[Funland] Dịch sách cổ: Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên: chuyện nhà Lý, Lý Thường Kiệt, Nùng Trí Cao.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,025
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
5.190.000 cây vàng = 137.000kg = 137 tấn vàng = 1/10 số vàng dự trữ của TQ bây giờ ~ 13 tỷ USD hiện tại.
Chắc ko hết ngần đó đâu cụ, hoặc là 1 lượng nhỏ hơn 1 cây.
Vâng cụ, có lẽ cách tính lượng vàng của nhà Tống nó khác với các triều đại sau, hoặc tác giả ghi nhầm, em đang xem lại các đơn vị đo thời ấy xem.
 

One-77

Xe cút kít
Biển số
OF-64321
Ngày cấp bằng
17/5/10
Số km
15,795
Động cơ
1,392,186 Mã lực
Vâng cụ, có lẽ cách tính lượng vàng của nhà Tống nó khác với các triều đại sau, hoặc tác giả ghi nhầm, em đang xem lại các đơn vị đo thời ấy xem.
Vâng. Tổng tài sản của Hoà Thân bị tịch biên cũng mới chỉ 1,1tr lạng. Tương đương 15 năm thu quốc khố của nhà Thanh.
Thời Tống qui mô quốc khố chắc chắn không bằng cuối thời Càn Long-Gia Khánh nhà Thanh được.
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
Vua cũng thâm nhỉ, dung túng cho nịnh thần & hoạn quan tham nhũng vơ vét, rồi cuối đời là gia sản lại về tay vua cả :D

Vâng. Tổng tài sản của Hoà Thân bị tịch biên cũng mới chỉ 1,1tr lạng. Tương đương 15 năm thu quốc khố của nhà Thanh.
Thời Tống qui mô quốc khố chắc chắn không bằng cuối thời Càn Long-Gia Khánh nhà Thanh được.
 

xegiacmo

Xe container
Biển số
OF-124420
Ngày cấp bằng
16/12/11
Số km
9,250
Động cơ
414,087 Mã lực
Do nhận thức của lãnh đạo cấp cao kém nên nhà Lý đã phạm vào đại kỵ " cắt đất cầu hoà, bán nước cầu yên"
Biết sai lầm nên sau đó đã nỗ lực sửa chữa, tuy nhiên không hết mình, không lấy lại được hết đất mà vẫn không quyết một phen sống mái.
Nên dòng họ đã phải chịu trả giá, bị " Trời tru, đất diệt" chết sạch chỉ còn một mống bỏ xứ trốn chạy.
Đó chính là cái hay của lịch sử để soi xét.
Có triều nào bị hạ bệ mà không thảm đâu , tư duy ngu dốt cũng đòi lên mạng bi bô
 

One-77

Xe cút kít
Biển số
OF-64321
Ngày cấp bằng
17/5/10
Số km
15,795
Động cơ
1,392,186 Mã lực
Vua cũng thâm nhỉ, dung túng cho nịnh thần & hoạn quan tham nhũng vơ vét, rồi cuối đời là gia sản lại về tay vua cả :D
Thì Càn Long đưa vào trong qui hoạch chiến lược tầm nhìn 15năm sau khi chết mà cụ. :D
Vua giỏi hơn vua thường ở chỗ đó :)
 

Arjuna82

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-798965
Ngày cấp bằng
1/12/21
Số km
654
Động cơ
22,568 Mã lực
Tuổi
38
Thì Càn Long đưa vào trong qui hoạch chiến lược tầm nhìn 15năm sau khi chết mà cụ. :D
Vua giỏi hơn vua thường ở chỗ đó :)
Vụ Hòa Thân sau khi tìm hiểu kĩ thì khác đấy.
Càn Long khi làm thái thượng hoàng đã bị lẩn và u mê luôn.
Hòa Thân đã tạo ra một hệ thống mà không thể đụng đến được vì đụng đến thì cả nước sẽ nát.
Nghĩa là Hòa Thân nắm hết cả.
Gia Khánh phải nhẫn nhịn chờ thời và đột phá ngay lúc Hòa Thân suy sụp về tinh thần nhất khi vợ và em ông ta bị bệnh chết.
Gia Khánh liên lạc với tất cả các tay chân dưới hệ thống Hòa Thân và một lời hứa hẹn được đưa ra
Chỉ thay Hòa Thân không đụng đến hệ thống.
Mọi chuyện như cũ.
Tức giống việc lấy tài sản hòa thân chia cho bọn tham quan bên dưới.
Đến đời Đạo Quang quốc khố suy đến mức ông ta phải tiết kiệm ăn mặc như một tên ăn mày
 

detector

Xe tăng
Biển số
OF-318852
Ngày cấp bằng
8/5/14
Số km
1,244
Động cơ
320,455 Mã lực
Website
woodsoft.vn
BỨC TRANH LƯU GIỮ TẠI VƯƠNG QUỐC ANH MÔ TẢ SỰ PHÁT TRIỂN VỀ KINH TẾ QUÂN SỰ CỦA ĐÀNG NGOÀI

Thương nhân nước ngoài nhận xét về Đàng Ngoài -Việt Nam thời Chúa Trịnh cai trị

5. Chợ phiên vào các ngày Mồng 1 và 15 âm lịch, người dân cùng hàng hóa đổ về nhiều vô số kể. Tắc đường khủng khiếp, không thể nhích nổi 100 bước trong vòng 30 phút.
Hóa ra tắc đường ở Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa phi vật thể từ thời chúa Trịnh. 😲
 

LangLe2021

Xe tải
Biển số
OF-798438
Ngày cấp bằng
25/11/21
Số km
330
Động cơ
20,130 Mã lực
Tuổi
35
Cuốn này chưa có bản điện tử cụ ạ, bản giấy vì không có dấu chấm phảy nên nếu em dịch thì mất nhiều thời gian, em đang tìm bản điện tử của Trung Quốc, họ scan rất chuẩn và sửa lỗi luôn, dịch dễ.
Có bản online, em post rồi mà, có điều cũng không có chấm phẩy.
Ngự giao kỷ, bản online: https://repository.lib.cuhk.edu.hk/en/item/cuhk-1941296#page/1/mode/2up
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,025
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La

Arjuna82

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-798965
Ngày cấp bằng
1/12/21
Số km
654
Động cơ
22,568 Mã lực
Tuổi
38
Bản này em thấy rồi, nhưng không có chấm phẩy dịch mất thời gian ác liệt, hehe
Ngự giao kỷ nó có nhắc sự kiện Giang Văn Minh đi sứ thời Sùng Trinh.
Cụ xem có chuyện ông ta bị Sùng Trinh mổ bụng không hay chết vì lý do gì
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,025
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngự giao kỷ nó có nhắc sự kiện Giang Văn Minh đi sứ thời Sùng Trinh.
Cụ xem có chuyện ông ta bị Sùng Trinh mổ bụng không hay chết vì lý do gì
Vâng, để rảnh em đọc xem, sử ta viết về cụ Giang Văn Minh lẫm liệt lắm.
 

detector

Xe tăng
Biển số
OF-318852
Ngày cấp bằng
8/5/14
Số km
1,244
Động cơ
320,455 Mã lực
Website
woodsoft.vn
Em tàu ngầm theo dõi, nay nổi lên xin cụ doctor76 cho em xin các bản dịch vào xdetector@gmail.com ạ.
Xin cám ơn cụ trước.
 

Arjuna82

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-798965
Ngày cấp bằng
1/12/21
Số km
654
Động cơ
22,568 Mã lực
Tuổi
38
Vâng, để rảnh em đọc xem, sử ta viết về cụ Giang Văn Minh lẫm liệt lắm.
Sử cổ ta không viết về cụ này. Chỉ ghi nhận ông ấy có đi sứ nhà Minh.
Minh thực lục nó cũng không ghi
Chỉ có gia phả họ Giang viết về chiến công của ổng.
Sau mấy ông viết sử quốc ngữ lôi gia phả vào chế ra thành câu chuyện anh hùng cảm động
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
Nhân nhắc đến An Nam Truyện, e đã liên hệ với với ô chủ NXB Tao Đàn (https://sachtaodan.vn) để xin post hầu các cụ 1 chương về Châu Quảng Nguyên và Nùng Chí Cao hầu các cụ tiện tham khảo. Em xin bắt đầu luôn ạ.
~~~
Giới thiệu:

An Nam Truyện ghi chép lịch sử nước Việt Nam qua góc nhìn của sử gia phong kiến Trung Quốc suốt hơn 2.000 năm, từ thời nhà Tần, Hán đến tận năm 1911, khi cuộc Cách mạng Tân Hợi chấm dứt triều đại nhà Thanh.

An Nam Truyện do dịch giả, nhà nghiên cứu Châu Hải Đường, (Lê Tiến Đạt, sinh năm 1974), thực hiện và được Tao Đàn cùng NXB Hội Nhà Văn vừa phát hành.

Theo tác giả, trong số 26 bộ chính sử Trung Quốc thì 17 bộ có thông tin liên quan đến Việt Nam. Đó là các bộ: Sử ký Tư Mã Thiên, Hán thư, Hậu Hán thư, Tam Quốc chí, Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Trần thư, Tùy thư, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tân Ngũ đại sử, Tống sử, Nguyên sử, Minh sử và Thanh sử cảo.

Trong khi đó, các bộ sử còn lại không có thông tin liên quan đến Việt Nam, hoặc có thông tin nhưng là chép lại từ các bộ khác. Điển hình như câu chuyện Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, là dấu mốc quan trọng đánh dấu một thời kỳ tự chủ của nước ta, nhưng chỉ được nhắc rất khiêm tốn trong bộ Tân Ngũ đại sử, ở phần "Nam Hán thế gia".



TÊN VIẾT TẮT TRONG PHẪN CHÚ THÍCH

Đại Việt sử ký thư - Ngoại kỷ: TT.NK.
Đại Việt sử ký toàn thư - Bản kỷ: TT.BK.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Tiền biên: CM.TB.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Chính biên: CM.CB.
Đại Việt sử ký tiền biên - Ngoại kỷ: TB.NK.
Đại Việt sử ký tiền biên - Bản kỷ: TB.BK.
Đại Việt sử ký tục biên: TcB.
Đại Nam thực Lục: ĐNTL.
Đại Nam liệt truyện: ĐNLT.
An Nam chỉ lược: ANCL.
Số ký: K.
Số quyển: q.
 
Chỉnh sửa cuối:

Arjuna82

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-798965
Ngày cấp bằng
1/12/21
Số km
654
Động cơ
22,568 Mã lực
Tuổi
38
Nhân nhắc đến An Nam Truyện, e đã liên hệ với với ô chủ NXB Tao Đàn (https://sachtaodan.vn) để xin post hầu các cụ 1 chương về Châu Quảng Nguyên và Nùng Chí Cao hầu các cụ tiện tham khảo. Em xin bắt đầu luôn ạ.
~~~
Giới thiệu:

An Nam Truyện ghi chép lịch sử nước Việt Nam qua góc nhìn của sử gia phong kiến Trung Quốc suốt hơn 2.000 năm, từ thời nhà Tần, Hán đến tận năm 1911, khi cuộc Cách mạng Tân Hợi chấm dứt triều đại nhà Thanh.

An Nam Truyện do dịch giả, nhà nghiên cứu Châu Hải Đường, (Lê Tiến Đạt, sinh năm 1974), thực hiện và được Tao Đàn cùng NXB Hội Nhà Văn vừa phát hành.

Theo tác giả, trong số 26 bộ chính sử Trung Quốc thì 17 bộ có thông tin liên quan đến Việt Nam. Đó là các bộ: Sử ký Tư Mã Thiên, Hán thư, Hậu Hán thư, Tam Quốc chí, Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Trần thư, Tùy thư, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tân Ngũ đại sử, Tống sử, Nguyên sử, Minh sử và Thanh sử cảo.

Trong khi đó, các bộ sử còn lại không có thông tin liên quan đến Việt Nam, hoặc có thông tin nhưng là chép lại từ các bộ khác. Điển hình như câu chuyện Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, là dấu mốc quan trọng đánh dấu một thời kỳ tự chủ của nước ta, nhưng chỉ được nhắc rất khiêm tốn trong bộ Tân Ngũ đại sử, ở phần "Nam Hán thế gia".



TÊN VIẾT TẮT TRONG PHẪN CHÚ THÍCH

Đại Việt sử ký thư - Ngoại kỷ: TTNK.

Đại Việt sử ký toàn thư - Bản kỷ: TTBK.

Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Tiền biên: CMTB. Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Chính biên: CM.CB.

Đại Việt sử ký tiền biên - Ngoại kỷ: TB.NK.

Đại Việt sử ký tiền biên - Bản kỷ: TB.BK.

Đại Việt sử ký tục biên: TcB. Đại Nam thực Lục: ĐNTL.

Đại Nam liệt truyện: ĐNLT.

An Nam chỉ lược: ANCL.

Số ký: K.

Số quyển: q
Quyển này em cũng có
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
II. TỐNG SỬ
QUYỂN 495 - QUẢNG CHÂU NGUYÊN

Người man ở châu Quảng Nguyên là họ Nùng. Châu ấy ở đầu nguồn sông Úc Giang, tây nam Ung Châu, đất cheo leo hiểm trở, sản ra hoàng kim, đan sa, có rất nhiều bộ lạc tụ cư thành ấp. Tục ở đó dân búi tóc cao, để vạt áo bên trái, giỏi đánh nhau, khinh chết hiếu loạn. Trước kia, họ Vi, họ Hoàng, họ Châu, họ Nùng làm thủ lĩnh, vẫn cướp đoạt lẫn nhau. Đời Đường, Ung quản Kinh lược sứ Từ Thân yên vỗ rất hậu, họ Hoàng bèn nộp con tin, mà người man ở 13 bộ, 29 châu đều an định. Từ khi người man Giao Chỉ chiếm cứ An Nam, thì Quảng Nguyên tuy gọi là châu ki mi (1) do Ung Châu cai quản, kỳ thực lại phục dịch Giao Chỉ.

Khi trước, có Nùng Toàn Phúc (2), coi châu Thảng Do em trai là Tôn Lộc coi châu Vạn Nhai, em vợ của Toàn Phúc là Nùng Đương Đạo coi châu Vũ Lặc (3). Đến một ngày, Toàn Phúc giết Tồn Lộc, Đương Đạo, kiêm tỉnh lấy đất. Giao Chỉ nổi giận cử binh bắt Toàn Phúc và con là Trí Thông đem về. Vợ (Toàn Phúc) là A Nùng vốn người Vũ Lặc ở Tả Giang, chuyển đến châu Thảng Do, được Toàn Phúc lấy làm vợ. Toàn Phúc bị bắt, A Nùng bèn lấy một người thương nhân, sinh đứa con trai tên là Cao (4). Trí Cao được mười ba tuổi, bèn giết người cha thương nhân, nói: “Thiên hạ há lại có hai cha ư?” Nhân mạo xưng họ Nùng, cùng mẹ chạy đến động Lỗi Hỏa, người mẹ lại lấy Nùng Hạ Khanh ở đạo Đặc Ma.

Lâu dần, Trí Cao lại cùng mẹ ra chiếm cứ châu Thảng Do, dựng nước gọi là nước Đại Lịch. Giao Chỉ đánh hạ châu Thảng Do, bắt Trí Cao, nhưng tha tội, sai coi châu Quảng Nguyên, lại lấy 4 động Lôi Hỏa, Tần Bà... cùng châu Tư Lãng phụ thêm cho (5). Được bốn năm, (Trí Cao) trong lòng oán Giao Chỉ, mới tập kích chiếm cứ châu An Đức, tiếm xưng Nam Thiên quốc (6), đổi niên hiệu là Cảnh Thụy.

======

1. Châu ki mi: là một chế độ châu huyện thời Đường đất cho các vùng biên viên, công những thổ hào địa phương, ban chức tước, cho thế tập. Trên lý thuyết là do triều đình quản lý, thực chất là khu tự trị
2. TT.BK.q2 chép là Nùng Tồn Phúc.
3. Thảng Do, Vạn Nhai, Vũ Lặc đều thuộc châu Quảng Nguyên.
4. TT.BK.q2 chép "Vua cho quân đuổi theo bắt được Tồn Phúc và bọn Trí Thông năm người. Chỉ có vợ là A Nùng, con là Trí Cao chạy thoát.” Như vậy theo sử nước ta thì không có chuyện Trí Cao là con của A Nùng với thương nhân như Tống sử chép.
5. TT.BK.q2 chép tên bốn động là Lôi Hỏa, Bình, An, Bà.
6. TT.BK.q2 chép: “Trí Cao làm phản, tiếm xưng là Nhân Huế Hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Nam.
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
Năm Hoàng Hựu nguyên niên (1049), (Trí Cao) vào cướp Ung Châu. Năm sau, Giao Chi phát binh thảo phạt, không hạ được. Quảng Tây chuyển vận sứ Tiêu Cố sai Ung Châu chỉ sứ Kỳ Uân đến dò xét, nhưng Uân lại tự ý phát quân đánh Trí Cao, nên bị bắt. (Trí Cao) nhân hỏi tình hình hư thực của Trung Quốc, Uân trình bày đại lược cho biết, và thuyết phục Trí Cao nội phụ. Trí Cao bèn sai Uân về, dâng biểu xin tuế cống phương vật, nhưng triều đình chưa cho. (Trí Cao) lại đem voi nhà, vàng bạc sang dâng. Triều đình cho rằng châu ấy vốn thuộc Giao Chỉ, nên từ chối. Sau, lại đem thư để trong hộp vàng sang xin. Tri Ung Châu là Trần Củng báo lên, mà triều đình không hồi âm. Trí Cao xin không được, lại đang là cừu thù với Giao Chỉ, vả cậy có lợi thế núi sông, bèn chiêu nạp những kẻ vong mệnh, nhiều lần đem áo rách ra đổi thóc ăn, nói dối là trong động đói kém, bộ lạc li tán. Ung Châu tin là (Trí Cao) thể yếu, không hề phòng bị gì. (Trí Cao) bèn cùng tiến sĩ người Quảng Châu là Hoàng Vĩ , Hoàng Sư Mật và bè đảng là bọn Nùng Kiến Hầu, Nùng Chí Trung ( đt) ngày đêm mưu tính vào cướp. Một tối, (Trí Cao) cho đốt hết sào huyệt, nói dối quản chúng rằng: “Bao nhiều của cải bình sinh tích tụ, nay đã bị hỏa hoạn cháy rụi hết, không còn gì mà sinh sống nữa, kể đã cùng rối. Nay nên hạ lấy Ung Châu, chiếm cứ Quảng Châu để tự xưng vương, nếu không tất chết” (1).

=====

1. CM.CB.q3 chép việc Nùng Trí Cao xưng đế và đánh cướp Ung Châu lần đầu là năm 1048 và không chép việc Trí Cao đánh Ung Châu năm 1052. TT.BK.q2 chép Trí Cao xưng đế năm 1052 nhưng không chép việc Trí Cao đánh Ung Châu lần đầu
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
Tháng Tư, năm thứ tư (1052), (Trí Cao) dẫn năm ngàn quân men theo sông Úc Giang đi xuống phía đông, công phá trại Hoành Sơn, rồi phá Ung Châu, bắt bọn Tri châu Trấn Củng, quân (Tống) chết hơn ngàn người. Trí Cao xem xét kho quân tư, tìm thấy thư của mình dâng khi trước, tức giận nói với Củng rằng: “Ta chỉ cầu xin một chức quan để thống lĩnh các bộ lạc, mà mày không tâu lên, thế là làm sao?” Củng đáp: “Tôi từng tâu rồi, nhưng không được trả lời. (Trí Cao) đòi tìm bản thảo tờ tâu không thấy, bèn lôi Củng ra, Củng sợ hãi hô vạn tuế, xin tự dốc sức, nhưng Trí Cao không nghe, rồi bèn đem hết cả gia quyến của Củng cùng với Quảng Tây Đô giám Trương Lập ra giết. Lập khi lâm hình vẫn ra sức chửi rủa không chịu khuất. Trí Cao bèn tiếm hiệu là Nhân Huệ Hoàng đế, đổi niên hiệu là Khải Lịch, xá tội cho cả trong địa giới, từ bọn Sư Mật trở xuống đều xưng theo quan chức như của Trung Quốc.


Bấy giờ, thiên hạ yên bình đã lâu, các châu huyện ở Lĩnh Nam không hề có phòng bị gì, một khi việc binh bất ngờ, thì không biết làm thế nào cả, các tướng trấn giữ phần đa bỏ thành mà trốn, cho nên Trí Cao càng đắc chí, liên tiếp phá chín châu: Hoành, Quý, Cung, Tầm, Đảng, Ngô, Phong, Khang, Đoan. Giết Tào Cận ở Phong Châu, Triệu Sư Đán, Mã Quán ở Khang Châu, ngoài ra giết hại các quan lại rất nhiều. Những nơi đi qua đều đốt kho tàng, rồi tiến binh vây Quảng Châu. Ban đầu, khi Trí Cao sắp tới, tướng giữ thành (Quảng Châu) là Trọng Giản không cho phép dần chúng vào trong thành để bảo vệ. Những kẻ không được vào thành đều quy phụ Trí Cao hết, nên Trí Cao thế càng thêm mạnh. Trước đây, khi Ngụy Quán dựng châu thành, cho đào giếng trữ nước, làm nỏ lớn để canh giữ. Đến đây, Trí Cao cho làm thang mây, đắp núi đất, đánh thành rất gấp. Lại cắt nguồn nước, nhưng thành trì kiên cố, nước giếng dùng không hết, nỏ bắn ra, trúng đấu liền tan vỡ đó, Tri Cao sức dẫn chùn. Gặp khi Tri Anh Châu là Tô Giám đóng quân ở thôn Biên Độ, chặn đường quay về của Tri Cao. Phiên Ngung Huyện lệnh Tiêu Chủ mộ quân địa phương cùng những kẻ cường tráng trên biển được hơn hai ngàn người, cùng đánh nhau với quân của Trí Cao, đốt cháy chiến thuyền của chúng. Chuyển vận sứ Vương Hãn cũng từ ngoài đến, (trong thành) càng tăng cường cố thủ. Trí Cao biết không thể hạ được, vây năm mươi bảy ngày, đến ngày Nhâm Tuất tháng Bảy thì giải vây rút đi, từ Thanh Viễn vượt qua sông, ôm gái, nổi nhạc mà đi. Gặp Trương Trung, lại đánh nhau ở Bạch Điển, Trung chết. (Trí Cao) lại đến đánh Hạ Châu, không hạ được. Trong đêm, giết Tưởng Giai ở bãi Thái Bình. Tháng Chín, ngày Canh Thân, phá Chiêu Châu, giết bọn Vương Chỉnh Luân ở trạm dịch Quán Môn. Núi non trong châu có mấy nơi hang động, cái lớn có thể chứa được vài trăm đến người. Dân chúng thấy quân giặc kéo đến, bèn chạy vào đó nấp. Trí Cao biết vậy, bèn phóng hỏa đốt chết hết. Tháng Mười, ngày Đinh Sửu, phá Tần Châu. Ngày Giáp Thân lại chiếm cứ Ung Châu, ngày đêm đốn cây làm thuyền bè, nói phao lên là lại xuống Châu. Tháng Chạp, ngày Nhâm Thân, (Trí Cao) lại đánh bại Trấn Thự ở trạm dịch Kim Thành. Khi trước, nghe tin Trí Cao làm phản, triều đình sai Thự đến đánh dẹp, sau đó đến Dương Điền, Tào Tu, Trương Trung, Tưởng Giai nối nhau đi sau. Lại lấy Dư Tĩnh, Tôn Miện làm An phủ sứ. Điển, Tu nghe Trí Cao đến, lui quân tránh né. Trung, Giai hữu dũng vô mưu, đều chết cả. Trí Cao càng thêm hoành hành, cả đất miền nam đều rúng động. Nhân tông lấy làm lo, sai Địch Thanh làm Tuyên phủ sử, các tướng đều phải chịu sự tiết chế của Thanh. Thự sợ Thanh đến lập được công, bèn ra khiêu chiến, cho nên bị bại.
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
Tháng Giêng, năm thứ năm (1053), Thanh cùng Miện, Tĩnh hội quân ở Tần Châu, quận triều đình, củng trai tráng địa phương gộp lại được hơn ba vạn một ngàn người, xét theo quân pháp, giết bọn Thự cùng Chỉ huy sứ Viên Dụng 32 người ngay tại chỗ, toàn quân chấn động. Bèn tiến binh, Thanh làm tướng tiến đội, Miện làm tướng thứ đội, Tĩnh làm tướng hậu đội, chỉ một ngày đêm đã vượt Côn Lôn quan, Quy Nhân phố. Trí Cao nghe quân triều đình đã vượt hiểm đến nơi, xuất kỳ bất ý, đem hết quân ra chống cự, tất cả đều cấm thuẫn lớn, giáo nhọn, mặc áo đỏ trông như sắc lửa. Trận thế của Thanh hơi chững lại, tiên phong Tồn Tiết tử trận. Thanh lên xua đội Phiên Lạc kỵ binh, mở hai cánh tả hữu đánh vào phía sau quân Trí Cao. Cánh tả đánh bên phải, cánh hữu đánh bên trái. Rồi đó, cánh tả lại vòng sang đánh bên trái, cánh hữu vòng sang đánh bên phải, quân chúng không biết là thế nào, bèn đại bại tháo chạy. Đến lúc trời tối, Trí Cao lại chạy về Ung Châu, đang đêm đốt thành bỏ trốn, từ cửa Hợp Giang vào nước Đại Lý. (Thanh) thu được 5.341 thây giặc, đắp thành gò kinh quán. Bắt được hơn vạn người, cho trở về an nghiệp. Thu được 9 cái ngụy ấn, cùng bọn ngụy quan từ Hoàng Sư Mật trở xuống là 57 người, đều bêu đầu trên thành, trâu ngựa, vàng lụa cũng thu được kể số hàng vạn. Trí Cao từ khi khởi binh mới độ một năm, mà giày xéo một phương, như đi vào chỗ không người, quan dân không chịu nổi tàn độc. Triều đình hạ lệnh đại xá, trao quan phục chức, yên vỗ đớn đau, trăm họ lại như được sống lại vậy. Trước đây, có câu dao ngôn rằng: “Nông gia chủng, Địch gia thu” (Nhà nông cấy trồng. Hàng sáo thu lợi) (1), sau (Nùng) Trí Cao làm phản, bị (Địch) Thanh phá, đều như lời ấy vậy.

Mẹ Trí Cao là A Nùng rất có mưu kế, Trí Cao công hãm thành ấp, phần nhiều nghe theo kế sách, cũng tiếm hiệu là Hoàng thái hậu, tính rất độc ác, nghiện ăn thịt trẻ con. Mỗi khi ăn tất giết một đứa trẻ. Trí Cao thua chạy, A Nùng vào giữ động Đặc Ma, nương dựa vào chồng là Nùng Hạ Khanh, thu thập tàn binh được hơn ba ngàn người, luyện tập kỵ chiến, định lại vào xâm phạm.

===

1. Chơi chữ đồng âm: Nông ~ Nùng (Trí Cao) ,hàng sáo ~ Địch (Thanh)
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
Đầu niên hiệu Chí Hòa (1), Dư Tĩnh đôn đốc bộ thuộc là Hoàng Phần, Hoàng Hiến Khuê, Thạch Giám, cùng tiến sĩ Ngô Thuấn Cử đem quân các động vào Đặc Ma chặt đánh, bắt được A Nùng cùng em Trí Cao là Trí Quang, và con (Trí Cao) là Kế Tông, Kế Phong, đóng cũi giải về kinh sư (2). Lúc đầu, triều đình chưa muốn giết, hàng ngày vẫn cấp cho ăn uống, muốn để dụ Trí Cao tới, sau nghe lời đồn là Trí Cao đã chết mới đem hết ra chém quăng thây ngoài chợ. Rồi đó, Tây Xuyên lại tấu Trí Cao chưa chết, đang mưu vào cướp Lê Châu, Nhã Châu. Triều đình xuống chiếu cho lộ ấy phòng bị. Ngự sử trung thừa Tồn Biện lại xin sắc cho Ích Châu sớm quản chế trước để an dân Thục. Nhưng, Trí Cao rốt không thấy, không thể biết là còn mất ra sao nữa (3).

Họ Nùng lại có kẻ tên là Tông Đán, coi động Lôi Hỏa, cũng khá kiệt hiệt. Năm Gia Hựu thứ hai (1057), từng vào cướp. Tri Quế Châu Tiêu Cố vời đến nội phụ, lấy làm Trung vũ tướng quân, lại bố con là Tri Ôn Muộn ở động Nhật Tần làm Tam ban phụng chức.

Năm thứ bảy (1062), cha con Tông Đán xin đem các động mà mình coi lĩnh là Lôi Hỏa, Kế Thành lệ thuộc huyện quan, và xin giữ châu Quy Lạc, vĩnh viễn làm dân triều đình. (Triều đình) xuống chiếu cho hai cha con mỗi người được thăng một bậc, lấy Tông Đán làm Tri Thuận An châu, được ban tặng trâu cày, muối, lụa. Năm ấy, Nùng Hạ Khanh, Nùng Bình, Nùng Lượng cũng từ Đặc Ma đem theo cả bộ tộc đến theo. Nhật Tân sau từng coi việc thuế ở Ung Châu. Niên hiệu Trị Bình, Tông Đán có hiếm khích với Lý Nhật Tôn (vua Đại Việt - Lý Thánh Tông), Lưu Kỷ ở Giao Chỉ, sợ bị uy bức, Tri Quế Châu là Lục Sản nhân sai người đến thuyết phục, Tông Đán bèn bỏ châu, chạy sang theo, mệnh cho làm Hữu thiên Ngưu vệ tướng quân.

Lại có người man ở động Giáp, cũng lệ thuộc Giao Chỉ, thi thoảng lại sang cướp Ung Châu. Năm Cảnh Hựu thứ ba (1036), từng cướp gia súc ở động Bằng Tường, châu Tư Lăng, giết tướng ở trấn Đăng Long rồi đi. Nam Gia Hựu thứ năm (1058), họp với người man ở Giao Chỉ, Môn Châu được hơn năm ngàn người lại vào cướp, cùng đánh nhau với quan binh, chém đầu mấy trăm người. (Triều đình) chiếu cho Tri Quế Châu Tiêu Cố đến Ung Châu phát binh các quận, cùng Chuyển vận sứ Tống Hàm, Đề điểm hình ngục Lý Sư Trung họp bàn đuổi đánh. Năm ấy, chúng vào cướp mấy lần, lại chiếu cho An phủ sứ Dư Tĩnh đánh dẹp.

Người man châu Tô Mậu cũng gần Ung Châu, niên hiệu Chí Hòa, Gia Hựu đều từng quấy rối biên cảnh./.

=====

1. Chí Hòa: niên hiệu của Tống Nhân tống từ 1054-1056.
2. TT.BK.q2 chép tướng dẫn binh đánh động Đặc Ma là Đô giám Tiêu Chủ.
3. TTBK.q2 chép: “Trí Cao chạy sang nước Đại Lý. Người nước Đại Lý chém đầu Cao bỏ hòm đem dãng nhà Tổng
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top