[Funland] Dịch sách cổ thời Đường: Lĩnh Biểu Lục Dị

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tắc Kè 12 giờ 十二時蟲, chính là rắn và thằn lằn, loài này có màu đất, thân và đuôi dài hơn một thước, trên đầu nối với lưng có búi mào xoăn, leo trèo trên cỏ cây rất nhanh nhẹn, cũng thường xuất hiện ở khe hở hàng rào nhà người. Dân gian truyền rằng, nó thay đổi màu sắc theo mười hai giờ trong ngày, do đó được đặt tên như vậy.
Đất Nam có loài Kim Xà 金蛇 [rắn vàng], còn gọi là rắn thằn lằn蜴蛇, hay Địa Tiên地鮮 [Cá tươi trên mặt đất]. Loài này xuất hiện ở Giao Châu, [theo ghi chép, câu này có thể bị sai sót]. Ở Quế Châu, miền Trung cũng có, tuy nhiên không tốt bằng rắn vàng ở phương Nam. Loài rắn này to bằng ngón tay cái, dài khoảng một thước, vảy trên da có màu vàng bạc, có công hiệu giải độc không thua kém gì cát lợi 吉利.
[Cát lợi 吉利: Cát Lợi là một loại thảo dược quý hiếm thuộc họ Nho (Vitaceae), có tên khoa học là Ampelopsis vitifolia (hay còn gọi là Vitis vinifera). Cát Lợi còn được gọi với nhiều tên khác nhau như: Dây Đau Đầu, Dây Ngũ Sắc, Dây Xanh, Dây Leo, Dây Nhót Chua.Cây Cát Lợi mọc chủ yếu ở miền núi phía Bắc Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh như Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai.Cát Lợi được sử dụng trong y học truyền thống với nhiều công dụng như: Giải độc, thanh nhiệt. Chữa ho, cảm cúm, viêm họng. Chữa tiêu chảy, lỵ. Giảm đau, lợi tiểu. An thần, giúp ngủ ngon].
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Con Trăn 蚺蛇, con lớn dài đến 5-6 trượng [khoảng 27 - 30 mét], chu vi bốn năm thước, những con nhỏ hơn cũng không dưới 3-4 trượng [khoảng 18 - 21 mét]. Chu vi cũng được gọi là "vòng". Thân có hoa văn đốm, như gấm vằn cổ, người dân thường nói, vào mùa Xuân và mùa Hạ Trăn thường xuất hiện ở khu vực núi rừng, khi hươu đi qua, nó sẽ ngoạm lấy đuôi hươu và nuốt chửng từ đuôi lên, chỉ có đầu và sừng hươu là vướng lại trong miệng. [Theo bản gốc, 14 chữ "則于樹間合其首,俟鹿壞,頭角墜地,鹿身方咽入腹" tức là: “Trăn sẽ cuộn tròn đầu lại trên cây, chờ hươu chết, đầu và sừng hươu rơi xuống đất, rồi mới nuốt toàn bộ thân hươu vào bụng" đã bị mất. Nay dựa theo sách 太平廣記 Thái Bình Quảng Ký để bổ sung]. Trăn sẽ cuộn tròn đầu lại trên cây, chờ hươu chết, đầu và sừng hươu rơi xuống đất, rồi mới nuốt toàn bộ thân hươu vào bụng. Sau khi ăn hươu, nó trở nên rất yếu ớt, nhưng khi hươu tiêu hóa, nó lại trở nên khỏe mạnh, vui vẻ và dũng mãnh hơn so với những con chưa ăn hươu. Một số người nói rằng Trăn chỉ ăn một con hươu mỗi năm.
Mật Trăn蚺蛇膽, tại châu Phố An [nay là huyện Phú Nguyên, tỉnh Vân Nam], có những hộ gia đình nuôi Trăn. Hàng năm vào ngày mùng 5 tháng 5, họ sẽ mang Trăn vào nhà để lấy mật. Tôi đã từng tận mắt chứng kiến điều này: Trăn được nhốt trong lồng lớn, lót cỏ mềm bên trong. Hai người khiêng một con trăn trên mặt đất, dùng hàng chục chiếc móc sắt lật ngửa người rắn từ đầu xuống, sau đó, dùng móc sắt cố định rắn lại, không cho nó xoay chuyển, dùng dao nhọn rạch một đường trên bụng rắn, đo kích thước và lấy mật. Gan và mật trăn sau khi lấy ra đều to bằng quả trứng vịt, mật trăn được phơi khô để cống nạp. Lòng và gan Trăn được khâu lại bằng chỉ và cho vào lồng. Có người nói rằng, sau khi lấy mật, trăn được thả về sông suối.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lưỡng Đầu xà 兩頭蛇 [Rắn hai đầu], bên ngoài dãy núi có nhiều loại này. Đôi khi có con nhỏ bằng ngón tay, dài hơn một thước, vảy dưới bụng màu đỏ, có hoa văn gấm vằn. Một đầu có miệng và mắt, đầu kia giống rắn nhưng không có miệng và mắt. Nói rằng cả hai đầu đều có thể tiến lùi là sai lầm. Xưa kia Tôn Thúc Ngao孫叔敖 cho rằng nhìn thấy nó là điềm xấu. Do đó đã giết và chôn nó. Người Nam thường gặp nó, vậy tai họa ở đâu? [ tác giả tỏ ra mình là người không mê-tín]
[Vĩ Ngao 蔿敖, 630 TCN — 593 TCN), tính Mị thị Vĩ, tự Tôn Thúc 孙叔, tên khác là Nhiêu, tự khác là Ngải Liệp; thường gọi là Tôn Thúc Ngao 孙叔敖, là lệnh doãn nước Sở thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Sở Trang vương xưng bá. Giả tử kể lại câu chuyện Tôn Thúc Ngao đánh rắn hai đầu, đại lược như sau:
Tôn Thúc Ngao cùng mẹ lánh nạn, thường ngày lo việc cày cuốc nuôi thân. Một hôm, vác cuốc ra đồng, trông thấy một con rắn hai đầu, Thúc Ngao tự nghĩ:
Người ta thường nói, kẻ nào thấy rắn hai đầu tất vong mạng. Nay ta thấy con vật chẳng lành này thì khó sống nổi. Vậy ta hãy giết nó đi để tránh cho người khác khỏi mắc nạn như ta. Liền đánh chết con rắn, chôn nơi bờ ruộng.
Khi về thưa chuyện cùng mẹ. Bà mẹ nói:
-Lành dữ là do lòng mình chứ đâu phải do rắn. Lòng con đã nghĩ đến điều lành, thì việc gặp rắn có dữ đến đâu cũng không có gì đáng ngại].
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Rùa lớn蟕蠵, Rùa lớn, dân gian thường gọi là Tư Di 兹夷, là loài rùa núi lớn nhất. Người ta có thể đứng trên lưng nó và đi lại. Rùa sinh sản theo con nước dâng và di chuyển trong núi. Người dân địa phương thường bắt rùa để lấy mai bán. Để giữ nguyên vẹn mai rùa, cần dùng nêm gỗ tách thịt ra khỏi mai, lúc này tiếng rùa rống lên như tiếng bò vang vọng khắp núi non. Tại Quảng Châu có những thợ thủ công khéo léo, họ lấy mai rùa có màu vàng sáng và không có vân để chế tác đồ vật [Nguyên chú: Mai rùa có những đốm đen loang lổ, đó là dấu hiệu Nhật Cước 日腳 (là một thuật ngữ trong y học cổ truyền Trung Quốc, thường được sử dụng để mô tả các đốm đen trên da hoặc móng tay, được cho là dấu hiệu của bệnh tật)]. Nấu chín rồi đập vỡ, ta sẽ thu được những mảnh vảy đen lấp lánh như đá quý, dùng để làm lược, lược chải tóc, chén, cốc... Vẻ đẹp của chúng vô cùng rực rỡ.
[Theo sách Chính Hòa Bản Thảo政和本草, đoạn trích này được dẫn lại như sau: "Rùa lớn, dân gian thường gọi là Tư Di 兹夷. Đây là loài rùa núi lớn nhất. Người ta có thể đứng trên lưng nó và đi lại. Rùa sinh sản theo con nước dâng và xuất hiện rất nhiều ở các khe núi. Người dân địa phương thường lấy mai rùa để bán. Loại mai rùa hoàn chỉnh được coi là quý giá. Ban đầu, họ dùng nêm gỗ để tách thịt ra khỏi mai. Rùa bị tra tấn dã man, rống lên như tiếng bò vang vọng khắp núi non. Thợ thủ công nấu những chiếc mai có màu vàng trong suốt để làm đồ vật từ 'vân đá quý'. Những chiếc 'ống rùa' mà ngày nay chúng ta thấy chính là loại đồ vật này"]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Con Rết 蜈蚣, Theo sách Nam Việt Chí南越志, có ghi chép về loài rết như sau: Rết lớn: Da của chúng có thể dùng để làm da trống. Thịt rết sau khi phơi khô, có thể làm món ăn ngon hơn thịt bò. Rết có thể dài đến vài thước và có khả năng ăn thịt bò. Người dân địa phương thường đánh trống và đốt đuốc để xua đuổi rết khi gặp phải.
[Ngô công 蜈蚣 con rết; còn có những tên là: bách túc 百足, bách túc chi trùng 百足之蟲, bách túc trùng 百足蟲. Ngày xưa gọi là lang thư 螂蛆. Không rõ đoạn này tác giả mô tả con vật nào, e rằng không phải con Rết vậy]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ong Vò vẽ龐蜂 sinh sống ở núi rừng hoang vu, thường xuất hiện trên cây trám. Hình thù nó giống như ve sầu, bụng chứa chất độc nhưng mỏng manh. Nó tự kêu mình là “bàng phong” 龐蜂 [ong vò vẽ], tuy nghe thấy tiếng kêu nhưng hiếm ai bắt được. Người ta dùng giá cao để mua nó về làm thuốc. Người dân ở Tuyên Hấp 宣歙 có cách thu hoạch ong vò vẽ: Ong vò vẽ lớn làm tổ trong rừng núi, to như chuông khổng lồ, có hàng trăm tầng. Khi người dân địa phương đi thu hoạch, họ phải dùng cỏ che kín cơ thể để tránh bị ong đốt, sau đó dùng khói đuổi ong chúa đi, rồi mới dám leo lên vách đá và cây cối để cắt tổ. Một tổ ong có thể chứa từ 5-6 đấu đến 1 thạch ong non. Người ta dùng muối rang khô ong non rồi gửi về kinh đô để bán. Tuy nhiên, trong tổ ong, có khoảng 1 phần 3 số ong non đã mọc cánh và trưởng thành, do đó không thể sử dụng được.
Ở khu vực khê động giữa Giao Châu và Quảng [Đông-Tây], các thủ lĩnh thường thu thập trứng kiến, rửa sạch, ủ muối để làm nước mắm. Có người nói rằng hương vị của nó rất giống nước mắm thịt, chỉ những quan khách và bạn bè thân thiết mới được thưởng thức.
Lĩnh Nam có rất nhiều loại kiến. Có người dùng chiếu và túi để đựng kiến, bán tổ kiến con ngoài chợ. Tổ kiến giống như túi bông mỏng, tất cả đều dính liền với cành lá, kiến ở bên trong, bán cả tổ lẫn kiến. Có loại kiến màu vàng to hơn kiến thường và có chân dài. Người ta nói rằng:
- Cây cam ở phương Nam không có kiến thì quả dễ bị sâu. Vì vậy, người ta đua nhau mua kiến về để nuôi cam.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bản dịch đến đây là hết, link tải sách cho cụ nào muốn đọc, bản PDF,



Sắp tới, mời các cụ ủng hộ em một số sách sẽ dịch phục vụ các cụ, cụ nào thích đọc sách giấy thì em in, cụ nào thích đọc PDF em gửi.
1. Xứ Đàng NGoài năm 1648, bản tiếng Latin, một cuốn sách mô tả mọi mặt về đời sống, phong tục, xã hội, ẩm thực, quân sự, cung đình, ngôn ngữ, thời tiết, phong cảnh... miền Bắc [Đàng Ngoài] của giáo sĩ Giovanni Filippo De Marini.
2. An Nam thời nhà Đường qua Cựu Đường Thư và Tân Đường Thư, sách được trích dịch từ 2 cuốn sử nổi tiếng này những phần nói về nước ta dưới thời nhà Đường bao gồm: Địa Lý, dân cư, những sự kiện quan trọng, tầu biểu...
3. Lĩnh NGoại Đại Đáp, bản dịch đầy đủ [bản trích dịch đã post trên OF trước đây]
4. Man Thư của Phàn Xước, một cuốn sách khá thú vị và chi tiết về vùng Đại Lý-Vân Nam- An Nam thời nhà Đường và những quan hệ xã hội, quân sự, giao thương ở vùng này.
5. Lịch sử chính trị, xã hội và tự nhiên xứ Đàng Ngoài năm 1770 của Jérôme Richard, viết vào những năm cuối cùng của nhà Lê, xã hội Đàng NGoài thời Lê-Trịnh đã đến hồi mạt vận. [bản tiếng Pháp].
Kình mời các cụ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Để các cụ có cái nhìn rõ hơn về nước ta thời nhà Đường, xin bổ xung mấy thời điểm chính trong Cựu Đường Thư [thời gian đã được thư viện Bắc Kinh tính toán đổi ra năm Dương Lịch]

1. Năm Đinh Hợi , Đường Cao Tông; [ ngày 8 tháng 10 năm 681] Giao Châu được đổi tên thành An Nam đô hộ phủ.
2. Đường Huyền Tông, ngày 21 tháng 1 năm 715, Phong con thứ ba là Tự Chân làm Nhâm Vương, con thứ tư là Tự Sơ làm Ngạc Vương 鄂王, con thứ năm là Tự Huyền làm Quyên Vương 鄄王.
Lúc này, Uy Vệ Trung lang tướng 威衛中郎將 Châu Khánh Lập周慶立 được cử làm An Nam thị bạc sứ, cùng với vị sư người Ba Tư là Quảng? chế tạo những vật dụng kỳ lạ tinh xảo để dâng lên triều đình. Giám tuyển sứ, Điện trung thị ngự sử Liễu Trạch dâng tấu chương can gián, vua khen ngợi lời can gián của ông.
3. Tháng 8 mùa Thu năm Bính Tuất [ngày 1 tháng 11 năm 722];
An sát sứ Lĩnh Nam là Bùi Tiên dâng tấu chương nói rằng thủ lĩnh giặc An Nam là Mai Thúc Loan梅叔鸞 cùng đồng bọn tấn công vây hãm các châu huyện, vua cử Phiêu kỵ tướng quân kiêm Nội thị Dương Tư Úc楊思勖 đem quân đánh dẹp.
.......
 

giaconngu

Xe tăng
Biển số
OF-484668
Ngày cấp bằng
17/1/17
Số km
1,960
Động cơ
362,265 Mã lực
Tuổi
124
Nhựa thông胡桐淚: xuất xứ từ Ba Tư波斯國, là nhựa cây Hồ Đồng胡桐樹, cũng gọi là Nhựa thông. Còn có loại nhựa đá, lấy trên đá.
Cây Sa Trứ 沙箸 [không rõ cây gì, có thể là Cây dương liễu biển (Salix viminalis): Loại cây này mọc phổ biến ven biển, có cành dài, dai và có thể dùng làm que đếm] mọc trong cát ven biển, mùa xuân nảy mầm, phần lõi cứng như xương, trắng và dai, có thể dùng làm que đếm trong khi uống rượu. Khi muốn hái, phải bước nhẹ nhàng tiến đến, đến gần thì nhanh tay nhổ lên, nếu không, cây nghe tiếng người sẽ lập tức rút xuống cát. Đào tìm mãi cũng không thể tìm thấy.
Hồ đồng lệ là nhựa cây hồ đồng / hồ dương (胡桐 / 胡楊) lẫn trong đất đá nhiều năm mà hình thành. Nó chính là cây dương sa mạc (Populus euphratica). Loài cây này sinh sống trong khu vực từ Bắc Phi ở phía tây kéo dài về phía đông qua Tây Nam Á, Trung Á tới Mông Cổ và miền tây Himalaya. Nhựa cây này là một loại dược vật sử dụng trong Trung y.
Sa trứ như mô tả trên đây thì có lẽ là một loài động vật với tên gọi chung là bút biển (các loài thuộc bộ Pennatulacea, lớp san hô tám tia Octocorallia). Salix viminalis là một loài liễu sinh sống trong khu vực từ châu Âu qua Nga tới Mông Cổ, Tân Cương (Trung Quốc) và miền Viễn Đông Nga chứ không phải loài sống ven biển.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hồ đồng lệ là nhựa cây hồ đồng / hồ dương (胡桐 / 胡楊) lẫn trong đất đá nhiều năm mà hình thành. Nó chính là cây dương sa mạc (Populus euphratica). Loài cây này sinh sống trong khu vực từ Bắc Phi ở phía tây kéo dài về phía đông qua Tây Nam Á, Trung Á tới Mông Cổ và miền tây Himalaya. Nhựa cây này là một loại dược vật sử dụng trong Trung y.
Sa trứ như mô tả trên đây thì có lẽ là một loài động vật với tên gọi chung là bút biển (các loài thuộc bộ Pennatulacea, lớp san hô tám tia Octocorallia). Salix viminalis là một loài liễu sinh sống trong khu vực từ châu Âu qua Nga tới Mông Cổ, Tân Cương (Trung Quốc) và miền Viễn Đông Nga chứ không phải loài sống ven biển.
Cảm ơn cụ đã bổ sung thêm thông tin quý báu.
 

giaconngu

Xe tăng
Biển số
OF-484668
Ngày cấp bằng
17/1/17
Số km
1,960
Động cơ
362,265 Mã lực
Tuổi
124
Sắn dây dại野葛 là cây độc, thường được gọi là dây Hồ mạn thảo 胡蔓草. Ăn nhầm phải thì dùng máu dê để giải độc. Có người nói cây này mọc lan, lá như lá lan, bóng và dày, chất độc chủ yếu ở trong lá, nếu không có thuốc giải thì nửa ngày sẽ chết. Dê ăn mầm của nó thì béo tốt.
Hồ mạn thảo (胡蔓草), câu vẫn (钩吻), dã cát (野葛), độc căn (毒根), đoạn trường thảo (断肠草), hoàng đằng (黄藤), hỏa bả hoa (火把花) là các tên gọi tiếng Trung. Người Việt gọi là lá ngón, thuốc rút ruột, thuốc đứt ruột, đoạn trường thảo, ngón [hoa] vàng. Danh pháp khoa học (Gelsemium elegans). Loài cây này rất độc đối với người, do chứa các alkaloid như gelsemine, gelsenicine, gelsevirine, kourmine v.v... (https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0378874114000129?via=ihub, Pharmacological effect and toxicity of alkaloids from Gelsemium elegans Benth.), nhưng vẫn được sử dụng trong Trung y để điều trị một số bệnh. Tuy nhiên, đối với một số loài gia súc, gia cầm như lợn, dê, gà thì nó có tác dụng tăng cường sự phát triển của các loài này (https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/31993639/, Pharmacokinetic Study of Multiple Components of Gelsemium elegans in Goats by Ultra-Performance Liquid Chromatography Coupled to Tandem Mass Spectrometry; https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC10482210/, Effect of Dietary Gelsemium elegans Benth. Extract on the Growth, Slaughter Performance, Meat Quality, Intestinal Morphology, and Microflora of Yellow-Feathered Chickens).
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,914
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hồ mạn thảo (胡蔓草), câu vẫn (钩吻), dã cát (野葛), độc căn (毒根), đoạn trường thảo (断肠草), hoàng đằng (黄藤), hỏa bả hoa (火把花) là các tên gọi tiếng Trung. Người Việt gọi là lá ngón, thuốc rút ruột, thuốc đứt ruột, đoạn trường thảo, ngón [hoa] vàng. Danh pháp khoa học (Gelsemium elegans). Loài cây này rất độc đối với người, do chứa các alkaloid như gelsemine, gelsenicine, gelsevirine, kourmine v.v... (https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0378874114000129?via=ihub, Pharmacological effect and toxicity of alkaloids from Gelsemium elegans Benth.), nhưng vẫn được sử dụng trong Trung y để điều trị một số bệnh. Tuy nhiên, đối với một số loài gia súc, gia cầm như lợn, dê, gà thì nó có tác dụng tăng cường sự phát triển của các loài này (https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/31993639/, Pharmacokinetic Study of Multiple Components of Gelsemium elegans in Goats by Ultra-Performance Liquid Chromatography Coupled to Tandem Mass Spectrometry; https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC10482210/, Effect of Dietary Gelsemium elegans Benth. Extract on the Growth, Slaughter Performance, Meat Quality, Intestinal Morphology, and Microflora of Yellow-Feathered Chickens).
Lại phải cảm ơn cụ lần nữa
 

giaconngu

Xe tăng
Biển số
OF-484668
Ngày cấp bằng
17/1/17
Số km
1,960
Động cơ
362,265 Mã lực
Tuổi
124
....khi trồng lúa, lại không có cỏ bại稗 [một thứ cỏ hoang giống như lúa, hơi đắng, có thể nấu cháo ăn được; ở ta gọi là cỏ Kê], là phương pháp tốt nhất để nuôi dưỡng người dân.
稗 / Bại (Echinochloa crus-galli) trong tiếng Việt gọi là cỏ lồng vực nước, cỏ bại. Hiện tại Việt Nam ghi nhận các loài sau:
* Echinochloa colonum: Cỏ lồng vực cạn, cỏ mật, cỏ vù.
* Echinochloa crus-galli: Cỏ lồng vực, bại thảo.
** Echinochloa crus-galli subsp. crus-galli: Cỏ lồng vực, bại thảo.
** Echinochloa crus-galli subsp. utilis (đồng nghĩa: Echinochloa esculenta): Cỏ lồng vực chim, bại thảo.
* Echinochloa crus-pavonis: Cỏ lồng vực.
* Echinochloa frumentacea: Cỏ lồng vực hạt, cỏ kê, cỏ núc.
* Echinochloa oryzoides (đồng nghĩa: Echinochloa phyllopogon): Cỏ lồng vực lúa.
* Echinochloa pyramidalis: Gai thảo hình tháp. Du nhập từ khu vực bản địa là châu Phi và bán đảo Ả Rập.
* Echinochloa stagina: Gai thảo mương.
 

giaconngu

Xe tăng
Biển số
OF-484668
Ngày cấp bằng
17/1/17
Số km
1,960
Động cơ
362,265 Mã lực
Tuổi
124
....Sau khi vua [Đường] Chiêu Tông 昭宗 lên ngôi, Liễu Thao 柳韜được cử làm sứ giả tuyên cáo ở Dung-Quảng. .....
................
[柳韜 Liễu Đào hoặc Liễu Thao là một vị quan nhà Đường, sống vào thế kỷ thứ 9. Ông sinh năm 837, mất năm 898. Thời niên thiếu Liễu Thao nổi tiếng thông minh, học rộng. Ông đỗ Tiến sĩ năm 863. Liễu Đào từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Đường, như:
Hàn lâm học sĩ
Trung thư thị lang
Binh bộ thượng thư
Tể tướng
Liễu Thao là một vị quan tài ba, có nhiều đóng góp cho nhà Đường. Ông được đánh giá cao về khả năng trị nước, ngoại giao và văn chương].
Cụ cho biết thông tin về Liễu Thao (柳韜) lấy từ nguồn nào?
Cựu Đường thư quyển 149 (Liệt truyện 99) chép về Liễu Đăng, Liễu Miện, Liễu Cảnh (trạng nguyên khoa thi năm 825), với Đăng và Miện là anh em, Cảnh là con của Miện. Đoạn cuối cùng phần ghi chép về Cảnh viết rằng Thao là con của Cảnh, cũng đỗ tiến sĩ, nhưng không có bất cứ thông tin nào khác về Thao.
Tân Đường thư quyển 132 (Liệt truyện 57) chép về Liễu Phương (phần lớn nội dung của Cựu Đường thư cho tới thời kỳ Đường Minh Hoàng/loạn An Lộc Sơn là lấy nội dung từ những ghi chép của Phương, do trong loạn An Lộc Sơn thì các ghi chép chính thức của sử quan triều đình đều thất lạc hoặc bị đốt cháy). Phương sinh ra Đăng và Miện. Đăng sinh ra Cảnh, nhưng không ghi chép gì về việc ai là con của Cảnh, chỉ biết rằng trong niên hiệu Hội Xương (840-846) thời Đường Vũ Tông do con trai của Cảnh nhận hối lộ nên Cảnh bị giáng làm tư mã Tín Châu, sau đổi làm thứ sử Sâm Châu.
Tân Đường thư quyển 63 (Biểu 3: Tể tướng hạ) cung cấp thông tin về các đồng bình chương sự (tể tướng) từ năm 821 tới năm 907, không thấy bất kỳ thông tin nào cho thấy Liễu Thao từng làm tể tướng cả. Ví dụ năm 863 có Đỗ Thẩm Quyền, Dương Thu và Tào Xác giữ chức đồng trung thư môn hạ bình chương sự vào các thời điểm khác nhau.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top