[Funland] Chiến tranh lạnh (1945-1991)

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Rạng sáng 17-4-1961, lúc 06.30, các máy bay Sea Fury, B-26 và T-33 của Không quân Cuba bắt đầu tấn công tàu của Đội quân viễn chinh Cuba lúc đó vẫn tải thả quân.
Vào khoảng 06.50, cách 8 km về phía nam Playa Larga, Houston cũng bị hư hỏng do bị tên lửa từ một chiếc Sea Fury và T-33, đến khoảng hai giờ đồng hồ sau thuyền trưởng Luis Morse ra lệnh kéo thuyền lên phía tây vịnh.
Khoảng 270 lính đánh thuê đã được thả xuống, nhưng khoảng 180 trong số đó bị chết chìm hoặc bị bắn chết trên bờ, khiến họ không thể tiến hành công việc nào khác.
Khoảng 07.00, hai chiếc B-26 của Lực lượng Giải phóng quân (Lính đánh thuê) tấn công và đánh chìm tàu Hộ tống Tuần dương Hải quân Cuba El Baire tại Nueva Gerona trên Đảo Thông. Hai chiếc này tiếp tục bay tới Giron để nhập vào hai chiếc B-26 khác cùng tấn công lực lượng bộ binh Cuba và yểm trợ trên không cho các máy bay thả dù C-46 và các tàu của Lực lượng Viễn chinh Cuba đang bị không kích.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực

Lực lượng lính đánh thuê tấn công Cuba xuất phát từ hai hướng
1) từ Guatemala, tập kết ở Nicaragua
2) từ Puerto-Rico
Máy bay Mỹ từ Florida tham gia tấn công Cuba phải bay vòng qua Guatemala, Nicaragua để tránh bị bóc mẽ
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Vào khoảng 07.30, năm máy bay vận tải C-46 và một C-54 thả 177 lính dù trong tiểu đoàn dù Lữ đoàn 2506 mật danh Chiến dịch Falcon.
Khoảng 30 quân cùng với các thiết bị nặng đã được thả xuống phía nam nhà máy đường của Úc trên đường đến Palpite và Playa Larga, nhưng thiết bị thất lạc trong đầm lầy và đội quân này không thể khóa được con đường.
Số quân khác được thả xuống San Blas, Jocuma giữa Covadonga và San Blas, và tại Horquitas giữa Yaguaramas và San Blas. Các vị trí này có nhiệm vụ phong tỏa con đường duy trì được hai ngày, cho đến khi được tiếp viện từ bộ binh từ Playa Girón đến.
Vào khoảng 08.30, một chiếc Sea Fury của Không quân Cuba do phi công Carlos Ulloa Arauz lái đâm vào vịnh, do bị mất lái hoặc trúng đạn phòng không, sau khi đụng độ với một chiếc C-46 của “Không quân Giải phóng” (lính đánh thuê) đang trở về phía nam sau khi thả lính dù.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Đến 09.00, quân đội và dân quân Cuba từ bên ngoài khu vực bắt đầu tiến đến nhà máy đường của Úc, Covadonga và Yaguaramas. Suốt hôm đó, họ liên tục được tăng viện quân bằng xe tải và xe thiết giáp. Vào khoảng 09.30, nhiều chiếc Sea Fury và T-33 của Không quân Cuba tấn công bằng tên lửa vào tàu Rio Escondido, khiến nó bị nổ tung và chìm cách Girón 3 km.
Vào khoảng 11.00, một chiếc T-33 của Quân cách mạng tấn công chiếc B-26 (mã số 935) của “Không quân giải phóng” do Matias Farias lái, nhưng may mắn sống sót khi máy bay rơi tại sân bay Girón, hoa tiêu Eduardo Gonzales đã chết vì bị bắn. Chiếc B-26 đi chung bị thiệt hại và phải chuyển hướng đến đảo Cayman Large; Phi công Mario Zúñiga ("kẻ đào ngũ") và hoa tiêu Oscar Vega quay lại Puerto Cabezas trên chiếc C-54 của CIA vào ngày 18 tháng 4.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Đến khoảng 11.00, hai chiếc tàu vận tải còn lại Caribe và Atlántico, và những chiếc tàu đổ bộ LCI và LCU của CIA, bắt đầu rút lui về phía nam để đến vùng hải phận quốc tế, nhưng vẫn bị máy bay của Không quân Cuba đuổi theo.
Đến khoảng 12.00, chiếc B-26 của Không quân Cuba bị hỏa lực phòng không của Blagar bắn nổ tung, và phi công Luis Silva Tablada (chỉ mới là lần bay thứ hai) cùng phi hành đoàn ba người đều tử nạn.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Đến 12.00, hàng trăm dân quân là học viên các trường quân sự tại Matanzas đã chiếm được Palpite, và thận trọng đi bộ tiến về Playa Larga ở phía nam, chịu nhiều tổn thất trong những trận tấn công của những chiếc máy bay B-26 của Lực lượng đánh thuê Cuba.
Vào lúc chạng vạng, các lực lượng mặt đất khác của Cuba dần tiến về phía nam từ Covadonga và phía tây từ Yaguaramas tới San Blas, và phía tây dọc theo các con đường ven biển từ Cienfuegos tới Girón, toàn bộ lực lượng đều không có vũ khí hạng nặng hay phương tiện thiết giáp.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Trong ngày, ba chiếc FAL B-26 (Không quân Giải phóng) của Lực lượng đánh thuê đã bị những chiếc T-33 bắn hạ, với các phi công Raúl Vianello, José Crespo, Osvaldo Piedra và các hoa tiêu Lorenzo Pérez-Lorenzo và José Fernández thiệt mạng. Hoa tiêu của Vianello là Demetrio Pérez đã thoát được ra ngoài và được chiếc USS Murray vớt lên. Phi công Crispín García Fernández và hoa tiêu Juan González Romero, trong chiếc B-26 số hiệu 940, đã chuyển hướng tới Boca Chica, nhưng buổi tối muộn hôm đó họ đã tìm cách bay trở lại Puerto Cabezas trong chiếc B-26 số hiệu 933 mà Crespo đã bay tới Boca Chica ngày 15 tháng 4. Trong tháng 10 năm 1961, những mảnh xác của chiếc B-26 và hai phi công của nó cuối cùng được tìm thấy trong rừng rậm ở Nicaragua. Một chiếc FAL B-26 đã chuyển hướng tới Grand Cayman với động cơ hỏng.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Tới 16.00 ngày 17-4-1961, Fidel Castro đã tới trung tâm nhà máy đường Australia, gia nhập với José Ramón Fernández người đã được ông chỉ định làm chỉ huy chiến trước trước buổi sáng ngày hôm đó.


17-4-1961 - Fidel Castro nhảy khỏi thàp pháo xe tăng T-34 trong trận Vịnh Glron.
Trên tháp pháo (trái sang) Đại uý Jose Abrantes Fernandez và Đại uý Gamonal (Đội trưởng yệ sĩ riêng của Fidel). Anh: Mario Collado


17-4-1961 - Fidel Castro nhảy khỏi thàp pháo xe tăng T-34 trong trận Vịnh Glron.
Trên tháp pháo (trái sang) Đại uý Jose Abrantes Fernandez và Đại uý Gamonal (Đội trưởng yệ sĩ riêng của Fidel). Anh: Mario Collado


Fidel Castro theo dõl trận đành trà lực lượng đánh thuê lưu vong Cuba (do Mỹ hậu thuẫn) đổ bộ lên băl biền Glron hôm 17-4-1961. Anh: Raul Corrales
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực

4-1961 - tàu đổ bộ lính đánh thuê Cuba bị bắn cháy trong trận Giron


4-1961 - xe tăng T-34 quân đội Cuba trong trận Giron


4-1961 - Fidel Castro kiểm tra khu vực đầm lầy trong trận Vịnh Giron



4-1961 - Fidel Castro kiểm tra khu vực đầm lầy trong trận Vịnh Giron


4-1961 - Fidel Castro kiểm tra khu vực đầm lầy trong trận Vịnh Giron



19-4-1961 – T.hủ tướng Fidel Castro tại mặt trận sau khi đánh bại lực lượng lính đành thuê Cuba đồ bộ lên bãi biển Giron
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Ngày (D+1) 18-4-1961
Tới khoảng 10.30 ngày 18-4-1961, quân đội và du kích Cuba, được sự hỗ trợ của xe tăng, đã chiếm Playa Larga sau khi các lực lượng Lữ đoàn lính đánh thuê đã bỏ chạy về phía Girón trong những giờ trước đó. Trong ngày, các lực lượng Lữ đoàn ính đánh thuêrút về San Blas dọc theo hai con đường từ Covadonga và Yaguaramas. Tới khi ấy, cả Fidel Castro và José Ramón Fernández đều đã chuyển tới khu vực mặt trận đó.
Khoảng 17.00 ngày 18-4-1961, những máy bay FAL B-26 tấn công một đoàn 12 xe bus dân sự Cuba chạy trước những chiếc xe tải chở xe tăng và xe thiết giáp khác, đi về phía nam giữa Playa Larga và Punta Perdiz. Những chiếc xe, chở đầy thường dân, quân du kích, cảnh sát và binh sĩ, bị tấn công bằng bom, napalm và tên lửa, chịu thương vong lớn.
Sáu chiếc B-26 do hai phi công hợp đồng của CIA và bốn phi công khác cùng sáu hoa tiêu từ Lữ đoàn không quân 2506 điều khiển. Đoàn xe sau đó lại tập hợp lại và tiến về Punta Perdiz, khoảng 11 km tây bắc Giron.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Ngày (D+2) 19-4-1961
Trong đêm ngày 18-4-1961, một chiếc FAL C-46 chở vũ khí và trang bị tới sân bay Girón đã được các lực lượng mặt đất của Lữ đoàn 2506 chiếm giữ, và cất cánh trước rạng đông ngày 19 tháng 4. Chiếc C-46 cũng di tản Matias Farias, phi công của chiếc B-26 số 935 (nickname Chico Two) đã bị bắn và phải hạ cánh khẩn cấp xuống Girón ngày 17-4-1961.
Phi vụ tấn công đường không cuối cùng (mật danh Mad Dog Flight) gồm năm chiếc B-26, bốn chiếc trong số đó do các phi đội hợp đồng người Mỹ của CIA và các phi công thuộc Alabama Air Guard điều khiển. Một chiếc FAR (không quân Cuba) Sea Fury (do Douglas Rudd lái) và hai chiếc FAR T-33 (do Rafael del Pino và Alvaro Prendes lái) bắn hạ hai trong số những chiếc B-26 đó, làm thiệt mạng bốn phi công Mỹ.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Những cuộc tuần tra chiến đấu trên không do những chiếc phản lực Douglas A4D-2N Skyhawk thuộc phi đội VA-34 của tàu sân bay USS Essex thực hiện, với các dấu hiệu quốc tịch cùng các dấu hiệu khác đã bị xoá bỏ. Những chuyến xuất kích chỉ để đảm bảo tinh thần cho các binh sĩ Lữ đoàn và các phi công, và để đe doạ các lực lượng của chính phủ Cuba mà không tham gia trực tiếp vào các hoạt động chiến tranh.
Không có sự hỗ trợ không quân trực tiếp, và thiếu đạn dược, các lực lượng mặt đất của Lữ đoàn 2506 đã lùi về các bãi biển trước sự tấn công mạnh mẽ của pháo binh, xe tăng và bộ binh Cuba.
Cuối ngày 19-4-1961, tàu khu trục USS Eaton (mã hiệu Santiago) và USS Murray (mã hiệu Tampico) đã dời tới Vịnh Cochinos để di tản các binh sĩ Lữ đoàn đang rút lui khỏi các bãi biển, trước khi những loạt đạn từ xe tăng của Cuba buộc Commodore Crutchfield phải ra lệnh rút lui.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Ngày (D+3) 20-4-1961
Từ ngày 19 tháng 4 đến khoảng 22 tháng 4, các chuyến xuất kích được thực hiện bởi những chiếc A4D-2N để có thông tin trinh sát bằng mắt thường về các khu vực chiến sự. Các chuyến bay trinh sát cũng thông báo về những phi đội Douglas AD-5W của VFP-62 và/hay VAW-12 từ USS Essex hay các tàu sân bay khác, như USS Shangri-La rằng đó là một phần của lực lượng đặc nhiệm đã được thiết lập ngoài khơi đảo Cayman.
Ngày 21 tháng 4, Eaton và Murray, được tăng cường thêm những chiếc khu trục USS Conway và USS Cony, cộng với USS Threadfin (tàu ngầm) và một thuỷ phi cơ PBY-5A Catalina của CIA vào ngày 22 tháng 4, tiếp tục tìm kiếm dọc bờ biển, rặng đá ngần và các hòn đảo để cứu những người còn sống sót thuộc Lữ đoàn, khoảng 24-30 người đã được cứu.

Cuộc chiến kết thúc
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Thiệt hại của đôi bên
Tổng cộng số phi công thiệt mạng trong chiến dịch gồm 6 người thuộc Không quân Cuba, 10 người Cuba lưu vong và 4 người Mỹ.
Lính dù người Mỹ Eugene Herman Koch thiệt mạng trong chiến đấu, và các phi công Mỹ bị bắn hạ gồm Thomas Ray, Leo Baker, Riley Shamburger và Wade Gray. Năm 1979, thi thể Thomas Ray được Cuba trả về nước.
Trong thập niên 1990, CIA thừa nhận những liên quan của Thomas Ray với tổ chức này, và trao cho ông huân chương Intelligence Star.
114 người Cuba lưu vong thuộc Lữ đoàn 2506 được thông báo là đã thiệt mạng trong chiến đấu.

Con số cuối cùng được Cuba thông báo là 176 người thiệt mạng trong chiến đấu thuộc các lực lượng vũ trang Cuba trong cuộc xung đột.
Con số này có thể chỉ là thiệt hại của quân đội Cuba, không gồm thường dân chết hoặc bị thương do pháo kích và oanh tạc, vì thế tổng cộng khoảng 2,000 (có lẽ tới 5,000, xem bên trên) người Cuba có thể đã thiệt mạng, bị thương hay mất tích.
Những cuộc tấn công vào phi trường ngày 15 tháng 4 khiến 7 người Cuba thiệt mạng và 54 người bị thương.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Tù binh và hành quyết
Ngày 18-4-1961, ít nhất bảy người Cuba cộng hai công dân Hoa Kỳ do CIA thuê (Angus K. McNair và Howard F. Anderson) đã bị hành quyết tại tỉnh Pinar del.
Ngày 20-4-1961, Humberto Sorí Marin bị hành quyết tại Fortaleza de la Cabana, ông đã bị bắt ngày 18-3-1961 sau khi xâm nhập vào Cuba với 14 tấn chất nổ. Những người bạn của ông và là người chủ mưu Rogelio Gonzalez Corzo (còn gọi là "Francisco Gutierrez"), Rafael Diaz Hanscom, Eufemio Fernandez, Arturo Hernandez Tellaheche và Manuel Lorenzo Puig Miyar cũng bị hành quyết.
Từ tháng 4 đến tháng 10-1961, hàng trăm vụ hành quyết đã diễn ra để trả đũa cuộc xâm lược. Các vụ xử tử được thực hiện ở nhiều nhà tù, gồm cả Fortaleza de la Cabaña và El Morro Castle.
Các lãnh đạo đội xâm nhập Antonio Diaz Pou và Raimundo E. Lopez, cũng như các sinh viên hoạt động ngầm Virgilio Campaneria, Alberto Tapia Ruano, cùng hơn một trăm người nổi dậy khác cũng bị hành quyết.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Khoảng 1.204 lính đánh thuê thuộc Lữ đoàn 2506 đã bị bắt trong đó 9 người chết vì ngạt thở khi được chuyển tới thủ đô Havana trong chiếc xe tải đông đúc.
Tháng 5-1961, Fidel Castro hứa trao đổi những tù binh còn sống của Lữ đoàn lấy 500 máy cầy lớn. Giá trị trao đổi lên tới 28 triệu USD.
Ngày 8-9-1961, 14 tù binh Lữ đoàn bị kết án tra tấn, giết người và các tội ác khác đã thực hiện ở Cuba trước cuộc xâm lược, năm người bị xử tử và chín người bị bỏ tù 30 năm. Ba người được xác nhận đã bị hành quyết gồm Ramon Calvino, Emilio Soler Puig ('el Muerte') và Jorge King Yun ('el Chino').
Ngày 29-3-1962, 1.179 người bị đưa ra xét xử vì phản bội.
Ngày 7-4-1962, tất cả đều bị tuyên bố phạm tội và kết án 30 năm tù.
Ngày 14-4-1962, 60 người bị thương và các tù nhân ốm yếu được trả tự do và được chuyển về Hoa Kỳ.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Ngày 21-12-1962, Thủ tướng Cuba Fidel Castro và James B. Donovan, một luật sư Mỹ, đã ký một thoả thuận trao đổi 1,113 tù binh lấy 53 USD triệu bằng lương thực và thuốc men; số tiền được quyên góp từ các nhà tài trợ tư nhân.
Ngày 24-12-1962, một số tù nhân được máy bay đưa về Miami, những người khác đi trên chiếc tàu African Pilot, cộng với khoảng 1.000 thành viên gia đình họ cũng được cho phép rời Cuba.
Ngày 29-12-1962, Tổng thống John F. Kennedy tham dự một buổi lễ 'welcome back' (chào mừng trở lại) cho các cựu chiến binh Lữ đoàn 2506 tại Orange Bowl ở Miami, Florida.


29-12-1962 – Tổng thống Kennedy và phu nhân thăm Lữ đoàn 2506

29-12-1962 – Tổng thống Kennedy và phu nhân thăm Lữ đoàn 2506. José Miró Cardona (phải) Chủ tịch Hội đồng Cách mạng Cuba (CRC)


29-12-1962 – Tổng thống Kennedy và phu nhân thăm Lữ đoàn 2506. José Miró Cardona (giữa) Chủ tịch Hội đồng Cách mạng Cuba (CRC)


29-12-1962 – Tổng thống Kennedy và phu nhân thăm Lữ đoàn 2506. José Miró Cardona (giữa) Chủ tịch Hội đồng Cách mạng Cuba (CRC)
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Cuộc điều tra của Maxwell Taylor
Ngày 22-4-1961, Tổng thống Kennedy đã yêu cầu Tướng Maxwell D. Taylor, Tổng Chưởng lý Robert F. Kennedy, Đô đốc Arleigh Burke và Giám đốc Cục Tình báo Trung ương Allen Dulles báo cáo về những bài học có được từ chiến dịch thất bại.
Ngày 13-6-1961, Tướng Taylor đệ trình báo cao của Uỷ ban Điều tra tới Tổng thống Kennedy. Thất bại được quy cho sự thiếu nhận thức sớm về sự không thể thành công bằng các biện pháp bí mật, thiếu máy bay, các hạn chế về vũ khí, phi công và những cuộc tấn công không quân để tạo ra ưu thế hợp lý và trên hết, thiếu những con tàu quan trọng và thiếu đạn dược.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Tháng 11-1961, nhà điều tra của CIA tướng Lyman Kirkpatrick, đã thảo ra một báo cáo 'Survey of the Cuban Operation', và nó vẫn được xếp hạng tuyệt mật cho tới năm 1996. Những kết luận gồm:
- CIA đã vượt quá những khả năng của mình khi phát triển dự án từ hỗ trợ du kích để tiến tới hoạt động vũ trang công khai mà không có bất kỳ khả năng thành công nào.
- Không đánh giá thực tế được các nguy cơ và thông tin một cách thích hợp với các quyết định bên trong và với các thành phần chính phủ khác.
- Không có sự tham gia đầy đủ của các lãnh đạo lưu vong.
- Không thể tổ chức một cách hiệu quả sự nổi dậy từ bên trong Cuba.
- Không thể thu thập và phân tích thông tin tình báo một cách chính xác về các lực lượng của Cuba.
- Quản lý nội bộ về thông tin và nhân sự kém.
- Không có đủ nhân sự trình độ cao.
- Không đủ người nói tiếng Tây Ban Nha, các cơ sở huấn luyện và các nguồn tài nguyên thiết bị.
- Thiếu các chính sách ổn định và các kế hoạch bất ngờ.
Dù có những sự bác bỏ mạnh mẽ của ban điều hành CIA về các báo cáo, Giám đốc CIA Allen Dulles, Phó giám đốc CIA Charles Cabell, và Phó giám đốc Kế hoạch Richard Bissell đều đã bị buộc phải từ chức vào đầu năm 1962.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,005
Động cơ
1,129,178 Mã lực
Di sản vụ xâm lược tại Cuba
Cuộc xâm lược Cuba được công nhận đã đánh dấu việc biến Castro trở nên nổi tiếng hơn, tạo ra thêm các tình cảm quốc gia ủng hộ cho các chính sách kinh tế của ông. Sau những vụ tấn công ban đầu của 8 chiếc B-26 thuộc sở hữu của CIA vào các sân bay Cuba, ông đã tuyên bố cuộc cách mạng Cuba là "Marxist-Leninist". Sau cuộc xâm lược, ông theo đuổi một quan hệ thân cận hơn với Liên Xô, một phần để được bảo vệ, và điều này giúp mở đường cho cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba một năm rưỡi sau đó.
Castro khi ấy đã trở nên lo ngại về sự can thiệp tiếp theo của Hoa Kỳ và càng cởi mở hơn với đề xuất của Liên Xô về việc đặt các vũ khí hạt nhân ở Cuba nhằm đảm bảo an ninh cho nước này.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top