[Funland] Dịch sách cổ: Sứ Giao Kỷ Sử của sứ thần nhà Thanh

thieuhuyen

Xe hơi
Biển số
OF-742631
Ngày cấp bằng
11/9/20
Số km
191
Động cơ
62,512 Mã lực
Em chấm để theo dõi thơt. Rót rượu cho cụ Đốc ạ
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Phụ chép: những chi-tiết chuẩn-bị và buổi Lễ của An Nam

Ngày mồng 9 tháng 10, các quan Phủ Liêu 府僚 [thuộc Phủ chúa Trịnh, Chúa Trịnh Tùng 鄭松 bãi-bỏ chức Tả, Hữu thừa-tướng 丞相 và Bình-chương 平章 của thời trước, đặt ra chức Tham-tụng 参從 ngang Tể tướng 宰相. Quyền lực của Tham tụng rất lớn, đều do chúa Trịnh tiến-cử từ các viên Thượng thư hoặc Thị lang lên. Năm 1601, Trịnh Tùng 鄭松 đặt thêm chức Bồi tụng 陪從 đảm-đương trọng-trách trong phủ Chúa. Dưới Tham tụng và Bồi tụng, chúa Trịnh đặt thêm các Phiên 番, tương đương với các Bộ 部 bên cung vua. Dần dần hoàn chỉnh bộ máy với việc lập ra Ngũ Phủ 五府 (ban Võ 武) và Phủ Liêu 府僚 (ban Văn 文) cùng các cơ quan giúp việc là Lục Phiên 六番. Đó là quá trình thâu tóm quyền-hành từ cung Vua về phủ Chúa. Triều đình vua Lê cuối cùng chỉ còn vài chức quan hư-hàm làm nhiệm vụ nghi-thức. Về danh nghĩa, chúa Trịnh chỉ xưng Vương và đứng đầu Ngũ Phủ, Phủ Liêu nhưng trên thực tế lại nắm hết quyền điều-hành việc nước] đã cất đặt các quan viên phụ-trách trong lễ Sách-phong:
1. Việc Điển-nghi: Tả thị-lang bộ Lại, Thư Trạch-tử Vũ Duy Hài 武惟諧.
2. Đọc Chiếu: Tả thị-lang bộ Hình, Hải Sơn-nam Nguyễn Viết Khang 阮曰康
3. Mở Chiếu: Đô-cấp-sự-trung bộ Lễ Nguyễn Trạc Dụng 阮濯用 và Đô-cấp-sự-trung bộ Binh Nguyễn Công Nho 阮公儒.
4. Nhận Chiếu: Tự-khanh Cẩm Phái-nam Uông Nhuệ 汪鋭
5. Nhận Ấn: Tự-khanh Quế Hải-bá Lệ Sĩ Triệt 黎仕徹
6. Nhận Ngự-bút: Tự-khanh Nguyễn Tiến Tài 阮進財
7. Việc nội-tán [xướng tên Lễ trong điện]: Đô-cấp-sự-trung bộ Hình Phạm Công Thiện 范公善 và Hàn-lâm Nhữ Tiến Hiền 汝進賢
8. Xét Nghi-lễ: Giám-sát ngự-sử Nguyễn Quang Thành 阮光成, Nguyễn Quang Đào 阮光陶, Phạm Viết Tuấn 范曰峻, Trịnh Minh Lương 鄭明良, Nguyễn Đình Trạch 阮廷澤, Lê Hữu Danh 黎有名, Vũ Đình Thiều 武廷卲 và Lê Sĩ Cẩn 黎仕謹.
9. Thông-tán [lo việc xướng Lễ và chuyển các Lễ ra sân] 8 người dùng những viên nội-thị.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày 15, đặt Long-đình ở chính giữa điện [Kính thiên], Hoàng-thượng làm lễ 5 lạy 3 cúi đầu, kính-cẩn tới xem Ngự-bút; xong nâng tờ Chiếu, làm lễ tuyên Cáo mệnh. Hoàng-thượng nhận từ chiếu, nâng lên đến trán. Lại nhận Ngự-bút, nâng lên đến trán. Rồi làm lễ 1 lạy 3 cúi đầu.

Các quan cũng đều theo lạy như vậy. Lễ xong, chia làm hai ban Văn và Võ đứng hầu.

Triều-sứ đi ra phía trái. Hoàng-thuợng đi phía phải, đến điện Cần Chánh勤政殿. Hoàng-thượng mời các triều-sứ ngồi ghế, ghế tréo quay về hướng Tây, Hoàng-thượng ngồi Long Kỷ 龍椅 [ghế tựa chạm rồng] quay về hướng Đông, mời [sứ thần] uống trà và ăn trầu. Triều-sứ từ chối, và mời Hoàng-thượng trở về. Hoàng-thượng và Triều-sứ cùng làm lễ hai vái. Rồi triều-sứ đi ra. Hoàng-thượng đứng ở Chính Điện [Cần Chánh]. Triều-sứ ra khỏi của Tam Môn thì đều lên kiệu. Hoàng-thượng trở về cung.

Triều-sứ tiến đến trước nhà bộ Lễ. Quan phụng-sai mời vào và đưa bức thư Hoàng thượng gửi cho 3 vị sứ thần. Lời thư nói rằng:

- Thịnh-điển vừa xong, tiếc thương kính mở, khẩn xin tạm dừng xe sứ. Rượu suông một chén, ấy phúc muôn vàn.

Triều-sứ cáo-từ, viết thư gửi lên, rồi ra đến ngoài cửa Đại Hưng. Các viên tiền lộ và tùy tùng bèn lên ngựa để tiến về trạm.

Những ngày này, các sứ thần không tới dự yến tiệc ở dinh bộ Lễ mà về thẳng Công-quán, các cỗ bàn phải đem đến [tận] trú-sở. Khâm-sứ [ đây chắc nói Ô Hắc] có thư gửi lại cảm ơn, có câu:

- Được cho cỗ quí, đâu dám xứng-đáng
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trước 3 ngày, ti Thương Thiết 商設 [cơ quan chuyên lo việc dọn dẹp, sắp đặt, bày trí trong cung] dọn dẹp và sửa-soạn trong điện Kính Thiên những vị trí:

1. Long-đình ở chính giữa, hương án ở phía Nam Long-đình, chỗ vua lạy trước hương-án có trải chiếu tre, trên trái trải chiếp hoa cạp điều, chỗ sứ thần đứng trước hương án gần phía Bắc hơn, được trải chiếu tre, trên trái chiếu hoa cạp, chỗ vua, đứng bên phải hương án, cũng dưới trải chiếu tre, trên trải chiếu hoa cạp điều.

2. Ngày lễ, một viên Điển-nghi, một viên Tuyên-chiếu, hai viên Triển-chiếu đều đứng bện trái điện. Một viên Thụ-chiếu, hai viên nội-tán đều đứng ở bên phải điện. 8 viên Củ-nghi [ phụ trách nghi trượng] và 8 viên Ngoại-tán [Thông-tán] thì chia làm 4 nhóm mỗi nhóm gồm 2 Củ-nghi, 2 Ngoại-tán, để đứng ở 4 nơi có lập bàn lạy: Long Trì 龍墀 [sân cao trên bục có bờ đắp hình rồng], Đan Trì 丹墀 [sân ở điện Triều Nguyên 朝元, thềm sơn son], sân điện Kính Thiên 敬天殿, sân cửa Đoan Môn 端門.

Khi vào đến điện Kính Thiên, thì đặt Long-đình vào chỗ chính giữa. Quan điển-lễ mời Khâm-sứ đến chỗ mình đứng, quan nội-hần tâu vua tới đứng chỗ mình. Các quan chia ban đứng hai bên sân Điện, Long Trì, Đan Trì và ngoài cửa Đoan Môn. Các viên chấp-sự đều tới chỗ mình, ai giữ việc nấy.

Viên nội-tán tâu vua tới trước hương-án lạy. Các viên ngoại-tán đều xướng:

- Bài ban! 排班!

Các quan đều đúng vào ban, rồi xướng:

- Ban tề! 班齊!

Các quan đều quay mặt vào phía hương-án. Viên nội-tán xướng:

- Tấu tam bái ngũ khấu đầu! 奏三拜五叩头

Vua quỳ lạy, lại xướng:

- Hưng! 興!
Vua đứng dậy, lại xướng:

- Bình thân! 平身!

Vua đứng thắng. Vua lạy như thế 3 lần và cúi vái 5 lần. Các viên ngoại-tán cũng xướng như thế. Tất cả các quan tại điện Kính Thiên và 4 sân đều lạy vái một lần, xong viên Điển-lệ xướng:

- Tuyên chiếu! 宣詔!
Viện nội-tán xướng:

- Tấu quỳ! 奏躨!

Vua quỳ xuống. Các viện ngoại-tán cũng xướng như thế. Các quan ở mọi nơi đều quỳ, Khâm-sứ bưng tờ Chiếu trao cho quan Tuyên-chiếu, 2 quan Triển-chiếu tới mở tờ Chiếu để quan Tuyên-chiếu đọc. Đọc xong, quan Tuyên-chiếu bưng tờ Chiếu mà đặt lên hương-án rồi trở về chỗ mình. Quan Điển-nghi xuớng:

- Tấu thụ Chiếu! 奏授詔!

Vua vẫn quỳ. Khâm-sứ bưng tờ chiếu trao cho vua. Vua nhận tờ Chiếu, nâng lên ngang trán rồi trao lại cho quan Thụ-chiếu, quan Thụ-chiếu quỳ xuống nhận tờ Chiếu rồi đứng dậy trở về chỗ mình. Khâm-sứ cũng trở về chỗ mình. Quan nội-tán xướng:

- Tấu phủ phục! 奏頫伏!

Vua cúi đầu chạm chiếu, xướng:

- Hưng! 興!

Vua nâng người dậy, xướng:

- Bình thân! 平身!

Vua đứng dậy, ở ngoài cũng xướng và các quan cũng làm như vậy. Quan nội-tán xướng:

- Tấu phục vị! 奏伏位!

Vua trở về chỗ đứng bên phải hương-án trước mặt sứ thần. Quan nội-tán xướng:

- Tấu hành tạ ân lễ ngũ bái tam khấu đầu! 奏行謝恩禮五拜三叩头!

Vua lạy 5 lần, cúi đầu 3 lần để tạ ơn sự Sách-phong. Ở ngoài cũng xướng và làm lễ như vậy. Xong quan nội-tán xuớng:

- Tấu lễ tất! 奏禮悉!

Lễ chính-thức đã hết. Các quan đứng thành ban mà chầu., Quan nội-tán lại xướng:

- Tấu Hoàng-thượng hướng Khâm-sứ hành nhị ấp lễ! 奏皇上向欽使行二揖禮!

Vua quay về phía sứ thần làm lễ cám ơn bằng 2 vái. Khi sứ thần ra của Tam Môn thì vua dừng lại ở Chính Điện.

Vua ngự về điện Cần Chánh, các quan theo chầu. Đến điện rồi, quan nội-tán tâu vua ngự lên ngai vàng. Các quan làm lễ Khánh Hạ 慶賀 [lễ chúc mừng] 5 lạy 3 cúi. Xong, vua về cung và cac quan lần-luợt đi ra.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
VI. GIAO HÀNH THẬP TUYỆT
Trong đoàn đi sứ lần này, có một chàng trai trẻ tuổi đã ghi cảm-tưởng riêng dọc đường đến lúc tới Thăng Long. Đó là cháu ngoại viên phó sứ Chu Xán, tên là Lư Anh Nhân 廬英仁. Anh ta đã làm 10 bài thơ tứ-tuyệt gọi là Giao Hành Thập Tuyệt 交行十絕, trước khi về nước, anh để lại tặng Phò-mã Trịnh Quận-công.
Những bài thơ này rất hay, nó không gò-bó khuôn khổ, và không phải như những lời miêu tả một cuộc tiếp sứ khá căng-thẳng, đôi khi khô-khan về quá nhiều nghi-thức.
Phần nguyên bản chữ Hán, ở đây, tác giả làm thơ theo thể Thất-ngôn Tứ tuyệt. Phần dịch lời xin chuyển sang Lục-bát cho trọn ý.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Phần nguyên tác chữ Hán

hxh_TiepSuThanh1863_27.jpg


hxh_TiepSuThanh1863_28.jpg
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
GIAO HÀNH THẬP TUYỆT

Bài thứ nhất


Từ Lạng Sơn đến An Châu,
Ầm [Ầm] nước chảy quanh co bên đường.
Công việc vua giao đâu dám trễ nải,
Đành thu mưa gió vào trong vạt áo.

Bài thứ hai
[bài này tác giả viết cảm tưởng qua miếu Mã Viện]

Kính thành bái [ yết] miếu Tướng quân,
Quỷ Môn Quan tiến đã gần tới nơi.
Không cần phu dịch thiếu người,
Cũng biết đường sá sứ Trời gian-nan.

Bài thứ ba
[ Đề bên mộ Liễu Thăng]

Lẫm liệt thay, [gió thổi vọng lại] áng chiến trường,
Người qua thấy những mơ màng hồn xưa.
Đài Mây tan tác [đã từ] bao giờ?
Ôi! Bên đường chỉ thấy dấu [bia] mờ chiều hôm.

Bài thứ tư
[ Cô hàng An Nam bán nước trà ở Dinh Cần]

Trà Sơn nổi [danh] tiếng [đã] từ lâu,
Tạm dừng cờ Sứ, mời nhau chén trà.
Trà thơm bảy chén cô pha,
Thích Trà nhưng chẳng hiểu Trà thích ai?

Bài thứ năm
[ Thấy hoa đào bên sông Thương cảm tác, theo các ghi chép của sứ Thanh năm 1761 thì bên sông Thương trồng rất nhiều hoa đào]

Nhao nhao đàn ngựa qua sông,
Bên bờ mặt nước hoa [đào] lồng ánh [ sáng trên mặt nước] hoa.
Lâm Mã quen với đất nhà,
Đua nhau vươn cổ theo đà tiến băng.

Bài thứ sáu
[Vịnh các quan đón sứ thần]

Giao Giao phong vật khá [tương] đồng,
Quan sai áo mũ sắc hồng đỏ tươi.
Ngẫm xem ban tống mấy người,
Màu hồng đâu kém hồng tươi xứ mình?

Bài thứ bảy
[ Vịnh cô bán hàng ăn bên sông Cầu]

Sông Cầu vượt [qua một lát] [thì] thấy đông người,
Các cô hàng quán [mái] tóc dài qua vai.
Cơm ngon đón khách một lời,
Miếng trầu đưa tặng, thấy ai ân cần.

Bài thứ tám
[ Vịnh cô bán hàng cau ở Lã Côi]

Mảng vui công tử [đến] thành Yên,
Quán cau người đẹp thân mền tóc xuôi.
Bán cau [mà] [lúc nào] má [lúm] [cũng] điểm nụ cười,
Thảo nào ai cũng thích người trẻ trung [thiếu niên].

Bài thứ chín
[ Đề Công quán Gia Quất]

Mây trùm [màu như] hoa [tỏa] ánh [xuống] thành lầu,
Hành nhân hứng khởi, chẳng muốn nghỉ ngơi.
Bấy lâu tình [yêu mến xứ này] nén [lại] nay [mới được] cười,
Vì không hiểu tiếng, đành thôi cúi đầu.

Bài thứ mười
[Đi chơi thành Thăng Long]

Qua sông liền tới Kinh Thành,
Hồng hồng, sắc sắc, xanh [xanh] đầy đường. [ tác giả ngắm màu áo các cô gái]
Liếc [nhìn] nhau nhưng tiếng không [tỏ] tường,
Kìa hoa mai đẹp bằng dường bên ta.
 

demax

Xe tăng
Biển số
OF-145796
Ngày cấp bằng
14/6/12
Số km
1,219
Động cơ
479,125 Mã lực
Biết thêm nhiều thông tin thời xưa. Cám ơn cụ chủ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
VII. NGÀY LỄ DỤ TẾ
Phần chuẩn-bị của phía An Nam
Một ngày trước lễ, lễ-quan đặt bài-vị Tiên Đế trong điện [Thị Triều] về phía Đông, quay về phía Tây. Đặt một bàn bày các lễ-vật: 2 trâu, 1 dê, 1 vò rượu, 3 mâm cỗ, ở truớc bài-vị. Lại đặt hương-án trước bàn lễ-vật. Để hương và rượu ở phía Tây. Đặt vị trí đứng của vua ở phía Tây, ngỏanh mặt về phía Đông; vị trí đứng của Khâm-sứ ở phía Đông, hơi quay về Tây-Nam. Đặt chỗ Khâm-sứ đứng tế bên phải chỗ đứng đợi.
Ngày 16 tháng 10, làm lễ Tứ-tuất các Tiên Đế. Lễ lạt của sứ thần ngày 14 chuyển cho, gồm 4 đề bạc nặng 200 lạng và 100 tấm quyến để chuẩn bị làm lễ. Tế vật có 2 trâu, 2 dê, 2 vò rượu, 2 mâm cỗ, do Nội-điện bày biện. Đã dự truyền cho các quân, thủy bộ theo đồ-thứ dàn bày. Quân đều mặc áo và đội mũ bằng vải cát xanh. Ai có chức-phẩm thì mặc phẩm-phục.
Không dựng Long-kì, không kết hoa. Các cờ đội ngũ đều cuốn lại. Các cơ đội quan-binh dàn bày ở các sân hôm nay có khác hôm qua. Các lễ tế sẽ làm tại điện Thị Triều; cho nên hôm nay trong sân điện này bày nhiều quân hơn hôm trước.

1. Điệu Kính Thiên: 30 người: Nội Kỵ tiền bên trái, Nội Kỵ hậu bên phải.

2. Sân Kính Thiên: 560 người. Bên trái có các đội: Trạch-tả, Kiên-nghĩa-thuyền, Nội-cản, Ma-nhất, Nội-uy-tả. Bên phải có: Hội-uy-tiền, Trạch-hữu, Ưu-nhất, Du-hữu, Nội-uy-hữu, Nội-uy-hậu.

3. Sân Thị Triều: 860 người; bên trái 4 hàng: Trạch-tiến, Trach-tiền, Ưu-tiền, Nội kỵ-nhất, Tả-trạch-mã, Tả-hữu-tiền, Ưu-tiền, Kính-trung, Kính-tả. Bên phải 4 hàng: Trạch-tiền, Trạch-hậu, Ưu-hậu, Nội-kỵ-nhị, Hữu-trạch-mã, Tả-hữu-hậu, Ưu hậu, Kính-hữu, Kính-tiền.

4. Hoàng-thượng đi thì có đội Trạch-tiến và vệ-sĩ theo hầu.

5. Sân Triều Nguyên: 792 người. Bên tái: Dực-tiền, Ưu-tiền, cơ Thị-trung-hữu, Trạch-ưu-tiền. Bên phải: Dực-hậu, Trạch-ưu, cơ Thị-trung-tiền, Trạch-ưu-hậu.

6. Sân Đoan Môn:1054 người. Bên trái 4 hàng: Lực-tả, Trạch-tả, Trạch-mã-tiền, Trạch-mã-hậu, Nội-mã-tả, Tả-nhất, Ưu-tả, Cự-uy, Nội-tả-cơ, Nội-mã-hữu. Bên phải 4 hàng: Dục-hữu, Ưu hữu, Hữu-nhất, Tiền-nhất, Kính-hậu, Trạch-ưu-hữu, Hậu-nhất, Kính-hậu, Nội-tả-cơ.

7. Từ cửa Tam Môn đến của Đại Hưng: Tả-trung-kiên, Hữu-trung-kiên, Tiền-trung-kiên, Hậu-trung-kiên, Tả-nội-nhuệ, Tả-trung-cơ, Tiền-nội-cơ.
8. Từ của Đại Hưng đến bờ sông: quân thủy bộ như hôm trước.

9. Nghênh-tiếp từ Công-quán đến bến: quan-binh như hôm trước.

10. Giữ Công-quán: cơ Thị-nội-tiền và đội Tiệp-tả.

11. Nghênh-tiếp từ bờ Sông đến Chính Điện: cơ Thị-nội-hậu và cơ Thị-trung-tả.

12. Giữ các cửa: như hôm trước. Đua qua sông và dàn-bày bên phủ Chúa cũng như hôm trước. Các quan đón Long-đình và đôn đốc nghi-truợng, binh, mã, thuyền cũng như hôm trư
ớc.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sáng sớm ngày 16, viên phó-tri thủy sư là Thưởng Lộc-hầu đốc-suất các nghi-trượng, dẫn 2 Long-đình, 2 hương án, 12 tàn vàng, 200 trượng son và các lực-sĩ cầm dù và đàn ngựa tiến vào Công-quán. Đội Hữu-nội đứng đầu, đội Thị- tiệp đứng cuối, dàn bày hai bên đường từ của Công-quán đến Trường Bắn. Các quan phụng-sai mặc triều-phục, đến gặp quan chánh-sứ Dụ-tế Ô Hắc, dẫn 30 lính và 21 ngựa, tới chia cho 3 vị sứ thần sử dụng. Chánh-sứ Ô Hắc 10 lính 6 ngựa, chánh-sứ Minh Đồ 10 lính, phó sứ Chu Xán 10 lính 5 ngựa, quan tiền-lộ 5 ngựa, quan bưng tờ dụ 5 ngựa.

Chánh sứ ô Hắc họp các sứ tại quán mình, sai đem 2 long-đình đến công-đường để đặt 2 tế-văn. Giờ Thìn [7-9 giờ] bắt đầu ra đi. Đồ-thứ theo như bảng phụ sau, tiến đến bến đò Ái Mộ, bèn xuống thuyền. Đặt hương-án vào hai thuyền Trạch-nhất và Trạch-tả. Chánh-sứ ngồi thuyền Trạch-hữu, phó-sư Chu Xán ngồi thuyền Trạch-hậu, chánh-sứ Minh Đồ ngồi thuyền Trạch-tiền. Qua sông lên bến Chùa Mọc, bèn đưa các Long-đình lên đặt giữa đường cái. Cac quan phụng-sai tới nghênh-tiếp. Quan Khâm-sứ truyền rước lễ đón. Các quân tới đón thuộc các cơ Thị-trung-tả, Thị-nội-hậu, Thi-trung-hậu, chia ra hai bên đường mà tiến. Đám rước tiến đến ngoài cửa Đại Hưng, thì như hôm trước, các tùy tùng đều xuống ngựa và các nghi-truợng đều để lại đó, chỉ 3 sứ thần vẫn ngồi kiệu tiến vào của cho đến ngoài cửa Đông Tràng An mới dừng, nhưng vẫn ngồi kiệu, ngoảnh mặt ra ngoài mà đợi. Quan phụng-sai vào tâu báo-tin. Hoàng thượng đi ra, đội mũ đen, mặc áo Bào đen, thắt Đai có sừng tê đen, đi giày thêu chỉ đen. Bách-quan hộ-tống. Khởi giá ngoài cửa Tam Môn, Hoàng-thuợng dừng ở điện Tiếp Thụ, các sứ thần xuống kiệu. Long-đình đi trước, các sứ theo sau, đi đến ngoài cửa Tam Môn. Hoàng-thượng làm lễ tiếp sứ thần vào của chính.

Hoàng-thượng vào cửa bên phải. Đi đến điện Triều Nguyên, bèn đặt Long-đình xuống giữa đường chính, Hoàng-thượng làm lễ 5 lạy 3 vái. Trong khi lễ, các sứ thần đựng bên trái. Lễ xong, đều tiến đến điện Thị Triều, Khâm-sứ sai mang hai bản Tế-văn đặt ở phía trái huong-án chính và lấy tàn vàng của Khâm-sứ dựng trước án.

Khâm-sứ Ô Hắc tiến đến trước hương-án. Một vị triều-quan bưng lò hương rồi hộp hương trao cho khâm sứ. Khâm-sứ nâng cao ngang trán hai lần, rồi trao lại cho triều-quan đem đặt trên án trước và lấy một mâm vẽ rồng, đặt ba chén rượu, bưng trao cho Khâm-sứ. Khâm-sứ lại nâng ngang trán, quay trở ra, trao cho triều-quan tiến lên truớc án. Khâm-sứ đi ra đứng bên trái, triều-quan đọc văn tế. Tế xong, đều đốt văn tế. Hoàng-thượng tiến đến chỗ dự-định, làm lễ 4 lạy. Xong đang sang phía án bên trái, làm lễ 5 lạy 3 vái để tạ ơn Thiên-triều. Các sứ cũng lạy theo, Khâm-sứ bảo dừng làm lễ 1 lạy 3 vái [để tạ ơn sứ thần].
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đến ngày tế, sai trọng-thần văn võ đốc-suất nhã-nhạc và nghi-truợng, đến bờ sông đón sứ thần. Khi Long-đình tiến tới Cửa Nam [Đại Hưng], các tùy-tùng xuống ngựa. Tiến vào đến của thứ tư [Đông Tràng An]. Khâm-sứ xuống kiệu. Vua mặc áo Bào đen và thắt đai đen, ra ngoài cửa Tam Môn đón tiếp với các quan đi theo hầu, Khi Long-đình tới nơi, vua quỳ xuống. Long-đình tiến vào cửa giữa. Khâm-sứ vào cửa bên trái, vua vào cửa bên phải. Đến Điện [Thị Triều] đặt Long-đình ở giữa và vua làm lễ Tham-kiến. Khâm-sứ và vua đều đứng ở chỗ mình, các quan đúng chực ở hai bên tả hữu sân điện.
Quan nội-tán xướng:

- Tấu Hoàng-thượng nghệ bài-vị, hành ngũ bái tam khấu đầu!

Quan ngoại-tán xuớng:

- Bách quan bồi bái!

Vua tiến tới chỗ lễ, hành 5 lạy 3 vái, Các quan ở ngoài cũng hành lễ theo. Nội-tán xướng:

- Tấu Hoàng-thuợng nghệ tiền-vị lập!

Vua trở về chỗ cũ đứng. Các quan chia ban đứng hầu và các viên chấp-sự ai giữ việc nấy. Lễ-sinh dẫn Khâm-sứ đến trước án dâng ba tuần rượu. Xong, lễ-quan xướng:

- Tuyên đọc Dụ văn!

Quan truyền-dụ tới đứng bên phải Khâm-sứ. Lễ-sinh mở tờ Dụ-tế đặt trên Long-đình và trao cho quan tuyên-dụ đọc. Đọc xong, lễ-sinh lại đặt tờ dụ lên Long-đình rồi bưng tờ dụ và lụa đem đốt trước Long-đình. Khâm-sứ đi ra đứng chỗ cũ. Nội-tán xướng:

- Tấu Hoàng-thượng nghệ bái vị hành tạ ân lễ ngũ bái tam khấu đầu!

Ngoại-tán xướng:

- Bách quan bồi bái!

Vua tới trước án làm lễ tạ ơn 5 lạy 3 vái. Các quan cùng tới hành lễ, xong, nội-tán xướng:

- Tấu Hoàng-thượng xuất tiền vị-lập!
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Phần sứ Thanh ghi chép
Đúng như hẹn định, ngày 16 tháng 10, 3 sứ thần qua sông để làm lễ Dụ-tế 2 vua đã mất [ vua Lê Huyền Tông mất năm 1671 và vua Lê Gia Tông mất năm 1675]

Ngày 16, 3 sứ thần mặc công phục, lấy mấy cuộn văn Dụ-tế đặt vào Long-đình rồi ra đi, các quan Văn Võ, đầu mục, viên lại chức thuộc, lính tráng các hạng và phu phen đổi y phục, đều mặc áo tang. Việc đón rước dọc đường đều như hôm trước.

Quốc Vương [ bây giờ Ô Hắc và Minh Đồ gọi vua Lê là Quốc Vương thay bằng Tự Vương vì ông đã được sắc phong] An Nam mặc áo tang, đi bộ ra đón.

Chúng tôi đi theo vào đến cửa Chu Tước 朱雀, đặt Long-đình giữa đường. QUốc-vương dẫn các quan theo nghi-lễ, làm lễ tham-kiến, Xong, lại tiến đến Chính Điện. Đặt hương-án chủ ở chính giữa, để văn Dụ-tế lên trên. Phía sau, về phía tây, đặt hai hương-án trống-không. Kết lụa và bày các đồ cúng sau các án. Không bày thần-chủ và không bày gì ở án trước, ấy là để tỏ ý khiêm-tốn không dám [tự tiện làm tang khi chưa có sứ thần].

Ba sứ-thần hướng về phía Tây, đứng đợi, Quốc-vương dẫn các di-quan tới đúng hơi thấp phía dưới; quay về phía Đông mà quỳ xuống đợi. Chánh-sứ Ô Hắc tiến lên, nâng tờ văn tế Quốc-vương trước là Lê Duy Hi 黎維禧 [Lê Huyền Tông 黎玄宗] trao lại cho di-quan. Xong tới đứng trước án, dâng hương, dâng ruợu. Rồi trở lại chỗ mình. Một di-quan tuyên đọc văn Dụ-tế:

- Khang Hy năm thứ 22, tháng 10, ngày 16 [1683]. Hoàng-thượng sai các viên [quan] được ban nhất phẩm phục là chánh sứ Hàn-lâm viện Thị-độc Ô Hắc, phó-sứ Lễ-bộ lang-trung Chu Xán tới Dụ-tế vong-linh Quốc-vuơng trước nước An Nam. Lời rằng:


Trẫm nghĩ:
Xa-xăm phiên-quốc, hướng hóa lòng thành. Đã ban tước khi sinh-tiền. Đáng tôn-vinh khi đã mất. Vậy điếu tang theo Đại-Điển để nhu-viễn [uốn nắn nước ở xa] theo phép thường.

Này ngươi:

An Nam Quốc Vương truớc Lê Duy Hi!

Tính vốn trung-thành,
Nhà luôn cung-thuận.
Lo bề cống-hiến,
Theo lệ đúng kỳ.
Thuận phép cầu phong,
Tước Vương đáng lẽ.
Vài năm giữ chức,
Vội khuất vì đau.
Cáo-phó tâu lên,
Được tin thương xót.
Nghĩ kẻ phiên-thần hiếu-thuận,
Tái-sinh càng rất trung-thành,
Bây giờ ban mệnh tôn-vinh,
Vạn dặm gia ơn mưa móc.
Vậy sai chuyển-sứ,
Sang để khen [công] lao.
Ô hô!
Văn tế tuyên lên,
Khen chí cũ Tôn vương từ kiếp trước,
Dê bò bày lễ, ủy hồn thiêng giúp-rập chốn U-minh.
Khôn thiêng có biết,
Hướng-thụ còn nhiều.

Tuyên đọc xong, phó-sứ Chu Xán tiến lên, nâng đạo văn tế Lê Duy Đĩnh 黎維𥘺 [ Lê Gia Tông 黎嘉宗] trao cho di-quan tuyên đọc như trước.

Văn rằng:


Trẫm nghĩ:
Tiến cống đời truyền,
Phụ Thiên-triều làm phên-giậu.
Sắc-phong từng hướng,
Khen nối nghiệp vốn chuyên-cần.
Đã vinh trước thi xót sau,
Phải tuyên ơn cho hợp nghĩa,

Này ngươi:
An Nam Quốc-vương trước Lê Duy Đĩnh!
Nối dấu vinh xưa,
Thề trung thói cũ.
Vượt núi sông mà vào cống,
Chẳng quản gian-nan;
Cầm ngọc lụa để tới chầu,
Luôn theo phép tắc.
Nhưng tuổi-tác chắng lâu dài,
Than tháng ngày nhiều thay đổi.
Đến khi quốc-sứ tới chầu,
Mới thấy Tự-vương Cáo-phó,
Vậy lòng thương-xót,
Bèn xét Điển-chương:
Đã khiến sứ-thần,
Đặc gia ưu-tuất.
Ô hô!
Cỗ bàn la-liệt,
Rạng phô vinh-dự người xưa.
Dụ-tế ban ra,
Để ủy lòng thành xứ ngoại.
Ngoài trong một thể.
U hiển hãy vâng.


Tuyên đọc xong, chúng tôi về Công-quán.

Vua đi trở ra chỗ cũ, rồi hướng về phía Khâm-sứ, hai bên làm lễ vái nhau. Khâm-sứ xuống thềm phía Đông, Hoàng-thượng xuống thềm phía Tây, rồi tiễn sứ thần đến ngoài cửa Tam Môn, lại làm lễ vái nhau để từ giã.

Khâm-sứ đi ra đường phía bên trái, Hoàng-thượng đi ra phía bên phải, tiễn sứ đến giữa sân. Hai bên cùng, làm lễ 2 vái, Hoàng-thuợng trở về cung, Khâm-sự ra khỏi cửa Tam Môn, lên, kiệu ra đến Lễ-bộ-đường. Các quan phụng-sai bên Võ có Hoằng Quận-công và Hà Quận-công, bên văn có Lại Bộ hữu-thị lang Nguyễn Viết Đang tiếp đón đưa thư mời dự yến tiệc, Thư rằng:

-Lễ trọng vừa xong, tiệc thường bèn mở. Xin mời tạm dừng quán cỏ, nhắp chén ruột suông. May cho lắm lắm!

Khâm-sứ có thư cảm ơn, cáo-từ và tiến về cửa Đại Hưng. Ra khỏi cửa, lại bày nghi-trượng tiến về bến đò mà xuống thuyền. Các quan ban-tiếp tiễn qua sông, tiến vào Công-quán. Bốn quan ban-tiếp và quan nội-sai Thưởng lộc-hầu tiến vào đến trong quán. Khâm-sứ nói:

- Đa tạ đã chịu khó đi xa.

Còn như đồ-thứ quân lính dàn bày rước sứ thần thì khi đi khi về cùng một thể. Giờ Mùi [13-15 giờ] Cẩn Lộc-hầu đưa 20 mâm cỗ yến tiệc định thết [sứ thần] ở Lễ-bộ-đường, trà, rượu tới Công-quán. Quan ban-tiếp đón bưng vào. Cỗ bàn cũng y như hôm trước.
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải
Top