Chim Chá Cô 鷓鴣 [chim Đa Đa]: chim Đa Đa xuất hiện ở khắp các vùng hoang dã thuộc khu vực Ngô và Sở (nay là khu vực sông Dương Tử). Loài chim này đặc biệt phổ biến ở khu vực Lĩnh Nam嶺南, thịt chim Đa Đa trắng và giòn, ngon hơn nhiều so với thịt gà và chim trĩ. Thịt chim Đa Đa có thể giải độc nếu ăn phải nấm độc, Ngực chim Đa Đa có một đốm tròn màu trắng, lưng có những mảng lông màu tím đỏ, kích thước tương đương với gà lôi. Chim Đa Đa thường hót theo cặp. Sách Nam Việt Chí viết南越志: Chim Đa Đa tuy bay lượn theo nhiều hướng, nhưng khi bắt đầu sải cánh bay, nó nhất định sẽ bay về hướng Nam trước. Đây là hành vi bản năng của Đa Đa, thể hiện sự gắn bó của chúng với quê hương phương Nam. Tiếng kêu của chim Đa Đa nghe như đang gọi tên "Đỗ Bạc Châu杜薄州". Sách “Bản Thảo” thì cho rằng tiếng kêu của Đa Đa là: Câu Chu Cách Trích鉤輈格磔 [đúng ra tiếng kêu chim Đa Đa là: Tiếc rổ tép đa đa]. Lý Quần Ngọc 李群玉 trong bài “Sơn hành văn Chá Cô thi” 山行聞鷓鴣詩 viết rằng:
方穿詰曲崎嶇路, [Phương xuyên cật khúc khi khu bộ]
又聽鉤輈格磔聲. [Hựu thính câu chu cách trách thanh]
Nghĩa là:
Vừa mới vượt qua con đường quanh co, khúc khuỷu,
Lại nghe tiếng kêu “câu chu cách trích” 鉤輈格磔 của chim Đa Đa.
[ 2 câu còn lại là:
駐足林間窺細草,[ Trú túc lâm gian khuy tế thảo,]
不知何處是鳴禽。[ Bất tri hà xử thị minh cầm]
Nghĩa là:
Dừng chân giữa rừng, ngó vào bụi cỏ mịn,
Không biết tiếng hót từ đâu vang lên].
方穿詰曲崎嶇路, [Phương xuyên cật khúc khi khu bộ]
又聽鉤輈格磔聲. [Hựu thính câu chu cách trách thanh]
Nghĩa là:
Vừa mới vượt qua con đường quanh co, khúc khuỷu,
Lại nghe tiếng kêu “câu chu cách trích” 鉤輈格磔 của chim Đa Đa.
[ 2 câu còn lại là:
駐足林間窺細草,[ Trú túc lâm gian khuy tế thảo,]
不知何處是鳴禽。[ Bất tri hà xử thị minh cầm]
Nghĩa là:
Dừng chân giữa rừng, ngó vào bụi cỏ mịn,
Không biết tiếng hót từ đâu vang lên].