[Funland] Dành cho những ai quan tâm tới Piano, và thích nghe Piano.

QUANG1970

Xe lăn
Biển số
OF-547318
Ngày cấp bằng
25/12/17
Số km
11,162
Động cơ
316,195 Mã lực
Một trong những bài tủ của QN.
Nhạc cảm và kỹ thuật cực tốt. Đáng tiếc là QN tay hơn nhỏ, nên vẫn còn 1 số hạn chế, nếu ko QN hoàn toàn có thể đi xa hơn hiện tại rất nhiều.
Còn vụ no. 12 của bác à %-(%-(%-(%-(%-(
Khuyên bác nên chuyển sang 24 Preludes của Chopin đi, 24 viên ngọc thật sự đấy


Tôi thì nghĩ là cô này đã dừng lại từ lâu! :(( :))
47 tuổi mà lại là đàn bà thì còn đánh đấm gì nữa!
Nếu "Nhạc cảm và kỹ thuật cực tốt" và cộng thêm có năng khiếu sư phạm (kỹ năng truyền đạt) thì đi ............ làm thầy thôi! :P
 

QUANG1970

Xe lăn
Biển số
OF-547318
Ngày cấp bằng
25/12/17
Số km
11,162
Động cơ
316,195 Mã lực
Đàn được lên dây hay như thế này, nốt cao nghe trong vắt rất rõ, thì e đánh cũng hay :P

E thấy tay trái QN đánh cân bằng rất tốt với tay phải, QN đánh No. 12 chắc sẽ rất hay :">

Phải nói là "Đàn được lên dây chính xác như thế này, nốt cao nghe trong vắt rất rõ" nhưng không long lanh và ít singing tone, tiếng đàn nghe "khô".
 

piano

Xe điện
Biển số
OF-140664
Ngày cấp bằng
5/5/12
Số km
2,824
Động cơ
423,049 Mã lực
Nơi ở
HCM
Đàn được lên dây hay như thế này, nốt cao nghe trong vắt rất rõ, thì e đánh cũng hay :P
Chắc chắn là bác có chơi đàn, có thể cho e và các bác ở đây thưởng thức chút được ko, RC cũng được =D>
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
1. Nocturne in E flat, Op. 9, No.2: lần đầu tiên e nghe bài này là khi mua cái điện thoại SS tầm năm 2015, nó được SS cho làm nhạc Alarm :">


Bản dạ khúc Nocturne cung E giáng trưởng Op. 9, No. 2 của Chopin, được sáng tác trong khoảng thời gian 1830-1832, khi Chopin khoảng 20 tuổi. Ông đã dành tặng bộ Nocturne Op. 9 của mình (gồm 3 bản), cho Maria Pleyel, vợ của một người quen của Chopin. Chopin là giáo viên piano của Maria, và ông đã dành nhiều tác phẩm của mình cho học trò.


Nocturne Op. 9 No. 2 là một giai điệu cực kỳ nổi tiếng và có thể bạn đã từng nghe nó vào lúc này hay lúc khác trong đời. Mặc dù Chopin đã cách mạng hóa thể loại Nocturnes, nhưng ông mang ơn John Field, một nhà soạn nhạc người Ireland, người đã viết các bản Nocturne trước ông rất nhiều.

Chopin thường xuyên dạy âm nhạc của chính mình cho học sinh, và một trong những học trò của ông, Wilhelm von Lenz, nhớ lại Chopin đã cực kỳ kén chọn bản nhạc này như thế nào. Wilhelm nói, “Bạn chơi nó rất hay… không ai khác có thể chơi nó được sao?”. "Liszt có thể", Chopin trả lời.

Bản nhạc dạ khúc nổi tiếng của Chopin có dạng nhị phân tròn (A, A, B, A, B, A) với Coda, C. Tác phẩm được đặc trưng bởi sự yên bình. và giai điệu đẹp đi kèm với hợp âm rải ở tay trái.

À, thì bài No.3 là cụ Sáng đánh, còn No. 12 là cụ đánh.

Mà thôi, e mới tập nghe nên đắm đuối vào các bài etude cho nó dễ nghe, vì nó ngắn; các cụ có bài gì hay cứ post nhé. E sẽ chuyển dần sang xem các bài ngắn (pieces) nổi tiếng còn lại của Chopin (sau đó thì mới chuyển sang các tác phẩm chính thức của cụ này, chắc sẽ dài loằng ngoằng lê thê). Search sơ bộ thì pieces nổi tiếng chỉ có tầm chục bài gì đó thôi, may quá :D


1. Ballade No. 1 in G minor
2. Nocturne in E-flat major
3. Prelude in D-flat major
4. Waltz in C-sharp minor
5. Polonaise in A-flat major
6. Fantaisie-Impromptu in C-sharp minor
7. Prelude in E minor
8. Etude in C minor
9. Prelude in B minor
10. Nocturne in C-sharp minor
[/QUOTE]
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
2. Piano Sonata No.2 in B flat minor, Op.35

Bản Sonata piano số 2 giọng Si giáng thứ, Op. 35, là một bản sonata cho piano bốn chương. Nó còn được gọi là Bản tình ca tháng ba tang lễ (Funeral March Sonata), lấy theo tên của Chương số 3 rất nổi tiếng. Bản sonata được hoàn thành khi Chopin đang sống tại trang viên của George Sand ở Nohant, cách Paris khoảng 250 km (160 dặm) về phía nam, một năm trước khi nó được xuất bản vào năm 1840.

Bản sonata được coi là một trong những sáng tác khó nhất của Chopin cả về kỹ thuật lẫn nhạc điệu. Chương đầu tiên được đánh dấu là Grave; Doppio movimento có nghĩa là chuyển động chậm và kép. Chương thứ hai là Scherzo có nghĩa là vui tươi hoặc đùa giỡn. Chương thứ ba là Hành khúc tang lễ nổi tiếng (Marche funèbre) là một cuộc diễu hành chậm. Chuyển động thứ tư được đánh dấu là Presto; Sotto voce e legato có nghĩa là rất nhanh; mềm mại và gắn kết với nhau.


Hiển nhiên, chương III Hành khúc tang lễ là trung tâm của tác phẩm, các chương nhạc khác phát triển xoay xung quanh nó, đóng vai trò là điểm tựa. Hai chương nhạc đầu tiên tiến về phía nó còn chương cuối chỉ đóng vai trò đoạn kết, là “đoạn tán gẫu sau cuộc diễu hành”, như chính Chopin nhận xét. Trên thực tế, cái tên Hành khúc tang lễ mặc dù xuất hiện trong ấn bản lần đầu, nhưng sau đó trong phiên bản sửa chữa, ông đã bỏ đi 2 từ tang lễ và trong tất cả những lần đề cập đến nó, ông đều chỉ dùng từ Hành khúc. Có thể việc ông bỏ đi từ tang lễ được hiểu là ông khinh thường với các từ ngữ miêu tả âm nhạc của mình.

Bản Sonata piano số 2 này đã trở thành tác phẩm gây tranh cãi nhất của Chopin. Vấp phải sự phản đối của các nhà phê bình ngay khi mới ra đời, theo thời gian “bản sonata có hình thức không được xử lý hoàn hảo này” được coi là có sự thống nhất sâu rộng về nội dung giữa các chương nhạc “không tương thích” và là hiện thân của “nguyên tắc tuần hoàn” xuất hiện trước đó trong Fantasy “Người lang thang” của Schubert và trở nên phổ biến sau đó với các tác phẩm của Liszt và Franck. Theo thời gian, tác phẩm đã vượt qua được những lời chê bai của các nhà phê bình và trở thành một bản nhạc quen thuộc, được những nghệ sĩ piano tài năng hàng đầu biểu diễn và thu âm thường xuyên.

1. Nocturne in E flat, Op. 9, No.2: lần đầu tiên e nghe bài này là khi mua cái điện thoại SS tầm năm 2015, nó được SS cho làm nhạc Alarm :">


Bản dạ khúc Nocturne cung E giáng trưởng Op. 9, No. 2 của Chopin, được sáng tác trong khoảng thời gian 1830-1832, khi Chopin khoảng 20 tuổi. Ông đã dành tặng bộ Nocturne Op. 9 của mình (gồm 3 bản), cho Maria Pleyel, vợ của một người quen của Chopin. Chopin là giáo viên piano của Maria, và ông đã dành nhiều tác phẩm của mình cho học trò.


Nocturne Op. 9 No. 2 là một giai điệu cực kỳ nổi tiếng và có thể bạn đã từng nghe nó vào lúc này hay lúc khác trong đời. Mặc dù Chopin đã cách mạng hóa thể loại Nocturnes, nhưng ông mang ơn John Field, một nhà soạn nhạc người Ireland, người đã viết các bản Nocturne trước ông rất nhiều.

Chopin thường xuyên dạy âm nhạc của chính mình cho học sinh, và một trong những học trò của ông, Wilhelm von Lenz, nhớ lại Chopin đã cực kỳ kén chọn bản nhạc này như thế nào. Wilhelm nói, “Bạn chơi nó rất hay… không ai khác có thể chơi nó được sao?”. "Liszt có thể", Chopin trả lời.

Bản nhạc dạ khúc nổi tiếng của Chopin có dạng nhị phân tròn (A, A, B, A, B, A) với Coda, C. Tác phẩm được đặc trưng bởi sự yên bình. và giai điệu đẹp đi kèm với hợp âm rải ở tay trái.
[/QUOTE]
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
3. 24 Preludes, Op.28

24 Khúc dạo đầu (Preludes) của Chopin, Op. 28, là một tập hợp các (24) bản nhạc ngắn cho piano, được xuất bản lần đầu vào năm 1839. Chopin đã viết chúng trong khoảng thời gian từ 1835 đến 1839, một phần tại Valldemossa, Mallorca, nơi ông đã trải qua mùa đông năm 1838– 39 và nơi ông đã cùng George Sand (mối tình lớn thứ 3 và sau cùng của ông) và các con của cô chuyển đến để thoát khỏi thời tiết ẩm ướt ở Paris (để chữa bệnh viêm phổi).

Các Preludes được coi là một số tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Chopin. Chúng thường được so sánh với những Preludes của Johann Sebastian Bach trong The Well-Tempered Clavier mà Chopin đã nghiên cứu rất kỹ. Các Preludes cũng được coi là một số sáng tác khó nhất của Chopin cả về mặt kỹ thuật lẫn âm nhạc nhân vật và tâm trạng độc đáo của riêng mình. Các Preludes được sắp xếp theo chu kỳ 5 quãng, bắt đầu bằng Đô trưởng và kết thúc bằng Rê thứ. Mỗi khúc dạo đầu là một bản thu nhỏ khám phá một tâm trạng hoặc cảm xúc khác nhau.

Bản No. 15 "Rain drop", Prelude dài và nổi tiếng nhất trong bộ 24 Preludes của Chopin, đã được các cụ discuss ở các post trước:

Như với tất cả các sáng tác của mình, Chopin không tự đặt tên cho tác phẩm này - mà nó đã được người tình của Chopin, George Sand, đặt cho tác phẩm, khi cả hai đang ở tại tu viện Carthusian khổng lồ ở Majorca, một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Tây Ban Nha Theo lời kể, tu viện đó nằm chơ vơ giữa đá núi và biển, đã để gió và mưa lọt vào bên trong, khiến sức khỏe vốn đã yếu của Chopin ngày càng sa sút. Chopin đã dành rất nhiều thời gian để lắng nghe tiếng mưa nhỏ giọt lặp đi lặp lại bên ngoài, điều này được cho là đã truyền cảm hứng cho nốt Ab lặp đi lặp lại xuyên suốt tác phẩm.

(Clip "rửa tai" trên được thớt ghi nhận là một trong những cách interpreter tốt nhất từng thấy)



2. Piano Sonata No.2 in B flat minor, Op.35

Bản Sonata piano số 2 giọng Si giáng thứ, Op. 35, là một bản sonata cho piano bốn chương. Nó còn được gọi là Bản tình ca tháng ba tang lễ (Funeral March Sonata), lấy theo tên của Chương số 3 rất nổi tiếng. Bản sonata được hoàn thành khi Chopin đang sống tại trang viên của George Sand ở Nohant, cách Paris khoảng 250 km (160 dặm) về phía nam, một năm trước khi nó được xuất bản vào năm 1840.

Bản sonata được coi là một trong những sáng tác khó nhất của Chopin cả về kỹ thuật lẫn nhạc điệu. Chương đầu tiên được đánh dấu là Grave; Doppio movimento có nghĩa là chuyển động chậm và kép. Chương thứ hai là Scherzo có nghĩa là vui tươi hoặc đùa giỡn. Chương thứ ba là Hành khúc tang lễ nổi tiếng (Marche funèbre) là một cuộc diễu hành chậm. Chuyển động thứ tư được đánh dấu là Presto; Sotto voce e legato có nghĩa là rất nhanh; mềm mại và gắn kết với nhau.


Hiển nhiên, chương III Hành khúc tang lễ là trung tâm của tác phẩm, các chương nhạc khác phát triển xoay xung quanh nó, đóng vai trò là điểm tựa. Hai chương nhạc đầu tiên tiến về phía nó còn chương cuối chỉ đóng vai trò đoạn kết, là “đoạn tán gẫu sau cuộc diễu hành”, như chính Chopin nhận xét. Trên thực tế, cái tên Hành khúc tang lễ mặc dù xuất hiện trong ấn bản lần đầu, nhưng sau đó trong phiên bản sửa chữa, ông đã bỏ đi 2 từ tang lễ và trong tất cả những lần đề cập đến nó, ông đều chỉ dùng từ Hành khúc. Có thể việc ông bỏ đi từ tang lễ được hiểu là ông khinh thường với các từ ngữ miêu tả âm nhạc của mình.

Bản Sonata piano số 2 này đã trở thành tác phẩm gây tranh cãi nhất của Chopin. Vấp phải sự phản đối của các nhà phê bình ngay khi mới ra đời, theo thời gian “bản sonata có hình thức không được xử lý hoàn hảo này” được coi là có sự thống nhất sâu rộng về nội dung giữa các chương nhạc “không tương thích” và là hiện thân của “nguyên tắc tuần hoàn” xuất hiện trước đó trong Fantasy “Người lang thang” của Schubert và trở nên phổ biến sau đó với các tác phẩm của Liszt và Franck. Theo thời gian, tác phẩm đã vượt qua được những lời chê bai của các nhà phê bình và trở thành một bản nhạc quen thuộc, được những nghệ sĩ piano tài năng hàng đầu biểu diễn và thu âm thường xuyên.
[/QUOTE]
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
4. Polonaise-Fantasy in A-Flat Major, Op. 61 - Vũ điệu Ba Lan diệu kỳ

Bản Polonaise-Fantaisie cung A giáng trưởng, Op. 61, là một sáng tác cho piano của Frédéric Chopin. Nó được dành tặng cho Mme A. Veyret, được viết và xuất bản vào năm 1846, năm ông 21 tuổi. Tác phẩm này chậm nhận được sự yêu thích của các nhạc sĩ do sự phức tạp về mặt hòa âm cũng như dạng thức của nó.

Polonaise-Fantaisie in A-Flat Major, Op. 61 là một trong số những tác phẩm dài độc lập, hay nhất của Chopin. Nó là một tiểu thuyết âm nhạc hoàn hảo, có cấu trúc độc đáo và chứa đựng cảm xúc đáng kinh ngạc. Phần mở đầu của nó nghe có vẻ tự do và ngẫu hứng; phần chính của polonaise sau đó tương phản với phần giữa có vẻ như một phần hát ru, một phần bản tình ca, một phần giấc mơ bị thôi miên. Và cốt lõi của điều đó nằm ở đoạn chính giữa; một bản nhạc nhẹ nhàng không lời theo nhịp điệu polonaise ám ảnh. Sau sự trở lại cuồng nhiệt của chủ đề chính, bản Polonaise biến thành một coda chiến thắng. Một sáng tác thiên tài.


Polonaise (/pɒləˈneɪz/, tiếng Pháp: [pɔlɔnɛz]; từ tiếng Pháp: danse polonaise nghĩa là "Vũ điệu của người Ba Lan"; tiếng Ba Lan: polonez, tiếng Ý: Polacca) là một vũ điệu có nguồn gốc từ Ba Lan, theo nhịp 3/4. Polonaise có tiết tấu khá giống với điệu polska móc kép của Thụy Điển, và hai điệu nhảy đều có chung nguồn gốc.

Polonaise là một vũ điệu phổ biến trong các bữa tiệc hóa trang. Polonaise là điệu nhảy mở màn tại tiệc Studniówka ("trăm ngày"), một dạng tiệc khiêu vũ của người Ba Lan dành cho học sinh trung học thường tổ chức khoảng 100 ngày trước kỳ thi.

Polonaise là một vũ điệu Ba Lan và là một trong năm vũ điệu dân tộc mang tính dân tộc cổ truyền của Ba Lan. Các điệu nhảy khác là Mazurka (Mazur), Kujawiak, Krakowiak và Oberek, ba vũ điệu cuối là những điệu nhảy dân gian cổ. Polonaise có nguồn gốc từ điệu nhảy của nông dân, được biết đến với nhiều tên gọi – chodzony ("chạy nước kiệu"), chmielowy ("hoa bia"), pieszy ("người đi bộ") hoặc wielki ("tuyệt vời"), được ghi nhận từ thế kỷ 15.

Ở những thế kỷ sau, nó trở nên nổi tiếng trong giới quý tộc và thị dân. Polonaise hay polonez lần đầu được giới thiệu trong triều đình Pháp là vào thế kỷ thứ 17. Thuật ngữ polonaise dần thay thế polonez vào đầu thế kỷ 18.

Ký hiệu alla polacca (tiếng Ý: polacca nghĩa là "polonaise") trên một nhạc phổ biểu thị rằng tác phẩm nên được chơi với tiết tấu và đặc tính của một điệu polonaise.

3. 24 Preludes, Op.28

24 Khúc dạo đầu (Preludes) của Chopin, Op. 28, là một tập hợp các (24) bản nhạc ngắn cho piano, được xuất bản lần đầu vào năm 1839. Chopin đã viết chúng trong khoảng thời gian từ 1835 đến 1839, một phần tại Valldemossa, Mallorca, nơi ông đã trải qua mùa đông năm 1838– 39 và nơi ông đã cùng George Sand (mối tình lớn thứ 3 và sau cùng của ông) và các con của cô chuyển đến để thoát khỏi thời tiết ẩm ướt ở Paris (để chữa bệnh viêm phổi).

Các Preludes được coi là một số tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Chopin. Chúng thường được so sánh với những Preludes của Johann Sebastian Bach trong The Well-Tempered Clavier mà Chopin đã nghiên cứu rất kỹ. Các Preludes cũng được coi là một số sáng tác khó nhất của Chopin cả về mặt kỹ thuật lẫn âm nhạc nhân vật và tâm trạng độc đáo của riêng mình. Các Preludes được sắp xếp theo chu kỳ 5 quãng, bắt đầu bằng Đô trưởng và kết thúc bằng Rê thứ. Mỗi khúc dạo đầu là một bản thu nhỏ khám phá một tâm trạng hoặc cảm xúc khác nhau.

Bản No. 15 "Rain drop", Prelude dài và nổi tiếng nhất trong bộ 24 Preludes của Chopin, đã được các cụ chém ở các post trước:

Như với tất cả các sáng tác của mình, Chopin không tự đặt tên cho tác phẩm này - mà nó đã được người tình của Chopin, George Sand, đặt cho tác phẩm, khi cả hai đang ở tại tu viện Carthusian khổng lồ ở Majorca, một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Tây Ban Nha Theo lời kể, tu viện đó nằm chơ vơ giữa đá và biển, đã để gió và mưa lọt vào bên trong, khiến sức khỏe vốn đã yếu của Chopin ngày càng sa sút. Chopin đã dành rất nhiều thời gian để lắng nghe tiếng mưa nhỏ giọt lặp đi lặp lại bên ngoài, điều này được cho là đã truyền cảm hứng cho nốt Ab lặp đi lặp lại xuyên suốt tác phẩm.

(Clip được chọn để rửa tai do đã được intro nó là một trong những cách interpreter tốt nhất từng thấy)


[/QUOTE]
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
Cụ cho phép để sau khi ngâm cíu (post) xong về Chopin e sẽ trả lời cụ nhé :-ss

Chắc chắn là bác có chơi đàn, có thể cho e và các bác ở đây thưởng thức chút được ko, RC cũng được =D>
 
Chỉnh sửa cuối:

piano

Xe điện
Biển số
OF-140664
Ngày cấp bằng
5/5/12
Số km
2,824
Động cơ
423,049 Mã lực
Nơi ở
HCM
Các Preludes cũng được coi là một số sáng tác khó nhất của Chopin cả về mặt kỹ thuật lẫn âm nhạc nhân vật và tâm trạng độc đáo của riêng mình
Có lẽ là cụ dùng google translate?
Chỉnh lại:
24 preludes đa phần là ngắn, thậm chí là rất ngắn và dễ chơi hơn các bản nhạc khác mà Chopin viết. Nhưng có 2,3 preludes trong bộ 24 này lại thuộc dạng khó nhất ( 8, 16, 24 )
Bản No. 15 "Rain drop", Prelude dài và nổi tiếng nhất trong bộ 24 Preludes của Chopin, đã được các cụ chém ở các post trước:
Bản này dài và nổi tiếng nhất, có lẽ vì nó quy mô của nó thoát ra ngoài 1 prelude. Nhưng độ phổ biến thì chưa chắc. Vs em thì đây mới là bản nổi tiếng nhất. Prelude no.4 in E Minor
Thậm chí các bác chưa từng nghe nhạc cổ điển, và cũng ko biết đây là bản nhạc nào, thì những giai điệu này khi vang lên cũng rất quen. Đơn giản là nó được sử dụng khá nhiều để làm nhạc nền trong các bộ phim buồn, hoài hương ( nhạc rất hợp với phim ảnh )
Bản Prelude ngắn nhất chỉ với 2 dòng, và là bản nhạc hiếm hoi trong bộ 24 preludes có gam màu tươi sáng.

Prelude của Chopin rất ngắn, nhưng tràn đầy màu sắc, có tính biểu cảm rất cao.
Ví như bản số 20 với nick name Funeral March
Phần hợp âm quãng rộng đầu bài nặng chịch, mạnh mẽ trang nghiêm diễn tả đoàn người cho quan tài lên vai, từng bước từng bước di chuyển nặng nề đưa quan tài ra huyệt mộ.
Sau đó phần hai tương phản với các hợp âm nhẹ nhàng cất lên như những tiếng khóc than day dứt, và đoàn người cứ xa dần xa dần, tiếng khóc mỗi lúc nhỏ hơn cho tới lúc tắt hẳn.
Cả bản nhạc đầy biểu cảm này có đúng 3 dòng thôi
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
Thì e đang chém về Preludes trong context các bản pieces nổi tiếng của Chopin mà bác :P :


Có lẽ là cụ dùng google translate?
Chỉnh lại:
24 preludes đa phần là ngắn, thậm chí là rất ngắn và dễ chơi hơn các bản nhạc khác mà Chopin viết. Nhưng có 2,3 preludes trong bộ 24 này lại thuộc dạng khó nhất ( 8, 16, 24 )

Bản này dài và nổi tiếng nhất, có lẽ vì nó quy mô của nó thoát ra ngoài 1 prelude. Nhưng độ phổ biến thì chưa chắc. Vs em thì đây mới là bản nổi tiếng nhất. Prelude no.4 in E Minor
Thậm chí các bác chưa từng nghe nhạc cổ điển, và cũng ko biết đây là bản nhạc nào, thì những giai điệu này khi vang lên cũng rất quen. Đơn giản là nó được sử dụng khá nhiều để làm nhạc nền trong các bộ phim buồn, hoài hương ( nhạc rất hợp với phim ảnh )
Bản Prelude ngắn nhất chỉ với 2 dòng, và là bản nhạc hiếm hoi trong bộ 24 preludes có gam màu tươi sáng.

Prelude của Chopin rất ngắn, nhưng tràn đầy màu sắc, có tính biểu cảm rất cao.
Ví như bản số 20 với nick name Funeral March
Phần hợp âm quãng rộng đầu bài nặng chịch, mạnh mẽ trang nghiêm diễn tả đoàn người cho quan tài lên vai, từng bước từng bước di chuyển nặng nề đưa quan tài ra huyệt mộ.
Sau đó phần hai tương phản với các hợp âm nhẹ nhàng cất lên như những tiếng khóc than day dứt, và đoàn người cứ xa dần xa dần, tiếng khóc mỗi lúc nhỏ hơn cho tới lúc tắt hẳn.
Cả bản nhạc đầy biểu cảm này có đúng 3 dòng thôi
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
5. Ballade No.1 in G minor

Chopin chỉ mới 21 tuổi khi ông sáng tác bản ballade đầu tiên và nổi tiếng nhất của mình. Đây là một tác phẩm có kịch tính cao, bản chất ballade của nó được xác định bởi nhịp điệu du dương và giai điệu kéo dài, giống như thi sĩ; những cơn bộc phát dữ dội và bốc đồng làm gián đoạn và biến đổi các chủ đề của nó cho đến khi nó kết thúc bằng một chuỗi cử chỉ hoang dã, rõ ràng đáng kinh ngạc. Một số nhà bình luận cho rằng nó có thể dựa trên sử thi Konrad Wallenrod của Adam Mickiewicz - một câu chuyện lãng mạn được viết ba năm trước Ballade, kể về một anh hùng bí ẩn, một người yêu đã mất từ lâu, danh tính bị che giấu, những trận chiến khốc liệt và một vụ tự sát thảm khốc.

Bản của Seong-Jin Cho:

Bản của Rousseau:

P/s: Có lẽ các nhạc công cần thành thạo, vượt qua hết các bản etude trước khi chơi được bản Ballade này.

4. Polonaise-Fantasy in A-Flat Major, Op. 61 - Vũ điệu Ba Lan diệu kỳ

Bản Polonaise-Fantaisie cung A giáng trưởng, Op. 61, là một sáng tác cho piano của Frédéric Chopin. Nó được dành tặng cho Mme A. Veyret, được viết và xuất bản vào năm 1846, năm ông 21 tuổi. Tác phẩm này chậm nhận được sự yêu thích của các nhạc sĩ do sự phức tạp về mặt hòa âm cũng như dạng thức của nó.

Polonaise-Fantaisie in A-Flat Major, Op. 61 là một trong số những tác phẩm dài độc lập, hay nhất của Chopin. Nó là một tiểu thuyết âm nhạc hoàn hảo, có cấu trúc độc đáo và chứa đựng cảm xúc đáng kinh ngạc. Phần mở đầu của nó nghe có vẻ tự do và ngẫu hứng; phần chính của polonaise sau đó tương phản với phần giữa có vẻ như một phần hát ru, một phần bản tình ca, một phần giấc mơ bị thôi miên. Và cốt lõi của điều đó nằm ở đoạn chính giữa; một bản nhạc nhẹ nhàng không lời theo nhịp điệu polonaise ám ảnh. Sau sự trở lại cuồng nhiệt của chủ đề chính, bản Polonaise biến thành một coda chiến thắng. Một sáng tác thiên tài.


Polonaise (/pɒləˈneɪz/, tiếng Pháp: [pɔlɔnɛz]; từ tiếng Pháp: danse polonaise nghĩa là "Vũ điệu của người Ba Lan"; tiếng Ba Lan: polonez, tiếng Ý: Polacca) là một vũ điệu có nguồn gốc từ Ba Lan, theo nhịp 3/4. Polonaise có tiết tấu khá giống với điệu polska móc kép của Thụy Điển, và hai điệu nhảy đều có chung nguồn gốc.

Polonaise là một vũ điệu phổ biến trong các bữa tiệc hóa trang. Polonaise là điệu nhảy mở màn tại tiệc Studniówka ("trăm ngày"), một dạng tiệc khiêu vũ của người Ba Lan dành cho học sinh trung học thường tổ chức khoảng 100 ngày trước kỳ thi.

Polonaise là một vũ điệu Ba Lan và là một trong năm vũ điệu dân tộc mang tính dân tộc cổ truyền của Ba Lan. Các điệu nhảy khác là Mazurka (Mazur), Kujawiak, Krakowiak và Oberek, ba vũ điệu cuối là những điệu nhảy dân gian cổ. Polonaise có nguồn gốc từ điệu nhảy của nông dân, được biết đến với nhiều tên gọi – chodzony ("chạy nước kiệu"), chmielowy ("hoa bia"), pieszy ("người đi bộ") hoặc wielki ("tuyệt vời"), được ghi nhận từ thế kỷ 15.

Ở những thế kỷ sau, nó trở nên nổi tiếng trong giới quý tộc và thị dân. Polonaise hay polonez lần đầu được giới thiệu trong triều đình Pháp là vào thế kỷ thứ 17. Thuật ngữ polonaise dần thay thế polonez vào đầu thế kỷ 18.

Ký hiệu alla polacca (tiếng Ý: polacca nghĩa là "polonaise") trên một nhạc phổ biểu thị rằng tác phẩm nên được chơi với tiết tấu và đặc tính của một điệu polonaise.
[/QUOTE]
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
6. Barcarolle - Người lái đò thành Venice

Được rút ra từ hai từ tiếng Ý, barca hoặc thuyền, và rollo hoặc người chèo thuyền, barcarolle là một sáo ngữ được yêu thích vào thế kỷ 19: những bài hát lãng mạn nhẹ nhàng rung chuyển của những người chèo thuyền đáy bằng tại thành Venice. Barcarolle của Chopin hoạt động với nhịp 12/8 rộng, các gợn nước của nó bắt đầu một cách khoan thai chậm rãi, nhưng khi chúng trở lại ở phần ba - phần cuối cùng của bản nhạc, giống như những làn sóng bao la của đại dương rộng mở—ở đây không có cảnh kênh đào dưới ánh trăng, mà là sự leo thang không ngừng và kịch tính.

Bản biểu diễn của NS Đặng Thái Sơn - theo một số nhận xét, là người chơi Chopin hay nhất mọi thời đại:

5. Ballade No.1 in G minor

Chopin chỉ mới 21 tuổi khi ông sáng tác bản ballade đầu tiên và nổi tiếng nhất của mình. Đây là một tác phẩm có kịch tính cao, bản chất ballade của nó được xác định bởi nhịp điệu du dương và giai điệu kéo dài, giống như thi sĩ; những cơn bộc phát dữ dội và bốc đồng làm gián đoạn và biến đổi các chủ đề của nó cho đến khi nó kết thúc bằng một chuỗi cử chỉ hoang dã, rõ ràng đáng kinh ngạc. Một số nhà bình luận cho rằng nó có thể dựa trên sử thi Konrad Wallenrod của Adam Mickiewicz - một câu chuyện lãng mạn được viết ba năm trước Ballade, kể về một anh hùng bí ẩn, một người yêu đã mất từ lâu, danh tính bị che giấu, những trận chiến khốc liệt và một vụ tự sát thảm khốc.

Bản của Seong-Jin Cho:

Bản của Rousseau:

P/s: Có lẽ các nhạc công cần thành thạo, vượt qua hết các bản etude trước khi chơi được bản Ballade này.
[/QUOTE]
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
7. Sonata No.3 in B minor, Op.58

Piano Sonata số 3 cung Si thứ Op 58 là bản sonata cuối cùng trong số ba bản sonata dành cho piano của Chopin, được viết vào năm 1844 trong những năm ông trưởng thành hoàn toàn với tư cách là một nhà soạn nhạc. Trái ngược với 'Sonata funèbre', nó tiến gần hơn đến sự phù hợp với cả nguyên mẫu hình thức và nguyên mẫu chung là những nguyên mẫu đã được công nhận là tư tưởng giao hưởng sonata của Đức. Tuy nhiên, bốn chương của bản sonata được xử lý mang một sắc thái 'Chopin' riêng đã trở nên quen thuộc của đầu những năm 1830. Nó được coi là tác phẩm khó bậc nhất của Chopin cả về kỹ thuật và nghệ thuật.

Bản biểu diễn của Daniil Trifonov: chắc cụ QUANG1970 khi quay lại chắc sẽ có nhiều nhận xét về cây đàn trong clip này, e thấy tiếng ấm & rõ hơn em Steinway ở clip dưới của Jin-Cho 8->

Bản của Seong-Jin Cho:

6. Barcarolle - Người lái đò sông Venice

Được rút ra từ hai từ tiếng Ý, barca hoặc thuyền, và rollo hoặc người chèo thuyền, barcarolle là một sáo ngữ được yêu thích vào thế kỷ 19: những bài hát lãng mạn nhẹ nhàng rung chuyển của những người chèo thuyền đáy bằng tại Venice. Barcarolle của Chopin hoạt động với nhịp 12/8 rộng, các gợn nước của nó bắt đầu một cách khoan thai chậm rãi, nhưng khi chúng trở lại ở phần ba - phần cuối cùng của bản nhạc, giống như những làn sóng bao la của đại dương rộng mở—ở đây không có cảnh kênh đào dưới ánh trăng, mà là sự leo thang không ngừng và kịch tính.

Bản biểu diễn của NS Đặng Thái Sơn - theo một số nhận xét, là người chơi Chopin hay nhất mọi thời đại:
[/QUOTE]
 
Chỉnh sửa cuối:

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
8. Mazurkas, Op.24 No. 4

Nhiều bản Mazurka của Chopin là những kiệt tác thu nhỏ, và việc chọn một bộ là một nhiệm vụ đặc biệt khó khăn. Op.24 được sáng tác tương đối sớm (1836) là bốn bản nhạc tràn ngập sự quyến rũ, giai điệu và cảm xúc. Bản cuối cùng, No. 4, ở cung Si thứ, đặc biệt nguyên bản, với sự cân bằng giữa nhịp điệu của điệu múa dân gian Ba Lan và giọng thơ đầy suy tư của nhà soạn nhạc tạo thành một sự kết hợp kỳ diệu và khó nắm bắt.

Bản biểu diễn của NS Đặng Thái Sơn:

7. Sonata No.3 in B minor, Op.58

Piano Sonata số 3 cung Si thứ Op 58 là bản sonata cuối cùng trong số ba bản sonata dành cho piano của Chopin, được viết vào năm 1844 trong những năm ông trưởng thành hoàn toàn với tư cách là một nhà soạn nhạc. Trái ngược với 'Sonata funèbre', nó tiến gần hơn đến sự phù hợp với cả nguyên mẫu hình thức và nguyên mẫu chung là những nguyên mẫu đã được công nhận là tư tưởng giao hưởng sonata của Đức. Tuy nhiên, bốn chương của bản sonata được xử lý mang một sắc thái 'Chopin' riêng đã trở nên quen thuộc của đầu những năm 1830. Nó được coi là tác phẩm khó bậc nhất của Chopin cả về kỹ thuật và nghệ thuật.

Bản biểu diễn của Daniil Trifonov: chắc cụ QUANG1970 khi quay lại sẽ có nhiều nhận xét về cây đàn trong clip này, e thấy tiếng ấm & rõ hơn con Steinway ở clip dưới 8->

Bản của Seong-Jin Cho:
[/QUOTE]
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
9. Fantaisie in F minor Op. 49

Tác phẩm này sáng tác năm 1841, khi Chopin đang ở đỉnh cao sự nghiệp, là một tác phẩm đáng chú ý với bầu không khí cao độ của một kiệt tác văn học và diễn biến nhân quả. Thiên hướng ngẫu hứng của Chopin có thể cho thấy bản nhạc được mở ra như thế nào từ chủ đề hành khúc mở đầu đầy ma quái cho đến sự tiếp nối sau đó đậm chất Ý. Mọi nghệ sĩ dương cầm khi chơi tác phẩm này đều có thể có một cách tiếp cận khác biệt và mang phong cách cá nhân của mình.

Bản biểu diễn của Seong-Jin Cho:

8. Mazurkas, Op.24 No. 4

Nhiều bản Mazurka của Chopin là những kiệt tác thu nhỏ, và việc chọn một bộ là một nhiệm vụ đặc biệt khó khăn. Op.24 được sáng tác tương đối sớm (1836) là bốn bản nhạc tràn ngập sự quyến rũ, giai điệu và cảm xúc. Bản cuối cùng, No. 4, ở cung Si thứ, đặc biệt nguyên bản, với sự cân bằng giữa nhịp điệu của điệu múa dân gian Ba Lan và giọng thơ đầy suy tư của nhà soạn nhạc tạo thành một sự kết hợp kỳ diệu và khó nắm bắt.

Bản biểu diễn của NS Đặng Thái Sơn:
[/QUOTE]
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
10. Piano Concerto No.1 in E minor, Op.11

Là một trong 2 bản concerto nằm trong những tác phẩm đầu tay của Chopin, được sáng tác khi ông mới khoảng 19 tuổi. Sự tươi mới, sức sống và sự tinh tế trong giai điệu của chúng vẫn còn mê hoặc, khiến chúng trở thành những bản hòa tấu luôn được yêu thích và nằm trong số những tác phẩm hay nhất của Chopin. Việc Chopin viết cho dàn nhạc không phải là điểm mạnh nhất của ông, nhưng ông có một cách đặc biệt để thiết lập giai điệu piano trong toàn bộ kết cấu: các dây đàn dường như tạo thành một vầng hào quang rực rỡ xung quanh giai điệu độc tấu, trong khi các nhạc cụ hơi mang đến những bản song ca tinh tế với piano.

Được viết với nhiều ảnh hưởng của Mozart, bản Concerto cung Mi thứ với phần trình bày mở rộng cho dàn nhạc; tiếp sau đó, pianist vào chơi phần trình bày một lần nữa của piano nhưng với độ phức tạp cao hơn. Phần phát triển, như thường lệ với các hình thức sonata của Chopin, rất mãnh liệt, dựa trên phần trình bày. Phần tóm tắt nhường chỗ cho một coda xuất sắc, dẫn đến tuyên bố cuối cùng của dàn nhạc.

Bản biểu diễn của Zimerman:

9. Fantaisie in F minor Op. 49

Tác phẩm này sáng tác năm 1841, khi Chopin đang ở đỉnh cao sự nghiệp, là một tác phẩm đáng chú ý với bầu không khí cao độ của một kiệt tác văn học và diễn biến nhân quả. Thiên hướng ngẫu hứng của Chopin có thể cho thấy bản nhạc được mở ra như thế nào từ chủ đề hành khúc mở đầu đầy ma quái cho đến sự tiếp nối sau đó đậm chất Ý. Mọi nghệ sĩ dương cầm khi chơi tác phẩm này đều có thể có một cách tiếp cận khác biệt và mang phong cách cá nhân của mình.

Bản biểu diễn của Seong-Jin Cho:
[/QUOTE]
 
Chỉnh sửa cuối:

QUANG1970

Xe lăn
Biển số
OF-547318
Ngày cấp bằng
25/12/17
Số km
11,162
Động cơ
316,195 Mã lực
7. Sonata No.3 in B minor, Op.58

Piano Sonata số 3 cung Si thứ Op 58 là bản sonata cuối cùng trong số ba bản sonata dành cho piano của Chopin, được viết vào năm 1844 trong những năm ông trưởng thành hoàn toàn với tư cách là một nhà soạn nhạc. Trái ngược với 'Sonata funèbre', nó tiến gần hơn đến sự phù hợp với cả nguyên mẫu hình thức và nguyên mẫu chung là những nguyên mẫu đã được công nhận là tư tưởng giao hưởng sonata của Đức. Tuy nhiên, bốn chương của bản sonata được xử lý mang một sắc thái 'Chopin' riêng đã trở nên quen thuộc của đầu những năm 1830. Nó được coi là tác phẩm khó bậc nhất của Chopin cả về kỹ thuật và nghệ thuật.

Bản biểu diễn của Daniil Trifonov: chắc cụ QUANG1970 khi quay lại chắc sẽ có nhiều nhận xét về cây đàn trong clip này, e thấy tiếng ấm & rõ hơn em Steinway ở clip dưới của Jin-Cho 8->

Bản của Seong-Jin Cho:
Steinway là Steinway mà Fazioli là Fazioli.

Hơn nữa hai cây đàn lên dây theo hai thang âm khác nhau, nên so sánh thì rõ là ............

Hơn nữa cây Steinway này dùng cho Liên hoan Verbier Festival, thì khôhg phải một cây Steinway loại thường.
Túm cái váy lại: bác nên học nghe trước khi viết còm, còn như bảo tôi thích như ,vậy thì mời bác cứ thích nhé!

Không phải ngẫu nhiên mà trên 90% pianist chọn Steinway khi biểu diễn, và ngay trong khi thi cử các giải quốc tế quan trọng cũng vậy, số người chọn Fazioli chỉ đếm trên đầu ngón tay.
 
Chỉnh sửa cuối:

QUANG1970

Xe lăn
Biển số
OF-547318
Ngày cấp bằng
25/12/17
Số km
11,162
Động cơ
316,195 Mã lực
Đây là bản đánh ở phòng thu, lên dây chính xác từng note, nên miễn bàn!
Pianist nào có giỏi thì cứ đánh live đi, rồi nghe thì biết!

Đây là một ví dụ:
Cùng một tác phẩm, một người đánh, người đánh là Grigorij Sokolov danh cầm bậc thầy, ĐTS chưa xách dép được cho G. Sokolov, nghe Sokolov đánh ở phòng thu và live tuy đều hay, nhưng nghe khác hẳn!


 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,914
Động cơ
384,616 Mã lực
E quan tâm gì về brand đâu, hôm trước 1 cậu bạn khoe đang đặt mua 1 em Fazioli cho cậu cả chơi ở nhà, ngang 1 con chung cư, e tý ngất :(( :(( :((

Steinway là Steinway mà Fazioli là Fazioli.

Hơn nữa hai cây đàn lên dây theo hai thang âm khác nhau, nên so sánh thì rõ là ............

Hơn nữa cây Steinway này dùng cho Liên hoan Verbier Festival, thì khôhg phải một cây Steinway loại thường.
Túm cái váy lại: bác nên học nghe trước khi viết còm, còn như bảo tôi thích như ,vậy thì mời bác cứ thích nhé!

Không phải ngẫu nhiên mà trên 90% pianist chọn Steinway khi biểu diễn, và ngay trong khi thi cử các giải quốc tế quan trọng cũng vậy, số người chọn Fazioli chỉ đếm trên đầu ngón tay.
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải
Top