drive.google.com
Mời các cụ xem bài của em về BHNT
View attachment 6078056
Mình đã đọc bài phân tích của bạn. Có 1 số quan điểm mình đồng tình tuy nhiên 1 số góc nhìn thì mình thấy bạn phân tích chưa đúng và đang bị phiến diện.
Thứ nhất : bạn cho rằng
"phần tích lũy thêm làm tăng TỔNG phí bảo hiểm khách hàng đóng (hình minh họa trên). Vì phí ban đầu được tính bằng X% (60-80%trong năm đầu tiên) của tổng phí bảo hiểm, nên việc có thêm phần tích lũy sẽ làm tăng phí ban đầu, một loại phí mà khách hàng mất trắng
còn tvv/ctbh được hưởng như phân tích ở trên"
-> Phí ban đầu ở đây là phí vận hành sản phẩm, có công ty sẽ trừ 10 năm, có cty trừ 3 năm - 5 năm hay thậm chí trong suốt thời gian bảo vệ. Phí ban đầu là chi phí cố định (phí marketing, phí đào tạo, phí định phí sản phẩm, ...tất cả các loại phí để hình thành nên sản phẩm đó) chứ ko phải chỉ để trả hoa hồng cho tvv đâu bạn nhé. Đúng là hoa hồng năm đầu của tvv thông thường là tối đa 30-40% và đây là lương của họ, là công sức của họ, cty trả cho họ để họ chăm sóc hợp đồng cho khách hàng trong suốt thời gian khách hàng tham gia đó bạn, nói thì nghe có vẻ nhiều nhưng chia ra 10 - 15 năm thì k nhiều đâu bạn nhé (nó chỉ nhiều vs tvv nào xác định làm ăn hoa hồng xong nghỉ luôn thôi) . Nên cái cách bạn nói phí đó khách hàng mất và tvv được hưởng nghe nó phiến diện lắm.
Thứ hai , bạn cho rằng :
"vì phần tích lũy thêm làm tăng phí bảo hiểm, khách hàng có thể thấy phí bảo hiểm cao quá và yêu cầu giảm bớt bằng cách giảm bớt mức bảo vệ đi."
-> Thông thường 1 sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư hiện nay sẽ bao gồm sản phẩm chính (bảo vệ tính mạng/TTTBVV 1 số sp sẽ kèm thêm chút bệnh hiểm nghèo) + sản phẩm bổ trợ/bổ sung (nằm viện/ phẫu thuật/ bệnh hiểm nghèo/ tai nạn)
Và phần tích lũy chủ yếu ở sản phẩm chính thôi bạn nhé. Muốn tích lũy nhiều thì thiết kế sản phẩm chính nhiều.
Các sản phẩm bổ sung về y tế trước đều là rơi (giống như thẻ sk) nhưng hiện giờ 1 số sản phẩm cũng có được tích lũy nhưng ko nhiều bởi phí rủi ro của sản phẩm bổ sung rất cao.
Thứ ba , bạn cho rằng
" Bởi vì KH khi mua bảo hiểm hỗn hợp, dù có giảm thiểu tối đa phần tích lũy / đầu tư thì sau 10-12 năm vẫn sẽ có 1 lượng tiền (nho nhỏ) trong tài khoản BHNT. Sau thời gian này, KH hoàn toàn có thể NGỪNG ĐÓNG TIỀN mà hợp đồng bảo hiểm vẫn còn hiệu lực, quyền lợi bảo vệ vẫn được duy trì. Lý do là vì “phí bảo hiểm rủi ro” sẽ được trừ trực tiếp ra khỏi tài khoản BHNT để duy trì quyền lợi bảo vệ. Thường là sẽ đủ để duy trì đến hết 20-25 năm."
Cái này bạn cũng đang có cái nhìn phiến diện. Sản phẩm liên kết chung bây giờ các cty đều có lãi suất cam kết tối thiểu, và lãi thực trả thì sẽ theo tình hình đầu tư thực tế sẽ cao hơn lãi cam kết. Mà nhìn theo lãi cam kết đóng 15 năm nếu khách ko rút về vẫn có thể bảo vệ đến trên 35 năm ( theo lãi thực tế còn lâu hơn) nhé, cái này phụ thuộc vào nhu cầu khách hàng và cách thiết kế sp nha.
NGUYÊN TẮC CỦA BẢO HIỂM NHÂN THỌ
BHNT được tạo ra để con người có thể bù đắp hỗ trợ lẫn nhau khi rủi ro xảy ra. Tôi lấy 1 ví dụ dễ hiểu: Có 1,000 người, và theo thống kê, thì trong năm sẽ có 3 người ốm đau, bệnh tật, tử vong. Thay vì ngồi chờ sự rủi ro xảy ra, thay vì cầu trời mình không phải là 1 trong 3 người đó, một ngàn người này chủ động bảo vệ trước rủi ro bằng cách mỗi người đóng vào quỹ chung 1 đồng, sẽ được tất cả là 1,000 đồng. Khi rủi ro xảy ra với 3 người nào đó, thì 1,000 đồng này sẽ được chia đều cho gia đình của 3 người này. Mỗi gia đình của họ sẽ được nhận 333 đồng.
Như vậy 1 đồng đã được bỏ ra để mua sự an tâm. Nếu rủi ro xảy ra thì gia đình được 333 đồng, để qua cơn khó khăn vì mất người lao động chính.
CÁCH VẬN HÀNH CỦA CÔNG TY BHNT
Thay vì 1,000 người tự nguyện hợp tác với nhau để chia sẻ rủi ro như vậy, thì công ty BHNT sẽ thực hiện việc thu mỗi người 1 đồng hàng năm và thực hiện việc đền bù này. Đương nhiên công ty BHNT phải trích từ quỹ chung này 1 phần tiền cho chi phí và lợi nhuận của họ.
Công ty BHNT phải thẩm định tuổi, sức khoẻ, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống của những người tham gia bảo hiểm để đảm bảo rằng họ có cùng mức rủi ro. Trong ví dụ trên nếu trong 1,000 người đó, có người cao tuổi hơn, hoặc có sẵn các loại bệnh nguy hiểm... tức là tỷ lệ tử vong không phải ở mức 3/1000, mà là 4/1000, 5/1000 hoặc 6/1000 thì họ phải được đưa vào nhóm 1,000 người khác, có tỷ lệ mắc bệnh hoặc tử vong và mức phí cao hơn tương ứng.
Hành vi của những người có tỷ lệ rủi ro cao mà không “khai báo” thành thật với công ty BHNT nhằm mục đích được mua bảo hiểm ở mức phí thấp hơn, gọi là “Anti Selection”. Công ty BHNT không thích khách hàng Anti Selection, và sẽ không đền bù khi có bằng chứng rõ ràng về hành vi Anti Selection của khách hàng.
Trở lại ví dụ 1,000 người góp 1 đồng. Sản phẩm đó gọi là sản phẩm Tử kỳ (từ tiếng Anh là Term Life). Gia đình khách hàng được nhận 333 đồng nếu rủi ro xảy ra, và mất 1 đồng nếu rủi ro không xảy ra.
Thế nhưng nhiều khách hàng không thích mất 1 đồng này. Họ muốn được bảo hiểm nhưng lấy lại tiền mà họ đã đóng vào công ty BHNT. Vì thế, ngoài sản phẩm bảo hiểm tử kỳ, các công ty BHNT phát triển thêm các sản phẩm BHNT khác. Thay vì chỉ thu 1 đồng cho Bảo hiểm, họ thu thêm nhiều đồng nữa, giả sử là 20 đồng.
Khi công ty BHNT thu 20 đồng hàng năm và thu trong nhiều năm (10 năm, 15 năm, 20 năm hay trọn đời), thì hàng năm họ sẽ có 1 đồng để lo cho việc rủi ro, x đồng cho chi phí, y đồng cho lợi nhuận, và (19-x-y) đồng để đầu tư dài hạn vào các công cụ đầu tư như trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư...
Nhờ vào việc đầu tư này mà tổng số tiền vào cuối hợp đồng của khách hàng sẽ lớn hơn so với số phí mà khách hàng đã đóng vào. Và vì thế mà khách hàng cũng thích hơn. Họ không có cảm giác bị mất phí cho bảo hiểm như trường hợp sản phẩm bảo hiểm tử kỳ. Không chỉ được bảo hiểm, họ còn được nhận lại tiền gốc cộng lãi.