [Thăng Long]. Các cánh cổng thành đã mở; Quan lại, binh lính và dân chúng đều sợ hãi đến nỗi bỏ chạy tán loạn. Chúa Trịnh [ Khải] bỏ chạy, rồi vừa chạy vừa nghẹn ngào khóc. Vua Canh-hu'ng [Cảnh Hưng] cũng băng hà khoảng một tháng sau. Người Nam Hà cướp phá mọi thứ, vàng bạc, đại bác, súng trường, đồ đạc, voi, ngựa; chúng không để lại gì “phủ” [ chúa Trịnh] rỗng hết ngoài xác các cung phi. Họ lấy “chùa” làm nơi nghỉ cho quan lại; họ chôn các thần tượng mà dường như họ không mấy gắn bó; họ không cúng tế ở đâu cả, đến cha Khiêm, cha xứ [ phụ trách] kinh thành cũng bất lực. Còn bọn “các lái” [ lái buôn] thì bỏ mặc những người nghèo chết đói, nằm dọc đường và trong các quảng trường ở chợ, chúng không làm gì để cứu vớt hay cho người dân nghèo một chút từ thiện nào, tuy nhiên, cũng phải xét cho công bằng là vì sao họ lại có sự vô nhân đạo đó, “các lái” [buôn] cũng đã mất tất cả: thuyền, thóc, tiền, sạch cả, họ vẫn rất mừng vì không mất mạng. Chúng tôi đã thấy họ [ gần như] trần truồng đi qua đây để trở về Xứ Thanh [Thanh Hóa]. [ Nhưng khi họ] Về đến nhà, thật khốn nạn: bọn cướp đã đầy mặt đất như bầy châu chấu đói, trang bị vũ khí từ đầu đến chân như bọn cướp Ngày tận thế, chúng tụ tập hàng trăm tên, tay lăm lăm súng hỏa mai cướp bóc tất cả những thương nhân này, đốt nhà của họ. Gần Cửa Bạng [ Thanh Hóa] có một hòn đảo có những người lái buôn này sinh sống, với số lượng gần 3.000 người, trong số đó có gần 6 đến 700 Cơ đốc nhân. Ông Lamothe [ Giáo sĩ La Mothe Charles, quê giáo phận Sens, rời đi ngày 21 tháng 10 năm 1781, truyền giáo ở Đàng Ngoài, được bầu làm phó giám mục tông tòa Tây Đàng Ngoài và được tấn phong giám mục năm 1796. Qua đời ngày 22 tháng 5 năm 1816], người có mặt tại hiện trường, đã viết cho chúng tôi rằng có lẽ [ số còn sống sót] không quá 30 người: mọi thứ đã bị cướp bóc, người thì bị giết hại, cả bởi bọn giang hồ lẫn bọn trộm cắp....
Trong vương quốc mọi thứ rối ren, đâu đâu cũng chỉ có giết người, phóng hỏa, trộm cướp, nên bọn “giặc Quảng” sai quân chạy rày đây mai đó để truy quét bọn đạo tặc. Những người Nam hà này đã thực hiện công lý rất khắc nghiệt. Trong lần xét xử hay buộc tội đầu tiên, không cần bất kỳ thủ tục dài dòng nào, họ đã chặt đầu những tên trộm hoặc những người bị buộc tội như vậy. Mọi người [ lúc đầu] đều ca ngợi sự công bằng và vô tư của họ; vì họ không cướp bóc ai, và bằng lòng với việc chặt đầu. Điều này đã mang lại yên bình ở một số nơi, trong một thời gian: nhưng sau này, mới rõ là vì người Đàng Trong chỉ ra Đàng Ngoài để cướp bóc chứ không phải để trị vì ở đó, sau khi đã thu được nhiều chiến lợi phẩm nhất có thể và cướp bóc được ở phủ Yên Trường [nay thuộc các vùng Yên Định, Thiệu Hóa] cơ man là báu vật của “chúa” [Trịnh] ở Xứ Thanh, họ lên đường đem tất cả trở về nhà. “Vua Nhạc” đã đến Đàng Ngoài, đến tận Kẻ Chợ với khoảng 30 con voi và một số binh lính hùng hậu, sau hai hoặc ba ngày ở lại kinh đô, đã ra lệnh cho tất cả quân Nam Hà dọn sạch Đàng Ngoài. Nói sớm hơn làm: chúng rời đi, nhưng còn ồn ào hơn cả khi họ tiến vào. Binh lính của chúng, một phần gồm các sắc dân Mường, Man-di, và các dân tộc rợ khác từ Cao-miên, Chăm [ Pa] Xiêm, v.v.), chúng cướp bóc hai bên bờ sông, bắt đàn bà con nít, và bỏ lại rất nhiều rác rưởi bốc mùi kinh tởm.
Về phần vua [ Nguyễn] Nhạc, trước khi ra đi, đã làm phép “phụng truyền” [theo sắc lệnh nhà vua?] cho phá gần hết chùa, mỗi “tổng” [ để nguyên văn, chỉ để lại một ngôi. Người ta nói rằng ông ấy muốn được tôn thờ một mình: đó là lý do tại sao những người lính của ông ấy gọi ông ấy là “vua trời”, vua của thiên đàng. Họ nói rằng ông vẫn còn ở Bố-chính.... [gồm các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Minh Hóa và thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay].
Côung-Chinh [ Cống Chỉnh] ở quê nhà Xứ Nghệ cố thủ, chiêu binh lập đảng — Nhà Trịnh mới có một “chúa” mới, gọi là Ou Quận Quế [ Ông Quận Quế]; ông ấy là chú của vị “chúa” vừa mất [ tức Trịnh Sâm]. Các quan dường như thống nhất ủng hộ ông ta. Thống đốc đã được bổ nhiệm; tuy nhiên, họ vẫn không dám quay trở lại phủ của mình. Những “quân ba phủ” [ tức là lính Tam Phủ, hay còn gọi là Kiêu Binh, là đám lính quê gốc Thanh Hóa đã làm cuộc binh biến lật đổ Trịnh Cán và đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa] bị sỉ nhục và chúng đáng phải chịu [như thế, ý nói quân kiêu binh bị Tây Sơn đánh cho tan tác] những “quân kiệu” [tức là quân triều đình nhà Lê] kiên quyết chống lại chúa tể vĩ đại [ Nguyễn Nhạc] nhưng bị đánh bại và buộc phải chạy trốn, không có gì ngoài chiếc thắt lưng, và hầu như không thể kiếm được một nắm cơm để khỏi chết đói. Người ta nói rằng các quan không còn muốn sử dụng [quân Tam Phủ] nữa và người dân đã mệt mỏi với những điều phiền toái mà đám lính này gây ra. Tuy nhiên, sẽ khó thực hiện nếu không có…. [ quân lính].
[ Lưu trữ M-E, 691, 767-771, phần khác của thư được lưu tại văn khố Hội thừa Sai Paris]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Sérard gửi ông Blandin, ngày 31 tháng 7 năm 1786
Vụ mùa tháng 5 tuy người dân thu hoạch được ít nhưng đã làm giảm bớt nạn đói và những tệ nạn [ xã hội] mà nó gây ra.
Nhưng chúng tôi vừa mới bắt đầu thở phào thì bỗng thấy một hạm đội ghê gớm của quân khởi nghĩa Nam Hà xuất hiện, do tên đào binh Bắc Hà tên là Cống-Chiếnh [tức Nguyễn Hữu Chỉnh, tác giả viết theo âm tiếng Nghệ An lúc ấy] xuất hiện. Các ngài nên biết rằng vị quan này, tức giận vì cuộc thảm sát mà quân Đàng Ngoài đã thực hiện bốn năm rưỡi trước, đối với viên quan lớn [ tức là Hoàng Đình Bảo còn gọi là Quận Huy hay Huy Quận Công, bị kiêu binh giết], chủ nhân của ông ta, đã lui về phía dưới Nam Hà quyết tâm một ngày quay lại báo thù không thiếu một kẻ nào.

Vào cuối tháng 6, ông ta xuất hiện ở bờ biển Thượng Nam Hà, tự xưng làm chủ thủ phủ của vùng này và của cả tỉnh mà người Bắc Hà đã chiếm 12 năm trước. Ông ta nắm quyền kiểm soát toàn bộ khu vực đồn trú, binh lính, quan lại, tổng đốc, không ai được tha. Phó vương Co-Tao [ tức là Phạm Ngô Cầu, trước là tổng đốc Sơn Nam, năm 1776 được Trịnh Sâm cử vào Thuận Hóa để quản lý vùng đất mà quân Trịnh chiếm lại được từ tay chúa Nguyễn], người nổi tiếng bức hại tôn giáo, cũng mất mạng ở đó.

Cuộc viễn chinh này [ nhanh chóng] kết thúc, hạm đội [ Tây Sơn] nhân thuận gió, dong buồm tiến về xứ Xứ Nghệ, dồn quan tổng đốc, quân của ông ta và tất cả các đồn nhỏ trấn giữ các cửa biển phải bỏ chạy tán loạn, [quân Lê-Trịnh] vừa trông thấy [ quân Tây Sơn] đã khiếp sợ đến vỡ mật.

Hạm đội Tây Sơn căng buồm đến bờ biển Xứ Nam [hay trấn Sơn Nam xưa, vùng đất của 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình] tiến vào sông lớn dẫn đến kinh thành. Người dân đồn thổi đến mức tin đồn lan truyền về nó giống như một giấc mơ hơn là sự thật.

Ngày [ hạm đội quân Tây Sơn] vào cảng, họ đến Vị Hoàng từ sáng sớm: đó là ngày 1-7-1786. Quân Lê-Trịnh đóng đồn ở đây sợ quá tự bỏ chạy như bay, bỏ lại hết cả các kho thóc và vàng bạc cho kẻ thù.

Sau khi phát gạo cho dân chúng gạo và đã chất đầy [gạo, của cải] lên thuyền, thuyền của Tây Sơn và các thuyền của [ hải tặc] Trung Quốc cũng có mặt ở đó, vào ngày 17 cùng tháng, viên tướng quân, em trai của quân phản loạn Nhạc [ tức là Nguyễn Huệ] đã tiến vào kinh thành cùng với phần còn lại của hạm đội với vẻ huy hoàng và một [lời hịch] của vua [ tức là nêu khẩu hiệu “Phù Lê diệt Trịnh”].

Vào ngày 18, đội quân tiền phương lên đường theo hướng Hiến [Nam, tức là Hưng Yên bây giờ] về phía dinh tổng đốc. Vua [Lê] đã phái quân đội bằng đường bộ và đường thủy đến đối đầu với anh ta [Nguyễn Huệ].
Hai đội quân đụng độ từ khoảng sáu giờ tối cho đến sau nửa đêm. Những người lính dũng cảm của nhà Lê đã cố gắng mở cuộc tấn công vào cuối ngày, để có thể, trong trường hợp bất lợi, rút lui trong bóng tối. Quân Nam Hà dồn ép đến nỗi khiến quân nhà Lê phải tháo chạy và chiếm được doanh trại của tổng đốc.

Vài ngày sau, anh ta đến gần Kinh thành. Quân Đàng Ngoài tấn công lần thứ hai, nhưng không thành công như lần đầu. Trận chiến thậm chí còn đẫm máu hơn, tổn thất nặng nề hơn và chiến thắng trọn vẹn hơn cho kẻ thù [tức quân Tây Sơn].
Ngày 21, quân Tây Sơn đã tiến vào kinh đô, quân lính được tranh bị súng và kiếm, khắp nơi mọi thứ đều hỗn loạn. Với Nguyễn Huệ, mọi việc thật dễ dàng, thành lũy chẳng có gì ngoài hàng rào tre, binh lính và các nhà giàu có, nhà buôn đã chạy trốn và để ngỏ cửa. Phủ Chúa Trịnh [Trịnh Khải] chạy trốn vào núi, nơi đây ông đã tự sát. Người dân [ Bắc Hà từ lâu đã] chán ngán với sự thống trị độc tài của gia đình ông, và càng mệt mỏi hơn với những phiền toái mà những người lính đã gây ra cho ông kể từ khi bắt đầu trị vì. Vì vậy, bây giờ họ đang trả thù bằng cách chờ đợi những người lính này trên đường và thậm chí lột quần áo của họ, cả vợ và con. Đây là cách Chúa Trời trừng phạt thói ngạo mạn của đám quân Ba phu [lính Tam Phủ] [những người lính từ hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An đã đi quá xa trong việc làm bốn năm qua]: họ là những người đầu tiên, tạo nên đội cận vệ của Nhà vua và gần như là những người duy nhất tiếp cận người của ông ta; [nhưng] hôm nay họ sẽ là người cuối cùng [ bị trừng trị].

Đó là khởi đầu và kết thúc cuộc chiến giữa quân nổi loạn Nam Hà và Đàng Ngoài, thưa ngài và các cha thân mến. Cuộc chiến thực ra không dài và không gây trở ngại cho người dân; chỉ có một số lái buôn bị mất thuyền, địch bắt để làm nhẹ những chiếc thuyền quá tải người và đạn dược [ý nói quân Tây Sơn tịch thu thuyền để chở quân và vũ khí]. Quân Tây Sơn có xét xử [ các vụ cướp bóc để] ngăn tội, tránh mọi việc rối ren. Các cơ và đạo của các đạo quân [cỡ 1.500 quân] được trang bị súng và vũ khí sắc bén chạy ngày đêm, cướp bóc, tàn sát và đốt phá tất cả làng mạc. ...
Hầu như không có một ngôi làng nào không có quân cướp. Đầu tiên, chúng cướp bóc của cải của chính nơi đó và sau đó đi tấn công những người hàng xóm của mình.... [ đoạn này có lẽ mô tả bọn cướp tự phát ở các làng xã chứ không phải quân Tây Sơn]

Ngày 7 tháng 8. Mọi thứ vừa mới thay đổi. Những tên cướp đã đến lượt của chúng, mọi người đã đến lượt tính sổ với chúng. [Các giáo sĩ và người dân tự nổi dậy chống lại cướp]

Chúng tôi săn lùng bọn cướp theo cách tốt nhất. Hôm qua chúng tôi đã chặt đầu 11 tên ở đây; 4 ngày trước khi chúng tôi hạ gục hoặc loại bỏ một đám cướp khác. Các quan mới của Tây Sơn đến bằng đường tắt và không có bất kỳ hình thức xét xử nào; ngay khi một số nhân chứng làm chứng chống lại ai đó, tiền bạc, lời cầu nguyện, không gì [để họ] có thể nhúng tay vào [ ý nói các viên quan mới đến không làm được gì].

[ tái bút: Sau một lá thư gửi cùng ngày, cho biết vào ngày 20 tháng 8 năm 1787, quân Tây Sơn trước khi rút lui, đã cướp bóc cả nước. Sau khi quay trở lại vài tháng sau, họ và những người ủng hộ họ lại cướp bóc đất nước này thêm nữa, và về cơ bản, chúng lấy đi khỏi tất cả các ngôi đền các tượng thần, chuông, tượng Phật và mọi thứ làm bằng đồng hoặc kim loại, vì thế An Nam còn lại rất ít các hiện vật kim loại có giá trị Lịch sử]
[ Lưu trữ M-E, 691, p.777-785, cùng lưu trữ khác tại văn khố hội Thừa Sai Paris]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông La Bartette gửi ông Blandin, ngày 23 tháng 6 năm 1786. . .


Tôi không thể diễn tả cho ông biết tôi đã cảm động như thế nào khi nhớ lại những kỷ niệm cũ [ở An Nam], qua việc tôi nhận được bức thư thân mến của ông đề ngày 1 tháng 6 năm 1785 từ St Helena [Saint Helena đặt theo tên của Helena thành Constantinopolis, là đảo núi lửa nằm ở phía Nam Đại Tây Dương, lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh. Vùng đất này bao gồm đảo Saint Helena và thuộc địa Đảo Ascension và Tristan da Cunha trải dài trên diện tích 425 km².Saint Helena nổi tiếng bởi nơi đây từng là chốn lưu đày của hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte từ 1815 cho đến những năm tháng cuối đời (1821)]

Đức ông [Đây là ông Davoust Jean, quê giáo phận Le Mans, đến Đàng Ngoài năm 1753, tấn phong giám mục Céram và bổ nhiệm phó xứ Tây Đàng Ngoài năm 1771 [nơi khác 1772], phó sứ năm 1780, mất 17/8/1789, 63 tuổi] vừa mới viết thư cho tôi gần đây; Tôi cũng vừa trả lời ngài vài ngày trước. Nhưng chẳng may! Việc giao giảng [ Đạo Thiên chúa] thân thương và cần cù của chúng tôi kéo dài 12 năm vừa mới bị gián đoạn và có lẽ còn rất lâu: vì bây giờ Nhạc vừa qua bên này với một đội quân hùng hậu, cả đi bộ lẫn đường thủy.

Người Bắc Hà, những người [ trước đây] luôn chế giễu [quân Tây Sơn], chưa bao giờ thấy một ngày như vậy. Trong số tất cả những người ở đồn Phú Xuân, quan lớn hay binh lính, không ai trốn thoát được. Họ tàn phá ở mức mà tôi không thể kể hết với ông. Từ Phú Xuân đến Sông Gianh, trong 5 ngày, mọi thứ đã được vận chuyển đi. Người ta thậm chí còn tin rằng trong số tất cả những người Bắc Hà khác đang ở trong các pháo đài gần Bắc Hà hơn, sẽ chỉ có một số rất nhỏ có thể chạy trốn. Ngoài ra, đừng nghĩ rằng tôi đang nói với ông về những điều rất xa vời. Cuộc quyên góp ở Phú Xuân mới được thực hiện cách đây 5 ngày, còn của Dinh Cát [pháo đài Dinh Cát nằm cách thành Quảng trị 2 hoặc 3 cây số về phía bắc và xuôi dòng sông], nơi tôi ở, chỉ mới hôm qua. Người ta tin rằng [ quân Tây Sơn sẽ vượt qua] Lũy Sầy [tức là Lũy Thầy] ngày hôm kia, và để làm vui lòng ông, tôi cho biết rằng Quan Đại [ còn gọi là Quận Tạo, tức là Phạm Ngô Cầu] đã bị bắt chính xác vì ông ta đang bận làm tất cả những trò ma quỷ có thể ở đám chay??? [ 2 từ Quan Đại và đám chay để nguyên văn], v.v., trong ngôi chùa nổi tiếng nhất của tất ở Phú Xuân, để phục hồi sức khỏe vốn đã rất suy nhược của mình.

Nếu ông [còn] ở Bắc Hà thuyết giảng cho người các giáo dân, vì tôi biết rõ lòng sốt sắng của ông. Ông biết rõ những công việc mà Quan Đại đã cống hiến cho Tôn giáo Thánh của chúng ta khi ông ấy còn ở Bắc Kỳ, cũng như Chúa, luôn luôn công bằng và bình đẳng, đã ban cho ông ấy những gì ông ấy xứng đáng; Cầu mong ông ấy mãi mãi được ban phước! [Trong một lá thư của ông Le Breton, giáo sĩ ở Đàng Ngoài, gửi cho ông Blandin đề ngày 10-7-1787, có viết: “Vị quan Co-tao, phó vương Phú Xuân, nguyên tổng đốc Xứ Nam, bất cứ ở đâu nơi ông ta nhậm chức, ông có quan điểm đàn áp mạnh mẽ đàn áp tôn giáo]. Kể từ khi tôi đã ở đây, tôi nhận ra rằng những người Bắc Kỳ ở đây đang đàn áp người dân [Nam Hà] một cách rất bất xứng. Họ đã quá tự tin vào mình. Vị quan này để làm vui lòng Hoàng tử và hơn thế nữa để có tiền, chỉ riêng điều này đã gây hại cho tôn giáo nhiều hơn tất cả các quan lại cộng lại. Tôi nói rằng Co tao [Quận Tạo] đã thể hiện sự sùng kính rất lớn đối với đạo Phật và sự tôn trọng đối với các nhà sư. Ông đã tập hợp một số đông trong ngôi đền gọi là Thiên-mụ để tổ chức ăn chay, cầu nguyện và tế lễ trong 8 ngày. Chưa hết việc tế lễ, bỗng được tin giặc đã đến cửa thành; ông ta bị thương và được đưa đến hạ Nam Hà rồi chết. Một trong những người con trai của ông bị bắt khi chạy trốn đã bị nghiền nát dưới chân đàn voi]. Đó là lý do tại sao tôi không nghi ngờ gì rằng đây là sự trừng phạt của Chúa.

Chiến tranh đến đây bất ngờ, cha Chiêu không về được; ông ấy phải ở lại đây. Chúng tôi rất lo lắng cho số phận của ông; vì nếu ông bị phát hiện, chúng tôi sẽ không thể ra tay cứu, bởi không chỉ những kẻ nổi loạn, mà ngay cả những người ngoại đạo của vùng này ở đây đều có một lòng căm thù không nguôi đối với tất cả người Bắc Hà, không loại trừ ai. Nên trong bụng ông rất sợ, không phải vô cớ, từ trước đến nay những gì chúng tôi gặp được người Bắc Hà đều qua gươm giáo. Ngoài ra, tôi nghĩ rằng các quý ông Bắc Hà thân mến của chúng ta sẽ không tức giận với cuộc cách mạng này [ khởi nghĩa Tây Sơn]: nó chỉ có thể rất có lợi cho tôn giáo; Vả lại, ở Xứ Nam gần một năm nay xảy ra nạn đói rất khốc liệt. Tôi không nghi ngờ gì rằng Đức Chúa Trời cho phép tất cả những điều này vì vinh quang lớn hơn của Ngài.

Đã có một cuộc đàn áp khủng khiếp trong năm nay ở vùng [do quân] Tây Sơn [quản lý]. Sắc lệnh là buộc giáo dân phải giẫm lên cây thập tự. Những người đã đến nói với chúng tôi rằng việc [đàn áp] đã chấm dứt; nhưng, vì chúng tôi vẫn chưa nhận được thư từ các giáo sĩ đang ở đó, nên tôi không thể nói với ông bất cứ điều gì chắc chắn. Tuy nhiên, có vẻ như trong một thời gian ngắn nữa, chúng ta sẽ biết được điều gì đó. Chiến tranh, một mặt lấy đi của chúng ta niềm an ủi là được liên lạc với Bắc Hà, mặt khác lại mở ra cho chúng ta cơ hội được tiếp cận với xứ Quảng nơi chúng tôi đã đánh mất quá lâu.
Ngày 2 tháng 8. Kể từ khi những kẻ nổi loạn đến đây, chúng tôi đã gặp rất nhiều đau khổ. Họ làm phiền [mọi người] đến nỗi không ai tin rằng họ có thể sống được. Lũy Sầy nổi tiếng mới được khôi phục như dưới thời Chúa Nguyễn, thế là mất liên lạc [ với Bắc Hà]; chúng tôi rất tiếc. Quân nổi dậy vừa đi qua Bắc Hà, họ đã lấy đồn Dinh-cầu [pháo đài này nằm ở phía nam tỉnh Hà Tĩnh] ngày hôm qua, hôm nay nghe nói họ ở Xứ Nam; ông có thể sẽ có thể biết qua những bức thư từ Bắc Hà về kết qủa chiến dịch của [Tây Sơn]. Thật lạ, có thể nào mà Bắc Hà ngày nay, quốc gia này vốn rất đông quân [đặc biệt là so với Nam Hà] và rất hiếu chiến, lại phải nằm dưới chân của một nhóm quân với một số ít người từ [Đàng Trong] mà chủ yếu tập hợp từ những đám quân ô hợp. Nếu vậy, người Bắc Hà rất có thể nói có lý:

- Facti sumus opprobrium vicinis nostris, subsannatio et illusio his qui in circuitu nostro sunt. [Chúng ta đã trở thành nỗi sỉ nhục cho người thân cận, thành kẻ vu khống và ảo tưởng cho những người xung quanh] [ Ý câu tiếng Latin này nói về nỗi xấu hổ của người Bắc Hà khi bị quân Tây Sơn đánh bại, trước đây Bắc Hà vốn là cường quốc ở khu vực, so với Ai Lao, Xiêm, Java, Mã Lai…]

Nếu là quân Chúa Nguyễn thì tôi không nói gì, vì tôi biết rằng, ở Đàng Ngoài, còn rất nhiều người còn nhớ đến [các chúa Nguyễn]. Trong mọi trường hợp, tôi thực lòng muốn rằng những kẻ nổi loạn đã nắm [hầu hết chính quyền] trong tay họ; tôi thấy rằng không có gì tốt để mong đợi từ họ: họ đã phá hủy tất cả những nhà thờ đẹp nhất của chúng tôi ở đây. Họ phá hủy tất cả các ngôi chùa và buộc tất cả các nhà sư phải mang vũ khí và tham chiến, đây là điều tốt duy nhất họ sẽ làm ở Nam Hà. Tôi không tin là họ đẩy lòng kiêu hãnh của mình đi xa đến mức muốn chiếm cả Bắc Hà và cai trị ở đó. Tôi tin rằng họ vào đó chỉ để phô trương bản lĩnh và cố lấy một số vàng bạc mà người Đàng Ngoài đã lấy [được ở Phú Xuân] khi Chúa Nguyễn chạy trốn, vì vậy tôi nghĩ rằng vài ngày nữa họ sẽ trở lại vùng này và chắc chắn rằng sau đó họ sẽ tìm kiếm chúng tôi và tấn công chúng tôi. Xin hãy cầu nguyện cho chúng tôi.

Vả lại, Quan Đại từ lúc chưa chết, ta đã biết rõ, trong các quan ở Phú Xuân, chỉ có một mình ông là không bị giết, và bị giao nộp cho vua Nhạc. Người ta nói hôm nay ông ta ở Quy Nhơn, bị giảm gạo và muối [cho bữa ăn]: ông sẽ có nhiều thời gian để nhịn ăn.

[ Lưu trữ M-E, 746, p.175-178, cùng lưu trữ khác tại văn khố hội Thừa Sai Paris]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông La Bartette gửi ông Desourvières, một phần đề ngày 10 tháng 7, một phần đề ngày 1 tháng 8 năm 1786

[
Descourvières Jean-Jacques, quê ở giáo phận Besançon, là nhà truyền giáo đầu tiên ở Loango, Châu Phi, ông đến Macao vào năm 1776. Bị tố cáo với các quan của ở Quảng Đông, ông buộc phải rời đi, và được phái đến Xiêm La. Ông qua đời tại Rome vào ngày 6 tháng 8 năm 1804]
Con tàu nhỏ từ Macao cũng đã cập bến an toàn. Chúng tôi trút hết đồ đạc, ngoại trừ 400 đồng mà thuyền trưởng vừa trao hàng cho Cô Năm [để nguyên văn], người sẵn sàng báo tin cho chúng tôi, thì một đạo quân phản loạn ghê gớm kéo đến bên này. [Ở đây thà thương tiếc cho số phận của con tàu tội nghiệp này còn hơn là kể lại nó]. Bọn phản loạn chiếm lấy con tàu cùng với tất cả những gì có trong đó; chúng đã phá hủy toàn bộ con tàu để làm cầu. Chúng bắt thuyền trưởng, một người lương thiện, cùng với ba sĩ quan của tàu; chúng đã giết họ ngay lập tức, tất cả các thủy thủ đều được phân bổ trên các tàu chiến của Bạo Chúa [không rõ tác giả nói đến ai? Có lẽ là Nguyễn Huệ???] để ra trận. Ngay khi chúng đến dinh Cô Năm [ mà ở đây có nhiều] người Bắc Hà, chúng đã tàn sát họ mà tôi không dám nói rõ với ông.... Tất cả tài sản của Cô Năm đã bị cướp sạch; tất cả những ngôi nhà của cô đã bị phá hủy; người đàn bà tội nghiệp buộc phải chạy trốn, tôi không biết ở đâu, với hai bàn tay trắng.

Trong năm hay sáu ngày, quân Tây Sơn tự làm chủ phần [đất] này, đánh bại người Bắc Hà. Nhưng sự kiêu ngạo và tham lam của họ vẫn chưa thỏa mãn; họ vừa mang vũ khí đến tận Bắc Hà [ thay vì khẩu hiệu mà họ vẫn rêu rao]. Tôi rất muốn bằng cả trái tim rằng Tây Sơn sẽ đem đến sự thay đổi, thực tế là không có gì tốt đẹp để mong đợi từ quân Tây Sơn, cả về tinh thần lẫn vật chất. Họ không có một chút tình cảm nào của con người; họ xấu hơn [cả loài] hổ. Trong mọi trường hợp, chúng tôi vẫn không biết hết được hậu quả của cuộc chiến này....

Ông chắc chắn sẽ được báo về cuộc đàn áp lớn mà những kẻ nổi loạn đã kích động ở khu vực của xứ Quảng trong khoảng tám hoặc chín tháng. Chúng tôi được biết rằng có sắc lệnh là tất cả các Cơ đốc nhân, lớn và nhỏ, nam và nữ, phải giẫm lên hình ảnh của thập tự giá. Vì các giáo sĩ của chúng tôi ở đó đã không viết thư cho chúng tôi kể từ thời điểm ấy, chúng tôi không biết hậu quả sẽ ra sao....

Mọi thứ ở trên được viết vào ngày 10 tháng 7...

Ngày hôm qua, vua Nhạc đã tiến vào triều đình cũ của Nam Hà [ Phú Xuân] với vẻ lộng lẫy nhất và cũng từ đây người Bắc Hà vừa bị trục xuất khỏi đó....

Nam Hà, ngày 1 tháng 8 năm 1786.
[ Lưu trữ M-E, 746, p.181-182, cùng lưu trữ khác tại văn khố hội Thừa Sai Paris]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Le Roy gửi cho Đức Veren và các giáo sĩ khác tại Nam Hà

Tại xứ Nam, chúng tôi nhận được thư của Đức Veren và ông Toussain mà một người lính tuỳ tùng của Tiếm vương Nhạc đã đưa lại cho một linh mục của chúng tôi ở xứ Nghệ An tên là Cha Tần, nhưng mãi lâu sau lúc Nhạc trở về [Quy Nhơn] cha người Bắc kỳ ấy mới gửi thư lại cho ông Breton.

… Ngày 16-7, quân địch [Tây Sơn] được kẻ phản nghịch Coũ Chỉnh chỉ huy đã tới, bằng rất nhiều thuyền bè, cách trường của chúng tôi tại làng Kẻ Vinh một ngày đường. Chúng đi rất nhanh. Có vài người lính của một đại thần Bắc Hà đã bắn vào quân Nam Hà, nhưng sau đó quân này vẫn giữ trật tự khi tới thị trấn lớn tên là Vị Hoàng, nơi có một vựa gạo mới mang từ Nam Hà ra. Quan quân Bắc Hà đã bỏ trốn và địch liền chiếm cứ tất cả các đồn và kho của vương quốc nhưng họ không làm hại ai và vẫn trọng công lý khắp nơi. Dân chúng thấy họ cư xử nhân đạo như vậy chỉ chê cười quân “giặc” và không ai nghĩ tới cách ngăn chặn họ tiến tới Hiến Nam, nơi trấn thủ chúng tôi ngụ. Họ ra chợ che chở dân chúng khỏi bị quân ăn cắp quấy nhiễu và chặt đầu liền tại chỗ không cần làm thủ tục, những tên bị nộp cho họ. Muốn được lòng dân hơn, có khi họ xử trảm ngay cả lính của họ vì mấy người này đã quấy nhiễu dân chúng ở chợ. Cuối cùng ông ta [người gửi thư] còn cho biết chúa Nguyễn vài ngày nữa, sẽ ra Bắc. Chúng tôi còn nghĩ rằng người Anh và người Hà Lan sẽ đi theo ông vì người ta thường bàn tới tàu Âu châu, đại bác… và các khí giới khác được thông dụng tại Âu châu. Ít lâu sau người ta thấy một chiếc thuyền lớn của người em Nhạc [còn gọi là Đức Oũ, Đức Ông] long trọng tới. Dân chúng Bắc Hà dại khờ từ khắp nơi chạy tới coi các ông chúa và nghe nhạc của họ. Đêm 18-19 tháng 7, chúng tôi nghe thấy tiếng súng đại bác nổ cả đêm. Đó là một cuộc giao chiến giữa quân Bắc Hà và kẻ địch tại Hiến Nam, Trấn thủ cũ của chúng tôi cùng vệ binh và con ông chống cự hết sức, nhưng vì nỗi sợ hãi xâm chiếm, binh lính họ bỏ trốn một cách hèn nhát; và sau khi bị thiệt hại 200 người, quân Bắc Hà không dám đụng độ địch nữa. Quân [Tây Sơn] nhân lúc đang thắng thế, tiến thẳng ra kinh đô và ngày 20-7, chúng vào đó không gặp sự kháng cự nào. Thượng đế đã lấy mất trí suy đoán của quan binh chúng tôi vì ai nấy đều thi nhau trốn chạy toán loạn và mặc hết để cứu cái mạng sống của họ. Người ta kể rằng lính Bắc Hà chỉ bắn có 12 phát súng vào quân Nam Hà thôi, rồi họ bỏ chạy và đốt cháy vài toà nhà do đó 1 phần 4 thành phố bị thêu rụi. Địch có viết trên cờ họ chữ “Diệt Trịnh phù Lê” bởi vậy chỉ có chúa Trịnh và bộ hạ cùng binh lính ông chạy trốn thôi. Gia đình vua Lê ở lại kinh đô và 2 ngày sau khi chúng đến nơi, quan quân Nam Hà đến ra mắt vua Cảnh Hưng với đầy đủ lễ nghi. Người ta tưởng ngài đã băng hà nhưng ngài chỉ thác một tháng sau thôi. Trước khi mất đi, vị vua tuổi tác đó đã gã một công chúa cho Đức Oũ [ Đức Ông ở đây là Nguyễn Huệ]. Chạy được một, hai ngày thì chúa Trịnh bị chính thần dân ông bắt lại và định mang ông nộp cho quân Nam Hà nhưng ông không cho chúng thì giờ làm vậy vì ông đã tự thắt cổ chết. Thế là hết đời ông hoàng bạc phước, đã được quân đội đem ra khỏi tù đặt lên ngai vàng và đã cầm đầu chính quyền trong một thời kỳ đen tối, như quý ông đã biết. Quân địch đã cướp hết mọi thứ chúng chỉ để lạ những căn nhà trống không và các dinh thự thôi. Chúng vét sạch cả phủ Chúa và biến đền chùa thành nhà của quan. Chúng đem chôn các pho tượng và không thờ thần nào cả. Có người còn phao tin rằng hai Đức Oũ [Nhạc và Huệ] đều theo Công giáo và có rất nhiều giáo đồ trong quân đội. Có một vị quan Nam Hà, sau khi rửa tội tại nhà một linh mục chúng tôi, đã viết thư cho đức Céram [ tức giáo sĩ Jean Davoust] nhờ đức ông cho ông biết voi (?) ở đâu để ông ta lĩnh phần. Các lái buôn xứ này làm giàu nhờ sự đói kém gần đây. Chúng không thương xót những kẻ chết đói đáng thương nằm dài dọc bên lề đường, lại còn đầu cơ gạo để bán với giá đắt hơn. Hình như Thượng đế đã có chủ tâm dẫn quân Nam Hà vào vương quốc này để trừng phạt những kẻ tàn bạo đó. Các lái buôn mất hết thuyền và vàng bạc thành thử mỗi ngày lại có kẻ âm thầm về nhà, thân thể bị lột trần chỉ còn một mảnh khố nhỏ, nhưng cũng may vì chưa bị giết. Lúc họ về tới nhà, họ còn gặp nhiều tai nạn nguy hiểm hơn nhiều. Đạo tặc lan tràn khắp nơi như kiến, và cắn hết mọi thứ như châu chấu của “Ngày tận thế”. Chúng nhảy xổ vào các lái buôn; cướp đốt nhà họ và giết khá nhiều người. Gần Cửa Bạng, có một hòn đảo danh tiếng tên là Biện Sơn [Biện Sơn, đảo ở phía ngoài cửa Bạng 7 dặm, chỗ tránh gió rất tốt cho thuyền bè đi biển], trước dân cư gồm toàn lái buôn độ 3.000 người, trong số đó có 6,700 giáo đồ. Những kẻ bất hạnh đó trước kia làm giàu trên xương máu người nghèo nhờ bất công và tham nhũng, lần này Thượng đế đã trừng phạt họ và trên nhiều người như thế chỉ còn 2, 30 người sống sót mà thôi. Năm nay thật là năm đen tối của Bắc Hà. Phủ Yên Trường ở xứ Thanh [ nay thuộc Ninh Bình] là kho tàng của họ Trịnh nên đầy vàng bạc và chiến lợi phẩm thu được tại Nam Hà, đã bị quân Bắc Hà bỏ lại. Những quân cướp [thật chứ không phải quân Tây Sơn] đã ùa vào đấy lấy những gì có thể cướp được. Chúng đánh, giết và tranh giành nhau từng vật một. Sau đó quân Nam Hà tới và cướp sạch hết. Ai cũng tin rằng quân Nam Hà sẽ thay thế nhà Trịnh. Chúng công bố vài sắc lệnh mà ai khinh thường. Sau chót, sau khi đã thu nhặt hết chiến phẩm, Đức Oũ sửa soạn để ra đi, nói rằng mục đích ra Bắc của ông là đánh đuổi quân Trịnh đang áp bức nhà Lê, nay nhiệm vụ đã xong ông xin trở về. Đang lúc đó, lại có tin khác: đó là tin vua trời với 30 con voi và một vạn quân đã qua xứ Nghệ, xứ Thanh và xứ Nam và đã tới Kẻ Chợ trong một thời gian ngắn. Người đó chính là Nhạc. Ông lưu lại tại Kẻ Chợ có 2, 3 ngày, rồi ông lại hấp tấp trở về [Nam Hà] qua xứ Nghệ và Bố Chính, tất cả đội ngũ Nam Hà về theo ông, kẻ theo đường biển, người đường bộ. Không ai ngờ tới chuyện này cả nên được tin, nhiều kẻ bạo nhất cũng phải xanh mặt. Hết vua, hết quan, hết bạc, hết gạo, cả vương quốc bị bỏ rơi cho lũ đạo tặc… Chúng tôi tưởng chừng sắp khốn đến nơi, và thật vậy, nên Thượng đế để hàng triệu quân tâm ác nảy nở ở Bắc Hà, chúng tôi sẽ không còn trên thế gian này nữa. Lũ giặc [Tây Sơn] lúc ra Bắc thì hiền lành, nhưng lúc về Nam thì ngược lại: chúng đã cướp bóc dân chúng hai bên sông. Giữa sự hỗn loạn này nhiều sự phạm thượng [thần thánh] đã xảy ra. Nhiều linh mục của chúng tôi đã mất bình dầu thánh, hoặc tế phục, thánh tước, sách vở. Quân đạo tặc còn xé tế phục để may quân phục. Người ta có thấy nhiều đứa chết trong bộ áo lễ trắng…

… Sau khi địch đi, các quan lập chú [hay bác, nguyên văn oncle] của tiên chúa trược gọi là “Oũ Quận Quế [ ông Quận Quế, tức Côn Quận công Trịnh Bồng. con Trịnh Giang, vào hàng bác của Trịnh Khải. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc, Bồng chạy lên làng Quế Ổ, trấn kinh Bắc, liên kết với bọn người ở Quế Ổ chống lại Chỉnh. Phải chăng vì có liên hệ với Quế Ổ nên được gọi là Quận Quế?] lên ngôi chúa. Nhưng có người cạnh tranh ngôi chúa với ông. Quan quân đang chia rẽ. Nhiều xứ không có trấn thủ hay trấn thủ lại đi cướp bóc. Tại vài nơi, các làng họp nhau lại để hỗ trợ nhau trong công cuộc bắt kẻ gian. Lúc nào người ta cũng dọa chúng tôi là Coũ Chỉnh và phe ông ta càng ngày càng mạnh. Quân Nam kỳ không cho phép ông vào Nam và đã ngược đãi ông. Dù sao, ông đang lập một đảng mới và nếu dân chúng không chịu nộp những sắc thuế mà quân đội ông có quyền thu ở Bắc Hà, giặc [Tây Sơn] chắc sẽ thắng và chúng tôi sẽ còn bị áp bức lâu hơn nữa.
Quân Trung Hoa??? bị mất hết tàu bè của họ mà quân Tây Sơn tịch thu để chở khí giới, chiến lợi phẩm về xứ chúng. Các phu trạm [người đưa thư] của chúng tôi không đi được vì thế tôi không biết thư của chúng tôi có được người Trung Hoa mang đến Áo Môn như chúng tôi hy vọng không.
Mùa màng tháng 10 rất tươi tốt, nếu mất mùa chúng tôi đã nguy rồi.

Kẻ Vinh ngày 6 tháng 10 năm 1786.​
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Longer gửi ông Blandin, một phần đề ngày 26 tháng 7 năm 1786, một phần đề ngày 3 tháng 5 năm 1787

Tin tức rất gần đây. Chiều ngày 13 tháng này, thủy quân, hay nói chính xác hơn là thuyền của Tây-sơn, tiến vào cảng dẫn đến dinh phó vương Đàng Ngoài ở Phú Xuân, nếu không thì nói chính xác là Huế.

Vào ngày 15, họ tự cho mình là chủ nhân của tất cả những gì [mà] người Bắc Hà [đã từng] sở hữu trong tỉnh này, và tàn sát tất cả, ngoại trừ viên trấn thủ [trong nguyên gốc thư viết thêm chữ Đại đằng trước trấn thủ, có thể hiểu là viên quan lớn đứng đầu 1 tỉnh hay 1 vùng] mà họ đã đánh trọng thương và chết trên đường khi ông bị tấn công, đến tỉnh Qui-nhơn, nơi ở [của] Bạo chúa [nguyên văn là Tyran, có lẽ tác giả muốn nói đến Nguyễn Huệ hoặc Nguyễn Nhạc] trú ngụ. [Thay vì câu mở đầu bằng “bị thương” và kết thúc bằng “nơi ở”, tác giả đã viết một câu khác mà ông đã xóa: dấu ấn chiến thắng của họ. Chắc hẳn sau đó tác giả đã biết về cái chết của viên quan Bắc Hà, và đã gạch bỏ những gì ông đã viết trước đó, ông đã đề cập đến cái chết này].

Vào ngày 18, họ đến Dinh Cát, tỉnh nơi có trường tiểu chủng viện nhỏ của chúng tôi, và hiện tại các cha Mgr La Bartette và M. Girard [Girard, François-Joseph, quê ở giáo phận Besançon, đến Nam Hà ngày 12 tháng 3 năm 1785, mất tháng 12 năm 1812] đang ở đó. Cách chỗ tôi nửa dặm, họ giết một người Đàng Ngoài tội nghiệp [đã] cải trang thành [người] Nam Hà để trốn thoát, nhưng không may bị nhận ra.

Tôi rất lo sợ cho người đầu bếp của mình, người mà ông Le Breton [ Le Breton, Louis-François, quê thuộc giáo phận Avranches, rời Tây Đàng Ngoài năm 1774, làm đại diện cho phần phía nam của phái bộ truyền giáo, qua đời tại Nghệ An ngày 27 tháng 8 năm 1789] đã giao cho ông Doussain [Doussain, Jean-André, quê thuộc giáo phận Angers, đi truyền đạo Nam Hà ngày 21 tháng 10 năm 1781, được bổ nhiệm làm giám mục Adran tức là ngang hàng với giám mục Bá Đa Lộc, người mang cùng tước hiệu giám mục, năm 1808 , mất ngày 14 tháng 12 năm 1809], và đức cha thân yêu này lại gửi nhờ tôi [che chở]. Bởi vì người Bắc Hà đã áp bức người dân [Nam Hà] trong hơn 12 năm đến mức họ đã chiếm giữ các tỉnh phía bắc của [Nam Hà], đến nỗi [dân Nam Hà cứ bắt được người Bắc Hà] là hành quyết, và chỉ có tôn giáo mới có thể vượt qua được. Vì vậy, tôi không sợ bất cứ điều gì ngoài việc lo cho các Kitô hữu; nhưng những người ngoại bang? xung quanh chúng tôi ghét người Bắc Hà đến chết, và hơn nữa, vì biết rằng phần thưởng hứa hẹn cho những người tố cáo [người Bắc Hà] sẽ có thể bao gồm người đầu bếp tội nghiệp của tôi trong mối hận chung [như vậy có thể thấy là đầu bếp của tác giả là người Bắc Hà]. Do đó, tôi đã giấu anh ta, và tôi hy vọng trong vòng một hoặc hai ngày nữa sẽ gửi anh ta cho những Cơ đốc nhân tốt bụng ở trên núi.
Trở lại lời kể của tôi: quan đại thần Dinh Cát thấy giặc [Tây Sơn] tiến đến đồn mình ở, thấy rõ không chờ được viện binh, binh lực [2 bên] quá không cân sức; nên ông ta đã bỏ trốn, nhưng có lẽ quá muộn. Tôi mới biết ông bị bắt, và dù có tư cách là con rể Chúa Trịnh, ông vẫn bị voi giày dưới chân. Các viên quan khác hầu hết đều bị giết chết một cách đáng tiếc, ngoại trừ một người cai quản các tỉnh phía bắc, và người có lẽ là người tốt nhất. Tôi thấy thật tội nghiệp những người Bắc Hà, ngay cả tôn giáo thiêng liêng hay các Kito hữu cũng chịu đựng quá nhiều từ khi [ đất này] đổi chủ [ từ Bắc Hà sang Tây Sơn], nhà thờ cũng bị biến thành chuồng voi.

Trường chủng viện nhỏ của chúng tôi buộc phải giải tán vì tất cả mọi người đã bị buộc phải tham gia chiến tranh [mọi nam giới] từ 15 tuổi trở lên. Các cụ già, các bà góa bụa, các trẻ em gái còn phải sửa cầu, sửa đường, tỉa lúa, v.v. Những cô gái tội nghiệp thậm chí còn bị đe dọa sẽ bị giật khỏi tay cha mẹ, để trở thành món tiền của một băng cướp vô liêm sỉ.

Viết tại Nam Hà, ngày 22 tháng 7 năm 1786.

Tôi quên nói với ông rằng quân nổi dậy đã dìm chết một thuyền trưởng người Bồ Đào Nha và anh trai của ông ta, sau khi thắt cổ họ lại với nhau. Họ cũng giết chết hai thành viên thủy thủ đoàn khác, đốt cháy con tàu đang ở ngoài khơi và buộc những người còn lại phải gia nhập lực lượng quân đội của họ. . ..
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư của ông Thieband gửi ông Letondal.

Xứ gần giáp giới Nam Hà này, nơi ông Le Breton và tôi ở, thuộc quyền cai trị của Nam Hà. Họ đặt những đội quân đồn trú tại nhiều nơi, Họ có mộ nhiều binh lính tại đây và dân còn phải cung cấp thực phẩm cho họ nữa. Quân trộm cướp không dám hành nghề…

Kẻ Blầu [Kẻ Trầu, Nghệ An), ngày 23 tháng 7 năm 1787
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ghi chép về những sự kiện đáng nhớ nhất trong Sứ mệnh Bắc Hà, từ tháng 7 năm 1786 đến cuối tháng 7 năm 1787 của giáo sĩ Jean Davoust


[ Giáo sĩ Jean Davoust, sinh ngày 5 thánh 10 năm 1728 tại Mayenne, Pháp, ông gia nhập Hội truyền bá Đức tin Paris, ông đến Đàng Ngoài năm 1753, Đến năm 1759, đi Vaticant và Paris, nhưng tới năm 1782 lại trở sang Ma Cao và 1783, trở lại Đàng Ngoài, ông sống ở Thăng Long, có đi lại giữa Thăng Long và Nam Định (hồi ấy gọi là Kẻ Vinh) đúng gia ông là Đức Giám mục, đại diện cho Tông Tòa Tây Đàng Ngoài, từ 18 tháng 7 năm 1780 đến 17 tháng 8 năm 1789].

Năm nay, vì tình trạng không may hiện tại của chúng tôi, chúng tôi không nhận được thư nào từ Macao. Những cuộc nổi loạn ở Bắc Hà vẫn chưa được bình định, và chúng tôi e rằng bọn chúng sẽ cản trở chúng tôi khi tàu Trung Quốc quay trở lại giống như năm ngoái. Chúng tôi cũng biết được rằng các vị [ giáo sĩ] ở thượng Nam Hà không thể liên lạc được với Macao, một con tàu từ thành phố này đã bị bắt, tàu trưởng và vài sĩ quan đều bị giết; đây là tình huống nguy cấp và đáng quan ngại. Hai Giáo phận này cần phải kết hợp với Giáo phận ở Trung Quốc và Âu châu, nếu bị gián đoạn sẽ gây hại cho đạo [ Thiên Chúa]. Tất cả hãy tin vào Chúa, ngài sẽ không bỏ rơi những linh hồn đã đặt niềm tin và hi vọng vào ngài. Trong lúc đó, tôi sẽ viết tiếp đến ngày hôm nay cuốn nhật ký mà tôi bắt đầu từ tháng 6 năm 1786.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày 3 tháng 7 năm 1786, tôi nhận được thư từ ông le Breton, phó linh mục của tôi ở một vùng của Bắc Hà, giáp ranh với Nam Hà. Ông cho tôi biết rằng:

1. Bọn Tai-son [Tây Sơn] còn gọi giặc Nam Hà, đã xuất hiện tại bờ biển Phu xuan [Phú Xuân], với nhiều tàu và thuyền.

2. Chúng đã đánh bại vài đồn binh của quân Bắc Hà.

3. Chúng hạ trại ở biên giới hai nước và chặn tất cả các ngả đường

[Ông thêm vào tái bút rằng chúng tuyên bố chúng là Chúa của vùng đất đã bị người Bắc Hà xâm lược và chiếm đóng và rồi chúng gây ra một cuộc thảm sát lớn. (về vụ thảm sát này Nghệ An ký cũng có ghi nhận)]

Ngày 13 tháng 7, tôi nhận được 2 bức thư khác từ ông: trong thư thứ nhất, ông xác nhận Phu xuan bị chiếm và toàn bộ tàn quân của Bắc Hà đến vào ngày 16 tháng 6. Trong thư thứ hai, ông cho tôi biết rằng Tướng quân Coung chinh [Cống Chỉnh, tức Nguyễn Hữu Chỉnh], quan Bắc Hà, lánh nạn ở Nam Hà, được Tay-son hậu thuẫn, đã xâm nhập đất Bắc Hà, trong khi thủy quân của ông ta đang đi quanh bờ biển Xu nghé [Xứ Nghệ, tức Nghệ An]; rồi trấn thủ của trấn này đã bỏ trốn, sau khi đốt cháy kho thuốc súng. Ngày 24 tháng 6 quân địch xâm nhập vào vương quốc: không ai kháng cự, chúng nhanh chóng vượt qua hai trấn Nghe an & Xu thang [Xứ Thanh, tức Thanh Hóa trấn]. Khi chúng đến Hien [Phố Hiến], nơi trấn thủ ở và nơi đây giống như là đại lộ tới kinh đô, chúng gặp phải một cuộc tấn công yếu và một trận pháo dài nhưng không nguy hiểm lắm trước khi chiếm được nơi đó, chuyện này xảy ra ngày 18 tháng 7.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cuối cùng, vào ngày 21, sau một hay hai trận chiến nhỏ, Coung Chinh nhập kinh vào giữa ngày. Chua [chúa, tức Trịnh Tông], hay phụ chính của vương quốc, không nhận ra kế hoạch của kẻ địch muốn lập lại Vua [vua Lê], hay vị vua hợp pháp, vẫn đang ở trong phủ thoải mái của mình, trong tường thành và ra lệnh ngăn không cho chúng vào; nhưng ngay khi ông nhận ra, ông trèo lên voi và bỏ trốn. Hai ngày sau, ông bị bắt bởi bề tôi của ông và tự sát. Thi thể ông được mang về kinh và phơi ở cổng. Cổ ông bị đâm vài nhát. Và thế là vị vương trẻ tuổi đã mất, chỉ mới nắm quyền gần đây, bởi cuộc tấn công của một đội quân. Em trai [Nguyễn Huệ] của bạo quân Nhac [Nhạc, tức Nguyễn Nhạc], người đi cùng Coung chinh, nhanh chóng chiếm lấy phủ Chua và triều kiến vua Canhung [vua Cảnh Hưng], vị vua duy nhất của Bắc Hà, để tỏ sự biết ơn, ngài đã gả đi một người con gái [Ngọc Hân]. Nhưng vị vua này, tuổi đã thất thập và đã tại vị 47 năm, không sống được lâu hơn Chua, đối thủ của ông. Ông băng hà ngày 10 tháng 8. Cháu của ông Hoang-ton [Hoàng tôn] kế vị với tên Chieu thoung [Chiêu Thống], Cha của Chua toung [Chúa Tông, tức Trịnh Tông], một vị vương tàn nhẫn và là kẻ thù lớn của đạo, đã giết chết cha của Chieu thoung [ tức là Trịnh Sâm giết thái tử Duy Vỹ, cha của Lê Chiêu Thống].
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Mọi người cho rằng vị vua mới sẽ cai trị không gặp trở ngại nào và sẽ rực rỡ hơn người ông Canh hung, người chỉ có hư vị trước khi Tay-son đến. Mọi quyền lực đều thuộc về tay Chua, vị vương mà ban đầu giống như là nguyên soái của chúng tôi và cuối cùng, trở thành giống như là quản cung điện của chúng tôi. Nhưng ảo tưởng đó không kéo dài lâu. Sau khi cướp bóc và tàn phá phủ Chúa, lấy đi cả pháo, đạn pháo, súng, mọi binh khí, kể cả thuốc súng và vét sạch kho thóc, quân địch tiếp tục quay về Nam Hà vào cuối tháng 8. Bạo quân Nhạc, với vô số những kẻ vô lại và một trăm con voi, tự thân đến trước khi vụ cướp [xảy ra]: ông ta ở lại kinh đô khoảng ba hay bốn ngày, rồi rời đi cùng với em trai và toàn bộ quân đội. Chỉ có độ 20.000 người, nhưng người ta nói là 200.000: người Viễn Đông rất giỏi phóng đại và dối trá. Và vì đó, trái ngược với ý định của tướng quân Cống Chỉnh, chiến dịch của Tây-sơn này chỉ là một vụ cướp không hơn. Coung ching, vì có một vài lí do nên không thể rời bỏ chúng, đã trốn và đi theo bọn chúng đến biên giới Đàng Trong: ông cảm ơn bạo quân Nhạc và vương đệ, người đã đưa ông về nghỉ ở quê nhà ông, cũng không xa lắm. Nhưng ông không ngồi yên tại đó. Khi biết được một thế lực hùng mạnh, vào ngày 12 tháng 9 đã bắt Vua công nhận Chúa mới, và trong một tờ chiếu của vị vương này ngày 13 đã bạc đãi ông, ông chỉ nghĩ đến việc tự lập đảng để bắt đối thủ của mình phải run sợ. Ông không thể dựa vào số lượng hay tình cảm của những đồng bào mình. Và dù ông đã đánh bại trấn thủ và đội quân kỷ luật kém của ông ta, ông sợ rằng mình sẽ bị thất bại dưới sự hợp lực của tất cả những người ghét ông. Một lần nữa ông lại cầu viện Tây sơn. Em trai bạo quân Nhạc, trước gọi là Duc oung [Đức Ông] và giờ là Chua phu xuan [Chúa Phú Xuân], có nghĩa là chúa của Phu xuan, một người đây tham vọng và thèm muốn mở mang vùng đất nhỏ bẻ của mình bằng việc chiếm lấy Đàng Ngoài, đưa trở lại vương quốc 5 tới 6.000 quân, vài cận thần và đệ nhất quan của ông ta, không phải là để cứu Coung chinh, người mà có sức mạnh ông ta vốn sợ, mà là để thực hiện cuộc xâm lược mà ông ta âm mưu, điều mà công chúa Bắc Hà, con gái vua Canh hung, vợ đầu của ông rất khuyến khích.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Theo bức thư nhận tôi được 5 tháng trước, từ vùng thượng Nam Hà, vương [Nguyễn Huệ] quay lại đây với 50.000 quân, hay đúng hơn là 50 nghìn nông dân nổi loạn, được huấn luyện vội vã; lính cũ của ông đã bỏ hắn đi vì ông bỏ đói họ đến chết; nhưng bất hòa xảy ra giữa bạo quân Nhac và Huệ, vì mục tiêu chiếm Bắc Hà và việc li khai thượng Nam Hà, không cho phép Huệ thực hiện kế hoạch của mình. Theo một bức thư từ ông la Barrette, viết ngày 1 tháng 5 và nhận ở Bắc Hà ngày 26, Duc oung vây hãm Qui phu [Quy phủ, tức Quy Nhơn], quốc đô của bạo quân Nhac và nhốt hắn tại đó. Dù sao, hắn tự hài lòng về việc nuôi dưỡng ở Xu nghê và biên giới hai nước một vài đồn binh Tay son mà vì lý do chính trị Chieu toung và Coung chinh không thể đuổi đi được.

Ngay sau khi Coung chinh nhìn xuyên thấu được kế hoạch của Duc oung, bèn trả lại viện quân cho hắn; đi kèm tiền và một món quà bằng vàng hay bạc. Chỉ huy của đám lính này, sợ không dám trái lại mệnh lệnh bí mật của chủ, từ chối quà của tướng quân Bắc Hà. Rồi, tướng lĩnh hai trấn Thanh và Nghe, vốn là vệ binh của Chúa và kinh đô, căm giận vì thấy quê hương đang bị ngoại bang giày xéo và sợ Coung chinh trừng phạt thói kiêu căng cũ của họ, đã xin đi đánh giặc: Coung chinh không đồng ý. Tuy nhiên, bọn Tây-sơn không phải không biết chúng đang bị người Bắc Hà căm ghét thế nào và quân số của chúng ít đến đâu, vì vậy nên chúng không lơi là phòng thủ khỏi bất ngờ và tăng cường ở những vị trí chúng chiếm đóng tại Bo chinh [Bố Chính], Nghe an, Xu thanh và Xu nam [Xứ Nam, tức Trấn Sơn Nam]. Bọn chúng cũng dùng đến một mưu mẹo: chúng chào đón trộm, cướp, những kẻ không dám làm cướp nữa, và cấp cho chúng gạo, tiền, gỗ, rơm, v.v. những cái mà chúng cần. Với một người Nam Hà, đôi khi có 20 đến 30 tên cướp Bắc Hà, không hài lòng với phần thưởng, dùng tên tuổi và tiếng tăm mà chúng đã reo rắc vào người dân trước kia để trấn lột một số tiền đáng kể
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Khi người Nam Hà đã thu được rất nhiều tiền, chúng bí mật chuyển tiền đến trại chung ở Xu thanh; sự thối tha và bạo lực của chúng kéo dài đến giữa tháng ba, rồi chúng tiếp tục quay về Phu xuan, chất đầy của cải, để trả cho Duc oung, đền bù cho số đã bị bạo quân Nhac cướp năm ngoái. Hơn nữa, việc chúng rời đi cũng không phải là tự nguyện, mà do Duc oung ra lệnh vì vua Chieu thoung yêu cầu; tuy nhiên vẫn còn một vài tên ở Xu nghé, một số có vẻ muốn ở lại và phá luật ở đây.
Coung chinh rời Xu nghe, với lực lượng đáng kể, gồm người Bắc Hà, sau khi trấn thủ đó bị đánh bại, đi qua Xu thanh. Ông ở lại đó đủ lâu để tăng quân số, chỉnh đốn đội ngũ và thăm dò tình hình trấn Xu nam. Lúc đó một viên quan trẻ xin với Chua quê [Chúa Quế, tức Trịnh Bồng], cho đi đánh Coung chinh, hứa sẽ báo cáo về; được chuẩn y và được cho chỉ huy một số lính; họ nhanh chóng bị trừng phạt vì sự điên rồ của mình; hai chỉ huy bị giết và còn lại bỏ trốn.

Coung chinh tới Xu nam, trấn phía Nam, vào cuối tháng 1, xem xét luật lệ các nơi và phục hồi lại an ninh công cộng. Ông gặp một tay bất hảo, trước kia là tướng cướp, mà Chua đã nuôi để trở thành một quan lớn và ông có quen biết anh em của hắn ta, và cho hắn trở thành chỉ huy bọn cướp, bỗng nhiên trở thành những chiến binh vệ quốc. Nhưng tên vô lại khoác lác này không dám nhìn Coung chinh, hắn bỏ trốn cùng người của mình: vương, bằng hữu của hắn, trở về kinh, khóc lóc vì giận dữ và nhục nhã. Còn Suat te [tên của tay bất hảo] thì nhanh chóng bị tìm ra và đưa đến trại Coung chinh, ra lệnh chém đầu và tịch thu tài sản của hắn. Tên cướp này là hàng xóm của chúng tôi và làm chúng tôi phải sợ nhiều hơn một lần. Chua đã biết được thất bại này, nên thấy cần phải ngăn chặn Coung chinh và rời kinh đô ngày 28. Vua Chieu thoung muốn ông ở lại, nhưng thấy ông đã chạy mất, vua ra lệnh đốt cháy phủ Chua. Một khu lớn, cụ thể là nơi những vị vương từng ở, bị thiêu thành tro. Vài dinh thự khác cũng bị lửa thiêu rụi. Coung chinh lúc đó đến nơi, dập lửa, viện trợ cho thành phố và tháo dỡ tất cả tượng thờ, hình ảnh, chuông, v.v. làm bằng đồng. Ông đúc tiền, pháo và các vũ khí các. Rồi ông chiêu mộ những kẻ chống đối, bằng sự ân cần hoặc bằng vũ lực. Lúc đầu người ta tin rằng Chua sẽ chấp nhận lời mời của vua về kinh, hai vị quan chủ chốt gắn liền với lợi ích của ông, giả vờ tuân lệnh. Nhưng chúng tôi sớm đã nhầm: ngọn lửa nội chiến đột nhiên bùng lên dữ dội hơn trước. Coung chinh vì đó đã gửi vài đạo quân vây thành nơi Chua đóng, nó bị chiếm vào 6 tháng 3, nhưng Chua đã bỏ trốn. Một tướng hải tặc đến gặp ông, với vài chiếc thuyền, và đưa ông đến các trấn miền Đông, tới trại của Han nhoung [??? Nhưỡng, tức Đinh Tích Nhưỡng, tên của viên quan, người mà ở đầu tháng 9 năm ngoái dẫn vị vương này và cầm đầu một đội quân lớn, tới ép vua, hay Vua chieu toung phải công nhận Chua]. Cuộc chinh phạt thứ nhất được tiếp nối bởi cuộc thứ hai, quan trọng hơn nhiều, tại Xu doai [Xứ Đoài, tức Sơn Tây]. Một đại quan, tên Quan thec [Quận Thạc, tức Hoàng Phùng Cơ], một chiến binh, chỉ huy 80.000 quân uy hiếp kinh thành. Ngay lập tức ông đã bao vây một đồn quan trọng và đánh bại đồn binh, khi Coung chinh đến với 30.000 quân, đã bắt ông làm tù binh và ra lệnh xé xác con gái ông; nàng như là một chiến binh Amazon??? ngồi trên lưng ngựa, đứng hàng trước; nàng quấn khăn quanh ngực và một mảnh vải đỏ trên đầu, quấn thành nhiều vòng, ở một bên tay nàng cầm một thanh gươm, khua liên tục; ở tay kia là một chiếc rìu lớn, tựa vào vai. Coung chinh tiếp tục trở về kinh với tù nhân, người chết vài hôm sau vì thuốc độc. Những người ủng hộ Chua phải dùng mưu kế. Họ lập ra một âm mưu đe dọa tính mạng vua Chieu thounh và Coung chinh, bị phát giác vào ngày 31 tháng 5, một ngày trước khi tiến hành. Vài tên đầu sỏ bị chém, nhưng trấn thủ thành được tha, dù nhà vua đã gửi hắn thuốc độc. Coung chinh đã xin tha cho hắn, để trả ơn những việc tốt hắn đã làm cho mẹ ông khi còn là trấn thủ Nghe an, quê hương của Coung chinh.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,152 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong khi những việc đó đang diễn ra ở kinh đô, trấn thủ hiện tại của trấn phía Nam, tên là Doc chien [Đốc chiến, tức Hoàng Viết Tuyển], một người đầy tài năng và can đảm, chỗ dựa của tướng quân Coung chinh, tấn công thủy quân của Chua que [ chúa Quế?], được chỉ huy bởi Han nhuong và Thiem sen [chưa rõ ai], đánh tan và chiếm được 5 đến 600 tàu thuyền. Thất bại cuối cùng này đã làm hỏng việc của Que vương. Xem ra ông không thể nào phục hồi được, và đây là tín hiệu của sự thanh bình yên tĩnh: chúng tôi không còn thấy giặc cướp nữa.

Cuộc nổi loạn đó diễn ra tại Bắc Hà một năm trước, liệu đạo có thể thắng không? Không chắc. Nhưng dù sao, tình hình khá khả quan. Coung chinh không phải kẻ thù của người theo Thiên Chúa, ông chỉ biết ít về đức tin của họ. Còn về các tôn giáo khác thờ tượng, ở đây gọi là Dao but [Đạo Bụt] hay Phat [Phật], ông không theo phái đó, ngược lại, ông ghét nó. Cách đây không lâu, nghe các sư sãi than vãn về việc dỡ bỏ các ảnh tượng bằng đồng, ông trả lời rằng họ than vãn là sai, rằng But nhìn thấy chiến tranh nổi lên khắp tứ phương của vương quốc nên đã trốn về quê hương Ấn Độ và bỏ chùa cùng tượng lại cho người Bắc Hà muốn làm gì thì làm, v.v.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top