Ngày 21:
Sáng sớm, chúng tôi đã đi thuyền qua một nhánh biển nhỏ và leo lên hai ngọn núi nhỏ dốc đứng, phía sau là một đồng bằng dài được tưới tiêu bởi một con suối nơi nước biển dâng cao. Cuối đồng bằng này là cửa sông Huơng. Chúng tôi đến đó vào lúc mười giờ sáng. Chúng tôi dừng lại đến trưa để ăn tối và thuê thuyền. Vào buổi trưa, chúng tôi lên thuyền. Từ Đà Nẵng đến đây, chúng tôi chỉ đi dọc theo bờ biển và di chuyển từ mũi đất này sang mũi đất khác. Biển gầm rú gần như dọc theo bờ biển và tôi thấy việc xuống thuyền rất khó khăn ở mọi nơi, ngoại trừ cửa sông.
Chúng tôi thuê bốn chiếc thuyền lớn và lên thuyền cùng với tất cả mọi người, lấy người chèo thuyền theo phiên và đi suốt đêm.
Ngày 22:
Sáng sớm chúng tôi tiếp tục hành trình trên sông Hương, 10 giờ sáng đến Chot tiam, buổi trưa thì đến Chôlé. Sông Hương chia thành nhiều kênh nhỏ rất thuận tiện và đẹp mắt, hai bên bờ sông được viền bởi những hàng tre, cây cổ thụ, đền chùa và nhà thuyền, tất cả tạo nên một khung cảnh đa dạng và thú vị cho du khách tò mò. Lúc 12:30, tại Cho-Sâm, chúng tôi gặp nhiều thuyền của quan lại và các thuyền khác, bao gồm cả thuyền của triều đình. Đúng 15 giờ thì đến kinh đô Huế, nhìn thấy Toïta (cung điện mùa hè) được xây dựng trên mặt nước và cung điện lớn tên là Phu hing [cung điện có ba dãy tường bao bằng gạch; Bức tường bên ngoài được lót bằng hàng rào tre rất cao]. Chúng tôi gặp thuyền của Michel Ruong giữa vô số thuyền bè, anh ta đến đón chúng tôi. Anh đưa chúng tôi đến khu phố người Hoa, nơi anh đã chuẩn bị cho chúng tôi một ngôi nhà rộng rãi và tiện nghi. Anh cho chúng tôi mượn tất cả đồ đạc cần thiết và mang thức ăn từ nhà mình ở gần đó đến cho chúng tôi.
Sáng ngày 23:
Sớm mai, hai viên đội cận vệ của vua được cử đến mời tôi đến cung điện. Tôi đến đó vào khoảng 11 giờ sáng cùng với toàn bộ đoàn tùy tùng. Để thể hiện sự trọng thị và tăng thêm tầm quan trọng cho sứ mệnh của mình, tôi đã cho 8 binh lính đi trước, họ ăn mặc khá gọn gàng và thậm chí lộng lẫy, vai mang súng trường. Tiếp theo, tôi đi đầu cùng các sĩ quan, theo sau là đoàn tùy tùng của chúng tôi, bao gồm các giỏ đựng đồ hoặc túi xách theo phong cách của đất nước, giống như những gì những quan đầu triều đình được phép mang theo. Hai người giúp việc to lớn người Malabar [nay là Kerala, một bang thuộc miền Nam Ấn Độ] mặc trang phục lính đánh thuê và đeo gươm bên hông đi theo cùng với những người hầu khác.
Đầu tiên, chúng tôi đến trước cửa cung điện, gặp quan đại thần On Caï-doï tam [ông cai đội Tam], người quản lý nội vụ của cung điện. Quan đại thần này là người gốc Chân Lạp, có nhiều quyền lực và được vua yêu mến. Ông tiếp đón chúng tôi lịch sự, tỏ ra thân thiện và đề nghị giúp đỡ chúng tôi mọi việc. Vào buổi trưa, ông dẫn chúng tôi vào cung điện. Vua đã di chuyển đến khu vực bên trong cùng cung điện, gần cửa, trong một tòa nhà lớn gọi là uha vôî, nghĩa là "nhà voi", vì vua thỉnh thoảng cho voi cưng của mình đến đây để vui chơi.
Chúng tôi đi qua hai hàng lính, họ giơ cao thanh gươm, tựa vào vai. Mọi khu vực sân trong cung điện cũng đều có lính canh gác ở hai bên. Cách cửa cung điện 50 bước chân, chúng tôi gặp cửa lớn của phòng ngai vàng nơi vua đang ngự. Vị vua này đang ngồi trên ngai vàng, đội vương miện và khoác lên mình bộ trang phục hoàng gia. Khi chúng tôi cách ông mười bước chân, chúng tôi đã cúi chào theo phong cách Pháp và thông dịch viên Ruong cúi đầu ba lần.
Nhà Vua với vẻ mặt hiền hậu và tốt bụng đã hỏi tôi về mục đích của việc tôi đến gặp ông. Tôi trả lời rằng tiếng tăm về uy quyền và đức độ của ngài đã vang danh tận phương Tây, vì vậy tôi được cử từ Vương quốc Pháp, vương quốc hùng mạnh nhất châu Âu, đến yết kiến ngài để dâng tặng quà cáp và lập hiệp ước hữu nghị và thương mại thay mặt cho dân tộc Pháp. Vua hỏi tôi từ Pháp đến Nam Hà bao xa và tôi đã mất bao lâu để đến đây. Tôi trả lời rằng từ Pháp đến Nam Hà cách 6.000 dặm và tôi đã mất 10 tháng cho chuyến đi này [tôi rời Pháp vào ngày 23 tháng 10 năm 1748 và đến Đà Nẵng vào ngày 29 tháng 8 năm 1749]. Vua tỏ ra rất vui mừng khi được biết đến và kính trọng ở một đất nước xa xôi như vậy. Ông hỏi tôi hàng ngàn câu hỏi khác về tuổi tác, sức khỏe, gia đình, phong tục tập quán, quân đội và hải quân của Pháp, v.v. Sau đó, ông đứng dậy khỏi ngai vàng và bảo chúng tôi lại gần. Ông muốn xem trang phục của chúng tôi từng món một, nhưng đặc biệt là bộ tóc giả. Tất cả trang phục của chúng tôi đều hợp với sở thích của ông, ngoại trừ thứ bột mà chúng tôi thoa lên đầu. Tôi cố gắng giải thích rằng thứ bột này giúp giữ cho tóc khô và sạch. Ông trả lời rằng nó chỉ làm bẩn thêm tóc và quần áo của chúng tôi và bắt đầu đùa giỡn, [không có dân tộc nào chăm sóc tóc nhiều như Nam Hà; họ không sử dụng bất kỳ loại phấn nào và tóc của họ rất sạch: họ gội và chải thường xuyên] dùng quạt gõ nhẹ vào tóc giả của chúng tôi để rũ bớt bột. Tôi không thể trả lời ông bằng cách nào khác ngoài việc lấy ví dụ về những người dân bản địa mà chúng tôi thường trách móc vì bôi nhọ mặt và cơ thể bằng lông vũ, sơn màu và ruột động vật: đó là phong tục và tập quán của chúng tôi, tôi trả lời ông. Vua trò chuyện thân mật với tôi như vậy trong khoảng nửa tiếng, trong lúc đó ông cười rất nhiều và tỏ ra là một người rất vui vẻ. Cuối cùng, ông hỏi chúng tôi xem chúng tôi có muốn ăn gì không. Chúng tôi khẳng định với ông về sự thèm ăn của mình và ông ra lệnh chuẩn bị thức ăn cho chúng tôi. Sau đó, ông tự đi ăn tối và quay trở lại bên trong cung điện.
Trong khi chờ đợi bữa tối, chúng tôi đã dành thời gian để quan sát những bộ trang phục khác nhau của lính canh cung điện. Sau khi vua rời đi, họ đã đến đông đảo và xếp hàng xung quanh chúng tôi để thỏa mãn sự tò mò của họ, nhìn chúng tôi kỹ hơn và có thể nói là xem xét chi tiết. Những người lính này rất tò mò, nhưng là sự tò mò thô lỗ. Họ muốn sờ mọi thứ, nhìn mọi thứ; họ tháo nút áo khoác của chúng tôi, nhấc tóc giả của chúng tôi, cởi giày của chúng tôi và nói một cách tóm tắt, họ phiền phức hết sức có thể. Chúng tôi nhận thấy sự khác biệt về trang phục giữa những người lính này, chủ yếu thể hiện ở hình dạng mũ và các ký tự hoặc chữ cái thêu trên áo trước ngực và sau lưng. Những ký tự này khá lớn nên có thể đọc được từ rất xa và cho biết người lính thuộc loại binh nào.
Về mũ của họ, phần lớn được làm từ lông ngựa được thợ thủ công gia công tỉ mỉ. Có nhiều kiểu dáng khác nhau. Một số loại khác được làm từ bìa cứng sơn bóng hoặc màu đỏ với hoa bạc được vẽ cho lính thường và trang trí bằng các chi tiết bằng bạc cho quan chỉ huy. Loại mũ này có hình dạng giống mũ Flemish hoặc Hà Lan, chỉ khác là vành mũ tròn đều xung quanh và từ đỉnh mũ nhô lên một vật trang trí bằng cùng chất liệu với mũ và có hình dạng gần giống như núm táo. Những người lính này đều được trang bị một thanh kiếm lớn dài khoảng 4 pieds [đơn vị đo lường cổ của Pháp, 1 pieds bằng khoảng 30,48 cm], nhưng cần lưu ý rằng chuôi kiếm dài ít nhất 2 pieds. Phần lớn những thanh kiếm này được bọc bằng đồng thau với vỏ bằng gỗ sơn bóng, một số bằng bạc, và khoảng 40 thanh được bọc bằng vàng khá phong phú và được chế tác tinh xảo. Những người lính mang những thanh kiếm có chuôi vàng là lính canh bên trong cung điện.
Nhìn chung, tất cả những người lính này đều gầy gò, được tuyển chọn không đồng đều, mặc quần áo tươm tất nhưng không sạch sẽ, hầu hết đều có vẻ ngoài nhỏ bé, không có chút khí chất võ sĩ nào. Sau khi đã chán ngấy nhìn những khuôn mặt kỳ quặc và trả lời những câu hỏi ngu xuẩn và vô nghĩa của họ, chúng tôi thấy một chiếc bàn lớn bày đầy thịt và món hầm Nam Hà. Bốn người lính khiêng chiếc bàn này và đặt nó vào căn phòng nơi Vua đã ban cho chúng tôi khán thính. Chúng tôi bắt đầu ngồi vào bàn khi nhà vua xuất hiện và tuyên bố trước tiên rằng ông đến để giải trí và dành buổi chiều cùng chúng tôi một cách không nghi thức. Ông bảo chúng tôi ngồi xuống, ngồi cùng chúng tôi và mời chúng tôi ăn tối. Ông đã chu đáo chuẩn bị cho chúng tôi những chiếc muỗng và nĩa, nhưng ông muốn xem liệu chúng tôi có khéo léo sử dụng những chiếc đũa Nam Hà có hình dạng giống như đũa Trung Quốc hay không. Chúng tôi làm khá tệ và quay lại dụng cụ quen thuộc của mình.
Nhà Vua niềm nở mời chúng tôi nếm thử tất cả các món ăn, dạy cho các bạn đồng hành của tôi tên gọi của từng món ăn, hỏi ý kiến của chúng tôi về cách chế biến món ăn của người Nam Hà. Chúng tôi không ngần ngại khen ngợi tất cả mọi thứ, mặc dù thỉnh thoảng chúng tôi không thể kiềm chế được việc nhăn mặt khi ăn một số món hầm có thể khiến người ta ngộ độc. Phải thừa nhận rằng người Nam Hà là những đầu bếp tồi tệ mặc dù họ không tiếc tiền để nêm nếm thức ăn của mình. Trong khi chúng tôi đang ăn, một người trong chúng tôi hắt hơi, Vua liền nói với chúng tôi rằng điều đó không tốt và không có gì ghê tởm và bẩn thỉu hơn việc hắt hơi khi đang ăn. Nhìn chung, bữa trưa của chúng tôi diễn ra rất vui vẻ; Vua đặc biệt cười rất nhiều.
Sau bữa trưa, người ta mang đến chiếc kính viễn vọng, là một trong những món quà mà tôi đã tặng Vua; Vua bảo tôi lắp ráp và điều chỉnh nó để Vua có thể sử dụng, tôi đã làm ngay và hoàng tử rất hài lòng. Sau đó, Vua cho mang đến yên ngựa và dây cương, cũng là một phần trong số những món quà; Vua tỏ ra rất hài lòng và bảo các quý ông của chúng tôi hãy gắn nó vào một trong những con ngựa mà tôi đã mang đến từ Pondicherry. Chiếc yên ngựa vốn đã sang trọng và lộng lẫy, nay càng thêm nổi bật trên thân hình của con ngựa khá đẹp này. Mọi người gặp khó khăn trong việc điều chỉnh hàm ngựa và dây cương.
Trong khi mọi người đang sửa soạn, Vua cho dâng trà lên. Trà được dâng trên một khay vàng, ở giữa có một chiếc bát vàng lớn đựng nước ấm để súc miệng trước khi uống trà. Vua nói với tôi rằng ông rất vui mừng về sự xuất hiện của tôi trong Vương quốc của mình, rằng ông sẽ không thu bất kỳ khoản thuế nào đối với tàu của chúng tôi, rằng nếu ai đó làm hại tôi, tôi chỉ cần báo cho ông biết và ông sẽ đòi lại công lý cho tôi, đồng thời ông còn đưa ra hàng ngàn lời đảm bảo bảo vệ và thiện chí. Tuy nhiên, đêm đã đến gần và Bệ hạ, nóng lòng muốn xem con ngựa không thể được đóng yên cương, đã mời một trong những quý ông của chúng tôi cưỡi nó với dây cương đơn giản. Vị quý ông này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình và đã thực hiện nhiều vòng phi nước đại trong sân rộng lớn của cung điện. Vua cảm ơn chúng tôi và chúng tôi đã cáo lui.