[Funland] Dịch sách cổ: Chân Lạp Phong Thổ Ký

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
NGÔN NGỮ (語言)

Quốc gia này có một tiếng nói riêng biệt. Mặc dầu âm thanh gần giổng nhau, nhưng người Khmer và người Xiêm cũng không hiểu được.

Một gọi là mai, hai: biệt , ba là ti , bốn: ban , năm : bột giám (tiếng Khmer là pram), sáu: bột giám mai (tiếng Khmer là pramuoi), bảy: bột giám biệt (pram-bơ), tám : bột giám ti (pramvey), chín: bột giám ban (p rambum), mười: đáp (đao), cha : ba đà , bác cũng gọi là ba-đà, mẹ : mề , cô, dì và láng giềng có tuổi đáng kính trọng cũng gọi là mể, anh: ban , chị cũng gọi là ban; em : bồ ôn ( baau), cậu : ngật lại (khlai) , chồng của cô cũng gọi là ngật lại (tác giả phiên âm tiếng Khmer sang tiếng Hán, rồi chúng ta dịch lại Hán Việt nên nghe rất buồn cười và vô nghĩa, nên đoạn này coi như tham khảo thôi, để thấy được tác giả rất chú tâm quan sát, học hỏi)

Theo lối thông thường, những người này đảo ngược thứ tự của tiếng nói, ví như chúng ta nói: “người này là của Trương Tam đứa em” ( dịch đúng cách nói sở hữu của tiếng Hán) , thì họ nói “bồ - ôn Trương Tam” : Em của Trương Tam ; “người này là của Lý-Tứ ông cậu” , họ nói : “ngật-lại Li-sseu” cậu của Lý Tứ. (cách nói này gần giống với cách nói của người Việt)

Ví dụ khác, họ gọi nước Trung Hoa là “Bị thế” (備世), ông quan là “Ba-Đinh”; nhà học giả là “Ban-cật”. Nhưng khi gọi một ông quan Trung Hoa” thì họ không nói “Pei-che pa-ting” mà nói “pa-ting pei-che”, đề gọi “một nhà học giả Trung Hoa”, họ không nói “Pei-che pan-k'i mà nói pan-k'i Pei-che”, thường thường họ nói như vậy. Đấy là những nét đại lược.

Ngoài ra, các quan chức có ngữ pháp quan lại đề thảo luận, các nhà học giả có lối đối thoại chu đáo của giới trí thức, nhà sư và tu-sĩ có tiếng nói của sư và tu sĩ, ngôn ngữ ở thành phố và làng mạc khác nhau. Đó cũng không khác gì với Trung Hoa.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
DÃ NHÂN (野人người man rợ)

Có hai sắc dân man rợ, sắc thứ nhất là dân biết nói tiếng thông thường, đó là những kẻ mà người ta bán ở thành phố làm nô-tì. Sắc kia là dân không chịu theo nền văn minh và không biết nói tiếng thông thường. Dân này không ở nhà, chúng dắt gia đình đi lang thang trong núi, đội trên đầu một cái hũ bằng đất sét. Khi gặp một con thú rừng, chúng dùng cung tên hay cây giáo giết chết, lấy đá đập ra lửa nấu nướng rồi cùng ăn với nhau, đoạn tiếp tục đi. Tính tình chúng rất hung tợn và thuốc độc của chúng rất nguy hiềm. Ngay trong bọn chúng cũng thường giết lẫn nhau.

Trong những vùng gần thành phố cũng có kẻ trồng cây đậu khấu và cây bông đề dệt vải. Nhưng vải của họ rất thô mang nhiều hình bông hoa phân biệt khác nhau (có lẽ là để phân biệt các giai cấp khác nhau trong xã hội)
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
VĂN TỰ (文字 CHỮ VIẾT)

Những văn kiện thường cũng như tài liệu chính thức luôn luôn được viết trên da nai hoặc da hoẵng và những vật tương tự nhuộm màu đen. Tùy khuôn khổ theo bề dài hay bề ngang mỗi người tự ý cắt xén.

Người ta dùng một loại bột giống như phấn của Trung Hoa và làm thành thỏi gội là thoa. Cầm thỏi phấn trên tay họ viết chữ trên miếng da mà không bao giờ phai màu. Khi viết xong, họ dắt thỏi phấn ưên vành tai. Nhìn chữ có thề nhận ra do ai viết. Nếu người ta chùi bằng một vật ướt thì trôi mất. Chữ viết lớn rất giống chữ của người Hồi Hột (những người Trung Á nói chung thuộc sắc tộc Turk, vùng Tân Cương). Tất cả tài liệu đều viết từ trái sang phải và không từ trên xuống dưới. Tôi nghe nói ở Giả tiên Hảỉ nha (也先海牙 Một vùng thuộc Mông Cổ, ý tác giả nói chữ Khmer có nét hao hao giống chữ Mông Cổ) những chữ đọc gần giống chữ Mông Cổ chỉ có hai hoặc ba chữ không phù hợp với nhau mà thôi. Họ không có con dấu nào cả. Về đơn từ, cũng có những cửa tiệm của người viết thuê.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
CHÍNH SÓC THỜI TỰ (正朔時序 Năm, tháng và thời tiết)

Những người này luôn luôn dùng tháng mười của Trung Hoa làm tháng thứ nhất của họ. Tháng ấy gọi là Giai-đắc (Tác giả phiên âm tiếng Khmer là Katik: tháng mười dịch theo chữ Hán không có nghĩa gì, ngày nay người Khmer làm lễ Đầu năm vào giữa tháng Tư Dương lịch, gọi là Chôl Chnăm Thmây)

Trước Hoàng thành, người ta cất một cái rạp lớn có thề chứa hơn ngàn người, và treo đầy đèn, hoa. Phía trước, cách khoảng hai chục trượng, người ta dùng những miếng cây sắp nối tiếp nhau cất một cái rạp cao giống sàn xây các ngôi tháp ( tháp Stupa của người Khmer, Champa, bốn mặt bằng nhau, nóc nhọn ) bề cao hơn hai chục trượng ( Trượng cổ =10 thước, mỗi thước dài 0,32m (ba tấc hai), một trượng dài 3,20m, nếu ngôi tháp cao hơn 20 trượng là hơn 64m, Ông Paul Pelliot lại cho là Toise, mỗi toise dài l,949m, ngôi tháp cao hơn 20 toises tức là hơn 38,98m. Theo Tự điển Hoa-Pháp của 1 giáo sỹ ở Tứ Xuyên xuất bản ở Hồng-Kông năm 1893 (trang 513) thì một trượng dài 10 thước (xích) = 3,33m; ở trang 525 thì xích là cách đo bề dài thay đồi tùy theo địa phương và nghề nghiệp. Theo Trung Quốc cổ văn đại-tự điển của F. Couvreur tái bản lần II ở Đài Bắc năm 1967, trang 3, thì Trượng là cách đo chiều dài bằng 10 xích hay 16 chân; trang 243 giảng chữ xích là chân hay gang tay, bề dài thường thay đổi và chưa thống nhất trong khắp lãnh thổ Trung Hoa. Dưới đời nhà Chu (1122 — 255 trước CN), một thước có 20cm và hiện thời là 35cm. Hồi ấy tính theo bề dài cùa hột kê là một phân, 10 phân là một tấc, 10 tấc là một thước. Dưới đời nhà Hạ (2205 - 1766 trước CN) 1 thước có 10 tấc, đời nhà Ân (1766 - 1122 trước CN) 1 thước có 9 tấc, đời nhà Chu 1122 - 255 trước CN) 1 thước có 8 tấc. Tính theo hột kê khoảng 3mm chiều dài thì 1 phân là 3 ly, 10 phân là 30 ly, 1 thước là 300 ly bằng 3 tấc Tây (0,30m), 1 trượng: 3 thước Tây. Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 13 không biết nhà Nguyên tính một trượng là bao nhiêu)

Mỗi đêm người ta cất ba hoặc bốn, hoặc có thể năm, hoặc sáu cái. Trên nóc người ta để pháo thăng thiên và pháo nổ. Tốn phí này do các tỉnh và các nhà quý phái gánh chịu. Tối đến, người ta thỉnh nhà Vua ngự ra dự lễ. Người ta đốt pháo thăng thiên và pháo nổ. Pháo thăng thiên bay cao dù ở ngoài trăm dặm cũng nhìn thấy, pháo nồ lớn bằng súng bắn đá và tiếng nồ làm rung chuyền cả thành phố. Các quan chức và nhà quý phái góp phần đèn nến và cau, số tiền tốn phí thật to lớn. (chứng tỏ hồi ấy trình độ làm pháo và thuốc nổ của người Khmer thật đáng nể)

Nhà Vua cũng có mời quý vị Sứ thần ngoại quốc (hồi ấy chưa có Đại sứ quán, chắc là các đoàn ngoại giao thì đúng hơn, hoặc có lệ vẫn gửi con tin cho nhau giữa các nước) tham dự. Cuộc lễ cử hành như thế trong mười lăm ngày rồi ngưng hết.

Mỗi tháng có một cuộc lễ. Tháng Tư “người ta liệng trái cầu” (nguyên văn: 如四月則抛球, không rõ ý tác giả là gì, hay lễ hội gì). Tháng Chín là lễ Áp-Lạp (nguyên văn: 九月則壓獵, không rõ lễ gì) lễ này gồm có việc tựu họp dân chúng khắp lãnh thổ vào thành phố diễn hành trước hoàng cung. Tháng Năm người ta “đi rước nước của Đức Phật” (nguyên văn: 五月則迎佛水); người ta tập trung tất cả tượng Phật ở khắp các chùa trong lãnh thổ rồi đem nước đến cùng với nhà Vua tắm các tượng ấy. Tháng Sáu, người ta “chèo thuyền trên mặt đất”; (nguyên văn 陸地行舟) nhà Vua ngồi trên lầu cao dự lễ. Tháng Bảy người ta “đốt lúa” (nguyên văn七月則燒稻). Lúc ấy lúa vừa chín, người ta ra ngoài cửa thành hướng Nam gặt lúa và đốt để cúng Phật. Vô số phụ nữ ngồi xe hoặc cưỡi voi đến dự lễ nhưng nhà Vua vẫn ở trong cung. Tháng Tám là lễ Ai Lan (nguyên văn八月則挨藍, tuy nhiên đây là phiên âm tiếng Khmer: roam) nghĩa là nhảy múa, người ta chỉ định những kép hát và nhạc sĩ mỗi ngày đến hoàng cung trình diễn, ngoài ra có những cuộc đấu voi và đấu heo. Nhà Vua cũng mời quý vị Sứ thần ngoại quốc đến dự. Cuộc lễ kéo dài mười ngày. Tôi không thể nhớ rõ ràng những lễ gì trong mấy tháng khác (chứng tỏ người Chân Lạp cổ có rất nhiều lễ hội)

Trong xứ này có người tinh thông khoa Thiên văn (thường là quan chức trong triều gọi là Hora, mỗi năm soạn quyển lịch gọi là Maha Sangkrau) như chúng ta và có thể tính toán Nhật thực và Nguyệt thực. Tuy nhiên đối với tháng dài và ngắn, họ có một phương pháp tính khác với phương pháp của chúng ta.

Trong những năm nhuận họ cũng bị bắt buộc phải có một tháng nhuận, nhưng họ chỉ chen vào tháng Chín, đó là điều tôi không biết gì cả.

Mỗi đêm chỉ chia làm bốn canh (ở các nước chịu ảnh hưởng văn hóa TQ, đêm chia thành 5 canh). Bảy ngày là một tuần, cũng tương tự ở Trung Hoa người ta gọi Khai, Bế, Kiến, Trừ (Khai, Bế, Kiến, Trừ là 4 ngày trong sổ 12 trực của một tháng. Trực là gặp. Người Trung Hoa cho rằng có 12 ngày trực trong năm là Khai, Bế, Kiến, Trừ, Mãng, Binh, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thu, mỗi trực tốt, xấu khác nhau và trở đi trở lại suốt năm. Các thầy bói lựa ngày tốt, ngày xấu, như mở cửa hàng thì lựa ngày Trực Khai, cưới hỏi thì lựa ngày Trực Thành).

Vì lẽ người dân bản xứ ở đây (nguyên văn 番人既無姓名 phiên nhân ký vô tính danh, từ phiên nhân tác giả dùng có ý coi thường người Chân Lạp, đó là quan niệm của người TQ, coi các dân tộc ngoài Trung Nguyên là man di ) không có tên gia đình (Tức là họ; người Khmer, Champa cổ không có họ, con lấy tên cha làm họ ví dụ như: cha lên Hun Boklay thì con đặt là Boklay Kompet) không có tên người và không ghi nhớ ngày sinh nên phần đông đặt một “tên người” theo ngày trong tuần mà họ chào đời. Có hai ngày trong tuần thật tốt, ba ngày bình thường, hai ngày thật xấu; ngày nào người ta có thể đi về hướng Đông, ngày nào người ta có thể đi về hướng Tây. Phụ nữ cũng biết tính toán xem ngày tốt xấu. Mười hai con giáp của chu kỳ cũng giống với mười hai con giáp của Trung Hoa (khác chút là Sửu thay bằng Bò, Mão thay bằng Thỏ) nhưng tên gọi khác nhau. Con ngựa gọi là “Bốc-trại”, con gà gọi là “loan” con heo gọi là “trực-lư”, con bò gọi là “cả” vân vân...( nhắc lại là tác giả phiên âm tiếng Khmer cổ sang tiếng Hán, nên dịch thì rất vô nghĩa, cụ thể con ngựa tiếng Khmer cổ là sek, bò là satv ko, gà là mon, lợn: chruk…)
 
  • Vodka
Reactions: XPQ

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
TRANH TỤNG (争訟)

Những sự tranh tụng của dân chúng, dù không quan trọng cũng phải đến triều trình nhà Vua xét xử (theo đúng tập tục của Ấn Độ). Người ta nói với tôi rằng dân chúng không biết gì về lối xử đánh bằng roi tre hay roi da và chỉ bị phạt vàng (nguyên văn 但聞罰金而已) mà thôi. Đối với những trường hợp đặc biệt nặng cũng không có hình thức xử giảo hoặc chém đầu, nhưng ngoài cửa thành hướng Tây người ta đào một cái hố rồi bắt tội phạm nằm xuống, lấp đất và đá lên, chèn ép thật chặt rồi thôi. Đối với những trường hợp nhẹ hơn có hình phạt chặt ngón tay, ngón chân và bàn tay hoặc cắt mũi. Tuy nhiên không có luật cấm tội ngoại tình và cờ bạc. Khi người chồng bắt được vợ ngoại tình, anh ta lấy hai mảnh gỗ nhọn cột hai chấn tên gian phu rồi siết chặt lại, tên này chịu đau không nổi phải giao hết tài sản mới được tự do. Cũng có người sắp đặt mưu kế đề làm tiền giống như bên nước chúng ta.

Nếu người nào thấy một xác chết trước cửa nhà mình thì cột giây kẻo ra khỏi thành phố bỏ trên bãi đất hoang; không có sự kiện nào mà chúng ta gọi là một cuộc “xét nghiệm đầy đủ”. (nguyên văn: 初無所謂體究檢驗之事, ý tác giả nói là không có quan nào đến khám nghiệm tử thi)

Khi dân chúng bắt được kẻ trộm, người ta có thể áp dụng hình phạt cầm tù và tra tấn. Người ta cũng nhờ một phương pháp đáng chú ý. Nếu có người mất một món đồ và nghi cho người nào ăn cắp mà người ấy không nhận, họ nấu một nồi dầu và bắt buộc kẻ bị ngờ nhúng tay vào (kế thừa từ thời vương quốc Phù Nam, nhưng thời đó họ dùng nước sôi). Nếu quả thật là kẻ gian thì bàn tay nát tả tơi, trái lại thịt da vẫn lành lặn như trước. Đó là phương pháp kỳ diệu của giống phiên dân này. (tác giả vẫn dùng từ phiên dân, có ý khinh miệt)

Ngoài ra, gặp trường họp hai người tranh tụng mà không biết ai phải ai trái thì trước hoàng thành có mười hai ngôi tháp đá nhỏ. (gọi là Khléang, chia làm 2 khóm, 6 ngôi ở hường Bắc và 6 ngôi ở hướng Nam) người ta bắt mỗi vị ngồi vào một ngôi, thân nhân vị này canh chừng vị kia. Hai vị ở trong tháp một hoặc hai ngày, hay là ba hoặc bốn ngày. Khi họ ra khỏi tháp, người nào mà sai thì thể nào cũng không tránh được vài chứng bệnh như nổi mục nhọt, hoặc đau lỗ mũi, hoặc sốt rét nặng. Vị nào mà phải thì không có chút gì cả. Do đó họ mới quyết định người công minh chính đại hay kẻ bất lương; họ gọi là “nhà ngục của Trời” (nguyên văn: 謂之天獄 vị chi thiên ngục) Đây là vị Thần của non sông linh ứng mới có như vậy.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
BỆNH LẠI (病癩 Bệnh phong)

Người dân xứ này thường mắc nhiều bệnh nhẹ mà họ điều trị rất dễ dàng bằng cách lặn dưới nước và gội đầu liên tiếp (Đúng ra là xuống sông tắm hoặc xối nước lạnh trên đầu nhiều lần ;cách trị bệnh cảm, nóng sốt của người Khmer, Champa, xét về phương diện Y học hiện đại, cách này khá nguy hiểm, nhưng lúc đó chắc sức đề kháng con người tốt hơn)

Tuy nhiên có rất nhiều người bệnh phong ở từng khoảng trên đường đi. Khi những người này đến ngủ chung hay ăn uống chung với họ, dân bản xứ cũng không phản đối. Có người nói đó là một chứng bệnh phát khởi do tình trạng thời tiết trong xứ. Có một vị Quốc vương mắc phải bệnh này (Theo truyền thuyết thì trong phả hệ Vua Chân Lạp có một vị Quốc vương mắc bệnh phong nhưng trong chính sử thì không ghi cụ thể, nhà khảo cổ Pháp Aymonier đưa ra giả thuyết Vua Yacovarman (889-900) Ngoài ra ở trên Sân voi trong thành Angkor Thom cò một tượng đá mang tên là Vua cùi ngồi giữa bốn tượng cung nữ, nhưng các nhà khảo cổ Pháp nghi ngờ cho đó có thể là tượng của Yama, vị Diêm vương trong thần thoại Bà La Môn. Trước chùa Onalom ở Phnom-Penh cũng có một tượng Vua cùi đắp giống như tượng ở Angkor Thom nhưng nhỏ hơn và không có tượng cung nữ. Tượng này được Hoa Kiều rất hay đến cầu cúng xin lộc lá), vì thế nên dân chúng không xem là chứng bệnh đáng ghê sợ (điều này thì người Khmer khác hẳn với người Việt, chúng ta rất ghê sợ bệnh phong, gọi là cùi, hủi nên hay nói tránh như tránh hủi, bẩn như hủi, miền Nam thì gọi là cùi) . Theo thiền kiến của tôi thì thông thường người mắc bệnh là vì sau khi thỏa mãn xác thịt rồi xuống sông tắm liền, và tôi nghe nói dân bản xứ ân ái xong luôn luốn đi tắm ngay. Về bệnh kiết lỵ, mười người đau chết từ tám đến chín. Giống ở nước chúng ta, họ bán thuốc ngoài chợ, nhưng rất khác các loại thuốc của Trung Hoa và tôi không biết gì cả (tức là các loại lá cây, rễ cây, hạt…thuốc kiểu Khmer). Cũng có loại phù thủy hành nghề ăn tiền thiên hạ; thật là đáng cười. (thời ấy mà tác giả đã không mê tín, quả thật đáng khâm phục).
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
TỬ VONG (死亡 Người chết)

Đối với người chết, người ta không dùng quan tàì, chỉ dùng một loại chiếu và bó bằng vải. Trong đám tang, họ cũng cầm cờ, phướn và có giàn nhạc đi đầu, Ngoài ra, họ bưng hai mâm gạo rang nổ vãi từng nắm hai bên đường. Họ khiêng xác chết ra khỏi thành phố, đến nơi vắng vẻ không có người ở rồi bỏ đó trở về. Họ đợi kền kền, chó và các thú vật khác đến xé xác. Nếu xác chết bị ăn hết mau chóng, họ nói rằng cha, mẹ họ có phúc đức mới được hưởng điều quả báo ấy, nếu xác không bị thú ăn hoặc ăn từng miếng, họ nói rằng cha, mẹ họ mang vài tội lỗi mới có hậu quả như vậy (đây có thể là Thiên Táng hoặc Điểu Táng). Hiện thời, dần dần cũng có người hỏa thiêu người chết, đó là đối với phần đông con cháu của người Trung Hoa. Khi cha hoặc mẹ chết, con không mặc quần áo tang, nhưng con trai cạo đầu và con gái cắt tóc phía trên trán lớn bằng đồng điếu, đó là lối đề tang cha mẹ. Nhà Vua được chôn trong ngồi tháp, nhưng tôi không biết người ta chôn thân mình hay chỉ chôn bộ xương. (Nhà khảo cổ Pháp Aymonier cho biết Lễ hỏa táng của nhà Vua cử hành rất trọng thể, hình thức Hỏa Táng kiểu Ấn Độ, Tro cốt Vua được giữ ở hoàng thành trong một cái bình bằng vàng. Chính các vị Hoàng tử làm lễ rước tro về Triều và sau đó đem đặt vào ngôi tháp).
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
CANH CHỦNG (耕種Trồng trọt)

Thông thường, người ta có thể làm ba hay bốn mùa trong một năm; suốt năm thời tiết giống như tháng Năm và tháng Sáu của chúng ta và dân chúng không biết lạnh và tuyết là gì. Ở xứ này trời mưa nửa năm, nửa năm kia trời không mưa. Từ tháng Tư đến tháng Chín, trời mưa mỗi ngày vào xế chiêu. Bấy giờ mực nước ở Biển Hồ có thề lấn cao từ bảy đến tám trượng. Những cây to đều chìm mẩt chỉ còn ló ngọn. Dân chúng ở trên bờ hồ rút hết vào trong núi, kế đó từ tháng Mười đến tháng Ba (năm sau) Trời không rớt một giọt mưa! Bấy giờ chỉ có ghe nhỏ đi được trên Biền Hồ; ở nơi sâu có từ ba đến năm chân nước (cách đo bằng chân ngày xưa, gọi là cước = 20cm). Dân chúng trở về. Các nhà nông tính theo thời tiết lúc nào lúa chín và vùng đất nào nước có thề ngập lúc ấy mà nhân đó gieo giống tùy cuộc đất. Họ không dùng bò kéo cày. Cây cày, lưỡi hái và cuốc của họ tất cả đều giống vài phần trên nguyên tắc với dụng cụ của chúng ta, nhưng cách kiến tạo hoàn toàn khác hẳn. Ngoài ra có một loại ruộng thiên nhiên lúa mọc luôn luôn không ai gieo trồng; khi nước dâng đến một trượng (gọi là lúa trời, lúa ngoi, miền Nam và trước đây miền Bắc cũng có), lúa cũng mọc cao như vậy; tôi cho rằng đó là một giống đặc biệt.

Họ không dùng một thứ phân nào đề bón ruộng và trồng rau vì họ chê dơ dáy. Người Trung Hoa đến đây không bao giờ cho họ biết cách rải phân ở nước mình vì sợ họ khinh bỉ. Hai hoặc ba gia đình đào chung một cái hố (chứa phân) dùng cỏ che ở trên, khi nào đầy họ lấp đất và đào chỗ khác. Sau khi đi vệ sinh rồi, hộ luôn luôn vào hồ nước rửa, nhưng chỉ dùng bàn tay trái; tay phải đề cầm thức ăn (giống người Ấn Độ và các nước theo đạo Hồi khác) Khi họ thấy người Trung Hoa đi đại tiện và chùi bằng giấy thì họ chế nhạo đến nỗi không muốn cho người đó vào nhà họ nữa. Trong giới phụ nữ có người đi tiểu đứng thật là đáng cười vô cùng. (tác giả quan sát rất thú vị, không hiểu phụ nữ đi tiểu đứng kiểu gì???)
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
SƠN XUYÊN (山川Núi, sông)​

Bắt đầu vào Chân Bồ (vùng Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay, đoạn này rất quan trọng vì tác giả lúc này tuy miêu tả Chân Lạp, nhưng vùng đất mà ông nói này bây giờ đã là miền Nam nước ta rồi) hầu hết cả vùng đều là bụi rậm của khu rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn chạy dài hàng trăm lí, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum-xuê. Tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi. Vào nửa đường trong cửa sông, người ta mới thấy lần đầu cánh đồng ruộng bỏ hoang, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy rẫy. Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng tựu họp từng bầy trong vùng này. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm lí. Tại mắt loại tre này có gai mộc và măng thì có vị rất đắng. Bốn phía có núi cao.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
XUẤT SẢN (出產 Sản vật)

Trong núi có rất nhiều gỗ quí. Vùng nào không có cây là nơi tê giác cùng voi tựu họp và sinh nở. Loại chim quí, loại thú lạ lùng có vô số. Sản phẩm có giá trị là lông chim trĩ, ngà voi, sừng tê giác, sáp ong. Về sản phẩm thường có cây trầm hương, đậu-khấu, cây họa hoàng, cây cánh kiến, dầu cây máu chó (đại phong tử du).

Chim trả rất khó bắt. Trong rừng rậm có nhiều hồ nước và dưới hồ có cá. Chim trả ở trong rừng bay ra kiếm cá. Người bản xứ núp dưới lá cây trên bờ hồ, treo cái lồng nhốt con chim mái làm mồi tay cầm một miếng lưới nhỏ, rình chim đến tung lưới bắt. Có ngày anh ta bắt được ba hay năm con, có khi suốt buổi không có con nào.

Thồ dân sống trong dãy núi hẻo lánh mới có ngà voi. Mỗi con voi chết có hai cái ngà (tác giả là người TQ, nên chưa thạo về voi). Người ta nói rằng xưa kia voi thay ngà mỗi năm một lần, nhưng điều đó không đúng. Ngà của con thú bị giết bằng giáo và loại tốt nhất. Kế đó là loại ngà người ta tìm thấy sau khi con vật tự nhiên chết ít lâu. Loại kém giá trị là loại người ta gặp trong rừng sau khi con vật chết nhiều năm.

Sáp ong ở trên cây khô trong xóm làng do một giống ong lưng nhỏ như lưng con kiến tạo ra. Người bản xứ lấy sáp ong. Mỗi thuyền có thể chở từ hai đến ba ngàn tảng ong, tảng lớn nặng từ ba chục đến bốn chục cân, tảng nhỏ nặng không dưới mười tám đến mười chín cân.

Sừng tê giác màu trắng và có gân máu đỏ là loạỉ quý giá nhất, sừng màu đen kém giá trị hơn. Cây trầm hương mọc trong rừng rậm. Người bản xứ cắt lấy rất khó nhọc vì loại này ở trong ruột cây và xung quanh có chất gỗ dác dầy từ tám đến chín tấc, những gốc nhỏ dầy ít nhất từ bốn đến năm tấc.

Tất cả đậu khấu đều do người man mọi (đây là người dân tộc vùng Tây Nguyên) trồng trong núi.

Cây họa hoàng là chất nhựa của một giống cây riêng biệt. Người bản xứ rạch thân cây một năm trước đề nhựa chảy ra và năm sau đến lấy.

Cây cánh kiến mọc trên nhánh một loại cây đặc biệt và có hình dáng thật giống loại ký sinh của cây dâu. Cũng rất khó tìm thứ này.

Dầu cây máu chó (đại phong tử) do hột của một loại cây lớn. Trái cây giống trái dừa, nhưng hình tròn có mấy mươi hột.

Cây hạt tiêu đôi khi cũng có. Tiêu mọc leo xung quanh cây mây và đeo dính như loại lục thảo tử. Loại nào tươi và xanh lục là thứ rất cay.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
MẬU DỊCH (貿易 Thương Mại)

Trong xứ này phụ nữ rất thông hiểu việc mua bán (chứng tỏ người phụ nữ Khmer cổ rất tháo vát, hơn phụ nữ người Việt, TQ, Lào, Xiêm cùng thời), thế nên khi một người Trung Hoa đến đây luôn luôn lập gia đình ngay để lợi dụng tài thương mãi của vợ. Mỗi ngày chợ họp từ sáu giờ đến trưa thì tan. Tại chợ này không có cửa tiệm có người ở, người bán dùng một loại chiếu trải dưới đất. Mỗi người có chỗ của mình. Tôi nghe nói người ta nộp tiền cho chính quyền đề mướn chỗ ngồi. Đối với việc giao dịch nhỏ, người ta trả bằng gạo, ngũ cốc các loại và đồ vật của Trung Hoa rồi kế đến hàng vải, đối với việc lớn người ta dùng vàng và bạc.

Nói chung, người dân xứ này hết sức giản dị. Khi gặp một người Trung Hoa, họ tỏ vẻ rất sợ sệt, cung kính và gọi là “Phật”. Vừa thấy người Trung Hoa, họ liền quỳ xuống lạy. Trước đây ít lâu cũng cỏ kẻ lường gạt người Trung Hoa và gây nhiều thiệt hại. Đó là việc đã xảy ra cho một số đông người Trung Hoa đến xứ này. (Tác giả đề cao người TQ, thực ra vẫn bị lừa như thường, người Khmer cổ phân chia đẳng cấp như Ấn Độ, những người quỳ lạy người TQ là nô tì, hoặc đẳng cấp thấp, nhiều người dân rất tinh-quái, họ nịnh người TQ để lừa cho dễ)
 

comiki

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-504527
Ngày cấp bằng
13/4/17
Số km
20,370
Động cơ
3,262,791 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Em hóng bài cụ Đốc :)
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
DỤC ĐẮC ĐƯỜNG HÓA

(欲得唐貨Muốn mua được hàng hóa của Trung Hoa)

Tôi tin rằng xứ này không có sản xuất vàng và bạc; những món người ta thích nhất ở đây là vàng và bạc của Trung Hoa, kế là hàng lụa nhẹ màu sặc sỡ dệt chỉ đôi. Sau đó là thiếc của vùng Chân Chu, mâm sơn mài của vùng Ôn Châu, đồ sứ màu lục lợi của vùng Bàn Châu và Tuyền Châu , thủy ngân, son, giẩy, diêm sinh, thuốc súng, bạch đàn, rễ cây bạch chỉ, xạ hương, vải lanh, vải hoàng thảo, nồi sắt, mâm đồng, nồi đồng, ngọc trai, dầu trẩu, lờ tre (bắt cá), nia, lược gỗ, kim khâu. Những đồ vật thường dùng và nặng xấu như chiếu ở vùng Minh Châu. Những vật mà họ rất muốn có là các loại cây đậu và lúa mạch nhưng sự xuất cảng (khỏi Trung Hoa) bị cấm.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
THẢO MỘC (草木)

Chỉ có lựu, đào, mía, hoa và ngó sen, khoai, chuối, khoai môn là giống với các loại trái cây bên Trung Hoa. Trái vải và quít cũng lớn bằng nhưng chua hơn. Tất cả trái cây khác Trung Hoa không bao giờ có. Các loại cây cũng rất khác lạ. Hoa có nhiều hơn, thơm và đẹp hơn. Hoa mọc dưới nước có rất nhiều loại mà tôi không biết tên. Còn cây đào, cây lý, cây hạnh, cây mai, cây bách (trắc bách diệp) cây tùng, cây vân sam, cây lê, cây táo, cây bạch dương, cây liễu, cây quế, cây lan, cây cúc vân vân thì khổng có (những giống cây này thường mọc ở xứ ôn đới và hàn đới như TQ, Nhật, Triều Tiên, Bắc Vn, chứ Chân Lạp là xứ nhiệt đới thì lấy đâu ra). Trong xứ này vào tháng giêng đã có hoa sen.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
PHI ĐIỀU (飛鳥 Loài chim)

Trong các loài chim, con công, chim trả, con vẹt là không có ở Trung Hoa. Số còn lại có chim ưng, quạ, diệc, chim sẻ, chim cồng cộc, hạc, sếu, vịt trời, chim bạch yến vân vân, nhưng thiếu chim ác là, ngỗng trời, chim hoàng oanh, chim quốc, chim én, bồ câu.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
TẨU THÚ (走獸 Loài thú có chân)

Trong các loài thú bốn chân, tê giác, voi, trâu rừng và “ngựa núi” (nguyên văn 山馬 sơn mã) không có bên Trung Hoa. Có rất nhiều cọp, beo, gấu, heo rừng, nai, hươu, hoẵng, vượn, chồn cáo vân vân; thiếu sư tử, đười ươi, lạc đà. Khỏi cần nói ở đây có gà mái, vịt, trâu, bò, ngựa, heo, cừu. Ngựa rẩt nhỏ con. Bò rất nhiều. Người ta cưỡi bò lúc còn sống, nhưng khi nó chết họ không dám ăn thịt, không dám lột da, họ đợi con thú thối rữa và nêu lý do là con vật này đã đem sức lực giúp việc cho người. Họ chỉ bắt bò kéo xe.

Trước kia họ không có ngỗng; từ khi các thủy thủ bên Trung Hoa đem đến mới có. Ở đây có nhiều con chuột lớn như con mèo và cũng có một loại chuột cái đầu thật giống đầu con chó mới sinh.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
SƠ, THÁI (蔬菜 Rau, cải)

Về rau củ, có củ hành, cây cải, tỏi, cà, dưa hấu, bí, dưa chuột, rau sam; không có cải củ, rau diếp, rau diếp đắng, rau mồng tơi. Vào tháng giêng đã có các loại bầu bí và cà, có nhiều giống cà sống nhiều năm liền. Cây bông vải cao tới nóc nhà, có cây sống hơn mười năm. Có rất nhiều loại rau mà tôi không biết tên, các loại mọc dưới nước cũng thật nhiều.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
NGƯ LONG (魚龍 Cá Rồng?) (không rõ ý tác giả lắm, có thể dịch là cá và bò sát vì từ Long có nghĩa nữa là con cá sấu lớn)

Trong các loài cá và ba ba, cá lý ngư đen (cá chép, cá chép đen ờ Trung Hoa có bốn loại và có bốn màu đỏ, vàng, trắng, đen. Loại đỏ quí nhất vi thịt rất ngon. Mùa mưa là mùa sinh sản) là giống nhiều nhất, kế đó là cá chép thường, cá chép hoang và cá mè cũng gọi là cá trắm trắng (nguyên văn 草魚- thảo ngư- loài cá này ăn cỏ, cá trắm TQ rất to) có rất nhiều. Có giống thồ -bộ-ngư (nguyên văn 吐哺魚, còn gọi là thổ phụ ngư hoặc đổ -phụ-ngư, chính là cá bống tượng, chúng sinh sản vào mùa bông cải nở, tức là mùa Xuân nên còn có tên là Thái Hoa Ngư; cá hoa cải) con lớn nặng hai cân và có khi nặng hơn nữa. Rất nhiều giống cá khác mà tôi không biết tên. Tất cả cá trên đây đều ở Biển Hồ. Còn cá biển thì có đủ loại, con lươn, cá chạch. Người bản xứ không ăn thịt ếch, vì thế về đêm chúng ra đầy đường. Rùa biền và kỳ đà lớn như hợp-trữ (hợp-trữ là hình-dung-từ để so sánh một vật to lớn như cây lọng hoặc cái bàn). Người ta cũng ăn thịt những con rùa “lục tạng” (nguyên văn 六歲之龜 – lục tạng chi quy-, người TQ cho rằng con rùa là linh vật có đủ ngũ lạng, lục phủ như con người nên không ăn thịt rùa và dùng mai rùa để bói toán). Loại tôm ở Tra -Nam (tức là Kompongchhnang) nặng một cân và có khi nặng hơn nữa. Chân rùa ở Chân Bồ dài từ tám đến chín tấc. Cỏ những con cá sấu lớn như chiếc thuyền có bốn chân và rất giống con rồng chỉ trừ nó không có sừng, bụng nó rất dòn. Trong Biển Hồ, người ta có thể bắt các loại sò hến và Ốc, ngao bằng tay. Người ta không thấy giống cua, tôi nghĩ rằng cũng có nhưng người bản xứ không ăn.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
ÔN NHƯỠNG (醖釀 Nấu rượu)

Người bản xứ có bốn hạng rượu. Hạng thứ nhất người Trung Hoa gọi là Mật đường tửu (蜜糖酒 rượu mật) người ta chế bằng một thứ thuốc lên men trộn phân nửa mật và nước. Hạng kế đó người bòn xứ gọi là Bằng-nha-tứ (朋牙四) chế bằng lá cây, Bằng-nha-tứ là tên lá của một loại cây. Dưới hết là rượu chế bằng gạo hoặc cơm còn dư, người ta gọi là Bao-lăng-dốc (包稜角); pao-leng-kia nghĩa là gạo. Hạng chót là rượu Đường dám, chế bằng đường. Ngoài ra khi mới vào cửa biền, dộc theo sông người ta có chế một thứ rượu bằng nước nhựa cây “giao” gọi là Giao tương tửu (chính là cây Thốt Nốt). Dọc theo bờ sông có một loại lá giao và nhựa lá có thể chế rượu bằng cách để dậy men.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,836
Động cơ
698,266 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
DIÊM, THỐ, TƯƠNG, MIẾN (鹽醋醬麴 Muối, Dấm, Tương, Bún)

Trong xứ này, ngành khai thác ruộng muối không được đặt dưới một sự hạn chế nào. Dọc theo bờ biền từ Chân Bồ (tức là từ Bà Rịa-Vũng Tàu) và Ba Giàng (nay là Sóc Trăng-Bạc Liêu), người ta làm muối bằng cách nấu nước biển. Trong núi cũng có một hầm mỏ mà mùi vị như muối, người ta có thể đẽo ra và làm vật dụng.

Người bản xứ không biết làm dấm. Nếu muốn nấu món ăn chua, họ bỏ cây “hàm- bình “ ( nguyên văn 咸平樹葉 Hàm Bình thụ diếp). Khi cây mọc mầm, họ dùng đọt non, khi cây có trái, họ dùng trái.

Họ cũng không biết làm tương vì không cỏ lúa mạch và đậu.

Họ không làm men bằng hột trái cây. Họ chế rượu với mật, nước và lá cỏ, đó là một thứ rượu cốt mà họ dùng giống như rượu cốt màu trắng ở trong làng chúng ta.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top