Ngày mồng 1 tháng 10 [tháng 9 thiếu], bọn Tống Nho và viên tri-phủ Lạng Sơn [Trường Khanh] Vi Đức Thắng 韋德胜 khẩn-khoản xin lưu lại. Chúng tôi bằng lòng, rồi cùng định gửi cho Vương-tự nước ấy 3 ống công-văn báo các việc sau này:
- Một là: Chữ ngự-thư [tự tay vua viết] ban cho là một đặc-ân. Đáng lẽ phải làm lễ ban và nhận riêng ra một ngày. Phái-bộ ta nghĩ nên theo lòng, nhân của Vua mà làm giản-tiện, vậy sẽ làm lễ ban cùng ngày với Sách phong.
- Hai là: Bộ Lễ đã đúc ấn mới, vậy phải gói ấn cũ để tiện mang về.
- Ba là: Phó-sứ bộ Sách phong, là Hàn-lâm viện biên tu Tôn Trác, khi đi đến Quảng Tây đã bị bệnh mất trên đường.
Rồi chúng tôi truyền cho bọn Tống Nho vào bảo rằng:
- Vừa rồi trông thấy dân-cư có nhiều kẻ ra vẻ kinh-sợ lắm, Viện-bộ ta vâng mệnh tới đây, kính theo lòng Vua mến kẻ ở xa, ban nhân ra khắp, không đâu không ban đến. Chúng tôi không dám làm những trái lễ nghĩa để người ta đồn-đại làm sợ hãi như thế chút nào. Các ngươi phải yết-thị dọc đường để cho dễ hiểu-dụ.
Ngày mồng 2, đi 60 dặm đến trạm Nhân Lí 仁里 thuộc An Châu 安州.
Ngày mồng 3, đi 30 dặm đến của quan Quỷ Môn 鬼門關, có lệ tế tại miếu thờ Mã Phục Ba [Mã Viện], ở đó có bài văn tế như sau:
- Kính thấy: Sao xuống Tây-Tần, danh vọng sang lòa Bắc Đẩu; giá cao Đông-Hán, tiếng tăm để mãi trời Nam. Xa gần đều thấy, thần, người được nhờ. Kính nghĩ đại tướng quân xưa:
Nghìn năm chính-khí,
Một đời vĩ-nhân.
Ngao-du giữa khoảng hai vua [hai tôn-thất nhà Hán chống Vương Mãng], chỉ theo chân Chúa [Hán Quang Vũ]; Quắc thước theo lời khen ngợi, y trọng lão-thần. Khi trẻ lên đàn, thét mắng chùn gan lũ dữ, lúc gia cầm búa, chỉ-huy tan vía gái Man [nói Hai Bà Trưng]. Đồng trụ dể danh, sáu chữ chia đôi Trung-Ngoại [Đồng-trụ chiết, Giao-chỉ diệt 銅柱折-交趾滅]. Qủy-Môn vạch đất, đèo heo chia rẽ trời người. Chúng tôi:
Mộc-mạc thiếu tài,
Kém hèn chúc mọn.
Suy mình xét phận,
Thẹn cùng vẽ hổ câu xưa. [vẽ hổ không thành, lại thành chó; lời của Mã Viện]
Vâng mệnh ra ngoài,
Chỉ sợ diều rơi khí độc. [Mã Viện ở hồ Lãng Bạc có than: dưới khí độc, trên mây mù, ngoảnh trông lên thấy chim diều hâu đang bay rơi xuống chết]
Buộc ràng vùng Việt-Hữu,
Ngóng uy phong bên bến sông Li.
Rong ruổi cõi Nhật Nam,
Ngắm linh sảng ở An-Châu lạ.
Kính hiến hoa quả một cỗ,
May bày quỳ chứng lòng thành
Rất mong:
Đức như nhật nguyệt,
Chiếu khắp nơi không chút riêng tây.
Công bằng núi sông,
Giúp ngôi báu vững bền mãi mãi.
Tế xong, đi đến cửa quan Chi Lăng.
Ngày mồng 4 tháng 10, đi 40 dặm đến Tiên Lệ, thuộc huyện Bảo Lộc. Mưa to suốt ngày; giờ Thân [17 đến 19 giờ] mới tạnh.
Ngày mồng 5, bọn Tống Nho lại xin tạm nghỉ một ngày. Chúng tôi phát tờ yết cấm các phu dịch, tùy tùng, va hiểu-dụ các dân-cư không được qua lại buôn bán để rồi nhòm ngó mà sinh sự. Ai dám sai lệnh sẽ bị tội nặng
- Một là: Chữ ngự-thư [tự tay vua viết] ban cho là một đặc-ân. Đáng lẽ phải làm lễ ban và nhận riêng ra một ngày. Phái-bộ ta nghĩ nên theo lòng, nhân của Vua mà làm giản-tiện, vậy sẽ làm lễ ban cùng ngày với Sách phong.
- Hai là: Bộ Lễ đã đúc ấn mới, vậy phải gói ấn cũ để tiện mang về.
- Ba là: Phó-sứ bộ Sách phong, là Hàn-lâm viện biên tu Tôn Trác, khi đi đến Quảng Tây đã bị bệnh mất trên đường.
Rồi chúng tôi truyền cho bọn Tống Nho vào bảo rằng:
- Vừa rồi trông thấy dân-cư có nhiều kẻ ra vẻ kinh-sợ lắm, Viện-bộ ta vâng mệnh tới đây, kính theo lòng Vua mến kẻ ở xa, ban nhân ra khắp, không đâu không ban đến. Chúng tôi không dám làm những trái lễ nghĩa để người ta đồn-đại làm sợ hãi như thế chút nào. Các ngươi phải yết-thị dọc đường để cho dễ hiểu-dụ.
Ngày mồng 2, đi 60 dặm đến trạm Nhân Lí 仁里 thuộc An Châu 安州.
Ngày mồng 3, đi 30 dặm đến của quan Quỷ Môn 鬼門關, có lệ tế tại miếu thờ Mã Phục Ba [Mã Viện], ở đó có bài văn tế như sau:
- Kính thấy: Sao xuống Tây-Tần, danh vọng sang lòa Bắc Đẩu; giá cao Đông-Hán, tiếng tăm để mãi trời Nam. Xa gần đều thấy, thần, người được nhờ. Kính nghĩ đại tướng quân xưa:
Nghìn năm chính-khí,
Một đời vĩ-nhân.
Ngao-du giữa khoảng hai vua [hai tôn-thất nhà Hán chống Vương Mãng], chỉ theo chân Chúa [Hán Quang Vũ]; Quắc thước theo lời khen ngợi, y trọng lão-thần. Khi trẻ lên đàn, thét mắng chùn gan lũ dữ, lúc gia cầm búa, chỉ-huy tan vía gái Man [nói Hai Bà Trưng]. Đồng trụ dể danh, sáu chữ chia đôi Trung-Ngoại [Đồng-trụ chiết, Giao-chỉ diệt 銅柱折-交趾滅]. Qủy-Môn vạch đất, đèo heo chia rẽ trời người. Chúng tôi:
Mộc-mạc thiếu tài,
Kém hèn chúc mọn.
Suy mình xét phận,
Thẹn cùng vẽ hổ câu xưa. [vẽ hổ không thành, lại thành chó; lời của Mã Viện]
Vâng mệnh ra ngoài,
Chỉ sợ diều rơi khí độc. [Mã Viện ở hồ Lãng Bạc có than: dưới khí độc, trên mây mù, ngoảnh trông lên thấy chim diều hâu đang bay rơi xuống chết]
Buộc ràng vùng Việt-Hữu,
Ngóng uy phong bên bến sông Li.
Rong ruổi cõi Nhật Nam,
Ngắm linh sảng ở An-Châu lạ.
Kính hiến hoa quả một cỗ,
May bày quỳ chứng lòng thành
Rất mong:
Đức như nhật nguyệt,
Chiếu khắp nơi không chút riêng tây.
Công bằng núi sông,
Giúp ngôi báu vững bền mãi mãi.
Tế xong, đi đến cửa quan Chi Lăng.
Ngày mồng 4 tháng 10, đi 40 dặm đến Tiên Lệ, thuộc huyện Bảo Lộc. Mưa to suốt ngày; giờ Thân [17 đến 19 giờ] mới tạnh.
Ngày mồng 5, bọn Tống Nho lại xin tạm nghỉ một ngày. Chúng tôi phát tờ yết cấm các phu dịch, tùy tùng, va hiểu-dụ các dân-cư không được qua lại buôn bán để rồi nhòm ngó mà sinh sự. Ai dám sai lệnh sẽ bị tội nặng