[Funland] Dịch sách cổ thời Đường: Lĩnh Biểu Lục Dị

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
E thấy ngưỡng mộ cụ quá, e sẽ tìm đọc sách của cụ
Xin hỏi cụ xuất bản online hay là bán ở đâu nhỉ ?
Em không bán cụ ạ, tặng mọi người thôi, cuốn nào hay và kỳ công dịch em sẽ tự xuất bản Online và mong các cụ ủng hộ ly cà phê thôi ạ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chu Ngộ周遇, Thứ sử Lăng Châu陵州刺史, không ăn thịt và máu. Ông từng nói với Tuân rằng:
- Năm ngoái, khi từ biển Thanh Xã青社 về Mân [Phúc Kiến], gặp gió dữ, trôi dạt năm ngày đêm, không biết đã đi được bao nhiêu nghìn dặm. Tôi đã đi qua sáu nước, nước đầu tiên là Cẩu Quốc 狗國 [nước Chó]. Một người khách Tân La 新羅 [Triều Tiên] trên thuyền nói đây là Nước Chó. Sau một lúc, quả nhiên thấy những người trần truồng ôm chó đi ra, nhìn thấy thuyền thì hoảng sợ bỏ chạy. lại đi qua Mao Nhân Quốc毛人國 [Nước Người Lông], người nhỏ bé, đều tóc dài và có lông trên người, che phủ như vượn. Lại đến Nước Dã Nghĩa野義國, thuyền va vào đá ngầm mà bị hư hỏng, bèn chuyển người và đồ lên bờ, đợi nước rút cạn, đến thuyền và sửa chữa, ban đầu, không biết gì ở nước này, có vài người cùng vào rừng sâu hái rau dại, bỗng bị người Dã Nghĩa đuổi, một người bị bắt, những người còn lại hoảng sợ bỏ chạy, quay đầu lại thấy vài người Dã Nghĩa cùng ăn người bị bắt. Những người cùng thuyền kinh ngạc không biết làm gì, chỉ một lát sau có hơn một trăm người Dã Nghĩa tóc đỏ, mình trần, há miệng trợn mắt mà đến, có người cầm giáo mác, có đàn bà dắt theo con, [đoàn chúng tôi] có người lái thuyền, lái buôn, hơn năm mươi người, bèn cùng nhau lấy cung nỏ, giáo mác, gươm đao ra chống lại, bắn chết 2 người Dã Nghĩa, đám còn lại vội vàng kéo nhau thét lớn mà chạy trốn. Sau khi chúng bỏ đi, [bọn tôi] liền chặt cây dựng trại, để đề phòng [kẻ địch] quay lại. Người Dã Nghĩa sợ nỏ, cũng không quay lại nữa. Đậu lại hai ngày, sửa thuyền mới xong, theo gió mà đi. Tiếp tục đi qua nước Đại Nhân大人國, người dân ở đây đều cao lớn và hung dữ, thấy tiếng ồn ào trên thuyền liền sợ hãi bỏ chạy không dám ra [có thể là Indonesia hoặc Philippines]. Lại đi qua nước Lưu Cầu流虯國 [vương quốc Lưu Cầu là một vương quốc thống trị phần lớn quần đảo Ryukyu từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Các vua Lưu Cầu đã thống nhất đảo Okinawa và mở rộng lãnh địa vương quốc đến quần đảo Amami là một phần của tỉnh Kagoshima ngày nay, và quần đảo Yaeyama gần Đài Loan], người dân ở đây da đen tóc xoăn, đều mặc quần áo bằng vải gai và rất lễ phép, tranh nhau đem thức ăn đổi lấy đinh sắt. Người khách Tân La cũng phiên dịch một phần ngôn ngữ của họ, dặn dò chúng tôi đi nhanh qua, nói rằng nước này gặp người Hoa trôi dạt đến đây thường lo xảy ra tai họa. Đi tiếp lại qua nước Tiểu Nhân小人國 [nước người nhỏ], người dân ở đây đều lõa thể, nhỏ bé như trẻ 5, 6 tuổi, người trên thuyền hết thức ăn, bèn cùng nhau tìm kiếm hang ổ của họ. Chốc lát sau thấy quả, hái được ba bốn mươi quả đem về, chia nhau ăn cho no. Đi thêm hai ngày, gặp một hòn đảo, bèn lấy nước. Bỗng nhiên có một đàn dê núi, thấy người chỉ đứng nhìn chằm chằm không hề sợ hãi. Dê béo lớn và to lớn, ban đầu nghi ngờ trên đảo có người chăn nuôi, nhưng lại không thấy ai cả, bèn truy bắt, chỉ bắt được một trăm con để ăn.
 

nhanchauchau

Xe tăng
Biển số
OF-153466
Ngày cấp bằng
21/8/12
Số km
1,976
Động cơ
1,035,715 Mã lực
Xin lỗi em ngắt quãng cụ!
Cái vụ bị xóa mất dữ liệu, sao cụ k dùng lưu online?
Như em mua Office 365 family, được 6 tk onedriver, mỗi tk 1Tb, lưu tất trên đó, 1 năm mất tầm 1 triệu.
Chứ nghĩ cái công cụ dịch sắp xong mà mất thì tiếc quá!
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Xin lỗi em ngắt quãng cụ!
Cái vụ bị xóa mất dữ liệu, sao cụ k dùng lưu online?
Như em mua Office 365 family, được 6 tk onedriver, mỗi tk 1Tb, lưu tất trên đó, 1 năm mất tầm 1 triệu.
Chứ nghĩ cái công cụ dịch sắp xong mà mất thì tiếc quá!
Em có lưu online chứ cụ, công ty cũ thuê hacker siêu hạng cài virus vào chiếm quyền từ onedriver và Google drive của em, sau đó nó tự động mã hóa các file ảnh và documents chuyển đi, chính những bản dịch này là còn trên cái ổ USB em cắm trên ô tô đấy,
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Có một vài từ bị kiểm-duyệt, em up ảnh

Screenshot (46).png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây cỏ 鶴子草 [Hạc tử thảo: tên gọi chung cho các loại cây có đặc điểm mọc lan, leo trườn như dây leo, ở đây người dịch chưa rõ tác giả nói cây gì] mọc lan, leo trườn như dây leo. [Theo sách Hải Lục Toái Sự海錄碎事, Mị thảo媚草 là một tên gọi khác của Hạc Tử Thảo鶴子草], hoa của nó có màu phấn hồng nhạt, pha chút tím, có lá như lá liễu nhưng ngắn hơn. Hoa nở vào mùa hè, còn được gọi là hoa xanh lá xanh. Người phương Nam gọi nó là Mị thảo, hái phơi khô, dùng để thay thế cho phấn má hồng. Hình dạng của nó giống như con hạc bay, có đủ cánh, đuôi, mỏ và chân. Cây này vào mùa xuân sinh ra hai con sâu, chỉ ăn lá của nó. Người con gái người Việt越女 thu vào hộp trang điểm để nuôi, giống như nuôi tằm, hái lá cây cho nó ăn. Khi sâu già, nó không ăn nữa mà biến thành bướm, màu đỏ vàng. Phụ nữ thu nhặt và đeo nó, gọi là bướm Mị媚蝶 [Mị Điêp].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sắn dây dại野葛 là cây độc, thường được gọi là dây Hồ mạn thảo 胡蔓草. Ăn nhầm phải thì dùng máu dê để giải độc. Có người nói cây này mọc lan, lá như lá lan, bóng và dày, chất độc chủ yếu ở trong lá, nếu không có thuốc giải thì nửa ngày sẽ chết. Dê ăn mầm của nó thì béo tốt.
Lao trúc勞竹 (còn gọi là trúc lồ ô) có thân rỗng, vỏ mỏng. Loại lớn nhất cũng không quá hai tấc đường kính. Vỏ ngoài sần sùi, có thể dùng làm dây xích. Lưỡi dao làm bằng loại tre này sắc bén hơn cả dao sắt. Nếu dao bị cùn, chỉ cần rửa bằng nước vo gạo thì sẽ sắc bén trở lại. Tre ở vùng Thạch Lâm cứng và sắc bén, có thể chế thành dao để cắt da voi như cắt rau.
Dưới thời Trinh Nguyên 貞元, có một người buôn muối vi phạm luật pháp, trốn vào núi La Phù羅浮山 [La Phù, còn có tên khác là Đông Tiều là một rặng núi kéo dài 3 huyện Tăng Thành, Bác La và Long Môn thuộc tỉnh Quảng Đông, phía bắc sông Đông Giang. Núi La Phù là một trong Thập đại danh sơn của Trung Hoa, Tô Đông Pha từng ẩn cư tại đây], đi sâu vào lãnh địa thứ mười ba [sách Nam Việt chí chép rằng: Ban đầu chỉ có núi La ở ngoài biển, sau có một ngọn núi khác trôi đến và hợp lại, thành núi La Phù. Núi có mười lăm dải núi, hai mươi hai ngọn núi, chín trăm tám mươi thác nước và hang động, không ngọn núi nào sánh được. Từng có bài thơ rằng:
Bốn trăm vách đá xếp hàng trên biển,
Rễ liền với đảo Bồng Lai che phủ Thiên Thai.
Chim muông như được di chuyển đến đây,
Núi cao đều trở thành gò nhỏ].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Gặp bụi tre vạn ngàn cây, nối liền hang động, chu vi bụi tre đều hơn hai trượng, có ba mươi chín đốt, dài hai trượng. Kẻ trốn chạy bèn lấy một cây tre, bẻ gãy làm bè. Gặp lúc được đại xá, bèn mang về. Có người được một bè tre, thấy lạ, dâng cho quan thái thú Lý Phục李復, bèn vẽ hình ghi chép lại. Ta từng xem thấy một đốt tre làm thuyền, có gì là ghê gớm đâu! miền Nam thường dùng tre làm nồi, loại tre này đều là tre La Phù羅浮 cả.
Cây luồng挲摩筍 được trồng ở cả Quế Lâm và Quảng Tây. Thân luồng to bằng cái chén trà [nguyên văn là trà oản茶碗: vật dụng có dạng hình cầu bổ đôi dùng để pha và uống trà. Nhiều loại trà oản được sử dụng trong các nghi lễ trà Đông Á], vỏ dày nhưng rỗng ruột. Một người đàn ông chỉ cần một cây để làm kèo, cột, xà cho mái nhà tranh. Cách trồng tre: Cắt tre thành từng đoạn dài khoảng hai thước. Chôn đoạn tre xuống đất. Không quá một tháng, tre sẽ ra rễ và lá. Sang năm sau, tre sẽ nảy mầm. Chỉ sau vài năm, tre sẽ mọc thành rừng. Miền Nam cũng sử dụng măng tre để làm măng muối.
Cây tre gai có gai nhọn trên cành. Miền Nam gọi là 刺勒 Thích Lặc. Cây mọc chồi ngang từ rễ, cành đan xen như dệt. Dù bị lửa rừng thiêu đốt, chỉ có cành nhỏ và lá non bị cháy. Măng tre mọc thành bụi, đan xen dày đặc. Người ta ở Châu Ung xưa dùng tre gai để làm thành, khi người Man xâm lăng, không thể xâm nhập được.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Đảo Niệm Tử倒捻子 [Cây Măng Cụt]: cây Đảo Niệm Tử không mọc thành bụi lớn, lá cây giống hoa cây Mận Đắng苦李花, hình dạng như cây Dâm Bụt蜀葵 [Thục Quỳ], nhưng nhỏ hơn và có màu tím đậm. Phụ nữ miền Nam dùng lá cây để nhuộm màu. Quả cây giống quả Hồng mềm, có bốn lá ở đầu, giống cuống quả Hồng.Khi ăn phải bẻ cuống quả, do đó, người ta gọi là Đảo Niệm Tử. Có nơi gọi là Đô Niệm Tử都捻子. Đây là do cách phát âm bị sai lệch. Vỏ quả màu tím, bên trong màu đỏ, không có hạt, ăn vào thấy ngọt mềm, rất ấm bụng và tốt cho cơ bắp.
Cây đa: Cây đa được trồng nhiều trong thành phố và các quận thuộc Quế Lâm, Quảng Tây và Dung Nam. Lá cây đa giống lá cây Thanh Đàn, không rụng vào mùa thu đông. Cây đa có nhiều cành, lá dày và mịn, rễ cây mọc chằng chịt, thân cây cong queo. Cây đa có cành non mọc từ trên cao rủ xuống như dây leo, dần dần chạm đất, đầu cành bén rễ, tạo thành một cây đa mới. Ba đến năm cây đa có chung rễ, cành ngang của chúng mọc sang cây bên cạnh, tạo thành cây đa liền rễ. Người miền Nam coi đây là điều bình thường và gọi cây đa là "瑞木" Thụy mộc.
Cây Phong Nhân: vùng Lĩnh Nam có nhiều cây phong. Cây phong già thường có瘤癭 lựu anh [u bướu]. Bỗng một đêm gặp sấm sét và mưa lớn, u bướu trên cây mọc nhanh trong bóng tối, dài ba đến vài thước. Người miền Nam gọi nó là "Cây Phong Nhân楓人". Các pháp sư người Việt nói rằng: "Dùng nó để điêu khắc hình thần quỷ thì dễ linh nghiệm."
Cây Quang Lang桄榔樹枝 có cành lá sum suê, hơi khác so với cây táo và cây cau. Tuy nhiên, dưới lá cây có những sợi râu như đuôi ngựa thô. Người Quảng Đông dùng những sợi râu này để dệt khăn. Sợi râu này đặc biệt thích hợp để ngâm trong nước muối, sau khi ngâm sẽ nở ra và trở nên dai hơn. Do đó, người ta dùng nó để buộc thuyền, không cần dùng đinh hay dây. Gỗ cây Quang Lang có tính chất như tre, màu tím đen, có vân và rất cứng. Thợ thủ công sử dụng gỗ này để làm bàn cờ. Gỗ cây này có thể gọt thành cuốc xới đất, sắc bén như cuốc sắt, thậm chí khi va vào đá còn sắc hơn. Tuy nhiên, nếu va vào cây chuối hoặc cây liễu thì sẽ bị hỏng. Ruột cây này có những mảnh vụn như bột, có thể dùng để làm bánh ăn. [Xem chú thích cây Quang Lang phần trước].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây săng lẻ袍木 mọc ở các vùng ven sông suối, lá nhỏ giống cây họ Thông, thân cứng như cây Vông đồng, tuy nhiên rễ mềm không chịu được đao cưa, ngày nay, người ta ở vùng Triều Châu và Huệ Châu thường dùng rễ cây này để làm guốc. Khi rễ chưa khô, dễ gọt đẽo như cắt dưa, sau khi khô, nó trở nên dẻo dai, không thể gọt đẽo được. Người ta có thể sơn dầu hoặc sơn ta lên guốc, guốc rất nhẹ như cỏ bấc, đi vào mùa hè, cách chỗ ẩm thấp, nhìn như gỗ cây mun. Ngày nay, quan chức ở Quảng Châu và các quận khác khi mới nhậm chức đều có guốc gỗ săng lẻ sơn dầu.
Quảng Châu không có hạt dẻ, chỉ có núi ở Cần Châu勤州山 có hạt dẻ đá. Mỗi năm hạt mới chín, vỏ dày, cùi ít, vị như nhân quả Hồ Đào. Khi chín thường bị đàn vẹt mổ ăn gần hết. Chỉ có loại hạt dẻ đá này, cũng rất hiếm.
Táo Ba Tư 波斯棗: Trong thành Quảng Châu có thể thấy cây này. Thân cây không có cành nhánh, mọc thẳng đứng cao ba bốn mươi thước. Khi đến đỉnh cây, mọc ra mười mấy cành lá chung quanh, giống như cây kê (hải túc) được trồng ở Quảng Châu. Cây có thể ra trái ba năm năm một lần. Trái cũng giống như táo xanh ở miền Bắc Trung Quốc, nhưng nhỏ hơn. Từ lúc xanh đến lúc chín vàng, lá đã rụng hết, từng chùm trái mọc lên, mỗi chùm có khoảng ba mươi hai mươi trái. Từng ăn trái do người tù trưởng phiên [các thủ lĩnh người nước ngoài] mang đến, màu sắc giống như đường cát, vỏ và thịt mềm nát, ăn vào có vị như đồ hun khói và hấp nước. Hạt của nó khác hẳn với táo ở miền Bắc Trung Quốc, hai đầu không nhọn, cuộn tròn như một viên khoáng thạch màu tím nhỏ. Từng thu thập hạt và đem trồng, nhưng đã lâu mà không nảy mầm, nghi là do đã bị hấp chín. Vua Văn Đế 魏文帝 nhà Ngụy hỏi các đại thần:
- Long nhãn, vải thiều ở phương Nam có ngọt hơn nho và mật ong ở Tây Vực không? Vị chua cũng không bằng, trong các loại táo ở Trung Quốc, không có loại nào ngon hơn Ngự táo 御棗 (Ngự táo: táo dâng vua) ở An Ấp安邑.
[An Ấp: là một địa danh lịch sử nằm ở thành phố Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, An Ấp là kinh đô của nước Tấn trong thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc. Sau này, An Ấp cũng từng là kinh đô của nước Ngụy, nước Hán và nước Tây Tấn. An Ấp là một trong những thành phố cổ nhất ở Trung Quốc, có lịch sử hơn 2.500 năm. Thành cổ An Ấp: Thành cổ được xây dựng vào thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, hiện nay vẫn còn lưu giữ được một số đoạn tường thành và cổng thành. Cung điện An Ấp: Cung điện là nơi ở của các vị vua nước Tấn, nước Ngụy, nước Hán và nước Tây Tấn. Hiện nay, di tích cung điện chỉ còn lại một số nền móng và kiến trúc ngầm. Lăng mộ các vị vua: An Ấp là nơi táng của nhiều vị vua nước Tấn, nước Ngụy, nước Hán và nước Tây Tấn. Hiện nay, một số lăng mộ đã được khai quật và phát hiện nhiều di vật quý giá].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thiên Hạch Đào偏核桃 [quả Hạnh nhân lệch, có lẽ là hạt Điều]: Mọc ở các nước Chiêm畢占國 [Chiêm Thành, Phù Nam?]. Cùi quả không thể ăn được. Người Hồ 胡人 thường thu gom hạt, đem tặng quan lại nhà Hán để coi là vật quý hiếm. Hạt có hình dẹp, đầu nhọn, hơi cong như mỏ chim sẻ. Bẻ vỡ hạt lấy nhân ăn, vị chua giống như hạt thông Tân La新羅. Tính nóng, dùng làm thuốc cũng không khác gì nhân hạt đào ở phương Bắc.
Quả Vải荔枝: Là loại trái cây quý hiếm ở phương Nam. Trên núi lửa trước sông Ngô Châu梧州江 có cây vải, chín sớm vào tháng 4, hạt to, vị chua. Vải thiều ngon nhất là loại được trồng ở Giao Châu, Tân Châu và Nam Hải, chín vào tháng 5, tháng 6. Trái có hình như quả trứng gà nhỏ, gần cuống hơi phẳng, vỏ hơi đỏ, thịt trắng trong như ngọc. Cũng có loại vải thiều có hạt đen, tính nóng, vị ngọt, ăn nhiều thì dùng nước mật ong để chế biến. Còn có loại vải thiều 䗶 Lại? vỏ màu vàng, vị hơi kém hơn loại vỏ đỏ.
Quả Nhãn龍眼: giống cây vải, lá nhỏ, vỏ màu xanh vàng, hình tròn như viên đạn, hạt như hạt muồng nhưng không cứng, thịt trắng ngà, vị ngọt như mật, mỗi chùm có 30-20 quả. Mùa Vải vừa qua, nhãn đã chín. Người phương Nam gọi là Lệ Chi nô荔枝奴 [nô bộc của vải]. Vì nó thường chín sau vải thiều.
Quả cây trám橄欖樹: Thân cây cao, cành nhánh mọc thẳng, cao vài thước. Quả chín vào cuối mùa thu. Người Mân rất thích hương vị này. Nhai quả trám thơm miệng, hơn cả ngậm lưỡi gà. Uống nước trám giải độc rượu. Cây trám mọc hoang có nhiều quả, cây cao, không thể leo trèo. Người ta chỉ khắc một lỗ vuông nhỏ dưới gốc cây, cho muối vào, một đêm sau quả sẽ tự rụng. Trên cành và nhánh cây có nhựa, giống như keo đào. Người phương Nam thu hái nhựa, cùng với vỏ và lá cây trám đem nấu thành nước, sệt như nước mắm đen, gọi là trám đường. Cho vào khuôn đất, phơi khô, cứng hơn keo cây sơn, dính nước càng khô hơn.
Quả Bưởi枸櫞: hình dạng như quả dưa, vỏ giống quả cam nhưng màu vàng kim, do đó người ta quý trọng nó, yêu thích hương thơm của nó. Các gia đình giàu có ở kinh đô dùng nó để bày biện trong mâm cỗ, trân trọng nó là trái cây quý hiếm từ phương xa. Thịt quả rất dày, trắng như củ cải. Phụ nữ phương Nam thi nhau lấy phần thịt quả, chạm khắc hình hoa hay hình những con chim, hoặc là ngâm trong mật ong, chấm thêm son phấn, thể hiện sự khéo léo tinh tế của họ, không thua kém gì người Tương Trung chạm khắc quả Dưa hấu. [湘中人: những người ở phía Nam tỉnh Hồ Nam].
Cây dừa椰子樹: Giống như cây cọ biển海棕, có quả dừa to như cái âu canh, bên ngoài có lớp vỏ dày như [người] bụng phệ, bên trong có vỏ cứng, tròn và dày 2-3 phân. Có quả hình tròn như quả trứng, người ta cắt một đầu, dùng đá mài đi lớp vỏ sần sùi, lộ ra những đường vân đẹp mắt, sau đó dùng bạc khảm lên, dùng làm bình đựng nước, rất quý và đẹp. Trong quả có nước nhiều và vị như sữa, cũng có thể uống được, tính hàn, lợi khí.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Quảng Quản và La Châu có nhiều cây Bạch Mộc Hương棧香樹, thân cây giống cây liễu (bản chép trong Chính Hòa Bản Thảo政和本草 ghi là “giống rễ cây). Hoa của nó màu trắng và dày đặc, lá của nó giống như vỏ quýt, có thể làm giấy, gọi là giấy da hương. Giấy màu xám trắng có vân, giống như giấy trứng cá, giấy mềm và yếu, dính nước là nát, không bằng giấy dó, lại không có mùi thơm. Có người nói cây hoàng thục sạn hương黃熟棧香 [Trầm Hương?], cùng một cây, nhưng rễ, thân, cành, nhánh đều có phân biệt.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hoa dâm bụt ở 朱槿花 Lĩnh Nam, thân và lá giống cây dâu tằm, lá bóng và dày, người phương Nam gọi là hoa Phật Tang 佛桑. Cây cao nhất chỉ đến bốn năm thước, nhưng cành lá rậm rạp. Hoa nở từ tháng hai, đến giữa mùa Đông mới tàn. Hoa màu đỏ đậm, năm cánh như hoa sủi lớn, có một nhụy dài hơn cánh hoa, đầu nhụy điểm xuyết những hạt vàng, khi ánh sáng mặt trời chiếu vào, tưởng chừng như có lửa bùng lên. Trên một bụi cây, mỗi ngày nở hàng trăm bông, tuy rực rỡ nhưng không thơm. Hoa tàn vào buổi tối, sáng nở, giâm cành là sống, nên gọi là hoa dâm bụt. Những cô gái quê cũng hái hoa đem bán, một đồng bán vài chục bông, nếu không có hoa này để trang điểm, thì không có gì tô điểm cho nhan sắc.
Nhựa thông胡桐淚: xuất xứ từ Ba Tư波斯國, là nhựa cây Hồ Đồng胡桐樹, cũng gọi là Nhựa thông. Còn có loại nhựa đá, lấy trên đá.
Cây Sa Trứ 沙箸 [không rõ cây gì, có thể là Cây dương liễu biển (Salix viminalis): Loại cây này mọc phổ biến ven biển, có cành dài, dai và có thể dùng làm que đếm] mọc trong cát ven biển, mùa xuân nảy mầm, phần lõi cứng như xương, trắng và dai, có thể dùng làm que đếm trong khi uống rượu. Khi muốn hái, phải bước nhẹ nhàng tiến đến, đến gần thì nhanh tay nhổ lên, nếu không, cây nghe tiếng người sẽ lập tức rút xuống cát. Đào tìm mãi cũng không thể tìm thấy.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Dung Quản châu Liêm Bạch容管廉白州 [Châu Liêm Bạch, ngày nay là Liêm Giang, Quảng Tây] có giống chim Tần Cát Liễu秦吉了hình dạng đại khái giống mỏ vẹt, chân đều màu đỏ, hai mắt ở phía sau gáy, trên đầu có mồng thịt màu vàng. Loài chim này giỏi bắt chước tiếng người, giọng nói to lớn, rõ ràng hơn vẹt. Nuôi nó bằng cơm và trứng gà luộc nhuyễn như quả táo. Có người nói châu Dung có loại chim này màu trắng tinh, nhưng chưa ai nhìn thấy.
Chim Việt Vương 越王鳥, cổ của chúng dài và cong giống như một chiếc bình cổ cao, trên đầu chim có một chiếc mào màu vàng, hình dạng giống như một chiếc chén nhỏ. Mào vàng này có thể được sử dụng để chứa nước, chúng sử dụng mào vàng để múc nước và chuyền cho nhau uống, mào của chim non sau khi cứng lại có thể được sử dụng để làm chén uống rượu.
Có một loài chim hình dáng giống như chim Bồ Các 野鵲, loài chim này có hình dạng tương tự như chim ác là. Lông cánh của chúng có màu vàng xen lẫn màu lục, chim có hai chiếc đuôi mọc ra từ hai bên, chiều dài của hai chiếc đuôi này hơn hai thước, hai chiếc đuôi này thẳng và không cong, đuôi của chim có phần chóp mọc lông, lông chim ở phần chóp đuôi trông giống như lông vũ chim Tiễn [nghĩa là giống hình mũi tên].
Chim Văn Mẫu 蚊母鳥, loài chim này có hình dạng tương tự như con Cò. Mỏ của chúng to và dài, chúng thường kiếm ăn trong ao hồ, bắt cá để ăn. Theo quan niệm dân gian, lông vũ của chim có thể được dùng để làm quạt xua muỗi. Do đặc điểm kỳ lạ này, chim còn được gọi là “chim phun muỗi” 吐蚊鳥 [Thổ Văn Điểu].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chim Cú Mèo ở phương Bắc 北方梟鳴, tiếng kêu của cú mèo thường được coi là điềm gở, báo hiệu điều không may mắn, người dân ở đây cho rằng tiếng kêu của cú mèo là lạ lùng, khác thường, do đó, họ thường ghét bỏ và xua đuổi cú mèo. Cú mèo ở phương Nam hoạt động cả ngày lẫn đêm, tiếng kêu của chúng không được coi là điều gì đặc biệt, không khác gì tiếng chim chóc bình thường. Người dân Quảng Tây bắt cú mèo, họ bán cú mèo khi còn sống, cú mèo được nuôi trong nhà như một loại vật nuôi, cú mèo được sử dụng để bắt chuột, khả năng bắt chuột của cú mèo vượt hơn mèo nhà.
Chim Hào鴞 [một giống chim dữ giống như loài cú vọ, ngày núp trong hang, đêm mò chim chuột ăn thịt. Có câu: Con Kiêu 梟 ăn thịt mẹ, con Phá Kính 破獍 (giòng muông) ăn thịt bố. Con Phá Kinh còn gọi là kính 獍, vì thế gọi kẻ bất hiếu là Kiêu Kính 梟獍], có kích thước tương đương chim diều hâu. Tiếng kêu tạo âm thanh ghê rợn, khó nghe, [nếu chúng] bay vào nhà là điềm gở, thịt chim Hào ngon, có thể chế biến thành món ăn, được viết trong sách Trang Tử莊子:
- 見彈求鴞炙 vừa thấy viên đạn đã vội vàng đòi ăn thịt cú nướng.
[Chương Tề Vật Luận 齐物论 trong sách Trang Tử, câu chuyện:
Có một người đàn ông tên là Hồ Huệ Tử đi săn. Khi ông ta đang ngắm nhìn một con cú mèo đậu trên cây, bỗng nhiên một viên đạn bay đến suýt trúng con cú. Con cú mèo hoảng sợ bay đi, Hồ Huệ Tử vội vàng đuổi theo. Trang Tử nhìn thấy cảnh này liền hỏi Hồ Huệ Tử:
- Ngài đang làm gì vậy?
Hồ Huệ Tử trả lời:
- Ta muốn bắt con Hào về để nướng ăn.
Trang Tử nói:
- Vừa nãy viên đạn suýt trúng con cú, nó đã hoảng sợ bay đi. Ngài muốn bắt nó, làm sao có thể được?
Hồ Huệ Tử nói:
-Ta sẽ dùng mưu kế để dụ nó.
Trang Tử nói:
-Ngài vội vàng như vậy, làm sao có thể dụ được con Hào? Ngài nên kiên nhẫn chờ đợi, nó sẽ tự quay lại.
Hồ Huệ Tử không nghe lời Trang Tử, vội vàng đuổi theo con Hào. Cuối cùng, ông ta không những không bắt được con Hào mà còn bị thương.
Thành ngữ: Kiến đạn cầu Hào chích 見彈求鴞炙 là lời khuyên răn chúng ta nên kiên nhẫn, suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi hành động, không nên nóng vội, hấp tấp].
Sách Thuyết Văn Giải Tự viết: chim Hào là loài chim bất hiếu, ăn thịt mẹ sau khi nở. Sách Hán Thư漢書 viết: Vào ngày mùng 5 tháng 5, người xưa có tục nấu cháo chim Hào để thưởng thức, việc sử dụng thịt chim Hào trong ăn uống có ý muốn tiêu diệt [loài chim này], Người xưa coi trọng món thịt chim Hào nướng và cháo [chim Hào], có thể là để tiêu diệt loài chim Hào vậy.
Chim Quỷ Xa 鬼車: vào mùa xuân và mùa hè, khi trời hơi âm u, thường bay qua và kêu rên rỉ. Loài chim này đặc biệt nhiều ở vùng Lĩnh Ngoại嶺外, chúng thích bay vào nhà, hút linh hồn con người. Theo một số người nói, Quỷ Xa có chín đầu, một đầu đã bị chó cắn nát, nên máu luôn chảy. Máu của nó rơi vào nhà nào thì nhà đó sẽ gặp tai ương. Sách "Kinh Sở Tuế Thời Ký荊楚歲時記" ghi chép rằng: Khi nghe tiếng Quỷ Xa kêu, nên gọi chó sủa để xua đuổi (xét sách: Kinh Sở Tuế Thời Ký荊楚歲時記 viết: vào đêm tháng Giêng, nhiều Quỷ Điểu bay qua nhà người. Mọi nhà thường dùng búa đập giường, gõ cửa, vặn tai chó và tắt đèn nến để xua đuổi) [đoạn văn này có một lỗi chính tả: Chữ "耳" (tai) trong cụm từ "捩狗耳" (vặn tai chó) được cho là thiếu chữ "頓" (đập). Sửa lại thành "捩狗頓耳" (đập tai chó). Việc vặn tai chó có vẻ không phù hợp với ngữ cảnh xua đuổi Quỷ Điểu. Thay vào đó, "đập tai chó" bằng tiếng động lớn có thể hiệu quả hơn trong việc xua đuổi chăng?]
Cú tai Mèo鵂鶹 tức là chim Cú, dùng để làm chim mồi (xét chữ “Ngoa” 囮 vốn được viết là 國 “Quốc”, nhưng sau này được sửa lại thành 囮. Theo sách Bắc Hộ lục北戶錄 dẫn lại từ Tự Lâm 字林, chữ 囮 có nghĩa là "mồi nhử" Ngày nay, thợ săn dùng chim cú tai mèo để làm mồi nhử chim khác, do đó, cần sửa chữ 國 thành 囮 để phù hợp với nghĩa của câu), [chúng] có thể tập hợp các loài chim. Ban ngày mắt Cú tai mèo không thấy gì, ban đêm chúng bay đi bắt muỗi mòng, [về loài thì chúng giống] loài quỷ xa鬼車. Đều bay đêm ẩn ngày, hoặc thích ăn móng tay móng chân người, thì biết được hung cát [điềm lành dữ]. Hung thì thường kêu trên mái nhà, báo sắp có tai họa! Do đó người ta cắt móng tay chôn trong nhà, là để tránh điều này. Cũng gọi là “thiếu nữ đi đêm” 夜行遊女 [dạ hành du nữ] và hay quấy phá dọa trẻ em, nên quần áo của trẻ em không được phơi dưới sương sao, sợ [trẻ em nghe tiếng cú tai mèo] bị quấy phá.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hẹn các cụ đến chiều sẽ post toàn bộ, cùng với bản PDF sách giấy trang trí đẹp tặng các cụ.
Còn một số sách sắp dịch xong, hy vọng các cụ ủng hộ.
 

Wakeup

Xe điện
Biển số
OF-33666
Ngày cấp bằng
21/4/09
Số km
2,559
Động cơ
510,695 Mã lực
Nơi ở
Where Rain & Tears are the same
Hẹn các cụ đến chiều sẽ post toàn bộ, cùng với bản PDF sách giấy trang trí đẹp tặng các cụ.
Còn một số sách sắp dịch xong, hy vọng các cụ ủng hộ.
Hy vọng sớm có bản đẹp pdf của cụ cùng các sách khác.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
25,697
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chim Hàn Bằng韓朋鳥 thuộc loại chim Bồ nông鳧鷖. Loài chim này thường bay theo cặp, dập dờn trên mặt nước khe suối. Trong các loài chim nước như Nhạn, Uyên ương, Cò, thì ở phía Bắc núi Lĩnh đều có, chỉ riêng chim Hàn Bằng là chưa thấy. Theo như sách "Sưu thần ký"搜神記 ghi chép: quan đại phu Hàn Bằng大夫韓朋 (chú thích: một cách viết khác là Phùng馮), có vợ rất đẹp. Vua Tống Khang Vương 宋康王 cướp vợ của ông, Hàn Bằng oán hận vua. Vua giam cầm ông, Hàn Bằng bèn tự sát. Vợ ông âm thầm làm rách nát quần áo của mình. Vua cùng bà lên đài, tự ném mình xuống. Những người hầu cận túm lấy quần áo, nhưng không túm được. Bà để lại di thư ở trong dải lưng, nói rằng: "Mong được trả thi hài về họ Hàn để hợp táng". Vua tức giận, ra lệnh chôn cất hai người ở hai ngôi mộ. Hai ngôi mộ đối diện nhau, qua một đêm, bỗng thấy có hai cây Thị 梓木 mọc lên trên hai ngôi mộ, rễ cây giao nhau ở dưới, cành cây đan xen ở trên. Lại có loài chim giống như Uyên ương, thường đậu trên cây, sáng tối kêu bi thảm. Người phương Nam cho rằng loài chim này chính là tinh hồn của vợ chồng Hàn Bằng. Do đó lấy họ Hàn để đặt tên cho nó.
[Tống Khang vương 宋康王 (?-286 TCN; trị vì: 334 TCN-286 TCN) hay Tống vương Yển 宋王偃, tên thật là Tử Yển 子偃, là vị vua thứ 34 và là vua cuối cùng của nước Tống – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tử Yển là con trai thứ của Tống Hoàn công, vị vua thứ 32 của nước Tống, em của Tống Dịch Thành quân, vua thứ 33 của nước Tống. Năm 335 TCN, ông làm biến loạn để chống lại anh là Dịch Thành quân. Dịch Thành quân trốn sang nước Tề. Tử Yển tự lập làm vua. Năm 315 TCN, Tử Yển thấy nhiều nước chư hầu đã xưng vương nên cũng tự lập làm vương, tức là Tống Khang vương. Ông chủ trương khuếch trương thế lực, mang quân đánh các nước chư hầu. Phía đông, ông tấn công nước Tề, chiếm 5 thành. Phía nam, ông đánh bại quân Sở, chiếm 300 dặm đất nước Sở. Phía tây, ông đánh nước Ngụy. Sau khi mở rộng thế lực, Tống Khang vương xa vào hưởng lạc tửu sắc và tàn ác, làm thần dân oán ghét và phẫn nộ, nên mọi người gọi là Kiệt Tống. Năm 286 TCN, Tề Mẫn vương huy động nước Sở và nước Ngụy cùng đánh Tống báo thù việc lấn đất. Liên quân 3 nước đánh bại quân Tống, Tống Khang vương phải trốn sang nước Ngụy và qua đời tại đó. Đất Tống bị chia làm ba giữa Tề, Sở và Ngụy. Tống Khang vương làm vua được 49 năm thì nước Tống diệt vong. Theo niên đại của Sử ký, vua cha Tống Hoàn công mất năm 375 TCN, như vậy Tống Khang vương mất vào năm 286 TCN có thọ ít nhất 90 tuổi. Tính từ Tống Vi Tử Khải đến Khang vương, nước Tống trải qua 34 đời vua].
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top