[TT Hữu ích] Dịch sách: Viễn Chinh Nam Kỳ-1861

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nhân thấy các nhà xuất bản cho ra mắt cuốn: Nam Kỳ Viễn Chinh Ký- 1861, em có đọc qua và thấy, bản dịch này dựa trên bản in năm 1888, là ấn bản tác giả có hiệu chỉnh ba năm trước khi qua đời.
Thấy không hay, em bèn dịch bản gốc, tức là bản in năm 1864, sát với những cảm xúc tác giả viết khi còn trẻ ( 25 tuổi, cấp bậc Trung úy) hơn là lúc ông đã 60 tuổi, với cấp bậc Chuẩn Đô Đốc.
Em cố gắng dịch thật sát nguyên văn, định dịch và hiệu đính xong toàn bộ sẽ post hầu các cụ, nhưng e đợi hơi lâu, bèn post trước vài chương, rồi dịch đến đâu em post đến đấy.
Dịch sách và hiệu đính, chú thích mất khá nhiều công sức, tự thấy trình độ tiếng Pháp cực- kỳ ngu -dốt, kiến thức quê- mùa về Lịch Sử, cũng mong các cụ coi như xem tham khảo.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tên sách đúng là: HISTOIRE DE L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE EN 1861: dịch chính xác là: LỊCH SỬ CUỘC VIỄN CHINH NAM KỲ NĂM 1861

Được xem là ký sự chiến trường, được viết bởi tác giả Léopold Pallu - Trung úy hải quân Pháp trực tiếp tham gia vào cuộc viễn chinh của Pháp tại Nam kỳ thời kỳ đó, Các bài viết được Léopold Pallu viết liên tục trong năm 1861 trong thời gian tham chiến tại Nam Kỳ, được ông gửi về Pháp đăng báo ngay trong năm đó. Vào năm 1864, ông hoàn chỉnh bản thảo và in thành sách.

Đây là cuộc chiến tiếp tục sau thời gian quân Pháp -Tây Ban Nha nổ súng tấn công thành Gia Định năm 1859. Tuy quân Pháp hạ được thành vào thời điểm đó nhưng chưa mở rộng cuộc xâm chiếm và đến năm 1861, sau khi ký hòa ước Bắc Kinh với triều đình nhà Thanh, Pháp đã điều động toàn bộ lực lượng ở Viễn Đông để tấn công Nam Kỳ lần thứ hai, mở đầu cho cuộc xâm chiếm toàn Nam Kỳ.


Tác giả là người trực tiếp tham gia cuộc chiến và cũng đã ghi chép rất nhiều về các lực lượng quân Pháp, Tây Ban Nha một cách rất chi tiết các số liệu. Giọng văn rất nhẹ, đôi lúc tàn nhẫn, có lúc lại châm biếm, trên quan điểm của 1 sỹ quan quân đội xâm lược, nên các cụ cũng coi như tham khảo.
Các tên riêng, địa danh trong nguyên bản tác giả viết bằng tiếng Việt theo kiểu Tây học tiếng ta, nên rất khó hiểu, gặp trường hợp này, em xin biên ra tiếng Việt hiện đại cho dễ đọc.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đôi nét về tác giả

pallu_1557991012.jpg

Léopold Pallu, tên đầy đủ là Léopold Augustin Charles Pallu de la Barrière, sinh ngày 19 tháng 8 năm 1828 tại Saintes, miền Tây Nam nước Pháp, mất ngày 13 tháng 2 năm 1891 tại Lorient.

Là con trai của một học giả, Pallu vào trường Hải quân tháng 10 năm 1844 và tốt nghiệp tháng 8 năm 1846. Sau đó, ông phục vụ cho Hạm đội Pháp bảo về chủ quyền ở Địa Trung Hải,được thăng thủy thủ hạng nhất vào tháng 9 năm 1848.

Tháng 6 năm 1849, phục vụ trên tàu Algeria đến khu vực bờ biển phía tây nước Mỹ.

Được Peru trả lại cho Pháp với tư cách là thiếu úy trên tàu buôn Minerve, Pallu trở thành sỹ quan hải quân vào tháng 10 năm 1850, sau đó phục vụ trên tàu Sesostris trong sư đoàn Brazil và La Plata (1852-1853).

Tháng 6 năm 1854, ông phục vụ trên chiến hạm Napoleon và tham gia chiến tranh Crimea với đế quốc Nga. Pallu tham chiến ngày 17 tháng 10 tại hải cảng Sebastopol, sau đó là Yalta và Kerch trong các khẩu đội pháo binh của Eupatoria.

Từ tháng 11 năm 1855 đến tháng 3 năm 1856, ông đến cảng Kamiesch và vào tháng 3 năm 1856 phục vụ trên chiến hạm Provençale tham gia vào cuộc tấn công Kinburn (tên các hải cảng trên biển Đen của đế quốc Nga, nay thuộc Ukraina).

Tháng 1 năm 1858, được thăng cấp trung úy, tháng 3 năm 1860, Pallu cùng hạm đội Pháp đến Viễn Đông với vị trí là một sĩ quan huấn luyện, sau đó tham chiến tại Trung Quốc cùng đô đốc Charner trên chiến hạm l'Impératrice Eugénie.Tại đây, ông đã tham gia vào cuộc viễn chinh Nam Kỳ và đã viết ra cuốn sách này. Sau cuộc tấn công vào Kỳ Hòa, Pallu trở thành sỹ quan phụ tá cho đô đốc Charner ở Nam Kỳ, Pallu về Pháp năm 1862, vẫn phục vụ trong Hải quân tại Lorient, được Bộ trưởng Chasseloup-Laubat ủy nhiệm viết báo cáo về hoạt động tại Trung Quốc vào năm 1859.

Năm 1863, Pallu phục vụ trên chiến hạm Sarthe ở Mexico, trở thành chỉ huy chiến hạm Tancrède trong một chiến dịch dài ở vùng biển Trung Quốc. Ngày 5 và 7 tháng 9 năm 1864, ông tham chiến trận Shimonoseki trong hạm đội quốc tế, chỉ huy các lực lượng Pháp tập hợp tại Thượng Hải, Ninh Ba và Takou. Sau sự ra đi của Đô đốc Jaurès, Pallu chỉ đạo tổ chức chuyển các pháo hạm từ Nam Kỳ và thực hiện một nhiệm vụ ở Quảng Châu.

Pallu vẫn là sỹ quan phụ tá cho đô đốc Charner đến tháng 4 năm 1867, kiêm chỉ huy chiến hạm le Diamant từ tháng 6 năm 1868 đến tháng 1 năm 1870 ở Ấn Độ Dương và phụ trách một phái đoàn ngoại giao đến Jeddah và Mecca năm 1869 để giải quyết những cuộc tàn sát các tín đồ Thiên Chúa giáo.

Tháng 8 năm 1869, Pallu được thăng chức đại úy chỉ huy chiến hạm, Pallu tiếp tục tham chiến vào năm 1870, tham gia nhiều trận đánh với quân Phổ và tỏ ra rất dũng cảm, được nhận huân chương quân đội.

Từ tháng 6 năm 1871 đến tháng 7 năm 1876, ông chỉ huy sư đoàn bộ binh số 2 của quân đoàn 17 và được Đô đốc Pothuau ủy nhiệm để viết về mối quan hệ của vai trò của hải quân ở các tỉnh trong chiến tranh, có lẽ do tài viết lách của Pallu trong cuốn sách này.

Tháng 4 năm 1873, Pallu được thăng chức chỉ huy hạm đội, hai lần chỉ huy chiến hạm la Reine Blanche ở Địa Trung Hải và nổi bật trong các chỉ huy hải quân Pháp về tài chỉ huy hạm đội tác chiến.

Năm 1878, Pallu chỉ huy các thiết giáp hạm đời mới của Hải quân Pháp, là Provence, GauloiseCouronne ở Địa Trung Hải, ông trở thành thành viên của Ủy ban máy móc và các công cụ lớn vào năm 1881 đồng thời vẫn chỉ huy chiến hạm Turenne, tháng 12, Pallu đảm nhận tư cách là thành viên trợ lý của Hội đồng Đô đốc Hải quân.

Từ tháng 9 năm 1882 đến tháng 9 năm 1884, ông là Thống đốc New Caledonia (tiếng Pháp: Nouvelle-Calédonie là một tập thể các lãnh thổ hãi ngoại của Pháp nằm tại tây nam Thái Bình Dương, cách Úc 1.210 km và cách Pháp 16.136 km. Quần đảo là bộ phận của tiểu vùng Melanesia, và bao gồm đảo chính Grande Terre, quần đảo Loyauté và một số đảo nhỏ khác. Cư dân bản địa gọi Grande Terre là Le Caillou "viên sỏi") và chỉ huy của sư đoàn hải quân. Pallu thành lập một phòng nghiên cứu nông nghiệp ở đó và có nhiều đóng góp cải thiện điều kiện sống của những người dân bản địa bằng cách chia đất đai cho họ. Pallu tỏ ra giỏi việc quản lý dân sự không kém quân sự khi đã xây dựng một mạng lưới đường bộ quan trọng ở thuộc địa vào thời điểm nhiều chuyến đi giữa các thành phố Grande Terre chỉ được thực hiện bằng đường biển.

Pallu viết:

- “Sự Chuộc Tội bắt đầu bằng sự chăm chỉ. Trong số những công việc khó khăn, tôi ghi nhớ công việc làm đường…”

Pallu được thăng cấp Chuẩn đô đốc vào tháng 10 năm 1887, ông nghỉ hưu vào tháng 8 năm 1890.
 

em ok

Đi bộ
Biển số
OF-725956
Ngày cấp bằng
17/4/20
Số km
0
Động cơ
74,800 Mã lực
Tuổi
56
em đứng đầu còm
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
CHƯƠNG I

Hòa bình ở Bắc Kinh giúp các lực lượng Pháp rảnh tay- Phó thủy sư đề đốc Charner được Hoàng đế đề cử thống lãnh viễn chinh Nam Kỳ- Các lực lượng viễn chinh tổ chức trở lại, rời nước Tàu đến Sài Gòn trong những ngày đầu tháng hai 1861.

Hoàng đế Hàm Phong (chữ Hán: 咸豐 vua thứ 9 của nhà Thanh, ở ngôi 1850-1861), bất thần đào tẩu về Nhiệt Hà (熱河省, tên 1 tỉnh cũ của TQ, nằm ở phía Bắc của Vạn lý trường thành, phía Tây của Mãn Châu Lý, phía Đông của Mông Cổ. Thủ phủ là thành phố Thừa Đức. Tỉnh này rộng 179 nghìn km2) nơi tận cùng xứ Mãn Châu làm quân đồng minh hết hy vọng thương thuyết với Thiên Quốc (tác giả theo đội quân viễn chinh Pháp đánh Trung Quốc năm Hàm Phong thứ 10 -1860, Anh-Pháp liên quân đánh nhà Thanh. Tháng 7, quân Pháp tiến công Bắc Đường, quân Thanh đánh nhau với quân Anh-Pháp kịch liệt, thế nhưng Hàm Phong lại lệnh quân Thanh lui. Ngày 1 tháng 8 năm 1860, Anh-Pháp đến ngoại Thiên Tân. Ngày 18 tháng 9, tại quận Thông Châu quân Anh-Pháp đụng độ và xảy ra trận chiến quyết liệt với đội quân Mông Cổ do Tăng Cách Lâm Thấm chỉ huy trước khi tiến đánh vùng ngoại ô thành phố Bắc Kinh. Ngày 21 tháng 9, 10.000 tướng sĩ nhà Thanh, bao gồm nhiều tướng sĩ tài giỏi xuất chúng đã thảm bại, hơn 1.200 quân bị lực lượng Anh-Pháp giết trong trận đánh diễn ra trên cầu Bát Lý. Sau đó, liên quân Anh-Pháp đánh chiếm Bắc Kinh vào 6 tháng 10. Hàm Phong vội sai Di Thân vương Tái Viên, cùng Binh bộ Thượng thư Mục Khấm làm Khâm sai đại thần đến Thông Châu nghị hòa. Dẫu vậy, Anh-Pháp liên quan vẫn quyết liệt tiến đến Bắc Kinh. Tháng 9, Hàm Phong cùng Hoàng tộc phải rời Tử Cấm Thành đến Thừa Đức để lánh nạn. Ông cử Cung Thân vương Dịch Hân thay mặt ông đến đàm phán, kí kết Bắc Kinh Điều Ước (北京条约) cùng quyết định phê chuẩn lại Thiên Tân Điều Ước năm nào. Nhưng kết cục mối quan hệ với quân Anh-Pháp rạn nứt khi Harry Smith Parkes bị bắt giam ngay trong cuộc đàm phát ngày 18 tháng 9.

Ngày 18 tháng 10, liên quân Anh-Pháp liên tiếp bắn phá Viên Minh Viên và Di Hòa Viên, khiến Viên Minh Viên bị phá hủy hoàn toàn, còn Di Hòa Viên bị hư hại nặng. Nghe tin Viên Minh Viên xa hoa tráng lệ bị đốt phá, Hàm Phong cảm thấy nhục nhã và đau buồn khôn xiết. Ông bắt đầu lạm dụng rượu và thuốc phiện khiến sức khỏe ngày càng suy sụp.

Dưới thời Hàm Phong Đế, Trung Quốc mất đi một phần vùng đất Mãn Châu vào tay Đế quốc Nga. Theo Điều ước Ái Hồn (
瑷珲条约) (1858), được kí kết lại ngay trận Bắc Kinh thất thủ, lãnh thổ giữa dãy núi Stanovoy và sông Amur phải nhượng lại cho Nga, và tương tự khu vực phía Đông của sông Ussuri theo Hiệp ước Bắc Kinh (北京條約) (1860). Sau Hiệp ước, người Nga đặt tên lãnh thổ vừa sáp nhập là thành phố Vladivostok). Quyết định cực đoan của Hoàng đế nước Trung Hoa gây ra mối hiểm nguy lớn nhất cho việc tiến quân của lực lượng đồng minh lúc bấy giờ. Tương lai cho thấy nhiều điềm xấu và tối tăm: quân đồng minh đang lâm vào một cuộc chiến nguy hiểm, kéo dài nhưng muốn chấm dứt trong danh dự cũng thật khó khăn. Mùa đông đã báo hiệu và mọi người đều biết sẽ vô cùng gay go trên đất Tàu, buộc ta phải chọn một quyết định. Lực lượng đồng minh vì thế phải rút lui, đóng quân chặt chẽ tại Thiên Tân, thiết lập liên lạc với căn cứ hành quân trên bờ biển qua các ngõ Tien-kou, Sing-ko, Takou (các địa danh này nằm ở biển Bột Hải, TQ). Lực lượng hải quân cũng bắt buộc phải chuẩn bị theo để hứng chịu mùa đông.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cuộc gặp gỡ tiếp xúc với Hoàng tử Kong, từ tính tình, vị thế vương quyền của ông ta cho đến kết quả trung gian của một lực lượng Âu châu liên hệ thân hữu từ lâu với Trung Hoa (đây nói đến Nga), sẽ thay đổi nhiều mặt của sự việc. Ngày 25 tháng 10 năm 1860, nam tước Gros, huân tước Elgin và hoàng tử Kong cùng ký một hiệp ước hoà bình. Hiệp ước thành công nhờ sự dàn xếp của Ðại tướng Ignatiev. Nhờ vậy tình trạng được tháo gỡ, quân đội của hai cường quốc được ngưng chiến (Anh và Pháp lúc này đang liên quân đánh nhà Thanh). Lực lượng hải quân và một phần đội quân viễn chinh của ta được rảnh tay để kéo xuống tấn công vào Nam Kỳ với mục đích củng cố vị thế thống lãnh của Pháp ở phần đất Á Châu này.

Hoàng Ðế (tức là Napoléon III, tên đầy đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte- 20 tháng 4 năm 1808 – 9 tháng 1 năm 1873, vừa là tổng thống danh nghĩa đầu tiên của Pháp, vừa là vị vua cuối cùng của Pháp.Napoléon làm tổng thống từ năm 1848, đến 1852 thì xưng hoàng đế. Thời gian cai trị của ông cho thấy những nỗ lực táo bạo của ông về ngoại giao, nhất là trong chiến tranh, phần lớn thất bại, đặc biệt là nỗ lực đưa một hoàng thân Áo lên làm hoàng đế México. Năm 1858, quân đội Pháp xâm lược Việt Nam. Cuối cùng, ông tuyên chiến với Phổ và bị thua tại trận Sedan năm 1871. Ông đã bị quân Phổ bắt sống, đế chế của ông hoàn toàn sụp đổ. Năm 1873, Napoléon chết tại Anh) giao phó việc chỉ huy viễn chinh cho phó đề đốc hải quân Charner. Phó đề đốc Charner liền tổ chức lại lưc lượng hải quân do chính ông làm chỉ huy trưởng từ lúc mới khởi đầu cuộc chiến tranh với Trung Hoa. Ông thành lập hai sư đoàn lớn. Sư đoàn thứ nhất gọi là Sư đoàn TQ, lo việc bảo vệ và canh giữ Ta-kou, Tche-fou, Thượng Hải, luôn cả các hòn đảo Chu-san và Nhật Bản; ông phong chuẩn đề đốc hải quân Protet chỉ huy sư đoàn này. Ông quyết định là các chiến thuyền của sư đoàn Trung Hoa phải thật linh động, di chuyển ngắn hạn ở Nhật, cốt để phô trương khả năng mạnh mẽ về vũ khí mà nước Pháp sẵn có tại các vùng biển này. Mặc dù ở xa mặt trận đang được chuẩn bị là Nam Kỳ, vị thế của đơn vị thuộc miền bắc nước TQ thật quan trọng vì đảm nhận nhiều trọng trách như: canh chừng Nhật Bản; khống chế bọn nổi loạn trong các xí nghiệp kênh doanh ở Thượng Hải và Ninh Ba; nuôi đạo quân viễn chinh và hồi huơng quân lính; ngoài ra còn phải bảo vệ hiệp ước vừa ký mà sự thực thi chưa chắc được bảo đảm; việc duy trì đường dây liên lạc giữa Ta-kou và Tche-fou. Sư đoàn thứ hai dùng để hành quân ở Nam Kỳ.

Vị tổng tư lệnh chỉ định chuẩn đề đốc Page trực tiếp chỉ huy sư đoàn thứ hai và đặt dưới sự chỉ đạo của chính mình. Hai khu vực Hong-Kong và Quảng Châu tách ra khỏi trách nhiệm chỉ huy của tổng hành dinh Sài Gòn.

Phó đề đốc Charner thân hành đến Thiên Tân để hội ý với các sứ thần các nước và các tướng lãnh đồng minh, để thông báo những gì đã được quyết định liên hệ đến người Pháp.

Chiến hạm Duchayla giao cho Nam tước Gros xử dụng, ông này phải trở về Pháp sau khi sắp xếp cho ông de Bourboulon chuyển từ Thượng Hải đến nhậm chức ở Bắc Kinh. Chiến hạm Duchayla trên đường về sẽ ghé Hong-Kong, Manila và có thể cả Sài Gòn. Chiến hạm Duchayla mang theo quân bổ sung cho quân đóng ở Sài Gòn. Theo các tin tức mới nhất thì quân tại Sài-Gòn càng ngày càng thiếu nhân lực, việc canh phòng khó khăn vì vòng đai phòng thủ rộng. Ðoàn quân đổ bộ trước kia đã tiến chung với quân đồng minh vào Bắc Kinh được giải thể. Lính Thủy đánh bộ cũng tách ra khỏi quân đoàn viễn chinh trên đất TQ để tăng cường một phần cho trại quân Ta-kou: phần còn lại chuyển đến Quảng Đông, và sau đó là Sài Gòn. Ðại tướng Jamin cùng với trung đoàn bộ binh 101, tiểu đoàn 2 bộ binh, một giàn pháo binh 12 khẩu, một giàn pháo binh 4 khẩu, một đại đội công binh và một nữa bộ phận hành chính được chuyển về Thượng Hải. Ðại tướng Collineau được chỉ định chiếm đóng Thiên Tân với trung đoàn lục quân 102, hai giàn pháo binh, một đại đội công binh, một số kỵ binh và một nữa còn lại của bộ phận hành chính. Chiến thuyền Forbin giao cho đại tướng Cousin-Montauban, vì ông này muốn thanh kiểm tra vài nơi tại Nhật Bản trước khi quay về Thượng Hải.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Việc điều động lực lượng vừa kể đột nhiên làm mất tầm quan trọng chiến lược của Tche-fou. Trong suốt cuộc viễn chinh TQ, Tche-fou là kho lương chính của quân đội. Nay kho lương này chỉ còn dùng để tiếp tế cho các chiến hạm trong vùng, cho toán quân phòng ngự địa phương và cho vùng sông Bạch Hà (còn gọi là sông Hải Hà, là một con sông tại Trung Quốc, chảy từ Bắc Kinh và Thiên Tân tới vịnh Bột Hải của Hoàng Hải, dài 1.329 km) khi cần tới. Tuy vậy vị trí này còn giữ một tầm quan trọng khác; trong thời gian mà vịnh Bột Hải và sông Bạch Hà bị đóng băng thì phải dùng ngõ Tche-fou để liên lạc với Thiên Tân.

Các câu hỏi chi tiết được giải quyết giữa các tổng tham mưu trưởng thuộc hải quân và quân đội. Công việc chuyển quân lên tàu để trực chỉ Nam Kỳbắt đầu, mặc dù băng dá, xa bờ và bão tố.

Gió thổi gần như liên tục từ ngoài khơi vào; sóng dựng trên đáy biển bùn, chuyển thành sóng đập, tạo ra sình lầy gây thật nhiều trở ngại cho việc chuyển quân; nếu sóng lăn và dài thì ít gây khó khăn hơn. Khí lạnh đã bắt đầu gay gắt: dây thừng trên tàu đóng băng và sàn tàu cũng đông đá trơn trợt; ban ngày cũng thường đóng băng; ban đêm hàn thử biểu tuột xuống đến mười hay mười hai độ âm. Thủy thủ đoàn của các pháo hạm lớn từ Nam Kỳ vừa đưa tới đây, vì đã quá mệt mỏi sau hai năm chiến đấu dưới khí hậu nhiệt đới, nên phải chịu gian khổ vô cùng. Vào khoảng 20 tháng 11, nước đá bắt đầu bít sông Bạch Hà. Pháo hạm Alarme bị một cơn gió mạnh làm mắc cạn trên bãi ngay phía trước Ta-kou, mất luôn bánh lái và một phần đuôi tàu. Hộ tống hạm Alom-prah gặp khó khăn vì chân vịt không sử dụng được. Pháo hạm Fusée bị kẹt băng trên sông Bạch Hà, sau đó nhờ một trận nước lũ bất ngờ mới thoát ra được, nhưng khi ấy thì việc chuyển quân đã thực hiện xong, cả đạo quân lên đường hết rồi.

Một phần quân số và quân trang được chuyển lên tàu từ một địa điểm cách bờ sáu hải lý, vào đúng lúc cái lạnh của mùa đông càng ngày càng khốc liệt. Ðây là cuộc hành quân không chiến đấu khó khăn nhất mà hải quân ta đã thực hiện. Việc chuyển quân đánh dấu cuộc viễn chinh TQ đã chấm dứt, chuyển sang chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Nhưng thật ra thì việc chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳđược điều động ở Sha-lui-tien(tên 1 hòn đảo nhỏ trên vịnh Bột Hải, nơi đây hạm đội Pháp đóng quân) cách Bắc Kinh sáu mươi dặm và cách Sài Gòn đến tám trăm dặm ( 1 dặm Pháp khoảng 4,445 km), các đoàn quân tham chiến ở Nam Kỳ tiến về Sha-lui-tien, các pháo hạm bằng sắt cũng được kéo về nơi này. Pháo hạm bằng sắt loại nhỏ hết sức đắc dụng trong các trận chiến, đã góp công đáng kể vào các trận đánh buộc các đồn bốt trên sông Bạch Hà phải đầu hàng. Người ta thấy loại pháo hạm này ngược xuôi không ngừng trên sông, chuyên chở quân lính và tiếp liệu. Chúng hết sức hữu dụng ở bất cứ nhiệm vụ tác chiến nào được giao phó. Cách đóng các pháo hạm bằng sắt vừa kể đâu có dự tính để dùng vào việc chuyên chở giữa bến Sha-lui-tien và các chiến hạm ở cửa sông Bạch Hà; khoảng cách sáu hải lý, biển động, sóng lắc, tàu chòng chành một cách đáng ngại. Máy tàu không đủ mạnh để ngược sóng trong lúc gió mạnh, nhưng là một phương tiện vô cùng quí giá hỗ trợ cho lính hải quân trên đường chiến đấu: pháo hạm đủ sức dùng làm tàu kéo, đôi khi cũng dùng để chở nặng. Nhờ các tàu này mà việc chuyển quân hoàn tất trong hai mươi ngày, mặc dù biển động, gió bão và trời lạnh. Các tàu này đã giúp thật nhiều cho thủy thủ đoàn khỏi ra tay chèo chống; thật ra thì thủy thủ đoàn dù có bắt buộc họ chèo họ cũng không đủ sức. Ở Nam Kỳ, nơi sông ngòi chằng chịt, vai trò của các pháo hạm sẽ còn cần thiết hơn nữa; ta có thể đoán trước rồi đây các tàu này sẽ là những phương tiện rất tốt vừa để chiến đấu vừa để tiếp vận trong cuộc chiến ở Nam Kỳ. Nhưng phải công nhận việc kéo những chiếc tàu kéo pháo hạm chạy bằng hơi nước, chỉ dự trù hoạt động trong vùng nước êm, suốt tám trăm dặm đường biển để đến Nam Kỳ, là một kinh nghiệm mới cho binh chủng Hải quân. Súng đại bác, đạn dược, lương thực trên các pháo hạm đều chuyển sang các tàu kéo. Các khe hai bên vách tàu được bít kín, than đem dồn về phía mũi tàu để khi kéo thì đầu tàu khỏi bị ngóc cao quá độ. Các pháo hạm đã vượt qua khỏi mọi thử thách, chỉ mất có hai chiếc bị chìm trên đường đến Nam Kỳ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong khi đó các tàu lớn lần lượt ra khơi sau khi chuẩn bị xong. Tàu Saône chở cu-li từ Quảng Châu. Tàu Duchayla rời bến ngày 10 tháng 10 với nam tước Gros; cột chính của tàu có treo quốc kỳ kích thước vuông có hình ngọn lửa. Ngay ngày hôm sau, huân tước Elgin cũng đi Hong-Kong. Ngày 1 tháng 12, tàu Némésis ra khơi quay về Pháp sau năm năm hoạt động ở TQ. Ðã có bao nhiêu người ra đi với chiếc tàu này mà từ nay sẽ không bao giờ trở về nữa! (câu cảm thán rất hay, đó là tâm sự thật của tác giả về số phận những người lính viễn chinh)

Suốt thời gian hoạt động vừa kể trên, tàu Némésis đã tham dự vào tất cả các cuộc hành quân đánh chiếm ở TQ và Nam Kỳ, sử dụng đại pháo và dùng cả thủy thủ đoàn của tàu để đổ bộ. Các tàu Renommée, Monge, Dryade, Dragonne, Forbin lần lượt ra khơi theo lịch trình đã định trước. Các tàu này sẽ thượng cờ Pháp khi đến Nagasaki và Yedo; phô trương thanh thế xong thì trực chỉ Woo-sung hoặc Hong-Kong.

Ngày 5 tháng 12 năm 1860, các toán quân chuyển từ Bắc Kinh, đúng ra phải đến đóng ở Thượng Hải, lại phải lên tàu để hành quân đi Nam Kỳ. Các tàu chiến cuối cùng của Pháp trong vùng cũng nhổ neo rời bến trên sông Bạch Hà. Cửa sông hình phễu không thấy bờ bến đâu giống như ở giữa biển khơi, nước thì vàng khè vì phù sa sông Bạch Hà và sông Peh-tang; cuối vịnh Bột Hải, mà người ta thường gọi sai là vũng tàu Sha-lui-tien, và cả sông Bạch Hà trở nên vắng tanh, hiu quạnh sau khi hơn bốn trăm tàu đã nhổ neo. Tàu Impératrice-Eugénie, kéo cờ hiệu của phó thủy sư đề đốc Charner, tàu Echo dùng làm tàu truyền lệnh, cả hai lên đường đến Tche-fou, nơi đây chỉ cách Ta-kou hơn sáu mươi dặm. Hai tàu đã đến nơi chiều ngày 6 tháng 12. Sau khi xắp xếp chi tiết công việc tại đây xong, phó thủy sư đề đốc tổng tư lệnh cùng với hai tàu lại lên đường ngày 7, đến Woo-sung tiền đồn của Thượng Hải vào ngày 10 tháng 12. Các chiến hạm khác chậm trễ vì công tác cũng lần lượt tới nơi.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chỉ huy trưởng cuộc viễn chinh là phó thủy sư đề đốc Charner có toàn quyền tuyên chiến hay giảng hòa với xứ An Nam. Từ Hoàng Hải, eo biển Sakhaline, biển Nhật Bản cho đến eo biển Malacca và eo biển quần đảo Sonde, suốt 1800 dặm, tất cả tàu bè treo cờ Pháp phải thực thi mệnh lệnh của ông. Trọng trách của ông rất lớn: vì tình trạng chiến tranh, vì cách xa mẫu quốc, thêm việc nắm giữ hai trọng trách một lúc, vừa là chỉ huy trưởng viễn chinh, vừa là sứ thần, thêm số chiến thuyền quan trọng dưới quyền chỉ huy của mình; tất cả các trách nhiệm quan trọng đó đã góp phần làm chói lòa thanh danh của phó đề đốc. Chính đây là sự uỷ quyền rộng rãi nhất từ thời Ðệ nhất Đế chế (là chế độ chính trị Pháp từ tháng 5 năm 1804 đến tháng 4 năm 1814, dưới thời Napoléon) giao cho một vị tuớng lãnh hải quân.

Quyền chỉ huy của ông bao trùm một hạm đội hơn sáu mươi chiếc, gồm 1 tàu chuyên chở có trọng tải nặng, 2 tàu chiến loại một chạy bằng chân vịt, 5 tàu chiến loại một chạy bằng buồm ( frégate de premier rang: loại tàu chiến có 3 cột buồm), 1 tàu chiến đấu loại hai chạy buồm (frégate de deuxième rang: loại tàu chiến nhỏ hơn có 2 cột buồm), 1 đại pháo hạm trang bị đại bác chạy chân vịt, 2 đại pháo hạm chạy chân vịt trang bị súng nặng đặt trên sàn tàu, 2 hộ tống hạm loại một chạy chân vịt, một hộ tống hạm loại hai chạy chân vịt, 2 tàu hộ tống nhẹ chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại một chạy bánh xe, năm tàu hộ tống nhẹ chạy bánh xe, 6 chiến hạm chạy buồm, 5 pháo hạm loại một chạy chân vịt, 16 thuyền đại pháo bằng sắt có thể tháo lắp được, 2 tàu trọng tải chạy chân vịt mang theo mỗi tàu hai giàn đại pháo, 4 tàu chuyên chở ngựa chạy chân vịt, 11 tàu chuyên chở đại pháo chạy chân vịt, 1 tàu cơ khí xưởng chạy chân vịt. Tất cả là 68 chiến thuyền gồm 13 chạy buồm và 55 chạy chân vịt. Nhân lực gồm có 4 đại tướng, 13 đại uý thuyền trưởng đại chiến hạm, 22 đại uý thuyền trưởng tàu chiến, 95 trung úy chiến hạm, 105 sĩ quan hải quân cấp trung úy, khoảng chừng 100 chuẩn uý, 100 bác sĩ y khoa, 80 sĩ quan hành chính, 8.000 lính thủy. Sức mạnh hỏa lực gồm 475 pháo các loại; sức mạnh mã lực của đội hải thuyền tổng cộng 7.866 mã lực. Nhiều tàu hơi nước của các công ty hàng hải thuộc vùng bán đảo và Viễn đông được thuê để nối liền các cứ điểm từ bờ biển TQ đến Nam Kỳ. Các tàu thuê đều phải mang cờ Pháp: vị tổng tư lệnh chọn lựa và biệt phái sĩ quan của mình giữ chức thuyền trưởng hoặc đại diện cho quân đội trên các tàu này. Tóm lại có 80 tàu buôn do nước Pháp thuê, chở lương thực, đạn dược, than, tạo thành một hải đội thương thuyền mà tầm quan trọng thật đáng chú ý.

Ðiều không được may là một số các chiến hạm đã tham chiến từ bốn năm nay, vài chiếc đã bước vào năm thứ năm. Thiết bị trên tàu ở vào tình trạng hao mòn, các nồi hơi súp-de của bốn pháo hạm lớn và ba hộ tống hạm gần như rã rời từng mảnh. Tuy nhiên thủy thủ đoàn tốt, sĩ quan xuất sắc, rất thành thạo sau bốn năm chiến đấu. Có thể nói rằng họ tuy có mệt mỏi nhưng không phải là kiệt sức, họ được khuyến khích bằng một luồng sinh khí anh hùng. Trong số các sĩ quan rời Pháp đã lâu, có nhiều người khi đến Trung Hoa vẫn còn là vị thành niên. Họ già đi trong gian khổ và chỉ còn biết nước Pháp qua các bức tranh họ mang theo, họ cũng chẳng hiểu gì hết về phong tục của những dân tộc trước mặt họ, biết đâu họ cũng chỉ vô tình như những thủy thủ khác mà thôi. Những năm tốt đẹp nhất của đời họ đã trôi đi trong khắc khổ, thiếu hẳn sự gần gũi với xã hội xung quanh ; sự chung đụng mà ta thấy nơi nào trên trái đất cũng có, nhưng tuyệt nhiên thiếu hẳn ở cái đất Trung Hoa này. Chẳng có gì để làm rung động trái tim của người trai trẻ mới hai mươi lăm tuổi đời (chính là tác giả, đang kín đáo bộc lộ mình, có lẽ tác giả là người nhát gái, vì hồi ấy ở các hải cảng, tô giới, gái TQ rất nhiều) Vì thế họ đành chú tâm đến những chuyện khác vậy. Họ kể chuyện xông pha chiến đấu, lập những thành tích xuất sắc trong nhiệm vụ của mình, họ bàn với nhau về bảng thăng thưởng. Rốt lại cũng là lợi lộc (tôi muốn nói ở đây là danh dự chứ không phải là tiền bạc) đã làm món mồi để lôi cuốn tham vọng, làm mất đi ý nghĩa hy sinh cao cả của đời họ, kể cả những sở thích riêng tư họ cũng phải hy sinh, nhưng lúc nào họ cũng sẵn sàng hy sinh thêm, họ coi giá trị của huân chương và cấp bậc từ trên ban xuống thật xứng đáng với sự hy sinh của họ. Không còn ai non dại. Họ đều có vẻ rắn rỏi và năng động ; người nào trước kia dù có nông nổi cũng đã trở nên nghiêm trang hơn ; nhiều người đúng ra đã bước vào tuổi thích nghỉ ngơi nhưng vẫn tỏ ra rất hăng hái. Họ dễ bị kích động vì vinh quang, vì danh dự để bảo tồn thanh danh của người thủy thủ ; họ tạo thành một khối quân nhân đoàn kết chặt chẽ, nếu sau này có tan rã thì dù cho có gặp hoàn cảnh thuận lợi như trước cũng biết đâu không bao giờ còn tái tạo lại được một khối chặt chẽ như vậy, vì những người đã từng tạo ra nó không còn nữa. Không cần phải khó khăn tìm tòi, ta cũng nhận thấy họ là những người con của biển cả, những chiến sĩ, những nhà địa lý thủy học, bác học, ngôn ngữ học ; vị chỉ huy trưởng nào chẳng sung sướng thấy dưới tay điều khiển của mình có những đại úy thuyền trưởng mới ba mươi tuổi, chiến đấu không ngừng với sóng gió trên mặt biển xứ Tàu, cặp bờ vào đất Thượng Hải ở bất cứ thời tiết nào, mặc dù bờ biển nơi đây được coi là khó khăn nhất thế giới. Khả năng quyết định được đem ra thử thách liên tục ở mọi sự kiện, ngay khi hành động đang xảy ra, đã tạo cho mỗi người con đường đi lên. Người chỉ huy có thể trông cậy và tin cẩn ở những con người như thế.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Công bố cuộc viễn chinh đánh chiếm Nam Kỳ với một lực lượng hùng hậu cũng giống như có một dòng máu mới bơm vào huyết quản của họ, những huyết quản đã bao lần sôi sục

Giai đoạn chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳlàm bùng dậy tinh thần đồng đội; nhiều người đã từ lâu được quyền trở về Pháp cũng không muốn nhắc đến chuyện này. Người nào cũng muốn dự phần vào các cuộc hành quân sắp diễn ra.

Woo-sung là một làng Tàu nghèo nàn ở ngã ba sông Dương Tử và Hoàng Phố. Làng là bến đậu và chỗ họp của hạm đội. Vùng đồng ruộng xung quanh thật bằng phẳng, chỉ hơi nhấp nhô một vài nơi: gồm có ruộng lúa và ruộng trồng bông vải thấp lè tè. Cảnh vật buồn tênh. Tất cả sinh hoạt đều dồn trên mặt sông Thượng Hải, thuyền buồm ngược xuôi không ngừng; nhiều chiếc trọng tải đến ba trăm tấn: có đủ khả năng đi biển, rất linh hoạt, xoay trở thật tài tình nhờ bánh lái có đục lỗ. Tàu bè Âu Châu từ khắp nơi trên thế giới đến, xuôi dòng trên sông nhưng thường thì không ghé vào Woo-sung. Hải quân buông neo thành hàng dài thật oai nghiêm bên phía tả ngạn vì nước sâu hơn; phía hữu ngạn nước cạn có nhiều cồn. Từ trên cột buồm của chiến hạm Impératrice-Eugénie có thể nhìn thấy thành phố Thượng Hải (có lẽ tác giả là sỹ quan trên tàu này); liên lạc thường xuyên từ tàu với thành phố Thượng Hải nhờ vào các pháo hạm bằng sắt, thuyền buồm hay kỵ mã do hải quân thuê mướn. Ðại tướng Cousin-Montauban đặt bộ chỉ huy tại Thượng Hải gồm đến hai ngàn người thuộc quân đội Pháp.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chính từ Woo-sung cuộc viễn chinh được tiếp tục chuẩn bị và quyết định từng chi tiết một. Hoàng đế (trích 2 công văn của bộ trưởng hải quân Pháp gửi cho phó thủy sư đề đốc Charner, ngày 26 tháng 9 và 10 tháng 12 năm 1860: “Hoàng đế quyết định hôm nay ở hội đồng chính phủ giao cho thống chế bộ trưởng chiến tranh ra lệnh bằng văn thư ngay tức khắc cho đại tướng Montauban để bàn thảo và hội ý với ông trong mục đích chiếm giữ cho nước Pháp vị trí thật quan trọng là Sài Gòn.’’

Và kế tiếp:’’Hoàng đế, ông biết không, đã sai viết thư cho đại tướng Montauban bảo ông này phải đặt dưới quyền của ông 1 800 quân’’)
ra quyết định là một phần quân số viễn chinh ở TQ sẽ đặt dưới quyền chỉ huy của phó thủy sư đề đốc Charner. Vị chỉ huy trưởng Charner liền hội ý với đại tướng Montauban và cùng nhau đưa ra các quyết định như sau:

Ðại tướng lữ đoàn de Vassoigne sẽ chỉ huy các binh đoàn viễn chinh, dưới quyền của đề đốc chỉ huy trưởng. Bộ binh, lính đánh bộ người Phi châu, pháo binh, công binh, hậu cần gồm chung là 85 sĩ quan, 1.303 binh sĩ, 272 vừa ngựa vừa lừa. Quân sĩ rút bỏ các đảo Chu-san.

(Theo tác giả thì chi tiết quân số như sau:



Loại quân
Sỹ quan
Lính
Số ngựa
Bộ binh
39
709
22
Bộ binh da đen
3
29
31
Pháo binh
15
316
184
Công binh
4
77
13
Hậu cần
24
172
22
Tổng cộng
85
1303
272


Biệt đội bộ binh đóng giữ các hòn đảo này sẽ chuyển về Hong-Kong. Toán lính thủy đánh bộ trước đây đặt dưới quyền chỉ huy của đề đốc do một quyết nghị chung của đồng minh ở Ta-kou, gồm 800 người (lúc đầu, lẽ ra Ðại tướng O’Malley phải rời Thiên Tân để cùng với trung đoàn 101 đến Sài Gòn. Nhưng sau đó đại tướng lữ đoàn de Vassoigne được chỉ định bằng công hàm của bộ trưởng giữ chức phó chỉ huy trong binh đoàn viễn chinh đánh chiếm Nam Kỳ. ‘’...Tôi có sai tham mưu trưởng bộ tổng tham mưu viết thư cho đại tướng O’Malley, ngay khi có thể thực hiện được, sẽ cùng với trung đoàn 101 đến Sài Gòn sáp nhập với ông.’’ - thư của đại tướng Cousin-Montauban gởi cho phó thủy sư đề đốc Charner, ngày 14 tháng 1 năm 1861), nay đem sáp nhập vào binh đoàn viễn chinh. Một sĩ quan tùy viên quân sự của bộ tổng tham mưu được biệt phái thêm cho binh đoàn (chỉ huy trưỏng kỵ binh của Bộ tham mưu được chỉ định giữ chức vụ này, và một đại úy cũng của Bộ tham mưu làm phụ tá cho ông) để đảm bảo việc điều động quân lính và thực thi quân luật trong các đơn vị. Công tác lập doanh trại, cứu thương, lương thực sẽ do ủy ban kế toán quân đội đảm trách, ủy ban do một vị phụ tá quân nhu trưởng chỉ huy. Sở ngân khố và bưu điện được thiết lập thường trực tại Sài Gòn. Một viên chức liên lạc được đặt tại Singapor để tiếp nhận công hàm, văn thư từ Châu Âu chuyển sang Nam Kỳ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Như vậy là binh đoàn viễn chinh đã được tổ chức xong. Nếu kể thêm đội quân lính thủy đánh bộ sẵn có trong thành phần quân lính đóng tại Saì Gòn, cùng với ban chỉ huy đã thành thạo của đội ngũ này, thì số binh đoàn nhỏ tại Nam Kỳcũng đã tăng lên đến 4.000 người. Hiển nhiên đây là một quân đoàn đủ sức tiến quân, chiến đấu, đóng quân và tiếp tục chiến đấu nữa; không như các toán quân mà sáng thì đổ bộ, chiều phải rút về điểm xuất phát, nếu muốn sống còn.

Kinh nghiệm ở bắc TQ đã cho thấy sự ích lợi của phu khuân vác người Hoa. Dưới khí hậu nóng bức, nhiễm độc vì bệnh sốt rét kênh khiếp này, bọn cu-li lại còn cần thiết hơn nữa. Vì thế ta có chiều hướng đặt người Châu Âu giữ vai trò chiến đấu mà thôi. Một đội quân đánh thuê gồm 600 người được tuyển mộ và huấn luyện do đại úy hải quân chỉ huy trưởng Quảng Châulà Coupvent-Debois đảm trách.

Tiền bạc, lương thực, than được lưu kho và phân chia cất giữ ở Hong-Kong, theo những chỉ thị và tiêu chuẩn đặc biệt thích nghi và phù hợp cho nhu cầu của cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Chuẩn thủy sư đề đốc Page nhận chỉ thị phải cho lệnh các tàu chiến từ Pháp sắp đến đây phải chuyển vào Hong-Kong mười ba ngàn đồng tiền Bạc Hoa Xòe mà các tàu này mang theo. Chiến thuyền Persévérante giữ trọng trách cất giữ số tiền đã được chia cho Pháp quy định trong hiệp ước Thiên Tân và thỏa ước Bắc Kinh. 400.000 khẩu phần lương thực tích trữ ở Hong-Kong xem như đã đủ cho số lượng phòng bị quân lương. Tất cả các tàu chuyên chở lương thực phải được gởi về Sài Gòn. Trong số 8.000 tấn than trên các tàu của chính phủ Pháp thuê đang cặp bến Hong-Kong, thì 4.000 tấn được chuyển lên bờ, 4.000 tấn còn lại phải chở đến Sài Gòn.

Ðể kết thúc bảng thống kê chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ cũng phải kể ra đây phần đóng góp của Tây Ban Nha. Trước đây, đội ngũ người Tây Ban Nha đóng tại Sài Gòn thu hẹp chỉ còn 230 bộ binh. Phó thủy sư đề đốc Charner thông báo các việc đang được chuẩn bị và đã được thực hiện đến đại tá đại diện toàn quyền Hoàng gia Thiên Chúa Tây Ban Nha là Palanca Gutierrez, cùng viên toàn quyền Philipines. Sau đây là lời ông nói với đại tá Palanca, người mà ông vẫn giữ mối liên lạc cá nhân quí mến và thân thiện:

’’Người Tây Ban Nha là những đồng minh chứ không phải là thành phần phụ thuộc. Nhưng không thể nào có chuyện phân chia lãnh thổ Sài Gòn được. Phải chờ sau này và ở một nơi khác, tức là Bắc Kỳ (lúc này, Pháp đang bí mật ủng hộ và cấp vũ khí cho toán quân của Tạ Văn Phụng chống nhà Nguyễn ở Bắc Kỳ, Tạ Văn Phụng có thể tên thật là Lê Duy Phụng, hậu duệ nhà Lê, danh nghĩa là Phò Lê diệt Nguyễn, toán quân này đánh cho nhà Nguyễn tan tác ngoài Bắc, tuy nhiên họ chỉ là con bài của Pháp nhằm gây sức ép với nhà Nguyễn, sau này khi đạt được mục đích, nhà Nguyễn thà mất đất nước chứ không mất ngôi, ký hiệp ước Nhâm Tuất thì Pháp muốn Tây Ban Nha giúp Phụng ở Bắc Kỳ và chiếm miền Bắc, chia Bắc Kỳ cho Tây Ban Nha,nhưng TBN đã nhiều đất, chỉ muốn tiền nên từ chối) thì Tây Ban Nha mới có thể được đền bù cho sự hy sinh vinh quang của mình. Ðó là tinh thần các chỉ thị của Hoàng đế Napoléon ban xuống’’.

Còn về việc chiến đấu thì đề đốc kêu gọi đến tinh thần nhất trí. Ông tin vào sự hợp tác mà vị toàn quyền Tây Ban Nha hứa hẹn. Nói với đại úy đại diện Philipines, viên chỉ huy viễn chinh cũng đòi hỏi một tinh thần như vừa kể. Theo thứ tự ưu tiên, ông yêu cầu phía Tây Ban Nha phải gửi thêm cho ông 150 kỵ binh, 400 lính bộ và 300 thủy binh gốc người Tagal (người Philipines gốc Malay). Manila phải đặc biệt cung ứng 150 kỵ binh cả người và ngựa; cũng dễ hiểu là vai trò của kỵ binh rất hữu ích ở Nam Kỳ. Sự tăng viện này đã không hề diễn ra. Nhưng bù lại, đề đốc tìm thấy nơi đại tá Palanca Gutierrez một sự hợp tác trung thành và nhiệt tâm, điều này giúp ông có thể tin cẩn vào tinh thần hào hiệp của vị sĩ quan Tây Ban Nha.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tất cả các công việc không liên quan gì đến chiến dịch viễn chinh cũng được giải quyết ở Woo-sung. Các Chiến hạm Prégent, Dordogne, Gironde lên đường thực hiện nhiệm vụ riêng. Chiến hạm Prégent được biệt phái đến Fou-chow-fou, trên bờ biển Phúc Kiến để nhận tiền bồi thường cho nước Pháp đã được quy định trong hiệp ước Bắc Kinh. Chuyện này thật gai góc, nhưng đã được thực hiện tốt và thành công. Tàu Prégent là chiến hạm Pháp đầu tiên xuất hiện trên sông Mân, hai bên bờ sông là thành phố Phúc Châu. Tàu Dordogne đến Nhật Bản, nơi đây tình trạng của các nhà ngoại giao và lãnh sự ở Yeddo, vừa được cải thiện chưa được vài ngày nhờ sự hiện diện quân sự của Pháp và Anh đặt dưới quyền chỉ huy của các chuẩn đề đốc Page và Jones, lại đột nhiên trở lại cảnh như trong tù. Tàu Gironde đi Bang-Kok để đón các sứ thần Xiêm La.

Những công tác chuẩn bị sau cùng được tận lực thúc đẩy. Các chiến thuyền hư hại (Dragonne, Mitraille, Alarme, Prégent, Alom-prah) đều cặp bến an toàn ở vũng tàu Thượng Hải để sửa chữa. Từ 15 đến 21 tháng 1, thủy thủ đoàn và thiết bị lần lượt cho lên tàu để lên đường đi Sài Gòn.Ngày 24 tháng 1, vị tổng chỉ huy rời Woo-sung, ngày ông rời Woo-sung ông đã quyết định từ trước. Vừa lúc chiến hạm Impératrice-Eugénie của đề đốc vượt cửa sông Dương Tử, thì tàu Dryade do chuẩn thủy sư đề đốc Protet chỉ huy cũng vừa tiến vào cửa sông để cặp bến Thượng Hải.

Tàu Impératrice-Eugénie chỉ ghé Hong-Kong có bốn hôm để nghỉ ngơi. Tại Hong-Kong, tất cả đã được chuẩn đề đốc Page sửa soạn chu đáo từ trước, còn chính ông thì đã đến Nhật được 20 ngày rồi. Các tàu Fusée Calvados vẫn còn tiếp tục sửa chữa. Lính thủy đánh bộ được chuyển nhanh chóng lên tàu Impératrice-Eugénie để tàu nhổ neo đi Nam Kỳ. Ngày 7 tháng 2 tàu ngược sông Đồng Nai, hai bên bờ sông cây cỏ xanh tươi và bằng phẳng, tàu thả neo trên sông trước mặt thành phố Sài Gòn.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
CHƯƠNG II

Thực địa chiến trận và tình thế tương quan giữa hai bên- Thực lực của vương quốc An Nam- Tầm quan trọng về chính trị và quân sự của thành Kỳ Hòa.

Vương quốc An Nam gồm ba xứ mà trước kia hoàn toàn riêng biệt :

-Xứ Bắc Kỳ, mà người TQ gọi là Giao-châu, có nghĩa là Xứ sông ngòi (nguyên văn : Pays aquatique, nghĩa là xứ có nhiều nước), người dân sinh sống tại đây gọi là người Nam Kỳ ‘’Dong ngoai’’ (nghĩa là Nam Kỳ Đàng Ngoài, để nguyên văn, không rõ tác giả căn cứ vào cái gì ?), xứ Bắc Kỳ còn gọi là Xứ bên ngoài, và theo một tài liệu Hà Lan thì phải gọi là An Nam phía Bắc ( nguyên văn :Annam septentrional) ;

-Xứ An Nam hay là An Nam miền trung, còn gọi là tỉnh Huế, hay gọi đúng hơn là Dong trong (để nguyên văn, nghĩa là Đàng Trong), có nghĩa là Xứ miền trong, hay đúng hơn nữa là An Namphía Nam;

-An Nam Miền Dưới (nguyên văn : la basse Cochinchine), mà nhiều tài liệu ghi sai là tỉnh Sài Gòn, miền này các bản đồ xưa đều ghi là Campuchia. Thật vậy, trước cuộc chinh phục của các Chúa nhà Nguyễn, thì vùng đất này thuộc lãnh thổ của vương quốc Campuchia.

Ngoài ra đế quốc An Nam còn gồm một số nước bảo hộ phải triều cống. Ðây là tình trạng đế quốc An Nam bắt đầu từ năm 1802 cho đến nay.

Một dãy núi kéo dài 800 dặm, tiếp nối từ vùng núi non Tây Tạng, không xa cao nguyên Khou-khou-noor, đổ dài xuống phía nam song song với vùng biển Trung Hoa, phân định vị trí hai vùng vương quốc xưa nhất của đế quốc An Nam. Một bên là núi và một bên là biển làm ranh giới thiên nhiên cho hai vương quốc An Nam phía Bắc và An Nam phía Nam ; nếu dùng danh xưng không được đúng lắm nhưng thông dụng hơn thì gọi là Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Bắc Kỳ là một vùng đồng bằng rộng lớn, phù sa, phì nhiêu và phong phú nhờ sông Sang-koi hay Song-ça (tức là sông Hồng, các văn bản nước ngoài hồi ấy đều viết là Song Koi, Song Ca) và các phụ lưu bồi đắp. Nam Kỳ là một dải đất chỉ rộng từ 30 đến 50 dặm, kéo dài từ bắc xuống nam ; doc theo một dãy núi bao bọc nằm bên phía tây. Nước đổ ra biển bằng các sông ngòi ít vòng vèo, nước chảy cuồn cuộn, từ hướng tây ra hướng đông. Ðây là dãy núi xa nhất về phía đông trong số năm dãy núi lớn tạo ra các vùng thung lũng rộng là xứ Miến Điện, xứ Xiêm La, xứ Campuchia và xứ An Nam. Núi trải dài từ vĩ độ 11 thành từng vùng thấp dần theo một đường uốn cong bắt đầu từ núi Vi và đổ ra sát tới biển, tạo ra một bức trường thành rộng lớn và một ngọn đèo, chỉ chừa lại một dãi đất hẹp là Phan Thiết, làm ranh giới thiên nhiên giữa Nam Kỳ miền dưới và Nam Kỳ miền trung.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trở xuống phía tây nam vẫn còn các núi đồi nhỏ thưa thớt, nơi đây có thể coi là vùng chuyển tiếp của ranh giới Nam Kỳmiền trung: sông ngòi ít gấp khúc, vài kênh rạch, tự nhiên hoặc do người đào, chảy giữa các vùng núi và đồi nhỏ. Càng xuống dần phía nam thì chỉ thấy trước mặt một vùng đất mềm gồm cát, bùn và năm con sông lớn cùng các kênh rạch tự nhiên chia cắt thành hàng ngàn đảo. Cát thì được mang từ biển vào (đoạn này tác giả nhầm về Địa chất học, cát do sông bồi lấp), bùn đất thì do sông Cambodge (sông Tiền Giang, tác giả dùng tên sông Cambodge dể chỉ chung cho sông Cửu Long hay sông Mê Kông) bào mòn những vùng núi non chảy ngang đem bồi đắp trong mùa nước lũ). Trong quá khứ chắc rằng biển đã bao phủ cả miền Nam Kỳ ngày nay. Một vịnh hình vòng cung nằm lọt giữa hai vùng núi là Hà Tiên và cap Saint-Jacques (Vũng Tàu); sông Đồng Nai chỉ là một dòng thác; hai nhánh sông Vàm Cỏ tạo ra hai con sông riêng biệt. Tỉnh Long Hồ (tức Vĩnh Long bây giờ) lúc đó chưa thành lập; các tỉnh Gia Định, Mỹ Tho, An Giang và Hà Tiên gồm một vùng đất dựa vào núi một phần, một phần giáp ranh với vuơng quốc Campuchia. Bùn đất phù sa và các bãi san hô giữa Sài Gòn và Tây Ninh chứng minh cho thấy vùng đất này trước kia do sông ngòi và biển tạo ra. Cát dồn lại thành cồn doc bờ sông hòa với phù sa tạo ra ruộng đồng phong phú. Sự hình thành đất đai do sông ngòi vẫn còn đang tiếp diễn tại vùng này của xứ An Nam, người TQ gọi nơi đây là xứ sông ngòi; bùn và cát hòa lẫn nhau không phải là nước cũng không phải là đất. Những người Bắc Kỳ mạo hiểm đến đây dùng ván để trườn và lướt đi trên bùn.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hai dãy núi kéo dài ra tới biển tại hai địa điểm là Phan Thiết và Hà Tiên, giữa hai dãy núi là sông Cambodge. Biển là ranh giới thiên nhiên rõ rệt của xứ Nam Kỳ miền dưới. Tiếp giáp với xứ của người Mọi và xứ của người Chàm (tức là người các dân tộc thiểu số Tây Nguyên và Chăm-pa, nguyên văn Moys và Kiams), nơi đây biên giới kém rõ ràng hơn. Khi nhìn vào bản đồ sáu tỉnh Nam Kỳ miền dưới, từ bờ biển hiện nay cho đến vĩ độ Tram-ban (tức là Trảng Bàng ngày nay), người ta có thể nhận thấy biển vẫn còn giữ lại vết tích trong vùng đất phù sa; toàn vùng chỉ là đảo và chung quanh thủy triều dâng lên hay rút xuống đều nhận thấy rõ rệt. Tàu bè lưu thông như trên biển rộng; nước sâu, không nguy hiểm, các đường di chuyển được kẽ vạch rõ ràng.

Năm con sông lớn chảy ngang Nam Kỳ miền dưới đổ ra biển bằng một trong những cửa sông rộng lớn nhất thế giới: Năm con sông này gồm có sông Đồng Nai, sông Đồng Tranh, sông Soài Rạp, sông Vàm Cỏ, sông Cambodge. Sông Cambodge bị ngáng bởi nhiều cồn chỉ có tàu bè đáy sâu dưới 14-foot (khoảng 0,3248m) mới di chuyển được. Hướng và độ sâu của kênh rạch thay đổi theo mùa gió. Bờ biển thấp, cây cối xanh tươi và bằng phẳng; không một ngọn cây nào vượt cao hơn các cây đước, cây mắm để có thể dùng làm điểm chuẩn cho tàu bè định hướng. Khó khăn thiên nhiên cản trở lưu thông của tàu bè lớn nhưng không gây khó khăn gì cho các thủy thủ An Nam, Xiêm, Trung Hoa và Nhật. Họ lái các tàu ven bờ thật hay, tàu của họ có đáy rất cạn. Các nhà viết sử người Hà Lan chép rằng sông Cambodge đổ ra biển bằng ba cửa: cửa Umbequamme, danh xưng này theo tiếng Pháp có nghĩa là bất tiện Incommode, cửa Nhật Bản (đây là tên 1 cửa sông trên các bản đồ và tài liệu của người Châu Âu, bây giờ chỗ ngã 3 cù lao Tam Hiệp, phân chia Tiền Giang và Bến Tre) và cửa Sài Gòn. Chiến tranh Nam Kỳ giúp thêm cho việc nghiên cứu địa lý thủy học của sông Cambodge; hiện nay người ta biết rằng sông Cambodge có bẩy nhánh chính. Umbéquamme là cửa đổ ra biển của một nhánh sông tách ra từ sông chánh gần Châu Đốc, sông Nhật Bản gồm hai nhánh bắc và nam Mỹ Tho. Còn về phần cửa Sài Gòn thì chỉ được coi như cửa đổ ra biển của sông Đồng Nai mà thôi, sông này trước đây được xem như một trong nhiều nhánh của sông Cambodge. Trên thực tế sông Sài Gòn nối liền với sông Cambodge bằng các kênh trong đất liền, sông Đồng Nai là một con sông riêng biệt tiến sâu về phía bắc, hướng vào lãnh thổ Stieng.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Các dòng sông lớn thông thương với nhau nhờ các kênh thẳng góc với hướng chính của sông. Bàn tay người ta tượng trưng rất chính xác hình ảnh hệ thống sông ngòi của Nam Kỳ miền dưới. Cách so sánh như thế cũng dễ hiểu, hình như con người hay tìm kiếm ở bối cảnh chung quanh hình ảnh của chính mình. Những nét doc lớn của chữ M là các con sông, trừ vài chỗ tuy sông có đổi hướng cũng không làm sai lệch hình ảnh này; các đường gạch ngang của chữ M thì tượng trưng cho kênh rạch. Một số kênh do chính tay người đào, hoặc là kênh thiên nhiên do tay người sửa cho đều và nạo vét đáy. Những kênh rạch khác là do thiên nhiên tạo ra. Kênh nối hai con sông với nhau vì thế kênh có thể thông ra biển bằng hai cửa khác nhau; đáy kênh rạch có chỗ sâu chỗ cạn; chỗ cạn là nơi hai dòng nước gặp nhau bùn đất bị dồn lại. Hai bờ kênh cây cối bao phủ tạo ra vẻ dịu dàng, mềm mại, duyên dáng và ưa nhìn, nhưng không có cái vẻ lộng lẫy của rừng rậm nhiệt đới. Cây cối gồm có xoài, đước, dừa nước, cây có bông trắng như bông lài, nhiều cây có lá giống như lá cây ở Châu Âu và có đủ loại màu xanh, từ màu xanh mướt của cây liễu rủ cho đến màu xanh đậm có vẻ kim loại của cây hoa trà ( nguyên văn: camellia là các cây vùng ôn đới thường thấy ở Châu Âu) Gần bờ nước thì có loại dừa duyên dáng nhất trên trái đất, thân giống như là những cây cột của lâu đài Hy Lạp nhưng lại có sự sống, đó là cây cau. Cỏ cao, dây leo, cây lô hội, xương rồng đầy gai tạo thành các bụi rậm mà người Âu không thể chui qua lọt, nhưng đối với người An Nam thì họ trườn, bò và rình rập dễ dàng trong đó. Nhiều chỗ nước ăn sâu vào bờ kênh tạo ra những chỗ phục kích bất ngờ: đây là những nhánh kênh lấn sâu vào đất, nằm song song với kênh chính, cửa vào thì có dây leo rủ xuống che kín; các hốc tự thiên đó có thể làm chỗ núp cho một người, một chiếc ghe hay một nhóm quân nhỏ: không có chỗ nào có thể làm chỗ phục kích chắc chắn hơn những chỗ như vậy. Kênh rạch tạo cho chiến tranh Nam Kỳ một bộ mặt thật riêng biệt. Lần đầu thấy những bờ kênh như thế, người ta tưởng dễ, thử phá gai lội bùn để vượt ngang, nhưng rồi sẽ bị ngập trong lầy, mặt mày rách nát, trở nên bất lực vì cỏ vừa mềm vừa cao quấn chặt; người ta tự hỏi không biết phải làm thế nào để chống lại quân phục kích, họ thì coi các chướng ngại này như không có. Các pháo hạm nhỏ bằng sắt là linh hồn của trận chiến Nam Kỳ, nếu không hữu dụng ngay trong khi hành quân, thì cũng rất ích lợi về sau là như vậy.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,244
Động cơ
699,776 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Quang cảnh của Nam Kỳ thật là bằng phẳng, buồn thảm, giống như tất cả các xứ đồng ruộng khác. Khi có một lỗ hở do cọp, nai đi ngang còn lưu lại thì tầm mắt mới vượt ra khỏi hai bên bờ kênh, nhưng cũng chẳng thấy gì lạ ngoài những cánh đồng xanh tươi đôi khi gợn sóng như mặt biển. Ðồng ruộng là đất Phật, chẳng có gì buộc chặt tâm hồn với đất đai. Thiếu chiều sâu của sự sống. Ðất nhường chỗ cho bùn; chỉ có tư tưởng mới có thể lướt đi trên vùng xanh tươi vô tận này mà thôi; xác thân sẽ lún chìm tại chỗ. Những cọng cỏ muôn thuở nối tiếp nhau, từng cọng một đều giống hệt như nhau. Trước cảnh sình lầy và bằng phẳng, nghị lực mềm yếu, chỉ có linh hồn tự vượt ra mà thoát đi. Quả thật là nơi phải gọi là cảnh toàn phúc tối thượng, xin tạm mượn chữ như vậy, _cái thoát tục vẹn toàn nhất, cái chấm dứt của buồn thảm, của nhớ nhung (tâm trạng của tác giả lúc đó, một người lính viễn chinh, có thể thấy phong cảnh Nam Bộ hồi ấy khác xa bây giờ).Tuy vậy, về phía bắc, khi đến gần một trong hai vùng núi, đất đai trở nên cao hơn, bờ sông cũng dốc hơn, rừng xen kẽ với ruộng đồng. Trong rừng có nhiều thứ dùng làm thuốc Bắc, giá bán đắt hơn vàng.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top