[Funland] Chiến tranh điện tử (từ eo Đối Mã đến Lebanon và quần đảo Falkland)

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 17. Các cuộc chiến tranh Ả Rập - Israel

17.1. Chiến tranh Sáu ngày


Quân dù Israel bên Bức Tường Tây Jerusalem sau khi chiếm được nó trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày

Sau trận chiến Sinai 1956 - cuộc thứ 2 trong một chuỗi dài các cuộc chiến tranh không dài ở Trung Cận Đông - trong khu vực bất ổn này của thế giới, tiếp đến là một thời gian yên tĩnh khá dài. Trong giai đoạn này, cả người Ả Rập và Israel bắt đầu hiện đại hóa lực lượng vũ trang của mình trên cơ sở kinh nghiệm thu được từ cuộc xung đột vừa qua.

Israel nhận được từ Mỹ một số hệ SAM Hawk, từ Vương quốc Anh - xe tăng Centurion. Pháp cung cấp cho họ máy bay chiến đấu Dassault - Breguet Mirage III và Super Mystere, tăng cường đáng kể lực lượng không quân của họ. Bây giờ, người Israel có lực lượng không quân rất hiệu quả, được trang bị các máy bay cánh cố định và máy bay trực thăng chất lượng tuyệt vời.

Trong khi đó, Nga cung cấp cho Ai Cập một số lượng lớn vũ khí hiện đại như máy bay tiêm kích MiG-21 và máy bay ném bom Tu-16.


Vị trí eo biển Tiran ra Biển Đỏ

Trong những tháng đầu tiên của năm 1967, sau một loạt sự kiện trên biên giới Israel, mối quan hệ giữa Israel và các nước Ả Rập láng giềng bắt đầu xấu đi. Vào mùa xuân năm đó, Ai Cập đã yêu cầu Liên Hiệp Quốc rút quân đội trung lập cách ly các bên ra khỏi bán đảo Sinai, và đưa trở lại đó quân đội của mình quân số 100.000 người và khoảng 1.000 xe tăng. Căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi Tổng thống Ai Cập Nasser đóng cửa eo biển Tiran và bằng cách đó không cho phép tàu Israel đi vào Biển Đỏ từ Vịnh Aqaba. Israel ngay lập tức đặt quân đội vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, để chuẩn bị tiến hành các hoạt động chiến lược chớp nhoáng. Lý do không chỉ nằm ở chỗ sự can thiệp của quốc tế đã đặt dấu chấm hết tình trạng thù địch, ngay sau khi mọi chuyện trở nên rõ ràng rằng Israel sẽ thắng, mà còn vì một cuộc huy động quy mô lớn sẽ sớm dẫn đất nước đến tê liệt.

Các nước Ả rập (Ai Cập, Syria, Iraq và Jordanie) triển khai dọc các đường biên giới với Israel gần một triệu quân được trang bị tốt, 700 máy bay chiến đấu và khoảng 2.000 xe tăng, sẵn sàng tấn công đối phương từ mọi phía.

Cả thế giới nín thở theo dõi các sự kiện này, sợ rằng đang trên bờ vực của Chiến tranh Thế giới III. Tất cả các hệ thống tình báo điện tử đa dạng tập trung vào tình hình ở Trung Cận Đông.

Các tàu Hải quân Liên Xô ở Địa Trung Hải, đặc biệt là những tàu được thiết kế đặc biệt để thực hiện các hoạt động do thám điện tử, liên tục nghe trộm toàn bộ dải phổ điện từ, khi theo dõi tình hình đang căng thẳng.

Hạm đội 6 Hoa Kỳ hướng về vùng biển phía đông Địa Trung Hải, còn các máy bay chuyên dụng được trang bị các hệ thống điện tử tiên tiến nhất thì giám sát các khu vực Israel, Sinai, và hầu như toàn bộ Trung Cận Đông. Các tàu - SIGINT, lớp "Liberty", liên tục tuần tra gần vùng lãnh hải các nước Trung Đông. Chúng được trang bị các thiết bị điện tử rất nhạy cảm, có thể đánh chặn và giải mã tất cả các bức điện vô tuyến của người Ả Rập và Israel, cũng như đánh chặn và phân tích tất cả các bức xạ radar của họ. Người Anh cũng theo dõi tình hình từ trạm giám sát của mình trên dãy núi Troodos ở đảo Síp.


Trạm SIGINT của RAF trên núi Troodos đảo Síp ngày nay

Đương nhiên, tất cả các radar Ai Cập đã ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu thường trực; chúng có 23 trạm, trong đó 16 trên bán đảo Sinai. Tất cả không phận và các tuyến đường biển duyên hải dọc bờ biển Ai Cập được các radar phát hiện sớm theo dõi. Radar Israel và các phương tiện thông tin vô tuyến cũng được chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu hoàn toàn.

Chiến tranh Sáu ngày bắt đầu vào ngày 05 tháng 6 năm 1967. Ngày này cũng đánh dấu sự khởi đầu một loạt các vấn đề điện tử kéo dài trong nhiều năm.Đúng 07:45 Israel bắt đầu cuộc tấn công bất ngờ nhằm chiếm cho mình ưu thế trên không, điều đó đến lượt nó sẽ cho phép họ đạt được các mục tiêu khác. Kế hoạch hành động rất khéo léo và chính xác của họ là giáng đòn tấn công vào các căn cứ không quân và tiêu diệt tất cả các máy bay chiến đấu của đối phương đậu trên mặt đất. Điều kiện tiên quyết (sine qua non) cho thành công của chiến dịch này là để bắt kẻ thù bất ngờ và làm tê liệt hệ thống thông tin liên lạc và giám sát của đối phương. Để không gây ra sự nghi ngờ nào dù nhỏ nhất cho cuộc tấn công sắp xảy ra, Israel đã xây dựng một kế hoạch khéo léo lừa địch. Các chuyến bay huấn luyện vào buổi sáng hàng ngày vẫn được thực hiện như bình thường, nhưng đòn tấn công của họ đã được lên kế hoạch đúng 7:45, bởi vì các phi công Ai Cập được báo động chiến đấu từ sáng sớm đến 07:30 - quãng thời gian thường bắt đầu các cuộc chiến tranh, sau đó sẽ tập hợp đi ăn sáng trong nhà ăn, còn các sĩ quan tham mưu sẽ tập hợp đi làm việc.

Trinh sát trên không ban đầu cho thấy việc bố trí chính xác các phi đội máy bay đối phương và các trận địa, khu vực giám sát và vùng chết của radar; người Israel thậm chí đã mở tuyến không trình giữa các tòa tháp và giáo đường của Cairo, nhờ đó, ở độ cao thấp, tránh được radar kẻ thù phát hiện, họ có thể bắt đầu một cuộc tấn công bất ngờ xuống căn cứ không quân Tây-Cairo, tại đó triển khai MiG-21 thuộc hệ thống phòng vệ thủ đô Ai Cập, cũng như máy bay ném bom hạng nặng Tu-16, có thể dùng vào các cuộc tấn công xuống Tel Aviv. Sau khi các bức ảnh trinh sát được khéo léo giải mã, người Israel đã thành công trong việc phân biệt máy bay thực sự với các mô hình, mà người Ai Cập dựng lên nhằm đánh lạc hướng các phi công Israel.

Thay vì bay thẳng đến mục tiêu, làn sóng tấn công đầu tiên của các máy bay Israel bay trên vùng biển mở, cách xa bờ biển Ai Cập, rồi đổi hướng, bay ở độ cao thấp trên đỉnh sóng, xông đến từ phía tây, hoàn toàn không từ hướng mà người Ai Cập chờ đợi cuộc tấn công.

Cuộc tấn công bắt đầu theo kế hoạch, vào đúng 07:45. Tại thời điểm này, tất cả các máy bay Ai Cập đang còn trên mặt đất, ngoại trừ một chiếc máy bay hai động cơ Il, đã bay đến biên giới Israel cùng với ba sĩ quan cấp cao của lực lượng vũ trang Ai Cập. Một trong số đó là Tổng Tham mưu trưởng, tướng Amer. Họ lắng nghe các cuộc đàm thoại trên tần số mà các phi công Israel sử dụng trong các chuyến bay thông thường của họ, nhưng không nhận ra bất cứ điều gì bất thường. Đột nhiên, trung tâm kiểm soát không lưu căn cứ không quân Ai Cập truyền cho viên tướng biết tin căn cứ không quân vừa chịu một cuộc không kích. Đó chính là lúc 07:45, chiếc IL ngay lập tức quay lại, và trên đường hướng tới căn cứ không quân, viên tướng ra lệnh bằng radio cho BCH trên mặt đất cố gắng tìm hiểu những gì đang xảy ra, nhưng tất cả những điều mà họ có thể nghe thấy chỉ là sự hỗn tạp chói tai của những tiếng nói và tiếng ồn. Mỗi lần khi họ muốn tiếp đất ở đâu đó, thì họ hiểu ra một vài từ đơn giản rằng sân bay đang bị tấn công. Họ đã cố gắng nhiều lần tiếp đất trên một trong nhiều căn cứ không quân Ai Cập trong khu vực kênh đào Suez, nhưng tất cả đều bị đánh bom, đường băng của chúng đã không còn dùng được. Cuối cùng, chiếc Il tiếp đất thành công tại sân bay quốc tế Cairo, ba viên tướng vội vã đến trụ sở bộ tham mưu, nơi người ta báo cáo họ rằng, gần như tất cả lực lượng không quân Ai Cập đã bị tiêu diệt.


Lính Do Thái xem xét máy bay MiG-21 Ai Cập bị phá hủy bởi chiến dịch không kích phủ đầu Focus trong Chiến tranh Sáu ngày. Sân bay Bir Gifgafa trên bán đảo Sinai, tháng 6 năm 1967.

Tính đến số lượng hạn chế máy bay có sẵn mà họ có và thực tế là cự ly họ phải bay là khá nhỏ, người Do Thái đã có cơ hội nhiều lần sử dụng máy bay, bằng cách đó nhân số phi vụ lên. Sau đợt tấn công đầu tiên, vốn là sự bất ngờ hoàn toàn với Ai Cập vì radar và phương tiện thông tin liên lạc của họ đã bị làm mù mắt bịt tai, các máy bay Israel quay trở lại sân bay để tiếp nhiên liệu và nạp lại vũ khí đạn dược rồi bay tiếp với các phi công khác. Phá hủy xong 300 trong số 320 máy bay Ai Cập, Israel ngay lập tức chuyển sự tàn phá sang lực lượng không quân các quốc gia Ả Rập khác giáp biên giới với Israel. Sau các cuộc tấn công nhanh chóng, Không quân Iraq, Jordanie và Syria đã bị tiêu diệt.

Chỉ sau chưa đầy hai ngày, với một số ít máy bay, Không quân Israel tiến hành được khoảng 1.100 phi vụ, và nhiều phi công thực hiện 8 - 10 chuyến bay mỗi ngày.

Đến thời điểm này, Israel đạt được ưu thế tuyệt đối trên không và đã có thể chuyển sang yểm trợ trực tiếp các lực lượng mặt đất. Quân đoàn viễn chinh Ai Cập ở Sinai, quân số 100.000 người, đã bị nghiền nát và đánh bại hoàn toàn bởi các đơn vị tăng thiết giáp Israel và quẳng lại trên chiến trường toàn bộ hệ thống vũ khí mới, bao gồm cả xe tăng và thiết bị điện tử vừa nhận được từ Nga.

Tổng thống Ai Cập Nasser không thể tin rằng người Israel, không cần trợ giúp bên ngoài, lại có thể đạt được các kết quả xuất sắc như vậy chỉ trong một lát cắt thời gian ngắn ngủi. Lập luận rằng không thể dùng một lực lượng không quân nhỏ như thế để thực hiện nhiều phi vụ, ông cố gắng thuyết phục đồng minh của mình - Vua Hussein của Jordan, rằng Israel được các máy bay Mỹ và Anh giúp sức. Tuy nhiên, người Israel thường xuyên chặn thu tất cả các bức xạ điện từ của đối phương, đã công bố cuộc trò chuyện điện thoại vô tuyến diễn ra hồi 4:45 ngày mùng 6, giữa Tổng thống Nasser và vua Hussein. Từ cuộc trò chuyện trên, thậm chí người Nga cũng hiểu rõ là các nhà lãnh đạo Ả Rập đã âm mưu lan truyền tin đồn Hoa Kỳ và Vương quốc Anh tham gia vào các cuộc tấn công của Israel. Kết quả của vụ đánh chặn cuộc đối thoại này làm tình hình quốc tế căng thẳng được dịu xuống, và viễn cảnh chiến tranh với sự tham gia của các siêu cường quốc đã tránh được.

Như thường xảy ra trong các cuộc chiến tranh, ngay cả người chiến thắng cũng phạm sai lầm. Và trong cuộc chiến này, người Israel cũng phạm phải một vài lỗi như vậy, một trong số đó là một lầm lẫn đặc biệt nghiêm trọng. Sáng ngày 08 tháng 6, gần El Arish, tàu do thám của Hải quân Mỹ "Liberty" bị tấn công bởi hai máy bay chiến đấu Mirage của Israel và ba tàu pháo. Họ nhầm lẫn tàu Mỹ với tàu khu trục Ai Cập trang bị thiết bị tác chiến điện tử để chế áp radar Israel. Con tàu-xui xẻo bị hư hại nặng, 34 thành viên kíp thủy thủ của tàu đã thiệt mạng, 75 người bị thương. Chính phủ Mỹ chấp nhận lời giải thích và bào chữa của Israel, mặc dù rất khó hiểu làm thế nào Israel có thể nhầm lẫn với tàu khu trục với tàu gián điệp. Trung úy James M.Ennes, sĩ quan-kĩ sư điện tử tàu "Tự do", cho biết cuộc tấn công được phối hợp tốt đến mức rất khó để gọi nó là một vụ lầm lẫn. Mặt khác, lời giải thích của Bộ Ngoại giao Mỹ về việc tàu do thám đang làm gần vùng lãnh hải Ai Cập, cũng hoàn toàn không hiểu được. Người ta nói rằng con tàu ở đó để "đảm bảo" liên lạc giữa các trạm nghe lén của Mỹ ở Trung Cận Đông.

Sự thật là các tàu Mỹ kiểu như "Tự do" và tàu SIGINT tương tự của Nga ở trong khu vực này để đánh chặn và ghi lại bức xạ phương tiện thông tin liên lạc và bức xạ radar và chuyển tiếp chúng tới các chính phủ của họ, đang theo dõi chặt chẽ những diễn biến trong khu vực dễ bùng nổ này của thế giới.


Xuồng cao tốc phóng lôi Israel dàn đội hình. Trong cuộc tấn công ngày 8 tháng 6 năm 1967, USS Liberty đã dính cả ngư lôi và bom của người Do Thái.

Israel đã làm thế nào để có thể hoàn toàn tiêu diệt lực lượng không quân Ai Cập trong hai giờ, mà không cho Ai Cập có thời gian phản ứng?

Vì những lí do hiển nhiên, Israel không bao giờ tiết lộ kế hoạch các chiến dịch điện tử của mình. Tuy nhiên, với 23 radar Ai Cập và nhiều tàu do thám Mỹ và Liên Xô, rất khó để tin rằng, trong thời gian cuộc tấn công, tất cả các trắc thủ, hiệu thính viên đều ngủ say như chết. Cũng khó để tin rằng các phi công Ai Cập đã không được nhận lệnh trước và sau mỗi cuộc không kích.

Lời giải thích nằm trong thực tế là vào năm 1967, đối với Israel đối kháng điện tử không chỉ là lịch sử các chiến dịch của người Anh trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi họ truyền các báo cáo giả, bóp méo tín hiệu radar hướng dẫn máy bay ném bom của đối phương và chế áp radar của địch. Chiến tranh Việt Nam đã diễn ra nhiều năm, và Israel biết rằng người Mỹ phải viện đến việc sử dụng các thiết bị phát nhiễu để chống lại tổ hợp TLPK S-75 Liên Xô và radar dẫn bắn pháo PK 57-mm.

Người Israel đã không có bất kỳ hành động nào chống lại radar Ai Cập cho đến 7:45 ngày mùng 5 tháng 6, vì yếu tố bất ngờ là điều cần thiết cho sự thành công của các chiến dịch và do đó, người Do Thái không thể mạo hiểm khơi dậy sự nghi ngờ của kẻ thù. Đúng 7:45, hầu hết các trạm radar ở xa đã bị tấn công và đánh hỏng, còn những trạm rơi vàovùng hoạt động của các thiết bị điện tử của người Israel, đều bị gây nhiễu. Hơn nữa, trong và sau cuộc tấn công đầu tiên, các điện đài viên người Israel nói tốt tiếng Ả Rập, phát vào trong hệ thống liên lạc vô tuyến của lực lượng phòng kẻ thù những mệnh lệnh sai thay cho mệnh lệnh thực và nói chung làm rối loạn và gấy trở ngại cho Bộ chỉ huy Ai Cập sử dụng liên lạc vô tuyến. Còn trong một số trường hợp, người Israel gây nhiễu cả các hệ thống radar và thông tin liên lạc của người Mỹ lẫn người Nga.
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

17.2. "Chiến tranh Tiêu hao"



Xe tăng Do Thái trên cao nguyên Gô-lan.

Người Israel dĩ nhiên hy vọng rằng chiến thắng của họ trong Sáu ngày chiến tranh chớp nhoáng sẽ đảm bảo một quãng thời gian dài có hòa bình và cho phép họ hòa đàm ở tư thế thuận lợi hơn.

Niềm tin này được xác nhận bởi tất cả kết quả của các chiến dịch ngắn nhưng thành công của họ : bộ máy quân sự của Ai Cập đã hoàn toàn bị phá hủy, Jordanie mất phần lớn quân đội và vùng lãnh thổ của mình, còn Syria bị mất địa bàn chiến lược quan trọng trên cao nguyên Golan. Nhưng quan trọng nhất trong tất cả là một thực tế giờ đây Israel đã chiếm đóng toàn bộ bán đảo Sinai, một vùng đệm rất tốt giữa họ và nước Ai Cập quân sự hóa. Ở đây, họ có thể tạo ra một mạng lưới radar phát hiện sớm và bố trí các hệ thống điện tử quan trọng để đảm bảo công tác giám sát các vùng lãnh thổ thù địch, đó là những gì họ muốn từ đã lâu.

Tuy nhiên, tình thế lý tưởng này không xảy ra. Kết thúc Chiến tranh Sáu ngày đánh dấu sự khởi đầu một chuỗi dài các cuộc xung đột vũ trang - cái gọi là "chiến tranh tiêu hao", đã trở thành có thể nhờ cả hai bên đều có các phương tiện EW hoàn hảo nhất.

Người Soviet sợ kênh đào Suez có thể rơi vào tay Israel, họ nhanh chóng bổ sung cho cỗ máy quân sự cạn kiệt của Ai Cập máy bay, xe tăng và pháo binh hiện đại, để ngăn chặn ý muốn của người Israel vượt qua kênh đào. Chỉ hai tuần sau thảm bại, Ai Cập nhận được từ Nga 200 máy bay, chủ yếu là MiG-21 và Su- 7, xe tăng hiện đại T-55 và nhiều PPK có radar dẫn bắn. Do đó, Ai Cập bù lại được 70% thiệt hại của họ và bây giờ có số vũ khí chất lượng tốt hơn nhiều so với trước chiến tranh.


Địa điểm của "Chiến tranh tiêu hao"

Vì trong quá trình cuộc chiến tranh Sáu ngày, phần lớn máy bay Ai Cập bị phá hủy trên mặt đất, Ai Cập bị mất rất ít phi công, do đó không quân Ai Cập có cơ hội để gửi nhiều người trong số đó sang đào tạo lại tại Nga, trong khi không làm suy yếu gì mấy đội ngũ đơn vị chiến đấu của họ.

Tuy nhiên, với người Israel, việc mất 40 máy bay trong chiến đấu là một tổn thất nghiêm trọng, do quy mô hạn chế của LL không quân. Vì các lý do chính trị, nhà cung cấp thường xuyên của Israel - nước Pháp, áp đặt lệnh cấm vận lên gói cung cấp 50 máy bay Mirage tiếp theo, còn Hoa Kỳ phản đối việc cung cấp các máy bay tiêm kích-ném bom A-4 Skyhawk mà họ đã hứa.

Các cuộc đàm phán hòa bình bị hoãn lại vì người Ai Cập tiếp tục tích lũy các loại vũ khí mới. Ai Cập từ chối chấp nhận tình hình lãnh thổ mới có lợi cho Israel và bắt đầu ném bom thường xuyên các vị trí của Israel trên bờ phía đông kênh đào Suez.

Ngày 21 tháng 10, vài tháng sau cuộc Chiến tranh Sáu ngày, một sự kiện xảy ra nâng tinh thần của người Ai Cập lên rất nhiều : tàu Israel "Eilat" - tàu cũ của người Anh, thời Thế chiến thứ Hai là tàu khu trục "Zilos", độ choán nước 1.710 tấn, bị đánh trúng và đánh chìm bởi các tên lửa phóng từ các tàu phóng ngư lôi Ai Cập đậu tại Port Said. Trong 202 thành viên thủy thủ đoàn "Eilat" có 47 thiệt mạng và 91 người bị thương. Vụ việc gây ra một nỗi kinh hoàng bởi lần đầu tiên một tàu chiến bị đánh chìm bởi các quả đạn tên lửa, cũng vì thế phiên bản chuyện đã xảy ra của cả hai bên khác nhau rất nhiều.

Như người Israel nói, tàu "Eilat" ở cự ly cách Port Said 22 km, cách lãnh hải Ai Cập 3 km, khi nó trúng hai quả tên lửa P-15U "Termit-U" từ một xuồng tuần tra do Liên Xô chế tạo kiểu "Komar". Tên lửa do Liên Xô chế tạo có radar tự dẫn đường (loại chủ động. Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga), tầm bắn khoảng 40-50 km và đầu đạn nặng 400kg. Sau khi trúng đạn, "Eilat" lộn sống tàu lên nhưng không chìm. Hai giờ sau, người Ai Cập thấy rằng con tàu vẫn nổi, họ bắn thêm hai quả đạn T-15U, một trong hai quả đạn đó đã dìm con tàu xuống đáy, còn quả thứ hai bùng nổ trên mặt nước, giết chết và làm bị thương nhiều người trong thủy thủ đoàn.


Sơ đồ trận đánh chìm "Eilat"

Người Ai Cập cũng nói rằng "Eilat " khi đó nằm ở cự ly cách Port Said 16 km, bên trong vùng lãnh hải Ai Cập. Họ chỉ bắn có hai tên lửa, và thế là đủ để nhấn chìm tàu Israel ngay lập tức. Ai Cập cũng bác bỏ cáo buộc cho rằng trên con tàu tuần tra nhỏ của họ có các cố vấn quân sự của Liên Xô.

Dù hoàn cảnh vụ đánh đắm tàu "Eilat" ra sao - đó là một chiến thắng tuyệt vời cho người Ai Cập, củng cố niềm tin của họ vào các lực lượng vũ trang cũng như niềm tin của họ vào việc không thảo luận hòa bình với Israel.

Từ một quan điểm khách quan hơn, vụ đắm tàu khu trục bởi tên lửa phóng từ tàu tuần tra cỡ nhỏ và ảnh hưởng mạnh mẽ của thực tế này đến những tư tưởng về hải quân, đánh dấu sự khởi đầu của nhiều thay đổi trong việc chế tạo các tàu chiến và trang bị vũ khí cho chúng, chưa kể chiến thuật sử dụng chúng. Sự kiện này là tiếng chuông cảnh báo với các hạm đội lớn nhất thế giới, buộc họ phải hiểu rằng ngay cả những tàu chiến lớn nhất thì hầu như cũng không có khả năng tự vệ chống lại một mối đe dọa mới - tên lửa có cự ly hoạt động lớn hơn hẳn so với pháo hạm, và hơn nữa, có thể phóng từ tàu tuần tra nhỏ hoặc xuồng phóng ngư lôi. Nhưng nỗi kinh hoàng lớn nhất của phương Tây chính là thực tế rằng Nga đã cung cấp cho nhiều hạm đội nhỏ, mà một số hạm đội thuộc về các nước khối Cộng Sản, không chỉ tàu lớp "Komar", mà cả những tàu lớn hơn thuộc lớp "Osa", trên đó có một số lượng lớn tên lửa.

Phản ứng của Israel trược vụ đánh chìm "Eilat" là rất nhanh chóng và tàn bạo : buổi sáng ngày 24 tháng 10, lần đầu tiên người Israel ném bom thành phố và cảng Suez, sau đó tấn công hai nhà máy lọc dầu lớn ở vùng ven biển, có sản lượng khoảng 5 triệu tấn nhiên liệu mỗi năm. Ngoài ra, máy bay Israel còn tấn công căn cứ tại cảng Alexandria, nơi có các tàu tên lửa lớp "Osa" và lớp "Komar".


Lính commandos Do Thái rời trực thăng bước vào chiến dịch Tarnegon-53 đánh chiếm radar P-12

Sau khi trao đổi nhau những đòn tấn công, bờ kênh đào Suez trở thành chiến trường của các trận đấu tay đôi thường xuyên diễn ra hàng ngày của pháo binh, của các cuộc đột kích của lính commando, các trận không chiến và ném bom, đặc biệt là từ phía Israel, vì họ đang chiếm ưu thế cục bộ trên không.

Pháo cao xạ Ai Cập, không có radar dẫn bắn đã không thể đối phó lại những cuộc không kích của Israel. Để thay đổi cán cân lực lượng, vào cuối năm 1968, Nga đã đồng ý cung cấp cho Ai Cập tổ hợp S-75, lần đầu tiên xung trận năm 1965 tại Việt Nam, và chúng đã được sử dụng cho đến khi kết thúc Chiến tranh Sáu ngày ở mặt trận Syria. Chúng được triển khai trong một dải 25 km chạy dọc bờ phía tây kênh đào Suez. Tuy nhiên, cũng như ở Việt Nam, S-75, do lỗi trong thiết kế của nó (như đã đề cập trong Chương 16 về cuộc Chiến tranh Việt Nam), không gặt hái được nhiều thành công. Ngoài những thiếu sót đã biết, trên không gian chiến trường kênh đào Suez đã phát hiện thêm hai nhược điểm. Đầu tiên là tính di động hạn chế của hệ thống, vốn phải được kéo bằng xe đầu kéo và mất một thời gian nhất định để triển khai và chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu; điểm thứ hai là hệ thống radar dẫn đường làm việc ở độ cao trên 6000 mét, và do đó, không có hiệu quả khi chống lại máy bay bay thấp.

Tương tự các phi công Mỹ ở Việt Nam, người Do Thái cũng phải học bài hát nổi tiếng "SAM song" - những âm thanh đặc biệt của bức xạ xung radar S-75, có nghĩa là tên lửa đang bay lên phía máy bay. Có lẽ, Israel đã chiếm được tổ hợp S-75 vào năm 1967, trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến đấu trên Cao nguyên Golan ở Syria, và không nghi ngờ gì nữa, họ biết được chính xác tần số hoạt động, vì vậy đã phát triển các thiết bị gây nhiễu liên quan vốn chỉ có thể chế tạo được trên cơ sở hiểu biết về thông tin đó.

Như vậy là ở Trung Đông đã bắt đầu một cuộc chiến tranh "không tuyên bố"- trận chiến điện tử "ủy nhiệm" vì không ai trong số các bên, cả Ai Cập lẫn Israel, sở hữu nền công nghiệp có khả năng sản xuất ra các hệ thống điện tử công nghệ tiên tiến như vậy, vì thế thiết bị họ sử dụng tương ứng đều do Liên Xô và các cường quốc phương Tây cung cấp.


Đường cơ động của biệt kích dù Israel trong chiến dịch Tarnegon-53

Để tìm ra phương pháp ECW hiệu quả chống lại tên lửa có điều khiển của hệ thống PK, việc đầu tiên là cần phải biết các đặc tính chính xác của các radar đang được sử dụng. Vì vậy, trong năm 1969, Israel và Ai Cập bắt đầu thực hiện các cuộc tấn công vào lãnh thổ đối phương, mục đích của chúng là chiếm các radar đối phương mà họ quan tâm, hoặc ít nhất cũng là những thành phần quan trọng nhất của nó, những thứ đủ để thu được các thông tin cần thiết.

Tháng 6 năm 1969, người Ai Cập thực hiện ba cuộc đột kích, trong đó họ phá hủy được một số vị trí radar của Israel. Cũng trong tháng đó, người Do Thái cũng đã đột kích vào khu vực 10 km về phía nam kênh đào Suez, trong đó, theo họ cho biết, họ đã phá hủy một vị trí radar của người Ai Cập. Trong tháng Sáu, Israel thông báo họ đã bắt giữ trong kênh đào Suez một xuồng thuộc lực lượng phòng vệ bờ biển Ai Cập. Trong tháng Bảy, biệt kích Israel tấn công pháo đài trên đảo Green, ở phía bắc kênh đào Suez. Tại đó có một tháp lắp đặt radar, bao quanh bởi những bức tường cao. Lính Israel vượt qua bức tường, giết chết lính bảo vệ, tháo gỡ những bộ phận đáng quan tâm của radar, phần còn lại thì họ phá hủy. Toàn bộ chiến dịch mất chưa quá một giờ.

Ngày 9 tháng 9, trên bờ biển phía nam Ai Cập, người Do Thái đã tiến hành một hoạt động quy mô lớn. Lúc bình minh, một đoàn công-voa nhỏ gồm các tàu pháo và tàu đổ bộ, chở 6 xe tăng và 3 xe chiến đấu bộ binh, ra khỏi một trong những cảng trên bán đảo Sinai và hướng về bờ biển phía nam Ai Cập. Tất cả các xe tăng và BMP do Liên Xô chế tạo, có sơn phù hiệu quân đội Ai Cập. 150 lính Israel mặc quân phục Ai Cập, đều nói tốt tiếng Ả Rập. Ngay sau lúc mặt trời mọc, biệt kích Israel vận quân phục ngụy trang đã đổ bộ cách 50 dặm về phía nam kênh đào Suez mà không bị phát hiện, họ đi thẳng đến trạm radar gần El Khafaer mà họ nhanh chóng tháo dỡ. Sau đó, trên con đường dọc theo bờ biển, họ đi về phía nam, nơi đội hộ tống đường không và đường biển hội quân với họ, giúp họ tiêu diệt tất cả các công trình quân sự của kẻ thù dọc theo tuyến đường họ đi.

Vị trí radar gần Ras Darg là đối tượng bị phá hủy đầu tiên, tiếp theo là vị trí gần cảng nhỏ của Ras Zofaran, cách 90 km về phía nam kênh đào Suez; ở đây họ chiếm được một số xe BMP mới do Liên Xô chế tạo, mà họ mang đi cùng về Israel với tất cả các thiết bị điện tử của xe để nghiên cứu tiếp.


Ngày 26 tháng 12 năm 1969. Lính biệt kích dù Israel tháo dỡ radar Nga đánh chiếm được trước khi chuyển lên trực thăng

Tuy nhiên, trường đoạn quan trọng nhất xét trên quan điểm của các nhà điện tử học, là vụ lính Israel đánh chiếm được toàn bộ thiết bị của radar P-12 (NATO Spoon Rest) tại căn cứ hải quân Ai Cập ở Ras Galeb trên Biển Đỏ trong một cuộc đột kích, diễn ra ngày 29 (26?) tháng 12 năm 1969. Radar này do Liên Xô chế tạo, mới được lắp đặt gần đây tại Ras Galeb để hoàn thành việc xây dựng mạng lưới phát hiện sớm của người Ai Cập. Nó có tầm hoạt động 270 km, có khả năng phát hiện các máy bay cất cánh từ căn cứ không quân Israel ở bờ phía bên kia kênh đào Suez và bám sát chúng cho đến khi radar S-75 khóa được mục tiêu. Radar P-12 và S-75 làm việc hỗ trợ nhau; tại một thời điểm xác định, máy bay được chuyển giao sang cho radar của tổ hợp S-75, radar tổ hợp sẽ dẫn tên lửa tới máy bay.

Radar P-12 nặng bảy tấn, và để chuyên chở nó phải mất hai đầu kéo hạng nặng. Người Israel hầu như không biết gì về các đặc tính của radar, và vì thế muốn tìm một biện pháp ECW hiệu quả, họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải đánh chiếm toàn bộ bộ khí tài và nghiên cứu nó. Nó trở thành mục tiêu của cuộc đột kích commando Ras Galeb, nằm cách 184 km về phía nam kênh đào Suez.

Để đánh lạc hướng kẻ thù khỏi chiến dịch, trong thời gian đó người ta lên kế hoạch không kích bờ Ai Cập của kênh đào. Sau khi đổ quân, biệt kích Israel vòng qua vị trí radar, họ di chuyển từ phía sa mạc, tiến vào công kích. Sau khi đánh chiếm đối tượng, hai máy bay trực thăng lớn đã bay đến chỗ họ, tiếp nhận và chuyển tiếp radar P-12 về Israel.

Có trong tay bản mẫu thực của radar đối phương, người Do Thái đã dễ dàng hơn rất nhiều trong việc tìm ra biện pháp đối kháng điện tử thích hợp để chế áp hoặc đánh lừa loại radar này. Họ đã có thể phát hiện và xác định tần số hoạt động và đặc tính quan trọng khác của nó, bao gồm đặc điểm chống-đối kháng điện tử, tích hợp vào P-12 để bảo vệ nó khỏi hoạt động ECM của đối phương.

Israel không phải là quốc gia duy nhất quan tâm đến việc tìm ra biện pháp ECW thích hợp, có khả năng làm giảm hiệu quả của P-12. Các nước NATO cũng rất quan tâm đến việc này, và trải qua một thời gian chưa phải là dài, các chuyên gia phương Tây đã trả lời bằng việc chế tạo ra các thiết bị thích hợp để chế áp chúng và đánh lạc hướng chúng.
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)


Vị trí ăng-ten UKV của tổ hợp S-125 Ai Cập

Cuối năm 1969, trong các bài xã luận trên các tờ báo của mình, người Israel thông báo việc chuyển khỏi nước Pháp 5 tàu tuần tra cao tốc độ dãn nước 250 tấn. Đây là số cuối cùng trong 12 tàu Israel đã đặt hàng trước có lệnh cấm vận của Tổng thống De Gaulle. Năm tàu đã được chuyển đến cảng Cherbourg, trên mỗi tàu có một thủy thủ đoàn tối thiểu. Vào đêm Giáng sinh, lợi dụng sự lỏng lẻo của đội bảo vệ, họ trốn khỏi bến cảng và ra khơi phóng hết tốc độ, hướng về bờ biển quê hương, đêm giao thừa đã đến Haifa trước đám đông cuồng nhiệt vui mừng chào đón. Năm tàu pháo trên, cũng như 7 chiếc trước đã ở Israel, được trang bị tên lửa diện-đối-diện Gabriel do Israel sản xuất và phương tiện ECW chủ động.

Trong khi đó, "cuộc chiến tranh tiêu hao" không tuyên bố dọc theo bờ kênh đào Suez, ngày càng trở nên khốc liệt hơn, sau mỗi cuộc tấn công của lính commando lại đến đòn trả thù của phía bên kia. Người Israel bắt đầu sử dụng máy bay của họ như một pháo bay chống lại các bệ phóng TLPK S-75. Nhiều trận địa SAM Ai Cập bị tiêu diệt, nhưng những chiếc máy bay Israel cũng đã bị bắn hạ rất nhiều.

Viện trợ cho Israel đến từ phía Hoa Kỳ, họ cung cấp cho Israel các máy bay McDonnell -Douglas F-4 Phantom. F-4 đã đóng một vai trò quan trọng trong không chiến trên bầu trời Việt Nam. Chúng đã chứng tỏ mình là một loại máy bay đánh chặn xuất sắc, nhưng cũng rất phù hợp cho việc yểm trợ hỏa lực trực tiếp cho các lực lượng mặt đất và tấn công mục tiêu mặt đất. Nhưng có lẽ quan trọng nhất là cùng với F-4 Phantom, người Israel nhận được cả các thiết bị EW bố trí trong các thùng chứa đặc biệt treo vào máy bay.


Trận địa S-125 Ai Cập

Các bộ RWR trong container cũng được cài đặt trên các máy bay tiêm kích chiến thuật hạng nhẹ A-4 Skyhawk ; trong các container cũng lắp các máy phát nhiễu mới có khả năng hoàn toàn làm mù radar P-12, chúng được phát triển trên cơ sở các dữ liệu thu được sau khi chiếm được radar này vài tháng trước. Thiết bị gây nhiễu mới và các thiết bị điện tử khác có khả năng giám sát trạng thái điện tử khắp khu vực kênh đào Suez, cũng đã được lắp đặt trên một phiên bản của máy bay Boeing B-47 Stratocruiser. B-47 trở thành một trong những máy bay đầu tiên được thiết kế đặc biệt chỉ dành cho các nhiệm vụ EW. Các máy bay này đã khẳng định tầm quan trọng rất lớn của chúng đối với Israel. Ở độ cao lớn hơn, vì các lý do an ninh dễ hiểu, cách xa mặt trận, chúng bay song song với kênh đào Suez và dọc biên giới với Syria, chúng có khả năng quan sát các hành động của kẻ thù trong không trung, và khi cần thiết, sẽ vô hiệu hóa hệ thống radar phòng không của địch.

Trong ba hoặc bốn tháng đầu năm 1970, máy bay Israel dưới sự yểm hộ của chiếc mộc điện tử đã có thể thâm nhập sâu hơn vào không phận đối phương. Mục tiêu đầu tiên của chúng là hệ thống mạng radar nằm dọc theo kênh; sau đó chúng chuyển đến các hệ thống phòng không sâu trong nội địa, bao gồm các radar quan sát và radar dẫn bắn được triển khai xung quanh thủ đô Ai Cập, đập Aswan và các cơ sở quân sự khác.

Người Ai Cập phản ứng bằng các trận pháo kích liên tục dọc theo toàn bộ kênh đào và bằng cả các cuộc không kích MiG-21, bắt đầu đột phá sâu hơn vào lãnh thổ Israel. Tuy nhiên, các cuộc tấn công của người Ai Cập không thành công như của người Israel, máy bay của Israel đã tới tận Cairo và các đối tượng xa hơn, trong khi làm bất lực các tổ hợp S-75 Ai Cập, nhờ thiết bị EW mới của mình.

Ai Cập yêu cầu Liên Xô cấp các loại vũ khí và trang thiết bị tốt hơn để chống lại các chiến dịch tấn công của Israel. Mùa xuân năm 1970, Liên Xô đã trang bị một cách đúng đắn cho Ai Cập tổ hợp TLPK S-125. S-125 có cự ly diệt mục tiêu 34 km và độ cơ động lớn hơn nhiều so với S-75, vì được gắn trên xe ô tô thông thường, và có hiệu quả chống mục tiêu bay thấp cũng tốt như chống máy bay bay cao (90 - 13 500 mét). Mỗi tổ hợp S-125 có bốn bệ phóng, hoạt động phối hợp với hai radar; radar quan sát (NATO phân loại Flat Face) và radar bám sát (NATO phân loại Long Track). Loại đầu tiên có nhiệm vụ phát hiện máy bay-kẻ xâm nhập, loại sau, sau khi khóa mục tiêu sẽ bám sát mục tiêu với độ chính xác đủ phóng đạn TLPK có điều kiển vào chúng.


Radar Nga P-12, bị quân dù Israel đánh chiếm trong đêm 26 tháng 12 năm 1969. Hiện trưng bày tại bảo tàng Không lực Israel ở căn cứ KQ Hatserim.

Ngoài ra, Nga đã cung cấp cho Ai Cập các phiên bản mới của MiG-21 - MiG-21Zh (nguyên bản như vậy. Có lẽ tác giả đề cập đến MiG- 21M và MiG-21MF. Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga), được trang bị loại radar trên máy bay mới hơn, cải tiến hơn so với các phiên bản trước, có thời gian bay dài hơn, cho phép hoạt động sâu hơn trong lãnh thổ Israel.

Sau khi tăng số lượng chuyên gia kỹ thuật Liên Xô, các phi công và cố vấn quân sự kèm theo vũ khí mới, sau vài tháng Liên Xô đã tiếp nhận quyền chỉ huy toàn bộ hệ thống phòng không Ai Cập. Ngay sau đó, từ băng ghi âm các cuộc đàm thoại vô tuyến Ai Cập, người Israel hiểu rằng nhiều MiG- 21Zh được điều khiển bởi các phi công Nga, họ hơi hoảng khi tưởng tượng những gì sẽ xảy ra nếu một trong số đó sẽ bị bắn rơi, điều sớm hay muộn cũng sẽ đến.

Sự tham gia của các phi công Liên Xô, mặc dù các chuyến bay chỉ hạn chế ở khu vực Cairo và các vùng quan trọng khác bên trong Ai Cập, thực sự đã giúp Không quân Ai Cập giải phóng các phi công của mình, tập trung họ vào các chiến dịch tấn công và tập kích trả đũa chống lại Israel. Cả hai bên đều bị tổn thất nặng trong các cuộc không chiến thường xuyên trên bầu trời kênh đào Suez, mặc dù các báo cáo về chúng không thường xuyên được công bố. Trong khi đó, hai bên tiếp tục nhận được các loại vũ khí hiện đại mới và thiết bị điện tử từ các siêu cường, vốn tin rằng Trung Cận Đông là bãi thử nghiệm tên lửa lớn, nơi họ có khả năng thử nghiệm các vũ khí mới của mình trong tình huống chiến đấu thực sự.

Người Israel cũng nhận được thiết bị điện tử bí mật nhất trong tất cả các phương tiện EW - máy phát nhiễu mô phỏng. Loại máy phát này có khả năng bóp méo các dữ liệu liên quan đến cự ly, hướng và tốc độ mà radar đầu tự dẫn tên lửa hoặc radar dẫn bắn của đối phương cố gắng nhận được. Nếu tên lửa bay đến mục tiêu (mặt đất, trên không hoặc trên biển), mà mục tiêu được trang bị máy phát nhiễu mô phỏng, các tín hiệu bức xạ từ máy phát về hướng radar dẫn đường tên lửa, sẽ cho thấy mục tiêu ở một vị trí khác so với tọa độ thực sự của nó. Do đó, đạn TLPK có điều khiển, thay vì tiếp tục đường bay đến đích, sẽ bị lệch khỏi mục tiêu thực khi tiếp nhận thông tin sai lệch.





Ví dụ tạo nhiễu mô phỏng. Máy phát-lặp (hoặc máy phát nhiễu mô phỏng) được gắn trên tàu hoặc máy bay, "sẽ khóa" tín hiệu của radar đầu tự dẫn tên lửa hoặc radar PPK. Những tín hiệu này bị trì hoãn và thay đổi ngay lập tức trước khi tái bức xạ, tạo ra một tín hiệu radar sai. Như vậy, tên lửa có những thông tin sai về mục tiêu : cự ly, tốc độ, hướng, và tiếp theo là tọa độ của nó và bị hướng đến tín hiệu sai, làm cho nó bắn trượt mục tiêu.

Một lợi thế đáng chú ý của phương pháp này là radar của đối phương không hiểu điều gì đánh lạc hướng nó, vì tín hiệu phản hồi từ mục tiêu vẫn như nhau. Điều này là có thể vì khoảng cách đến mục tiêu được tính toán bằng cách đo thời gian trễ giữa xung điện từ bức xạ và phản hồi của nó. Khi máy bay hoặc tàu, được trang bị máy phát nhiễu mô phỏng, radar đối phương bị chiếu xạ, chúng sẽ khá dễ dàng trì hoãn tín hiệu phản hồi hoặc biến đổi độ dài của nó nhằm mục đích tạo thông báo không chính xác về cự ly hoặc hướng của mục tiêu được hiển thị trên màn hình radar đối phương.

Các máy phát nhiễu mô phỏng khá nhỏ và có thể bố trí tương đối dễ trên máy bay, hoặc bên trong thân máy bay, hoặc trong các thùng chứa treo bên ngoài, tại chính các điểm treo bom và thùng dầu phụ. Từ quan điểm sản xuất công nghiệp, loại máy phát như vậy đòi hỏi năng lực kỹ thuật rất hoàn hảo và các công nghệ tiên tiến nhất, đó là điều không dễ dàng có được.

Sự xuất hiện các phương tiện điện tử mới thực sự nâng cao tinh thần chiến đấu của quân đội Israel, còn tướng Moshe Dayan dự đoán "mùa hè điện tử" nóng bỏng nhanh chóng sẽ đến. Trong tháng sáu năm 1970 đã xảy ra một trận đấu ấn tượng giữa máy bay Israel và SAM Ai Cập, dẫn đến sự tiêu diệt hầu hết các tổ hợp S-75 Ai Cập.

Trong khi đó, Không quân Ai Cập cuối cùng cũng đã nhận được những chiếc MiG-23 đầu tiên của Liên Xô vốn được chờ đợi từ lâu; đó là những máy bay tiêm kích tối tân, đa chức năng, cánh cụp cánh xòe, chúng đều tốt như nhau dù là máy bay đánh chặn hay máy bay tấn công khi tấn công các mục tiêu mặt đất cũng như trinh sát, chúng trang bị đầy đủ các tên lửa mới có radar đầu tự dẫn để tiến hành không chiến. Chúng nhanh hơn so với F-4 Phantom và A-4 Skyhawk của Israel, sự xuất hiện của chúng trên bầu trời Ai Cập dẫn đến sự suy giảm đáng kể nhịp độ các cuộc không kích của Israel.

Hơn nữa, việc sử dụng các máy bay MiG-23 đã dẫn đến việc người Do Thái phải giảm số lượng các chuyến bay do thám, vì máy bay sử dụng cho các nhiệm vụ như vậy không được vũ trang, do đó dễ chịu tổn thất. Như vậy, người Israel đã bị mất thông tin được coi là vô giá trong chiến tranh hiện đại. Nhằm giải quyết vấn đề này, họ quay sang sử dụng các máy bay do thám KNL Mỹ loại Teledyne Ryan R-124-1, trên khoang của nó chỉ có các thiết bị điện tử hoặc quang học và được điều khiển từ xa.

Trong thời gian các cuộc không kích của Israel vào Ai Cập, có vẻ như giữa các phi công Nga và Israel đã có một thỏa thuận bất thành văn tránh đối đầu trực tiếp bằng bất kỳ giá nào. Tình hình kéo dài cho đến ngày 25 tháng 7 năm 1970, khi hai máy bay MiG do phi công Nga lái, đột ngột và khá cố ý tấn công một A-4 Skyhawk Israel, chiếc máy bay đó, tuy nhiên, đã trốn thoát. Sau cuộc va chạm, Israel không có lựa chọn nào khác là dỡ bỏ tất cả các hạn chế. Vậy là, vào ngày 30 tháng Bảy, khi một phi đội máy bay Phantom của Israel bị ngăn chặn và bị tấn công bởi mười sáu máy bay MiG do người Nga lái, để giải cứu họ các máy bay tiêm kích Mirage của Israel cất cánh xuất kích, và sau năm phút giao tranh ác liệt, năm máy bay MiG bị bắn rơi. Israel cũng phải chịu tổn thất, mặc dù không công bố, trong ngày hôm đó: ba máy bay chiến đấu Phantom không quay trở về các căn cứ và họ có thể bị bắn hạ bởi PPK Ai Cập trên đường trở về nhà.

Đến thời điểm này, cả người Ai Cập và Israel, đang tiến hành cuộc chiến tranh "ủy nhiệm" ("proxy") cho các siêu cường, nhận ra rằng cuộc chiến không xứng đáng để tiếp tục khi mà cả hai đối thủ đều mạo hiểm kích động cuộc chiến tranh toàn cầu không bên nào mong muốn. Vì vậy, ngày 07 Tháng Tám năm 1970, không mất thời gian phản đối quá lâu, họ đã đồng ý ngừng bắn theo đề nghị của Hoa Kỳ, đánh dấu sự kết thúc các cuộc đụng độ đẫm máu gần ba năm không mang lại những kết quả quyết định. Cả hai bên đều bị tổn thất nặng nề, mặc dù chính thức thì họ không công nhận, hoặc giảm thiểu nhằm mục đích tuyên truyền. Vì vậy, rất khó đưa ra được con số thương vong chính xác, nhưng có thể giả định một cách tương đối chính xác rằng Israel đã có ít nhất 400 người thiệt mạng và 4.000 người bị thương, còn người Ả Rập - 1500 thiệt mạng và 7000 người bị thương. Ước tính thiệt hại máy bay có lẽ chính xác hơn, bởi vì giữa các nguồn có một số điểm phù hợp : 105 máy bay của người Ả Rập và 60 máy bay của người Israel, trong đó chỉ có 7 máy bay bị bắn hạ bởi các quả đạn tên lửa phòng không có điều khiển.

Ưu thế lớn có lợi cho Israel như vậy, có khả năng ở một mức độ đáng kể, thuộc về việc sử dụng các thiết bị chiến tranh điện tử được lắp đặt trên khoang máy bay của họ, mà trong các trận đấu tay đôi giữa các máy bay và SAM, chính nó đã cứu sống nhiều phi công Israel.
.........
 

FANCRV

Xe tăng
Biển số
OF-30412
Ngày cấp bằng
3/3/09
Số km
1,236
Động cơ
491,590 Mã lực
Nơi ở
Đại học vodka, 94 Lò Đúc, Hà Nội
Em đọc hết đúng 1 ngày, Còn nữa Cụ post tiếp lên cho anh em xem sớm với nhé. Đã vodka Cụ.
 
Biển số
OF-294759
Ngày cấp bằng
3/10/13
Số km
1,385
Động cơ
-8,704 Mã lực
Người Mèo đếm tài lắm.
Đếm xác trên trận địa này. Đếm đạn SAM bắn lên này. Đếm cả số xe tải bị bắn ở Trường sơn nữa này :))
Ông mẽo còn phải đếm cả mấy cái radar làm mồi bẩy để ông ấy bắn sờ rai nữa mờ cụ:))
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

17.3. Chiến tranh Yom-Kippur và những bất ngờ về công nghệ


Quân đội Ai Cập bắc cầu phao vượt Kênh Suez ngày 7 tháng 10 năm 1973

Ngày 06 Tháng Mười năm 1973, Ngày Sám hối hoặc Lễ Yom-Kippur của Do Thái giáo, người Ả Rập phát động một cuộc tấn công bất ngờ tàn khốc chưa từng có. Vào ngày hôm đó, gần như toàn bộ dân chúng Israel đang cầu nguyện. Lúc 14:00, Su-7 và MiG của Ai Cập phát động một cuộc tấn công vào các công trình phòng thủ và căn cứ không quân của Israel tại Sinai, còn 4.000 pháo các cỡ bắt đầu cuộc pháo kích ồ ạt tuyến phòng thủ Bar Lev và các cơ sở quan trọng khác dọc theo kênh đào Suez.

Sau đó, người Ả Rập bắt đầu gây nhiễu phương tiện thông tin liên lạc vô tuyến Israel, khiến cho nó không thể truyền mệnh lệnh cho quân đội Israel. Ngoài ra, một số đài vô tuyến Israel và các radar dọc theo Kênh đã bị lực lượng đặc công thủy Ai Cập phá hủy.

Ở mặt trận Syria, máy bay Su không quân Syria, do Liên Xô chế tạo, tấn công Cao nguyên Golan, phá hủy gần như toàn bộ các mục tiêu của Israel trong khu vực.

Một vài phút sau, dòng thác 800 xe tăng Ai Cập do Liên Xô chế tạo bố trí rải dọc theo kênh đào Suez, đã vượt Kênh tại một số địa điểm bằng các cầu phao di động, được lắp đặt trong một thời gian ngắn kỷ lục. Người Israel bất ngờ, và vì nhiều binh sĩ được cho về nhà nghỉ lễ, khả năng phòng vệ của họ đã bị suy yếu hẳn. Tuyến phòng thủ Bar-Lev bị chọc thủng bởi hàng đoàn xe tăng di chuyển tới từ phía Kênh. Tuyến phòng thủ Israel bằng napalm, cần phải phóng hỏa toàn bộ khu vực kênh đào Suez, đã bị người nhái Ai Cập khéo léo vô hiệu hóa, lực lượng này bí mật tiến hành chiến dịch của họ trong vài đêm trước cuộc tổng công kích mà không ai hay.

Sau vài giờ hỗn loạn hoàn toàn, Bộ chỉ huy tối cao Israel đã có thể nhanh chóng phác thảo kế hoạch phòng vệ của họ. Đầu tiên các lực lượng không quân phản ứng, sau khi tung các máy bay Phantom và Skyhawk của họ vào tấn công. Người Israel yên tâm về tính ưu việt của máy bay, mà chủ yếu là do được trang bị các khí tài EW hoàn hảo, chúng đã chứng tỏ ưu thế của mình trong các trận chiến với kẻ thù. Tuy nhiên, các trận đánh của họ với các phân đội thiết giáp Ai Cập đang tiến quân không thể gọi gì hơn là một thảm họa. Phi công Israel không nghe thấy "bài hát SAM" thông thường, và do đó, không thể làm gì để tránh tên lửa của đối phương. Trong hai hoặc ba ngày đầu cuộc chiến, một số lượng rất lớn máy bay Israel đã bị bắn rơi.

Rõ ràng đã có một cái gì đó thay đổi trong môi trường điện từ, vì khí tài điện tử máy bay Israel không còn đảm bảo được tính hiệu quả. Đánh giá đầu tiên về tình hình cho thấy radar hướng dẫn đạn SAM Ai Cập làm việc ở tần số cao hơn và sử dụng phương pháp dẫn tinh vi hơn so với S-75 và S-125.

Phi công Israel những người may mắn sống sót trong vụ thảm sát thực sự các máy bay Skyhawk và Phantom này, báo cáo rằng đoàn tăng thiết giáp của kẻ thù đang tiến quân được bảo vệ đặc biệt hiệu quả bởi hệ thống phòng không di động đa dạng. Trước hết, đó là lưới lửa bảo vệ sườn cực kỳ hiện đại của các tổ hợp SAM "Kub", đặt trên khung gầm xe bọc thép, sau đó đến pháo cao xạ tự hành ZSU-23-4 "Shilka" 4 nòng có radar dẫn bắn, gắn trên khung gầm xe tăng, và đi cuối cùng là các hệ MANPADS "Strela -2M" với đầu tự dẫn hồng ngoại để phục vụ công tác phòng không tầm thấp. Cùng kết hợp với nhau, chúng tạo nên vòng đai phòng thủ gần như không thể chống lại - một chiếc ô bảo vệ di động, dưới sự che chở của nó xe tăng có thể di chuyển mà vẫn được bảo vệ một cách an toàn trước mọi sự tấn công từ trên không.



Sức mạnh của hệ thống đó không nằm trong hỏa lực hùng mạnh của mình, hoặc các yếu tố khác, mà chỉ ở các hệ thống dẫn đường cho vũ khí đã trở thành sự bất ngờ kỹ thuật hoàn hảo nhất, không chỉ đối với người Israel, mà còn với tất cả các nước phương Tây.

SAM "Kub", có nhiệm vụ chính là đảm bảo phòng không cho lực lượng mặt đất bao gồm hai xe xích, một trong hai xe đó mang đạn TLPK có điều khiển 2Q12 (NATO phân loại SA-6 Gainful), chiếc kia - Radar Straight Flash (theo phân loại của NATO). Điểm mới của hệ thống này là nó làm việc trong chế độ bức xạ liên tục khác với chế độ xung của S-75 và S-125. Mục tiêu được chiếu xạ bởi tín hiệu liên tục có công suất thấp của radar Straight Flash, còn đạn SAM "Kub" tự dẫn từ tín hiệu phản xạ. Do thiết bị thu trên máy bay Israel được thiết kế để nhận tín hiệu xung, nó không thể phát hiện bức xạ liên tục. Và để phức tạp thêm vấn đề, radar của Nga hoạt động ở hai tần số khác nhau. Vì vậy, do là kết quả của hai cải tiến kỹ thuật, đạn SAM "Kub" có thể bay đến gần máy bay mà không bị tác động bởi khí tài đối kháng điện tử của người Israel - nghĩa là không bị phát hiện, không bị chế áp và không thể đánh lừa.

Một bất ngờ khác là radar kiểm soát hỏa lực (NATO phân loại Gun Dish) của tổ hợp PPK di động 23 mm ZSU-23-4 "Shilka". Để tăng sức đề kháng trước ECM của đối phương, radar làm việc ở tần số cao hơn nhiều so với bất kỳ khí tài phòng không nào trước đây được người Ai Cập sử dụng. Các máy thu Israel được thiết kế để phát hiện bức xạ tần số 12 GHz, không thể phát hiện bức xạ của nó - khoảng 16 GHz.

Một điểm mới về kỹ thuật là tổ hợp MANPADS nhỏ "Strela -2M", được một người lính mang vác trên lưng. Nó có một kiểu hệ thống dẫn đường hoàn toàn mới dựa trên bức xạ hồng ngoại. Tất cả những thứ một người lính phải làm, chỉ là chĩa quả đạn tên lửa lên máy bay bay thấp. Bộ cảm biến hồng ngoại của đạn SAM có điều khiển sẽ phát hiện bức xạ nhiệt của động cơ phản lực của mục tiêu, nó truyền tín hiệu cự ly và phương vị cho hệ thống điều khiển và dẫn đường, hệ thống sau đó sẽ hướng dẫn quả đạn bay tới mục tiêu. Hệ thống dẫn đường này được gọi là - IR-homing (tự dẫn hồng ngoại).

Tất cả các hệ thống vũ khí mới trên cùng hệ thống S-75 và S-125 mà người Ai Cập đã có sẵn làm thành một hệ thống phòng không đặc biệt mạnh, cho phép họ tiến quân thậm chí không cần quan tâm đến thực tế là LL Không quân của họ không nắm ưu thế trên không. Các phi công máy bay Israel yểm trợ trực tiếp các lực lượng mặt đất, khi tấn công đoàn xe tăng thiết giáp, đi đến kết luận rằng họ không có cơ hội nào tránh khỏi bức tường lửa này; nếu họ hạ xuống độ cao thấp để tránh SAM, thì chắc chắn sẽ rơi vào lưới hỏa lực thuộc loại khủng khiếp nhất của các cỗ pháo phòng không bắn nhanh "Shilka" hoặc trở thành mục tiêu cho tổ hợp MANPADS "Strela -2M". Tổn thất của Không quân Do Thái lớn đến mức BTL Lục quân đã quyết định không gọi máy bay đến chiến đấu chống lại chiến xa của địch quân.

Đối với người Israel, trên cả hai mặt trận, mỗi giờ đi qua tình hình càng trở nên tệ và tồi tệ hơn, bởi vì ngoài một số lượng lớn máy bay bị mất trong những ngày đầu cuộc chiến, xe tăng của họ cũng đã bị tổ chức thảm sát. Chúng trở thành mục tiêu dễ dàng cho sản phẩm mới của người Nga ATGM 9K11M "Maliutka-M". Được bộ binh phóng ở cự ly gần, những quả đạn hỏa tiễn này, điều khiển qua dây dẫn, có độ chính xác đặc biệt cao.





A. Chiến thuật ECW của Israel để tấn công một khẩu đội SAM "Kub" và tránh đạn SAM của nó. Sử dụng điểm yếu của "Kub", và trước hết là sự không có khả năng hoạt động hiệu quả ở độ cao thấp của SAM, máy bay Israel tiếp cận ở độ cao cực thấp, tránh radar trong màn nhiễu bề mặt địa vật ở bên dưới. Bay qua khẩu đội, nó leo cao theo chiều đứng, sau đó bổ nhào xuống mục tiêu, thả bom hoặc phóng tên lửa chống tăng có điều khiển. Hoàn thành tấn công xong, máy bay vẫn còn ở độ cao rất thấp, nó thả PRLO và bẫy hồng ngoại để đánh lừa các tổ hợp tên lửa SAM khác mà có thể bắn trúng máy bay.

Bây giờ khi nhận ra rằng sự tồn tại của đất nước đang là vấn đề, Bộ Chỉ huy Tối cao Israel phải ra một quyết định có tầm quan trọng đặc biệt - đặt mức ưu tiên cho mặt trận nào. Họ quyết định rằng nguy cơ lớn nhất đến từ mặt trận phía Bắc, do đó họ quyết định tập trung phản kích cuộc tấn công của Syria, và đồng thời, cố gắng chống đỡ cuộc tấn công của Ai Cập trên khu vực kênh đào Suez. Hy vọng duy nhất là LLKQ, mà tuy vậy, đã mất cảnh giác xét về quan điểm chiến tranh điện tử. Họ cần phải tìm ra càng nhanh càng tốt radar tương ứng và biện pháp đối kháng điện tử chống hồng ngoại thích hợp, bằng cách đó làm giảm tỷ lệ tổn thất đang ở mức không thể chấp nhận.

Trong những ngày đầu tiên đầy kịch tính của cuộc chiến, việc sử dụng một lượng lớn PRLO và các máy phóng chúng đã trợ giúp cho lực lượng không quân Israel. Tất nhiên, PRLO không phải là điều mới, vì nó từng được sử dụng phổ biến trong Thế chiến thứ II và ở Việt Nam : điều duy nhất thay đổi trong việc này là độ dài của mỗi dải nhiễu đã được điều chỉnh phù hợp với bước sóng của radar mới. PRLO được đóng gói trong các băng đạn, rồi đến lượt nó được đặt trong container treo vào máy bay và bắn ra ngoài theo lệnh của phi công.

Ngoài PRLO, người Israel cũng nhận được cả bẫy hồng ngoại để đánh lừa tên lửa có đầu tự dẫn hồng ngoại. Việc sử dụng chúng cũng tương tự PRLO, với ngoại lệ duy nhất rằng chúng bức xạ năng lượng nhiệt hay là năng lượng hồng ngoại. Để đáp ứng mục tiêu đặt ra, năng lượng được tạo ra bởi chúng cần phải bức xạ ở cùng tần số được sinh ra tại các thiết bị đầu ra của động cơ máy bay, nhưng tất nhiên, cường độ lớn hơn nhiều nhằm tạo ra một mục tiêu giả có thể hút đạn tên lửa của tổ hợp MANPADS "Strela -2M" vào đó.



B. Không quân Israel sử dụng các chiến thuật khác nhau phóng bẫy hồng ngoại để tránh tên lửa có đầu tự dẫn hồng ngoại. Một chiến thuật trong số đó là sử dụng hai máy bay, một trong hai đột ngột đổi hướng bay lên cao, rồi sau đó đi xuống, cắt qua quỹ đạo bay của mình và do đó tạo ra một khu vực bị đốt nóng dữ dội. Trong khi đó, chiếc máy bay kia bay tiếp, vừa bay vừa phóng bẫy hồng ngoại. Cũng như vậy, ta thấy rằng, thao tác cơ động bất ngờ và mạnh mẽ đã trở thành một phương tiện phòng vệ hiệu quả, để đánh lạc hướng đạn tên lửa.

Ngay khi các máy phóng PRLO và bẫy hồng ngoại được lắp đặt trên các máy bay Phantom và Skyhawk, người Israel đã có được khả năng tìm ra chiến thuật, mà sẽ cho phép các phi công của họ vượt qua bức tường lửa do người Ả Rập tạo ra, có một số cơ hội thực hiện thành công nhiệm vụ và sống sót. Ở một mức độ lớn, chiến thuật được tìm ra dựa trên việc tấn công trực tiếp SAM của kẻ thù. Động tác cơ động tấn công rất nguy hiểm, nhưng rất hiệu quả của một máy bay xuống tổ hợp SAM "Kub" đã đưa ra một ưu thế, vì "Kub" có những cơ hội đánh chặn mục tiêu không quan trọng ở độ cao thấp và tốc độ quét thấp. Máy bay, ẩn trong nhiễu bề mặt địa hình, bay tới xe phóng ở độ cao cực thấp để tránh bị radar của tổ hợp phát hiện. Ngay sau khi bay qua mục tiêu, phi công làm động tác leo cao gần như thẳng đứng, sau đó ngay lập tức bổ nhào xuống mục tiêu, phóng tên lửa và bom vào khoảnh khắc thích hợp. Trong thời gian bổ nhào và thoát ly tiếp theo, phi công, vẫn đang ở độ cao thấp, phải đầu tiên ném PRLO để đối kháng điện tử chống tổ hợp SAM "Kub", có thể phóng đạn vào máy bay của anh ta, rồi sau đó thực hiện cơ động gấp để tránh đạn tên lửa tổ hợp SAM mang vác "Strela -2M" có đầu tự dẫn hồng ngoại. Đơn giản nhất trong các động tác như trên là việc phóng bẫy hồng ngoại, sau đó ngoặt thêm về phía đạn TLPK có điều khiển để sao cho quay được đầu ra động cơ - điểm nóng nhất của máy bay, khỏi đầu tự dẫn hồng ngoại của tên lửa, điều đó sẽ làm cho đạn bắn trượt máy bay.

Thậm chí một chiến thuật phức tạp hơn cũng đã được áp dụng. Đó là hai máy bay đang bay theo đội hình chặt chẽ, thì ngay khi biết rằng họ bị đạn TLPK có tự dẫn hồng ngoại tấn công (hoặc được các máy bay trực thăng tuần tra thông báo về việc này qua radio), họ thực hiện động tác cơ động cắt chéo đường bay riêng của nhau, tạo ra một khu vực nhiệt độ cao, khu vực đó sẽ là nguồn năng lượng hồng ngoại thu hút đạn TLPK có đầu tự dẫn hồng ngoại.

Một chiến thuật rất hiệu quả khác, dựa trên tốc độ theo dõi có hạn chế và cự ly bám sát của tổ hợp SAM "Kub". Phantom và Skyhawk tiếp cận ở độ cao lớn, chiếc này ở bên trên chiếc kia: chiếc đầu tiên - Phantom, cần phải ném một số lượng lớn PRLO và bẫy hồng ngoại để chế áp radar và hệ thống dẫn đường của kẻ thù, do đó đảm bảo cho Skyhawk cơ hội bổ nhào xuống mục tiêu và thả bom hoặc phóng tên lửa của nó với xác suất thành công cao và trở về.



C. Một chiến thuật nữa của Israel tránh đạn TLPK của kẻ thù. Chiếc máy bay đầu tiên, ném PRLO để đánh lừa radar đối phương, ngoặt ra phía sau, còn chiếc máy bay kia bổ nhào tấn công khẩu đội PK của đối phương.

Toàn bộ chiến thuật này dựa trên các thao tác cơ động rất mạnh, gần như không thể chịu nổi, mà hệ thống dẫn đường đạn TLPK có điều khiển không thể bám theo; một thuật lái như vậy yêu cầu sức bền đặc biệt và sự phối hợp hành động nhuần nhuyễn của các phi công.
...........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Sau này, các máy bay được trang bị các thùng chứa có đặt các bộ RWR có khả năng chặn thu bức xạ tần số hoạt động bức xạ rất cao của tổ hợp SAM "Kub" và radar dẫn bắn tổ hợp PPK "Shilka".

Với hệ thống mới, Israel không chỉ giảm đáng kể tổn thất máy bay của họ, mà thậm chí còn thành công trong việc tiêu diệt 40 trong số 60 hệ thống tên lửa PK. Một lần nữa sau khi chiếm lại được ưu thế trên không, trước đây được chuyển sang cho người Ai Cập và Syria, Không quân Israel lại có thể đảm bảo yểm trợ đường không cho các lực lượng mặt đất của mình, không chỉ phòng vệ chống quân đội Ả Rập đang tiến công, mà còn bước vào tấn công, như đã diễn ra trong "Chiến dịch Gazelle" nổi tiếng khi quân đội Israel vượt qua kênh đào Suez, thâm nhập sâu lãnh thổ Ai Cập.

Vào cuối cuộc chiến, kết quả cuối cùng như sau : tổn thất 110 máy bay của Israel - đó là một con số đáng kinh ngạc, nếu ta xét đến quân số Lực lượng Không quân Israel. Hầu hết các máy bay bị bắn rơi bởi hệ thống vũ khí mới mà người Israel mất cảnh giác không có các biện pháp đối phó radar và hồng ngoại thích hợp.

Kết quả của các trận đánh Ả Rập-Israel trên biển, tuy nhiên lại hoàn toàn khác. Chúng ta đã thấy trong cuộc chiến tranh Sáu ngày, tàu khu trục của Israel "Eilat", không có RWR, cũng không ESM - mà không có nó không thể thực hiện hoạt động ECM, cũng không có PRLO hay bất kỳ thiết bị gây nhiễu khác, bị xuồng cao tốc của Hải quân Ai Cập do Liên Xô chế tạo đánh chìm như thế nào, sau khi phóng loạt tên lửa chống hạm do Liên Xô chế tạo "Termit-U" vào con tàu-bất hạnh, mà thậm chí xuống cao tốc tên lửa còn chưa rời cảng. Sau thảm họa này, đã có quyết định đổi mới và tăng cường năng lực cho Hải quân Israel. Bước đầu tiên là phải bắt đầu chế tạo một lớp tàu chiến mới tấn công nhanh - lớp "Reshef ". Các tàu này có độ dãn nước 410 tấn, được trang bị tên lửa Gabriel do Israel sản xuất.

Đổi lại, hạm đội Ai Cập và Syria có một số lượng lớn các tàu cao tốc do Liên Xô chế tạo lớp "Komar" và "Osa" trang bị tên lửa "Termit-U" mà chưa bao giờ bắn trượt mục tiêu cho đến lúc đó. Chúng đã khẳng định sức mạnh của mình năm 1971, trong cuộc xung đột Ấn Độ-Pakistan, khi trong giai đoạn ngày 4 - 8 tháng 12, một số tàu chiến Pakistan trong khu vực Karachi, cũng như 3 tàu buôn neo tại cảng, bị đánh chìm bằng các quả đạn tên lửa "Termit-U" của đối phương phóng từ các tàu cao tốc Ấn Độ lớp "Komar" và "Osa".

Tên lửa Gabriel của Israel chính xác hơn "Termit-U", nhưng cự ly của chúng thấp hơn đáng kể - 2,5 lần. Trong thực tế, điều này có nghĩa là các tàu Israel lớp "Reshef " hoặc "Saar" với tên lửa Gabriel trên tàu sẽ phải đi vào khu vực thuộc tầm diệt mục tiêu của tên lửa "Termit-U" của kẻ thù trên chiều sâu 20 - 30 km trước khi chúng có thể sử dụng các tên lửa của mình. Do đó, bắt buộc phải phát triển một chiến thuật hữu hiệu đấu tranh chống lại các đơn vị hợp thành của kẻ thù, được vũ trang TLCH "Termit-U". Việc tìm kiếm một chiến thuật như thế đã trở thành nỗi đau đầu chủ yếu của Hạm đội Israel.

Kinh nghiệm cho thấy vấn đề không thể giải quyết được bằng phương tiện phòng vệ truyền thống, những thứ tỏ ra bất lực trước mối đe dọa của tên lửa chống hạm. Chẳng mấy chốc, người Israel nhận ra rằng, cần phải có một cái gì đó mới và giải pháp này nằm trong lĩnh vực ECW.

Do đó, họ trang bị cho tất cả các tàu cao tốc tên lửa của mình các máy phát nhiễu tạp và nhiễu mô phỏng và bao phủ chúng bằng một loại vật liệu hấp thụ bức xạ điện từ của bất cứ radar nào, nhiều hơn là phản xạ nó. Vật liệu hấp thụ sóng vô tuyến như vậy (RPM - радиопоглощающие материалы - РПМ) được đặt tên là "vật liệu hấp thụ sóng siêu cao tần" và có thể chuyển đổi năng lượng bức xạ điện từ sang một hình thức khác, trong trường hợp này là nhiệt, có thể được dễ dàng phát tán vào không trung hoặc vào nước. Cũng đã quyết định rằng, trong thời gian tấn công, thao tác cơ động tốt nhất sẽ là chiếm vị trí hướng mũi tàu tới đối phương trước tiên, để đảm bảo tín hiệu radar phản hồi trở về đối thủ là tối thiểu. Khi bắt đầu cuộc chiến tranh Yom-Kippur, Hạm đội Israel, một hạm đội nhỏ nhưng được trang bị tốt hơn so với tất cả tại khu vực Trung Cận Đông, được chuẩn bị tốt để thực hiện các chiến dịch trên biển như vậy, là độc nhất vô nhị trong loại hình của mình và có tầm quan trọng rất lớn trong chiến tranh hiện đại trên biển.



Ngay trong đêm đầu tiên của cuộc chiến tranh vào tháng Mười năm 1973, Bộ chỉ huy Hải quân Israel, sợ rằng người Syria sẽ bắt đầu tấn công Haifa từ phía biển, ra lệnh cho năm tàu tên lửa tốc độ cao "Reshef", "Mivtah", "Hanit", "Gaash" và "Miznag" tiến lên phía bắc và tìm kiếm các đơn vị đối thủ.

Bộ Chỉ huy Syria, đến lượt mình, cũng quan ngại về các thiếu sót của hệ thống phòng vệ bờ biển của mình, ra lệnh cho 3 tàu cao tốc tên lửa lớp "Komar" và "Osa", cũng như các tàu thuyền khác tiến hành giám sát và trinh sát.

Để tới được vùng biển Syria, hải đoàn Israel đi vòng bờ biển Lebanon và lúc 22:28 phát hiện các tàu phóng ngư lôi Syria, đang tuần tra bờ biển Latakia. Các tàu Syria cố gắng tìm nơi trú ẩn trong một cảng gần đó, nhưng đã bị đánh chặn, và năm tàu Syria bị hỏa lực pháo binh đánh chìm.

Sau đó, hải đoàn Israel quay về phía đông, chia thành hai nhóm bắt đầu từ hai hướng đi vòng vùng biển Latakia. Trong giai đoạn này của chiến dịch, "Reshef " nhận thấy một tàu quét mìn Syria và ngay lập tức đánh chìm nó bằng một trong những quả đạn tên lửa của mình.

Tuy nhiên tàu quét mìn, có lẽ, là mồi nhử, xuất hiện với mục đích thu hút người Israel về phía 3 tàu tên lửa Syria đang chuẩn bị tấn công hải đoàn Israel.

Hệ thống ESM (RTR) của các tàu Israel phát lệnh báo động, còn việc phân tích các bức xạ chặn thu được đã cho các dữ liệu liên quan đến loại các tàu tấn công và vũ khí của họ. Các hải đoàn Israel và Syria bắt đầu cơ động chiếm các vị trí thuận lợi để xạ kích. Bây giờ họ đã ở cự ly cách nhau 40 km, và khoảng cách này nhanh chóng thu gọn - các đối thủ, mở hết tốc lực, gấp rút tiến về phía nhau.

Tại thời điểm này, người Syria, lợi dụng ưu thế về cự ly sử dụng tên lửa "Termit-U" của mình, từ khoảng cách 37,5 km thực hiện cú volley đầu tiên, còn người Israel ngay lập tức bật máy phát nhiễu mô phỏng của họ để đánh lệch hướng TLCH và phóng ra một số lượng lớn PRLO, để làm họ khó nhận ra hơn. Phù hợp với kế hoạch đã chuẩn bị, người Israel sử dụng cả cự ly lớn và nhỏ PRLO để tạo ra sự nhầm lẫn tối đa trong đầu tự dẫn TLCH của Syria.

Căng thẳng bao trùm các thành viên thủy thủ đoàn cả Syria và Israel, họ biết rằng số phận của họ bây giờ chỉ phụ thuộc vào hệ thống điện tử cơ hữu của mình - hệ thống điện tử trên thân tên lửa đối với người Syria và các máy phát nhiễu mô phỏng và PRLO đối với người Israel. Đó là trận hải chiến đầu tiên trong chiến tranh trên biển giữa các hải đoàn tàu tên lửa và không ai có thể nói trước chuyện gì có thể xảy ra ! Nó không phải là một trận hải chiến kinh điển trong đó hỏa lực pháo hạm được chỉ huy và điều chỉnh bởi con người; kết quả của trận đánh này phụ thuộc vào thiết bị điện tử, sự hoàn thiện của công nghệ có thể làm ra những điều không thể tưởng tượng, nhưng mỗi một bên trong đó đều có khiếm khuyết. Tên lửa cần có radar để khóa và bám sát mục tiêu, còn radar thì dễ bị tổn thương với đối kháng điện tử.

Tổn thất "Eilat" dạy người Israel một bài học tốt và buộc họ phải quan tâm nhiều hơn đến EW, và họ đã học tốt bài học này. Ngay sau khi bật thiết bị ECW trên tàu, TLCH của Syria bắt đầu đi chệch khỏi các mục tiêu thực và bị hướng đến các mục tiêu không tồn tại, sau các động tác cơ động kỳ quặc và không thể tưởng tượng được, chúng rơi xuống biển mà không gây ra tác hại gì cho người Israel.

Tránh được đòn tấn công tên lửa đầu tiên, các tàu Israel tiếp tục di chuyển toàn lực về phía trước theo hai hàng dọc, cho đến khi còn chưa vào vùng phóng các TLCH Gabriel của mình. Người Israel khai hỏa lúc 23:36, các tàu Syria không có trên tàu thiết bị EW cùng loại như của Israel, đã chịu tổn thất nặng nề. Chẳng mấy chốc, tiếp theo một tàu lớp "Komar" cả tàu lớp "Osa" cũng bị chìm, còn các tàu lớp "Komar" khác mắc vào bãi cát ngầm, tại đó chúng bị hỏa lực pháo hạm của hai tàu Israel bắn phá.

Tối hôm sau, Hải quân Israel tham gia vào một trận hải chiến nhiều kịch tính hơn, lần này là chống lại người Ai Cập. Các cuộc đàm thoại vô tuyến chặn thu được của kẻ thù giúp Israel phát hiện được hạm đội Ai Cập sẽ ra khơi ban đêm, đi từ Alexandria tới căn cứ hải quân Port Said gần mặt trận. Ngay lập tức để đánh chặn hải đoàn của đối phương, Bộ Tư lệnh Israel đã điều động các tàu tên lửa của mình "Reshef ", "Kashet", "Eilat", "Mifgav", "Herev" và "Soufa".

Tuân thủ sự im lặng vô tuyến và radar hoàn toàn, các tàu Israel đi thẳng đến bờ biển Ai Cập; chỉ có các thiết bị EW thụ động của họ làm việc, nghĩa là những khí tài không bức xạ (các máy thu RWR và ESM).
........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Hải đoàn Ai Cập, gồm bốn tàu lớp "Osa" vũ trang TLCH "Termit-U", rời Alexandria ngay sau khi mặt trời lặn, đi đến Port Said. Khoảng 21:00, một trong các tàu Ai Cập bật radar của mình trong vài giây để kiểm tra hành trình và sự hiện diện của tàu địch gần đó. Sự "sơ suất" điện từ trường này ngay lập tức bị người Israel phát hiện, nó thông báo cho họ về sự hiện diện và vị trí của hải đoàn Ai Cập.

Di chuyển trong bóng tối hoàn toàn, cả hai hải đoàn cùng tiến tới gặp nhau. Lúc 23:00, người Ai Cập phát hiện trên mà hiển thị radar của họ sáu tàu của đối phương đang ở cự ly khoảng 41 km. Ngay khi tàu vào vùng phóng tên lửa - 38 km, các tàu "Osa" đã phóng loạt 12 TLCH "Termit-U". Tuy nhiên các phương tiện ECW trên tàu Israel - các máy phát nhiễu mô phỏng và nhiễu tạp và máy phóng PRLO đã đánh lệch hướng tất cả 12 TLCH, và các quả đạn rơi xuống biển.

Đơn vị tàu Israel mở hết tốc độ tiến tới phía đối thủ, và sau 12 phút đã vào vùng phóng tên lửa của họ. Người Ai Cập không có khí tài ECW trên các tàu "Osa", chúng không có khả năng tự vệ chống lại TLCH Gabriel đang bay tới, ba tàu của họ bị đánh trúng và đã chìm. Tàu thứ tư bị thương nặng, bắt đầu trôi dạt về phía bãi cát gần Baltima.



Tầm quan trọng của vai trò mà EW nắm giữ trong những trận hải chiến nói trên là không cần phải bình luận ! Các đơn vị tác chiến đối kháng không tiếp xúc trực quan với nhau; tất cả đều được thực hiện bằng trang bị điện tử, và trong mỗi trận đánh, phía có phương tiện ECW hiệu quả hơn đã là người chiến thắng.

Trong các trận hải chiến gần Latakia và Damietta-Baltim, không quả đạn nào trong số 42 đạn TLCH "Termit-U" phóng vào các tàu Israel tới được mục tiêu - một thực tế đã tự nó nói lên tất cả. Những kết quả như vậy đạt được là nhờ việc lập kế hoạch và sử dụng hiệu quả các thiết bị chiến tranh điện tử của Hải quân Israel. Bây giờ mối đe dọa của tên lửa chống hạm "Termit-U" đối với các hạm đội phương Tây đã biến mất. Trong khi đó, dù các kết quả này không ảnh hưởng mạnh đến bước chung cuộc trong Chiến tranh Yom-Kippur, chúng đã chắc chắn trở thành một bước ngoặt của chiến thuật chiến tranh trên biển.

Sự tham gia của Nga và Mỹ, mặc dù họ không chính thức bước vào chiến tranh, có ý nghĩa rất quan trọng. Cả hai siêu cường không chỉ cung cấp vũ khí, hệ thống điện tử, cung cấp dịch vụ hậu cần và nhiều thứ khác; họ sử dụng Trung Đông như một trường bắn tên lửa khổng lồ để thử nghiệm các vũ khí và trang bị mới nhất. Có bằng chứng người Mỹ sử dụng máy bay Israel để đánh giá, trong điều kiện chiến đấu thực, tên lửa AGM-65 Maverick dẫn đường bằng laser, loại hiếm khi bị mất mục tiêu. Tương tự như vậy, họ thử nghiệm phiên bản mới của tên lửa không-đối-diện AGM-45 Shrike, loại tự dẫn theo trường điện từ bức xạ của radar "đang theo dõi" hay các nguồn nhiễu chủ định, cũng được thử nghiệm trong điều kiện chiến đấu thực.

Ngay trong những ngày đầu của cuộc chiến, người Nga đã thử nghiệm tên lửa không-đối-diện mới Kh-20 (NATO định danh Kelt) của họ, có tầm bắn xa 320 km. Máy bay Ai Cập Tu-16 bay trên Địa Trung Hải đã phóng một trong những quả tên lửa như vậy về hướng Tel Aviv. May mắn lớn cho người Israel, tên lửa đã bị phi công một chiếc Phantom Israel phát hiện, sau đó chặn đánh và bắn rơi quả đạn.

Người Soviet sử dụng Trung Đông để thử nghiệm hiệu quả các loại ATGM điều khiển dây Snapper (NATO phân loại) và 9K11M "Maliutka" của họ. Còn trên mặt trận Syria, họ thậm chí đã thử nghiệm mẫu mới nhất tên lửa chiến dịch-chiến thuật 9K52 "Luna" (NATO định danh Frog 7) của mình. Tương tự như vậy, người Mỹ thử nghiệm ATGM TOW của họ, chuyển giao nó cho người Israel. TOW là một hệ thống bao gồm thiết bị phóng dạng ống và thiết bị theo dõi quang học gắn trên một chân máy. Sau khi phóng, đạn tên lửa được dẫn bằng dây và điều khiển bằng máy tính, tự động đưa tín hiệu điều khiển đến các cơ cấu chấp hành của quả đạn. Trong cuộc chiến tranh Yom Kippur người ta còn thử nghiệm các mẫu máy bay mới. Các chuyến bay do thám đặc biệt được thực hiện bởi máy bay Mỹ Lockheed SR-71 Blackbird, nó có tốc độ bay 3M, trần bay gần 30.500 mét, cũng như bởi máy bay MiG-25 Liên Xô (để bay trên không phận Israel đã sử dụng bốn chiếc MiG- 25R và MiG- 25RB. Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga), nó có tốc độ 3,2 M và trần bay 24.500 m. Trên lãnh thổ Israel còn nhìn thấy một số chiếc siêu âm Su-25 Flagon-A (đúng trong văn bản, tuy nhiên Flagon theo phân loại của NATO có nghĩa là Su- 15. Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga) và Su-20 (phiên bản xuất khẩu của Su-17. Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga), còn trên các vùng lãnh thổ Ả rập - phiên bản cuối máy bay Mirage của Pháp. Trong cuộc chiến này, có cả sự tham gia của phi công từ các quốc gia trung lập theo đuổi các mục tiêu khác nhau : huấn luyện, thử nghiệm vũ khí mới và làm quen với các chiến thuật sử dụng không quân mới nhất.

Việc chặn thu các cuộc điện đàm vô tuyến đã tiết lộ sự hiện diện của các phi công người Pakistan, Cuba và Libya ở phía người Ả Rập và Nam Phi ở phía Israel.

Dựa trên kinh nghiệm cuộc chiến tranh Yom-Kippur nhiều kết luận vội vã đã được rút ra. Ví dụ, người ta nói rằng sự xuất hiện của tên lửa đánh dấu sự chấm hết của xe tăng và máy bay, nhưng mục tiêu của cuốn sách này không phải là đánh giá tính có cơ sở của những kết luận như vậy. Tuy nhiên, từ việc phân tích tổng kết cuộc chiến tranh có thể rút ra những bài học giá trị liên quan đến tác chiến điện tử.

Một trong những bài học quan trọng nhất của cuộc chiến tranh Yom Kippur, đó là những hậu quả rất nghiêm trọng có thể xảy ra khi công tác tình báo không được tiến hành đến nơi đến chốn. Cơ quan tình báo Israel đã bị buộc tội, mà không phải không có lý do, rằng nó không có khả năng cảnh báo cho Chính phủ mình về việc sắp xảy ra một cuộc tấn công của Syria-Ai Cập - về thất bại sẽ đe dọa sự tồn vong của Israel với tư cánh là một nhà nước. Hạn chế lớn thứ hai là lực lượng vũ trang Israel không được trang bị các phương tiện ECW đầy đủ để có thể đối phó với các hệ thống vũ khí mới nhất của đối phương, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới những tổn thất rất nặng nề cả về con người và trang bị kỹ thuật.

Tất cả những điều đó có thể tránh được nếu bộ phận điện tử thuộc ngành tình báo làm việc có hiệu quả - bộ phận trinh sát SIGINT. Tất nhiên, nhiệm vụ đó là của Quốc gia, vốn quan tâm đến an ninh và sự sống còn của chính mình. Hạn chế của cơ quan SIGINT Israel nằm ở khâu nào, vẫn còn là một bí ẩn: hoặc trong việc thu thập dữ liệu hoặc trong đánh giá và phân tích chúng. Tuy nhiên, rõ ràng nếu người Israel cẩn thận hơn trong chặn thu, giải mã thông điệp vô tuyến của người Ả Rập và phân tích bức xạ radar trong thời bình, họ sẽ không phải chịu tác động của hai bất ngờ khủng khiếp đến như vậy - bản thân cuộc tấn công và thế hệ mới các hệ thống vũ khí mà các nước Ả Rập triển khai.

Ai Cập, về phần mình, không đánh giá thấp tầm quan trọng của tình báo quân sự, hơn thế, họ đã sử dụng nó cực kỳ hiệu quả trước khi bùng nổ chiến tranh. Sau những bài học cay đắng của cuộc chiến tranh năm 1967, người Ai Cập không còn muốn bị bắt bất ngờ một lần nữa. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, họ hiện đại hóa toàn bộ các cơ quan tình báo của mình, trước hết mua tất cả các loại thiết bị do thám điện tử có sẵn tại thời điểm ấy : các máy thu radio cực nhạy, máy ghi âm từ tính, máy dò phương vị, v.v.

Trong chiến tranh, người Israel đã đoạt được, trong số nhiều thứ khác, các bản đồ của người Ai Cập có các mục tiêu quân sự của Israel được đưa lên rất chi tiết, theo kế hoạch các chiến dịch dọc Kênh đào, đánh dấu các căn cứ của họ ở Sinai, v.v. Ngoài ra, họ rất may mắn chiếm được toàn vẹn một vài tổ hợp tên lửa phòng không "Kub", MANPADS "Strela -2M" và PPK ZSU-23-4 "Shilka", điều đó cho họ biết thông tin đầy đủ và chính xác về radar và mức độ kỹ thuật người Soviet đạt được trong lĩnh vực chiến tranh điện tử.

Chiến tranh Yom-Kippur là một ví dụ đặc biệt của một cuộc chiến tranh hạn chế, so với chiến tranh thế giới. Đó là một cuộc chiến tranh với các mục tiêu cục bộ, hạn chế cả về thời gian và lãnh thổ, được các siêu cường tài trợ, vì họ muốn thử nghiệm các loại vũ khí mới nhất của mình. Sự hiện diện một số lượng lớn như vậy các khí tài điện tử điều khiển các hệ thống vũ khí khác nhau, làm cho việc theo dõi tình hình đặc biệt khó khăn; còn bị làm trầm trọng thêm bởi sự chế áp các phương tiện thông tin liên lạc vô tuyến, đặc biệt là bởi người Ai Cập. Trên thực tế, sự thiếu giám sát tình hình đường không dẫn đến việc cả hai bên nhiều lần đã bắn rơi máy bay của chính mình. Điều đó là vấn đề cuối cùng cần phải nhớ cho những ai chịu trách nhiệm lập kế hoạch các chiến dịch quân sự cũng như các hệ thống vũ khí trong tương lai, vì loại tổn thất này có thể xảy ra cả trong không trung và trên biển, trên mặt đất với những hậu quả còn nghiêm trọng hơn.

Tóm lại, việc cần phải trang bị đầy đủ các loại khí tài tác chiến điện tử cho toàn bộ lực lượng vũ trang, ngay cả trong thời bình, có ngành trinh sát làm việc hiệu quả trang bị các thiết bị do thám điện tử hiện đại nhất (SIGINT), có khả năng liên tục theo dõi tiến bộ công nghệ của các quốc gia thù địch tiềm tàng, là vô cùng quan trọng.

HẾT CHƯƠNG 17​
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 18. Phương tiện hồng ngoại



Ví dụ máy phát xung nhiễu hồng ngoại ALQ-144 «Hotbrick» lắp đặt trên thân máy bay OV-10D «Bronco»

Trong những năm của cuộc chiến tranh dài ngày tại Việt Nam, người Mỹ đã đưa vào sử dụng nhiều loại phương tiện chế áp điện tử khác nhau, cho phép họ hầu như hoàn toàn vô hiệu hóa được tính hiệu quả của các radar như một phương tiện phát hiện và dẫn đường. Radar dẫn bắn FanSong của tổ hợp S-75 thường bị tắc nghẽn hoàn toàn bởi nhiễu tạp hoặc bị đánh lạc hướng bởi nhiễu mô phỏng, còn tên lửa không-đối-không Soviet của các máy bay MiG trở nên vô dụng trong không chiến chống các máy bay Mỹ, được trang bị các máy phát nhiễu mô phỏng "thông minh". Đáp lại, công tác nghiên cứu và phát triển các hệ thống mới dẫn đường tên lửa dựa trên việc sử dụng năng lượng hồng ngoại đã được bắt đầu.

Việc sử dụng loại năng lượng này không phải là điều mới. Năng lượng hồng ngoại được tình cờ phát hiện vào năm 1800 bởi nhà thiên văn học người Anh Sir William Herschel, người đã được thế giới biết đến khi phát hiện ra hành tinh Sao Thiên Vương (Uranus). Ông đã thử nghiệm với nhiều bộ kính lọc màu khác nhau, để bảo vệ đôi mắt trước ánh sáng mặt trời, gây ra nhiều bất tiện trong thời gian thực hiện các thí nghiệm thiên văn của mình. Trong lúc thí nghiệm, ông nhận thấy việc giảm nhiệt không tương đương với việc giảm ánh sáng. Vì vậy, ông nghĩ ra một thí nghiệm trong đó quang phổ ánh sáng mặt trời được chiếu lên màn hình thông qua một lăng kính thủy tinh. Khi ông đưa nhiệt kế tới mỗi một trong các màu sắc được chiếu, thì nhận thấy nhiệt độ tăng lên ứng với mức độ chuyển dịch từ màu xanh sang màu đỏ. Tiếp nữa, ông kinh ngạc nhận thấy rằng sau khi qua vùng màu đỏ và chuyển sang vùng "trống", nhiệt kế tiếp tục cho thấy sự gia tăng nhiệt độ; từ đó khu vực này được gọi là khu vực hồng ngoại hoặc dải hồng ngoại. Trong thực tế, ông phát hiện ra rằng quang phổ của ánh sáng mặt trời có chứa các tia không nhìn thấy được bằng mắt thường và do đó, ông gọi chúng là "những tia vô hình". Herschel không hoàn toàn đánh giá đúng tầm quan trọng khám phá của ông, và than ôi, chỉ sau nhiều năm thì nghiên cứu đó mới lại tiếp tục. Đoạn ngừng này có thể được giải thích bởi thực tế là ngoài một nhiệt kế thông thường sẵn có hồi đó, không có thiết bị đo lường khác để đo nhiệt.

Trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, việc phát triển ứng dụng thực tế của tia hồng ngoại đã đạt được tiến bộ đáng kể. Cả hai phe đối địch nhanh chóng nhận ra tầm quan trọng của việc sử dụng bức xạ hồng ngoại vào mục địch quân sự như một phương tiện quan sát bí mật kẻ thù vào ban đêm, phát hiện các mục tiêu theo bức xạ nhiệt chúng phát ra và duy trì thông tin liên lạc an toàn - vốn rất khó đánh chặn. Trong những năm đó, đã phát triển, mặc dù chỉ ở dạng mẫu thử nghiệm, đèn tín hiệu (semaphore) dựa trên các xung bức xạ hồng ngoại với cự ly hoạt động 3,2 km và các thiết bị nhìn đêm có thể phát hiện máy bay bay ở độ cao lên đến 1500 mét hoặc con người ở khoảng cách 270 mét.

Thế chiến II đã thúc đẩy việc nghiên cứu trong lĩnh vực ứng dụng thực tế bức xạ hồng ngoại. Thật thú vị khi thấy kết quả của điều đó là một đánh giá sai lầm của người Đức tiến trình Trận chiến Đại Tây Dương giữa các đoàn tàu vận tải phe Đồng Minh và các tàu ngầm Đức. Lực lượng chống ngầm của Đồng Minh ngừng sử dụng các radar tìm kiếm dải tần số L, bởi vì bức xạ của chúng có thể dễ dàng bị tàu ngầm của Đức phát hiện, chúng được các bộ RWR của mình cảnh báo về khả năng bị phát hiện, sẽ lặn khẩn cấp và trốn thoát. Các Đồng Minh đã đưa vào trang bị các radar dải tần số X và điều này, đương nhiên, ngay lập tức mang lại kết quả; tổn thất tàu ngầm Đức, mà nguyên nhân của nó người Đức không thể giải thích được, đã tăng lên. Cơ quan tình báo Đức được giao nhiệm vụ tìm giải đáp cho điều đó, và họ lầm tưởng rằng các nước Đồng Minh đã bắt đầu sử dụng các cảm biến hồng ngoại.

Kết luận sai lầm này cướp đi của người Đức rất nhiều thời gian, và không nghi ngờ gì, nó đóng góp một phần nhất định vào thất bại chung cuộc của tàu ngầm của họ trong Trận chiến Đại Tây Dương. Mặt khác, công việc của người Đức hướng cụ thể vào các nghiên cứu trong lĩnh vực IR, đã dẫn đến những thành tựu quan trọng. Nhiều người Đức vẫn còn nhớ những nỗi kinh sợ và sự hân hoan mà họ trải qua khi những cỗ xe bọc thép khổng lồ, không hề có một ngọn đèn nào, gầm thét chạy ngang qua họ trong bóng tối như hũ nút! Đây là những chiếc xe đầu kéo vận chuyển tên lửa hành trình nổi tiếng V-1 trên bờ biển nước Pháp đến eo biển Anh. Để tránh bị phát hiện bởi máy bay địch, chúng được lắp đặt các thiết bị bao gồm đèn chiếu sáng IR và các bộ chuyển đổi hình ảnh đảm bảo cho lái xe khả năng nhìn trong bóng tối. Đó là vào thời gian cuối chiến tranh, khi nước Đức chịu các cuộc không kích thường xuyên và dữ dội của quân Đồng Minh.

Ngoài ra, người Đức đã sử dụng tia hồng ngoại để tạo ra hệ thống thông tin liên lạc từ tàu đến tàu, từ tàu vào bờ và trên mặt trận Libya, để liên lạc giữa các xe tăng. Trong trận El Alamein năm 1942, một trong những hệ thống trên rơi vào tay người Anh, sau đó, quân Đồng minh bắt đầu các nghiên cứu của mình trong lĩnh vực sử dụng các bức xạ hồng ngoại cho mục đích quân sự.

Người Mỹ sử dụng các thiết bị trên nguyên tắc của tia hồng ngoại cho súng trường bắn đêm. Điều này cho phép đạt được độ chính xác đáng kể khi xạ kích vào con người ở cự ly khoảng 70 mét. Vũ khí này được gọi là Sniperscope, lần đầu tiên được lính Mỹ sử dụng khi đổ bộ xuống các đảo trên Thái Bình Dương và gây sự kinh ngạc lớn trong các binh sĩ Nhật Bản.

Ở Ý, các thiết bị dựa trên nguyên tắc của tia hồng ngoại đã được Hải quân Ý đánh giá về mặt thực nghiệm lần đầu tiên trong những năm 1941-1942 để xác định cự ly, có thể phát hiện mục tiêu trong bóng tối và sương mù. Để làm điều này, đã sử dụng một máy thu, gồm một gương parabol có đường kính 50 cm có lắp đặt trong đó cảm biến nhiệt-điện. Các thí nghiệm về đêm đã chứng minh rằng có thể quan sát được con người ở cự ly khoảng 900 mét, còn xe ô tô có động cơ đang làm việc - 450 m; tàu tuần dương "Taranto" được nhìn thấy ở khoảng cách 5 km, thậm chí bất chấp thực tế là động cơ của nó không làm việc ở công suất tối đa.




Hỏa tiễn PK có dẫn bằng hồng ngoại của Đức Quốc xã trong Thế chiến 2: Messerschmitt Enzian Surface-to-Air Missile đang trên giá phóng.

Sau chiến tranh, nghiên cứu về các hệ thống hồng ngoại tiếp tục. Bây giờ, giá trị của chúng như một phương tiện phát hiện khi bản thân đối tượng khó thấy được đánh giá cao. Tiến bộ liên tục trong lĩnh vực này đã dẫn đến một hàng dài các phát minh quân sự.

Để ứng dụng trong hàng không, đã phát triển các thiết bị theo dõi-hồng ngoại có khả năng phát tín hiệu về cao độ và góc phương vị của bất kỳ mục tiêu nào bức xạ nhiệt trong không trung, trên đất liền, trên biển và dưới nước; cũng như chúng có thể được sử dụng trong hệ thống thiết bị hạ cánh cho máy bay và quan sát thủy văn dọc bờ biển. Một phát minh quan trọng là ảnh nhiệt hoặc hệ thống quan sát hồng ngoại (Forward Looking Infra Red - FLIR). Thiết bị này cho phép các phi công, bay trong mây hay bóng tối hoàn toàn, "nhìn thấy" các đối tượng trên mặt đất hay trên bầu trời, được phân biệt bởi nhiệt độ đo bằng bức xạ kế của mình so với môi trường xung quanh. Các hệ IR đặc biệt hữu ích trong lĩnh vực công nghệ tên lửa và giám sát chiến lược; được gắn trên vệ tinh, chúng cung cấp cảnh báo tức thì về việc phóng ICBM từ bất kỳ điểm nào trên địa cầu. Nhằm mục đích theo dõi đã phát triển các thiết bị có thể phát hiện sự hiện diện trong khí quyển các chất độc và khí độc hại. Để cải thiện khả năng của radar, người ta bổ sung cảm biến hồng ngoại cho nó. Điều này đặc biệt quan trọng khi tuân thủ sự im lặng radar.

Nhu cầu quân sự cho các thiết bị hồng ngoại tạo ra sự tiến bộ công nghệ nhanh chóng trong lĩnh vực này và dẫn đến sự phát triển các thiết bị còn cao cấp hơn nữa như các cảm biến công suất, các bức xạ kế và các thiết bị đo IR khác.

Ứng dụng IR trong lĩnh vực thuần túy khoa học, công nghiệp và y tế đa dạng đến mức bói về điều đó cần kể cụ thể. Các hệ thống IR được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, từ kiểm tra lớp phủ asphalt đường ô tô đến chẩn đoán sớm bệnh ung thư và nhiều bệnh khác , đặc biệt là bệnh tim mạch, từ lò nướng hồng ngoại để chuẩn bị thức ăn cho đến lồng ấp IR, từ sơn ô tô đến đo nhiệt độ các ngôi sao. Một trong những ứng dụng nổi tiếng nhất của nó, tất nhiên, là nhiếp ảnh. Thí nghiệm đầu tiên với chụp ảnh IR được thực hiện vào những năm 30, dẫn đến một loạt các sáng chế trong lĩnh vực này. Ví dụ, có thể làm ra một bức ảnh tốt bằng cách sử dụng công nghệ hồng ngoại, với cự ly khoảng 1.000 km; điều đó đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực trắc địa. Ảnh hồng ngoại cũng hữu ích đối với công tác khảo sát chất lượng của thảm thực vật theo màu sắc lá của nó, mà rõ ràng có thể nhìn thấy trong những bức ảnh hồng ngoại, cho phép phân biệt loại có bệnh so với loại khỏe mạnh.

Trong địa chất, ảnh chụp hồng ngoại các tầng khoáng vật cho thấy sự hình thành tuổi địa chất của chúng, vì nó phân biệt rõ ràng sự hiện diện của vi khuẩn trong những phiến đá, bởi vi khuẩn và đất bao phủ có nhiệt độ bức xạ khác nhau. Công nghệ tương tự đặc biệt hữu ích đối với việc phát hiện các trung tâm chỉ huy dưới lòng đất và các kho ngầm, cũng như các đối tượng khảo cổ học, các thành phố đã biến mất. Công nghệ hồng ngoại cũng đặc biệt hữu ích cho việc phát hiện chữ viết và tài liệu giả mạo, vì một số loại mực bị phát hiện bởi chiếu xạ IR. Ứng dụng tia hồng ngoại trong lĩnh vực hệ thống thông tin liên lạc là rất thú vị và hiện đang có các nghiên cứu tập trung vào sự phát triển các hệ thống, thông qua đó tín hiệu được truyền đi như qua sóng điện từ phổ hồng ngoại bằng cáp quang. Ứng dụng này đặc biệt được quan tâm trong tất cả các lĩnh vực viễn thông, như: điện thoại, truyền hình, truyền hình cáp và truyền dữ liệu.

Để tiếp tục câu chuyện về ứng dụng năng lượng hồng ngoại, đầu tiên sẽ rất hữu ích khi nhớ lại một số khái niệm của lĩnh vực vật lý.

Được biết, võng mạc của mắt người nhạy cảm với chỉ một phạm vi nhỏ của phổ tần số, nghĩa là phần nhìn thấy của phổ điện từ; hơn nữa, sự nhạy cảm của mắt là không liên tục và thay đổi tùy theo thang màu ánh sáng. Ví dụ, tác động kích thích của ánh sáng màu vàng hơn gần 100 000 lần so với ánh sáng màu đỏ, tỷ lệ đó là ít mạnh mẽ nhất trong lĩnh vực này. Bước sóng màu vàng - khoảng 0,0005 mm, ở về phía lớn hơn và nhỏ hơn nó, độ nhạy của mắt người giảm mạnh. Trong phần xa của quang phổ, mắt vẫn có thể phân biệt các bước sóng khoảng 0,0008 mm, nhưng sau giá trị này là bóng tối ngự trị, vì kích thước của võng mạc ở bức xạ như vậy là quá nhỏ để tạo ra một phản ứng của cơ quan thị giác của chúng ta. Các bước sóng lớn hơn 0,0008 mm nằm trong phạm vi hồng ngoại, và nếu chúng có cường độ đáng kể, thì sẽ được chúng ta nhận thức như nhiệt. Vì vậy, yếu tố chủ chốt phân biệt năng lượng hồng ngoại so với bức xạ ánh sáng nằm trong chiều dài bước sóng của nó. Dải hồng ngoại bắt đầu ở nơi kết thúc màu đỏ của quang phổ nhìn thấy và chấm dứt phía trước dải siêu cao tần (vi sóng), được sử dụng cho các radar có độ phân giải cao (EHF). Dải IR bản thân được chia thành 4 phần: gần, trung, xa và cực xa. Các yếu tố cơ bản của hệ thống IR chính là các nguồn, bộ phát năng lượng hồng ngoại và các cảm biến hoặc bộ dò.


Bệ phóng tổ hợp TLPK Anh "Rapier". Radar của tổ hợp này có thiết bị hồng ngoại bám sát vệt đạn TLPK có điều khiển ("Rapier Darkfire").

Năng lượng hồng ngoại phát ra một cách tự nhiên bởi tất cả các cơ quan có nhiệt độ trên không độ tuyệt đối (- 273 độ C). Quá trình này gây ra bởi các dao động mạng phân tử, vì thế phụ thuộc trực tiếp vào nhiệt độ.

Cảm biến hồng ngoại nguyên mẫu có thể tìm thấy trong tự nhiên, trong thế giới động vật hoang dã. Loại sau có các loài rắn xuất hiện trên Trái đất - bộ rắn hổ pip viper rất độc, cư trú Bắc và Nam Mỹ, và đặc biệt ở Đông Nam Á, có hai lúm đồng tiền nhỏ giữa mắt và lỗ mũi chứa hai cảm biến hồng ngoại tuyệt vời, cho phép chúng phát hiện và xác định vị trí của tất cả các đối tượng ấm hơn hoặc mát hơn môi trường xung quanh. Các cảm biến này cực kỳ nhạy cảm và có thể phát hiện các thay đổi cực nhỏ về nhiệt độ.

Chúng bao gồm một màng chứa đầy các sợi thần kinh đặc biệt và được kéo dài sang một khoang nhỏ, chứa đầy không khí và phản ứng với nhiệt. Với sự giúp đỡ của chúng, con rắn, thường xuyên ẩn trong các khe nứt của hang ổ, trong bóng tối hoàn toàn vẫn có thể phát hiện sự hiện diện của ếch nhái, chuột, hoặc một sinh vật không may nào khác rơi vào vùng hoạt động của nó và giết chết đối tượng.

Như một dạng năng lượng điện từ, bức xạ hồng ngoại có thể được hấp thụ và chuyển hóa thành nhiệt hoặc chuyển đổi theo một số cách khác, để làm cho nó có thể nhìn thấy, ví dụ, nó có thể được chuyển đổi thành dòng điện hoặc chiếu lên phim nhạy cảm với tia hồng ngoại. Từ quan điểm ứng dụng quân sự, cảm biến hồng ngoại đã chứng tỏ giá trị thực tế của nó vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi lần đầu tiên chúng được sử dụng để phát hiện và theo dõi máy bay. Tất cả các thiết bị IR được sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai gần như hoàn toàn thuộc loại thiết bị chủ động, khi chùm tia năng lượng hồng ngoại hội tụ vào mục tiêu. Tuy nhiên, người Đức cũng đã thử nghiệm với một hệ thống hoàn toàn thụ động mà không phát ra năng lượng hồng ngoại - tương như một con rắn chuông. Hệ thống này được thiết kế để phát hiện máy bay ở khoảng cách 12 km, nhưng không bao giờ được sử dụng trong thực tế chiến đấu, có thể là do sự không hoàn hảo trong công nghệ IR thời bấy giờ, nó không cho phép bắt đầu sản xuất hàng loạt hệ thống như vậy.
...........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Sau chiến tranh, các cường quốc lớn trên thế giới tiếp tục các nghiên cứu về tia hồng ngoại, tập trung vào các hệ thống thụ động dẫn đường cho vũ khí.

Các hệ thống này có những ưu điểm: không phát lộ sự hiện diện của vũ khí có điều khiển, có độ chính xác cao, và hơn nữa, không nhạy cảm với ECW. Năm 1950, các nghiên cứu đó dẫn đến sự phát triển của hệ thống dẫn đường hồng ngoại thụ động đầu tiên cho tên lửa. Tên lửa đầu tiên được dẫn bằng một hệ thống như vậy là tên lửa AIM-9 Sidewinder của người Mỹ, sau đó tiếp đến AIM-4 Falcon, Firestreak của Anh và Matra R.550 Magic của Pháp.



Tia hồng ngoại dễ dàng lan truyền trong dải 3,0-4,0 micron, nhưng suy giảm mạnh trong phạm vi bước sóng 5,0-8,0 micron. Nói cách khác, không khí là "trong suốt" đối với các tia hồng ngoại chỉ trong một dải nhất định của chiều dài sóng.

Nổi tiếng nhất trong số này là AIM-9 Sidewinder của người Mỹ, nó khẳng định được tính chính xác ngay trong các vụ phóng thử nghiệm đầu tiên. Các bia-mục tiêu điều khiển bằng vô tuyến được sử dụng để bắn thử nghiệm đã bị phá hủy mạnh một cách có hệ thống bởi tên lửa này, nó tự dẫn thẳng vào ống xả của mục tiêu động cơ phản lực. Để giảm chi phí phục hồi của các mục tiêu đắt tiền, trên công-xôn cánh của nó đặt một nguồn bức xạ hồng ngoại mạnh, sẽ làm cho việc sửa chữa dễ dàng hơn nhiều. Sau đó, độ chính xác cao của Sidewinder được xác nhận bởi sự kiện bi thảm xảy ra vào năm 1961 tại Hoa Kỳ trong một chuyến bay huấn luyện. Máy bay ném bom B-52 Stratofortress đã vô tình trúng một tên lửa Sidewinder phóng đi từ máy bay tiêm kích-ném bom F-100 của Không quân Mỹ. Tên lửa lao vào phễu ống xả của một trong những động cơ và phát nổ, công-xôn cánh bị gãy và máy bay đâm xuống đất. Hầu hết các thành viên phi hành đoàn thiệt mạng.


Tương quan hình học của gương, đầu dò hồng ngoại và mục tiêu.

Qua một số năm, xung quanh tên lửa Sidewinder bao bọc một "câu chuyện" gián điệp chưa từng có, nhiều khía cạnh của nó không rõ ràng cho đến tận bây giờ. Một điệp viên Liên Xô tháo vát đã biết cách đánh cắp thành công quả tên lửa Sidewinder cùng với đầu tự dẫn hồng ngoại của nó tại một căn cứ không quân ở Tây Đức và bí mật chở nó về Moscow. Tên lửa được bọc kín trong một tấm thảm, điệp viên đi trên xe hơi của mình, lái xe qua nửa nước Đức, và sau đó gửi nó bằng xe lửa qua biên giới sau khi khai báo là hành lý của mình "không có giá trị thương mại" ! Ngay sau đó, người Nga bắt đầu phóng tên lửa có đầu tự dẫn hồng ngoại R-3, gần như giống hoàn toàn Sidewinder của Mỹ.

R-3 được vũ trang cho các máy bay MiG và Sidewinder, được lắp trên các loại máy bay chiến đấu khác nhau của Mỹ, trở thành vũ khí chính của các trận không chiến trong chiến tranh Việt Nam. Năm 1966, lần đầu tiên Sidewinder bắn rơi MiG Bắc Việt.

Năm 1973, vài tháng sau khi chiến tranh bùng nổ ở Trung Cận Đông, tên lửa tự dẫn hồng ngoại Shafrir của Israel, có thiết kế dựa trên thiết kế của Sidewinder, đã bắn rơi khoảng một chục máy bay Syria. Tháng 10 năm 1973, trên mặt trận Ai Cập, Israel đã bị tổn thất nặng vì tên lửa của Liên Xô có đầu tự dẫn hồng ngoại "Strela -2M". Tên lửa PK có điều khiển "Strela-2M" được trang bị các bộ lọc, loại được ở một mức độ nhất định một trong những điểm yếu cơ bản của hệ thống IR-homing - xác suất cao xảy ra cảnh báo sai, gây nên bởi việc nó chuyển thu các nguồn nhiệt khác. Khai thác sử dụng MANPADS "Strela -2M" khá đơn giản, chúng có thể được người lính mang vác trên vai mình. Chúng là loại vũ khí chết người đối với các máy bay của Israel, buộc phải bay thấp để tránh bị phát hiện bởi radar tìm kiếm và radar dẫn bắn SAM "Kub". May mắn cho người Israel, sức mạnh của đầu nổ đạn TLPK có điều khiển "Strela -2M" bị giới hạn bởi kích thước nhỏ của nó, nếu không nó sẽ trở thành sát thủ thực sự của máy bay Israel.

Tuy nhiên, tên lửa có đầu tự dẫn hồng ngoại có một vài khuyết điểm. Khuyết điểm nghiêm trọng nhất của Sidewinder là thường xuyên, thay vì dẫn vào mục tiêu, nó bay đến nguồn công suất lớn hơn : mặt trời , ánh sáng mặt trời phản xạ từ đám mây, các đối tượng nhiệt trên mặt đất, và thậm chí, trong một số trường hợp, lao vào chính máy bay của quân mình. Ngoài ra, nó có một hạn chế nghiêm trọng, và đòi hỏi thực tế phải tiến hành công kích từ góc nguy hiểm nhất với máy bay - bán cầu sau, nhằm hướng tên lửa tới điểm nóng nhất của máy bay - miệng xả động cơ phản lực.


Thử nghiệm AIM-9B năm 1957 trên bia-mục tiêu F-6F.

Các hạn chế nghiêm trọng như vậy gây nên bởi thực tế là các bộ cảm biến hồng ngoại đầu radar tự dẫn không nhạy cảm với phần sóng dài của quang phổ hồng ngoại. Ví dụ, máy bay bị buộc phải tấn công từ bán cầu sau, vì cảm biến chì sunfat của tên lửa Sidewinder phản ứng chỉ với các bước sóng liên quan đến bức xạ của kim loại bị làm nóng của thiết bị đầu ra động cơ phản lực. Cần phải có cảm biến hồng ngoại, phản ứng với toàn bộ phổ bức xạ của phần đuôi động cơ phản lực, để tên lửa có thể tấn công không phụ thuộc vào vị trí không gian hoặc quỹ đạo của máy bay địch. Xét từ quan điểm công nghệ, cần phát triển một cảm biến hồng ngoại không phản ứng với các bước sóng 2,5 micromet (liên quan đến chùm tia mặt trời phản xạ từ đám mây và bức xạ của kim loại bị nung nóng của miệng phễu xả động cơ phản lực), và bước sóng 5 micron - bức xạ của khí ga đang cạn. Điều đó đã đạt được bằng cách làm lạnh bộ cảm biến đến nhiệt độ, được gọi là nhiệt độ đông lạnh (từ tiếng Hy Lạp "Krios" - làm lạnh sâu). Nhiệt độ này thấp hơn đáng kể so với các nhiệt độ có thể đạt được nhờ các thiết bị làm mát thông thường.

Ngày nay, hầu hết các hạn chế của tên lửa có đầu tự dẫn hồng ngoại đã được loại bỏ bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như sử dụng bộ lọc, và bây giờ chúng là một vũ khí quan trọng trong kho vũ khí của nhiều quốc gia. Ngày nay, các hệ thống dẫn đường kết hợp thường được sử dụng, trong đó radar sử dụng để đo cự ly, còn hệ thống hồng ngoại để tìm mục tiêu hoặc làm nhiệm vụ phương tiện ECW hỗ trợ trong trường hợp radar bị vô hiệu hóa. Ngoài ra các hệ thống hồng ngoại được sử dụng để phân biệt các mục tiêu "nóng" (ví dụ, tàu và máy bay) khỏi những vật không phát xạ nhiệt (ví dụ PRLO).

Nhìn lại một vài thập kỷ trước, chúng ta có thể thấy rằng mỗi khi trên chiến trường xuất hiện một hệ thống vũ khí mới, thì song song với nó, các phương tiện đối phó lại được phát triển, có khả năng vô hiệu hóa hoặc làm giảm hiệu quả của nó. Đầu tiên những diễn biến như vậy đã xảy ra với radar, còn bây giờ đang diễn ra với hệ thống hồng ngoại. Tuy nhiên, thông tin liên quan đến đối kháng hồng ngoại (IRCM), rất khó có được, vì các phát triển đó là đối tượng bí mật đặc biệt. Tuy nhiên, không nghi ngờ gì, nhiều nước đã phân bổ các nguồn lực trí tuệ và tài chính đáng kể cho sự phát triển các phương tiện đối kháng với hệ thống vũ khí dẫn đường bằng hồng ngoại.


Su-27 bắn bẫy hồng ngoại. Đội Russian Knights biểu diễn trong ngày lễ Không lực Nga năm 2007 tại Monino.

Thiết bị hồng ngoại cảnh báo sớm hay Hệ thống cảnh báo bị tấn công tên lửa (Системы предупреждения о ракетной атаке - СПРА, Missile Approach Warning - MAW), có chức năng giống hệt RWR ( Radar Warning Receivers), đang tồn tại. Khi được lắp trên máy bay, chúng cảnh báo phi công về tên lửa đang đến gần. Cảm biến hồng ngoại hoặc sẽ phát hiện nhiệt (năng lượng hồng ngoại) phát ra bởi tên lửa trong thời gian phóng; hoặc trong phân đoạn hoạt động chủ động của đường bay (khi động cơ đang làm việc. Ghi chú. Người dịch bản tiếng Nga); hoặc phát hiện sự sưởi nóng thân quả đạn, gây ra bởi ma sát trong khí quyển của tên lửa. Cảnh báo sớm kiểu này cho phép phi công thực hiện cơ động tránh hỏa lực PK thích hợp, bắn bẫy hồng ngoại hoặc bật hệ thống hồng ngoại để tác động đến quỹ đạo của tên lửa nếu nó có hệ dẫn đường hồng ngoại. Thiết bị như vậy gây nhiễu hoặc đánh lừa tên lửa có đầu tự dẫn hồng ngoại có cơ sở dựa trên những nguyên lý mới, chẳng hạn như bức xạ của chùm tia laser, có thể làm hỏng hoặc thậm chí đốt cháy các cảm biến hồng ngoại. Phương pháp IRCM khác là cấp nhiệt cho màng vật liệu chuyên dụng dễ nóng có bức xạ được điều chế theo quy luật đặc thù của năng lượng hồng ngoại. Trong các hệ thống khác, để sinh năng lượng hồng ngoại tác động đến đầu radar tự dẫn hồng ngoại của tên lửa, người ta sử dụng khí propane chứa trong các thùng chứa đặc biệt hoặc đèn hồ quang.

Trong cuộc chiến tranh Yom-Kippur, việc sử dụng các mồi bẫy hồng ngoại đã mang lại những thành công đáng kể. Để làm lệch hướng tên lửa có đầu tự dẫn hồng ngoại, người ta thả hoặc bắn ra các sản phẩm kỹ thuật pháo hoa: đạn hồng ngoại và bẫy hồng ngoại, sinh ra năng lượng lớn hơn đáng kể so với mục tiêu cần bảo vệ, nhưng có cùng các tham số IR. Một lĩnh vực hoàn toàn mới của tác chiến điện tử đã mở ra.

HẾT CHƯƠNG 18​
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 19. Bom laser, bom truyền hình và bom "thông minh"

19.1. Bom laser


Cầu Hàm Rồng trúng bom điều khiển bằng laser năm 1972

Trong những năm đầu thế kỷ XX, nhà khoa học người Croatia di cư sang Hoa Kỳ, Nikolai Tesla, (tên của Tesla đã được đặt cho đơn vị cảm ứng từ trong hệ thống đo lường quốc tế (hệ SI) - 1 Tesla = 1 Veber/m2), đã phát minh ra máy biến áp (như chính ông tự gọi như thế), có giá trị hệ số biến áp rất lớn và có khả năng sinh điện áp rất cao trong dải hàng trăm ngàn vôn. Các nhà cầm quyền quân sự trên toàn thế giới đã thể hiện mối quan tâm lớn với phát minh này, vì như Tesla nói, ông đã phát minh ra một loại "tia thần chết" có khả năng hủy diệt toàn bộ một tốp máy bay ở cự ly 300-400 km.

Lúc đầu tất cả đều vui mừng, cuối cùng thì "vũ khí tối thượng" chờ đợi từ lâu, có thể giành chiến thắng trong tất cả các cuộc chiến tranh, đã được phát minh. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, bầu không khí hân hoan đã lụi tắt, khi nhà vật lý xuất sắc nhưng lập dị từ chối nói về các chi tiết của vũ khí mang tính cách mạng của mình. Tuy nhiên, bộ chỉ huy quân sự của các quốc gia lớn nhất trên thế giới không muốn từ bỏ ý tưởng "tia chết người" và chờ đợi năm này sang năm khác mong giấc mơ của mình trở thành sự thật.

Ngày 26 tháng 2 năm 1935, đại diện Bộ Quốc phòng Anh được mời tới một trong những trạm vô tuyến quân sự lớn nhất gần London, để xem nhà vật lý Robert Watson-Watt trình diễn radar của ông. Sự kiện này gây ra phấn khích lớn, vì Bộ Tổng tham mưu Quân đội Hoàng gia đã đưa ra một tài liệu phác thảo các yêu cầu cụ thể; đặc biệt truy vấn liệu radar có sinh được ra "chùm tia chết người" hay không, chùm tia sẽ cho phép các lực lượng vũ trang Anh ưu thế thống trị trước tất cả các đối thủ tiềm tàng. Mặc dù đó là một khám phá vĩ đại, cách mạng hóa hoạt động tác chiến truyền thống, buổi trình diễn này gây thất vọng mạnh, vì thấp hơn kỳ vọng của giới quân sự.


Khu vực ném khả thi của bom hàng không có điều khiển trong tương quan của cự ly-chiều cao

Nhiều năm sau, nhà vật lý Theodore Maiman, tạo ra trong một phòng thí nghiệm nghiên cứu của công ty Mỹ Hughes chiếc máy phát laser đầu tiên. Và một lần nữa các câu chuyện về "tia chết người" lại bắt đầu. Thậm chí, nhân dịp này, rất nhiều nhà báo đổ dồn về thành phố.

Tuy nhiên, một trong những ứng dụng đầu tiên của laser là lĩnh vực y tế - trong vi phẫu, nơi chùm tia laser được sử dụng để thực hiện các hoạt động đặc biệt tinh tế trong phẫu thuật thần kinh, phẫu thuật mắt để sửa chữa phục hồi võng mạc bong tách, trong điều trị một số bệnh ung thư bằng cách phá hủy các mô ác tính, trong nha khoa và nội soi. Laser đã chứng minh không thể thiếu nó trong khoa học và sản xuất công nghiệp - trong kính quang phổ, vi phân tích, nhiếp ảnh tốc độ cao, chụp ảnh siêu tinh vi, công nghệ hàn siêu nhỏ và in lito độ chính xác cao, khi cần tạo ra chỉ một vài mẫu.


Tên lửa không-đối-diện AGM-65 Maverick, từng được sử dụng trong giai đoạn cuối Chiến tranh Việt Nam. Được phát triển thay cho tên lửa không-đối-diện có điều khiển AGM-12 Bullpup có độ chính xác phụ thuộc nhiều vào kỹ năng điều khiển thủ công của phi công và sức công phá của đầu đạn còn hạn chế.

Đương nhiên, tia laze bắt đầu được ứng dụng mạnh mẽ trong lĩnh vực quân sự, trong đó các đặc tính của chùm tia laser được sử dụng, hoàn toàn khác với thứ sử dụng trong lĩnh vực dân sự. Một trong những ứng dụng quân sự quan trọng nhất là sử dụng tia laser dẫn đường vũ khí chính xác : dẫn đường cho bom "thông minh" hay là bom dẫn đường bằng laser (LGB - Laser Guided Bomb), chẳng hạn như bom Paveway của công ty Texas Instruments hay tên lửa AGM-65 Maverick của công ty Hughes (nay là Raytheon). Chúng được trang bị các thiết bị theo dõi, đảm bảo dẫn đường tới mục tiêu được chiếu xạ bởi một chùm tia laser khác, được gọi là chùm laser chỉ thị mục tiêu. Thông thường, chiến thuật này được sử dụng để ném bom thông minh và yêu cầu phải có hai máy bay, một chiếc trang bị máy phát laser để chiếu xạ mục tiêu bằng chùm tia laser điều chế, một chiếc khác sẽ ném trước trái bom được chương trình hóa, có thể tự mình hướng theo năng lượng laser phản xạ từ mục tiêu bị "chiếu xạ" và đánh trúng nó với độ chính xác cao. Tương tự như vậy, bộ chỉ thị mục tiêu bằng laser có thể ở trên một máy bay trực thăng, thuộc nhân viên dẫn đường yểm trợ đường không cho tiền duyên hoặc bộ binh. "Điều biến" đối với chùm sáng laser có nghĩa là các xung tạo ra khác nhau về độ dài xung và / hoặc chu kỳ lặp xung và được thiết lập phù hợp với một chương trình ứng dụng bom cụ thể. Trong trường hợp với tên lửa AGM-65, mỗi tên lửa có thể gắn bằng một mã duy nhất với một nhân viên dẫn đường không yểm trên không hoặc dưới mặt đất.


Sơ đồ ứng dụng tác chiến bom hàng không có điều khiển với hệ dẫn đường laser bán chủ động

Bom loại mới này được sử dụng trong những năm cuối cùng của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Việc phá hủy cây cầu ở Thanh Hóa, nằm cách Hà Nội một trăm cây số, là bằng chứng về độ chính xác của nó. Cây cầu là một mục tiêu quan trọng, và các máy bay Mỹ ném bom cầu liên tục bằng bom thông thường, nhưng không kết quả. Cây cầu bị phá hủy ngày 12 tháng 5 năm 1973 chỉ bằng một quả LGB. Ngày 08 tháng 6 cùng năm, người Mỹ tuyên bố rằng, bằng bom LGB, họ đã phá hủy 15 mục tiêu chiến lược, do đó làm giảm đáng kể tốc độ tiến quân của 3000 xe tải Bắc Việt cung cấp hậu cần cho Việt Cộng.

Ngoài ra, tia laser còn được sử dụng để dẫn đường cho tên lửa, đảm bảo cho nó mức độ tiếp mục tiêu chính xác chưa từng có. Một ứng dụng khác của laser là máy dò laser và máy đo khoảng cách (LADAR) - một sự hợp nhất radar và laser, ngày hôm nay được sử dụng cho nhiều mục đích đa dạng : dẫn đường cho các loại đạn, bao gồm cả đạn pháo, xác định vị trí của vệ tinh, dẫn đường chính xác - nói ngắn gọn, ở nơi mà việc sử dụng radar không bảo đảm đủ độ chính xác. Gần đây, Thủy quân lục chiến Mỹ và Hải quân Mỹ đã tiến hành một loạt các thí nghiệm về việc sử dụng tia laser để dẫn đường cho pháo hạm trong các chiến dịch đổ bộ. Được trang bị hệ thống dẫn đường như vậy, tất cả các quả đạn trái phá sẽ đạt tới mục tiêu, dẫn đến việc tiết kiệm đáng kể số đạn dược đắt tiền. Sự đổi mới này chắc chắn sẽ mang lại một chiều hướng mới cho chiến tranh trên biển.


19.2. Telekamera hoạt động ở điều kiện ánh sáng yếu (LLLTV)

Ai cũng biết việc kiếm được các thông tin về mục tiêu phải tấn công, và nếu có thể, xác định bản chất của nó và tình hình xung quanh là một yêu cầu cơ bản của hoạt động quân sự. Từ thời xa xưa, để đạt được các mục đích quan trọng này, người ta sử dụng tất cả các phương tiện. Radar phát hiện sự hiện diện của mục tiêu, nhưng không cho biết mục tiêu đó là gì hay là nó được làm từ cái gì.

Chúng ta đã thấy rằng hệ thống hồng ngoại cho chúng ta hình dung về bản chất của mục tiêu ngay cả trong bóng tối hoàn toàn. Ngày nay, các công nghệ nhìn ban đêm hiện đại cho phép nhìn thấy trong điều kiện trời tối cũng gần tương đương như ban ngày.


Ảnh trinh sát cầu Long Biên bị đánh sập nhịp bởi vũ khí có độ chính xác cao

Công nghệ được sử dụng rộng rãi nhất để cải thiện sự quan sát trong điều kiện tầm nhìn hạn chế là việc ứng dụng trong các hệ thống truyền hình độ chiếu sáng thấp ( LLLTV - Low-Light-Level Television) để khuếch đại hình ảnh. Các bộ khuếch đại hình ảnh làm việc dựa trên nguyên tắc luôn luôn hiện diện trong khí quyển sự khuếch đại ánh sáng phản xạ yếu từ mặt trăng và các ngôi sao. Các bộ khuếch đại hình ảnh đầu tiên được phát triển vào cuối thập niên 50, nhưng rất cồng kềnh và không thực tế cho việc sử dụng trong quân sự. Tuy nhiên, mối quan tâm với chúng vẫn được duy trì bởi việc ứng dụng các thiết bị trên trong thời gian các chuyến bay vũ trụ để các nhà du hành vũ trụ tiến hành quan sát.

Lần đầu tiên, các bộ khuếch đại hình ảnh được sử dụng trong quân sự là vào năm 1965, kể từ đó tiếp tục sự cải thiện các đặc tính của chúng. Các hệ thống hiện đại cung cấp khả năng nhìn thấy một điếu thuốc cháy sáng ở khoảng cách 2 km.

Bước tiến về phía trước trong công nghệ nhìn đêm được thực hiện bằng cách hợp nhất một máy ảnh chụp xa và bộ khuếch đại hình ảnh, dẫn đến việc tạo ra các máy ảnh chụp xa trong điều kiện ánh sáng yếu. Nó có một lợi thế gấp đôi, cho phép tăng cường mức độ sáng lên sáu lần và đẩy xa quan sát viên khỏi nguồn hình ảnh, bằng cách đó loại bỏ cho người xem sự cần thiết nhìn vào bóng tối. Thật vậy, có hệ thống LLLTV, sẽ có thể khuếch đại ánh sáng yếu của các ngôi sao sao cho ta có thể nhìn thấy khu vực quan sát vào ban đêm cũng gần như ban ngày. Hiện LLLTV đang được sử dụng rộng rãi trên máy bay cánh cố định và máy bay trực thăng, đảm báo cho phi công khả năng hiển thị đầy đủ khi thực hiện các chuyến bay đêm - bao gồm cả cất cánh và hạ cánh, cũng như định vị dẫn đường và hoạt động tác chiến vào ban đêm và trong điều kiện tầm nhìn kém. Bộ khuếch đại hình ảnh cũng được sử dụng trong kính tiềm vọng của các tàu ngầm hiện đại.


Sơ đồ ứng dụng tác chiến bom lượn có điều khiển bằng truyền hình AGM-62A «Walleye-2». Bom lượn điều khiển bằng TV (television-guided glide bomb) được KQ Mỹ sử dụng năm 1967 để đánh nhà máy điện Yên Phụ, Hà Nội.

Một hệ thống khác, đơn giản, được phổ biến rộng rãi là hệ thống truyền hình lấy đường ngắm hàng không, được sử dụng trong các điều kiện bình thường của chuyến bay. Trong đó sử dụng các ống kính chuyên dụng, cực mạnh, có chiều dài tiêu cự biến thiên, cho phép thao tác viên xác định chính xác một người đang đi bộ trên đường phố từ chiều cao hàng nghìn mét. Thao tác viên có khả năng nhìn thấy mục tiêu từ độ cao thuận tiện nhất, tùy thuộc vào cự ly tiêu diệt của hệ thống phòng không. Ngay khi mục tiêu lọt vào khuôn hình trên màn hình, thao tác viên (sĩ quan điều khiển hệ thống vũ khí - WSO) sẽ ném bom hoặc phóng tên lửa, loại có sự trợ giúp của TV-kamera giữ mục tiêu trong tầm nhìn và dẫn theo các tín hiệu của lệnh điều khiển vô tuyến. Bom dẫn bằng TV đã được sử dụng rộng rãi những năm gần đây trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Đặc biệt, các máy bay hải quân trên tàu sân bay được trang bị bom điều khiển qua truyền hình AGM-62 Walleye, đặc biệt tốt đối với việc đánh phá loại mục tiêu khó tổn thương, chẳng hạn như các đường bộ và cầu đường sắt.

Pháo binh truyền thống cũng bắt đầu sử dụng những thành tựu trong quang điện tử và ngày nay có thể điều chỉnh quỹ đạo của đạn pháo.
.......
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

19.3. Đối kháng quang-điện tử

Cũng như trong trường hợp với radar và bức xạ hồng ngoại, việc ứng dụng rộng rãi laser và LLLTV dẫn đến sự phát triển của các phương tiện đối kháng và phản-đối kháng thích hợp. Vì laser và LLLTV là thiết bị quang điện, sự đối kháng đó được gọi là đối kháng quang-điện tử (EOSM). Đối tượng này cũng được gọi là "quang điện tử", nhưng gần đây có một xu hướng phân biệt hai thứ với nhau, "quang điện tử" - đối với mục đích liên lạc và truyền thông tin, còn đối tượng kia là "quang-điện tử" - đối với các hệ thống vũ khí và biện pháp đối kháng tương ứng.

Chùm laser có tính định hướng rất mạnh và do đó rất khó đánh chặn. Mặt khác, có thể dễ dàng đánh lừa nó, vì nó chỉ có thể được sinh ra trong một dải bước sóng hẹp. Việc ứng dụng một chùm laser khác là kỹ thuật thiết lập nhiễu giả được phổ biến rộng rãi, trong đó chùm tia có các đặc tính tương tự, nhưng công suất lớn hơn nhiều. Chùm tia laser này hướng đến một điểm nằm ở khoảng cách an toàn so với mục tiêu cần được bảo vệ. Bằng cách đó, "bộ dò laser" cài đặt trên một quả bom hoặc quả đạn tên lửa sẽ bị đánh lạc hướng tới chùm laser công suất mạnh hơn và hướng đến nguồn của nó, chứ không phải tới mục tiêu thực. Kết quả là, trái bom hoặc quả đạn tên lửa sẽ đánh trúng khu vực xa xôi, và sẽ không thể đảm bảo sự phá hủy mục tiêu chấp nhận được.

Để đối kháng lại tia laser có thể sử dụng đối kháng thụ động. Nó dựa trên việc giảm hiệu quả bức xạ laser bằng cách sử dụng aerosol, khói, các chất phụ gia hóa học hoặc các hóa chất khác hấp thụ hoặc phân tán năng lượng laser.

Vấn đề phát triển biện pháp đối kháng quang-điện tử LLLTV và các hệ thống quang học, bao gồm cả mắt người, nói chung, khó khăn hơn nhiều. Một trong những phương tiện EOSM thụ động là "PRLO-quang học", làm việc trên cùng một nguyên tắc như các dải lá kim mỏng được sử dụng chống radar. Từ máy bay hoặc tàu bị tấn công, có thể phóng ra một số lượng lớn các đốm sáng rất nhỏ (các mẩu giấy bạc), mà trong ánh sáng, sẽ làm mù TV-camera quang-điện tử của hệ thống tìm kiếm của đối thủ.

Điều đáng nói là về các phương pháp đối kháng mắt người, mà trong các cuộc xung đột ở Trung Đông và Viễn Đông là một trong những hệ thống đối kháng hiệu quả nhất. Một trong những hệ thống như vậy, làm việc trên nguyên tắc phản xạ, hướng năng lượng ánh sáng theo hướng mắt người (qua các thấu kính hội tụ, được sử dụng để ngắm mục tiêu), mà can thiệp vào mắt, gây nhầm lẫn hoặc lừa dối nó về vị trí thực của mục tiêu. Cũng có thể làm như vậy, hướng chùm tia laser vào mắt con người đang ngắm bắn, để sao cho qua hệ quang học của vũ khí mà làm hỏng võng mạc mắt anh ta.


19.4. Vũ khí laser công suất lớn

Mặc dù laser có hiệu quả trong hệ thống dẫn đường vũ khí và đạn, công tác phát triển vũ khí laser chết người - một cái gì đó giống như "tia chết", vẫn chưa mang lại thành công. Tuy nhiên, các Siêu cường vẫn cố gắng để đạt mục tiêu này. Theo toàn bộ các khả năng có được, một vũ khí laser xách tay "tia tử thần" cho cá nhân có thể nghiên cứu phát triển mà không có khó khăn gì đặc biệt và không nghi ngờ gì nữa, nó là vũ khí gây chết người. Tuy nhiên, thực tế, không ai đi đến loại vũ khí này. Lý do có lẽ nằm trong vấn đề có thể dễ dàng tìm thấy biện pháp đối kháng thích hợp, biện pháp sẽ vô hiệu hóa hiệu quả của nó. Ngoài ra, sẽ là quá đắt khi sử dụng nó như một thứ vũ khí cá nhân. Về mặt lý thuyết, một chiếc gương bình thường cũng có thể được sử dụng để phản xạ chùm tia trở lại phía mũi tên hoặc có thể tránh khỏi chùm tia bằng cách ẩn đằng sau một bức tường hoặc một chướng ngại vật khác, hoặc phun aerosol. Tốt hơn là chế tạo các lựu đạn cầm tay sinh ra đám mây bụi hay khói và chính chúng làm mù hệ thống quang học lấy đường ngắm bắn, và vô hiệu hóa tính hiệu quả của vũ khí.

Trong những năm qua, cả hai Siêu cường hướng các nỗ lực của họ vào phát triển một loại "laser năng lượng cao" công suất 5-10 MW - mạnh hơn nhiều so với bất kỳ tia laser hiện có nào. Vũ khí này, trong thực tế, sẽ phải sinh và truyền năng lượng to lớn thông qua khí quyển và tập trung nó vào các mục tiêu tốc độ cao, chẳng hạn như tên lửa và máy bay siêu âm, đốt cháy chúng hoặc gây tổn hại cho hệ thống dẫn đường của chúng bằng hiệu ứng nhiệt.


Trong một phòng thí nghiệm của hãng Boeing phát triển mẫu laser công suất lớn theo công nghệ TDL (Thin Disk Laser)

Không quân đặc biệt quan tâm đến việc phát triển các loại vũ khí như vậy để bảo vệ máy bay ném bom trước các tên lửa không-đối-không và diện-đối-không, đặc biệt khi mà các phương tiện đối kháng điện tử truyền thống không có khả năng tạo sự bảo vệ đầy đủ trong quá trình đột phá hệ thống phòng không của đối phương. Hải quân, đến lượt họ, nhìn thấy vũ khí laser như một loại phương tiện đối kháng chính xác cao trước TLCH, bao gồm các tên lửa hành trình và tên lửa chống hạm bay ở độ cao cực thấp, ở chiều cao sát đỉnh sóng. Cuối cùng, với Lục quân, vũ khí này sẽ đảm bảo phòng không tầm thấp chống lại bất kỳ loại mục tiêu tấn công nào (hiện nay quân đội Mỹ cùng với Israel đang tiến hành thử nghiệm hỏa lực hệ thống tia laser phòng không, có khả năng bắn tiêu diệt đạn rốc-két không điều khiển của hệ thống bắn loạt "Katyusha". Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga).

Tuy nhiên, để vũ khí này trở thành hiện thực trước hết phải giải quyết những vấn đề rất lớn. Vấn đề đầu tiên là chuyển giao laser công suất cao từ môi trường phòng thí nghiệm mỏng manh sang môi trường khắc nghiệt khai thác sử dụng trang thiết bị quân sự bị hạn chế về nguồn nuôi, trọng lượng và khối tích nội bộ. Một trở ngại khác phải vượt qua là sự phân tán trong khí quyển, rất đáng kể ở các bước sóng laser. Cúng như với bức xạ hồng ngoại, khí quyển hấp thụ mạnh và do đó làm giảm cự ly hoạt động của laser, thậm chí giảm rất nhiều. Một phần nào, những vấn đề này có thể giải quyết bằng cách sử dụng vũ khí laser trên các độ cao lớn, hay đúng hơn, trong một không gian mở, nơi sẽ không có sự hấp thụ năng lượng.

Người Mỹ đã biến một số máy bay Boeing C-135 Stratolifter thành phòng thí nghiệm bay của tia laser, để nghiên cứu việc sử dụng vũ khí laser ở độ cao lớn. Những chiếc máy bay này được trang bị các laser công suất mạnh và các hệ thống ngắm và bám sát chuyên dụng (hiện họ đang tiến hành công tác lắp đặt một laser mạnh để tiêu diệt ICBM và tên lửa chiến dịch-chiến thuật ở phân đoạn đường bay chủ động trên một chiếc Boeing 747 hoán cải. Tuy nhiên, vấn đề này rất lớn, nguồn tài chính bị cắt giảm, và công việc đang chậm lại. Ghi chú. người dịch bản tiếng Nga). Một trong những máy bay trên, ngày 06 tháng 5 năm 1981, đã bị vỡ tan từng mảnh tại tiểu bang Maryland trong khi tiến hành các thí nghiệm bí mật. Trong khi đó, các phòng thí nghiệm bay khác nhau đã vài lần sử dụng các loại máy phát laser khác nhau tiêu diệt thành công bia-mục tiêu. Trong các thử nghiệm được tiến hành ở bãi thử tên lửa White Sands, người ta cũng nghiên cứu vấn đề laser gây tổn thương cho vật liệu kim loại (thép, nhôm, v.v) dùng chế tạo ra mục tiêu.

Phát triển vũ khí laser năng lượng cao sẽ đòi hỏi ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ mất nhiều thời gian, còn sở hữu loại vũ khí như vậy chỉ bởi một Siêu cường, sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến cán cân quyền lực trên thế giới. Vì lý do này, Hoa Kỳ đã dành nhiều kinh phí cho nghiên cứu và phát triển các biện pháp đối kháng thích hợp để bảo vệ mình khi thứ vũ khí chết người đó cuối cùng cũng xuất hiện (xem Chương 23: Chiến tranh điện tử trong vũ trụ).


19.5. Vũ khí tần số siêu-thấp

Sau cái chết của Nikola Tesla năm 1943, Mỹ đánh giá thấp tầm quan trọng về mặt kỹ thuật và quân sự của phát hiện của ông, họ đồng ý chuyển toàn bộ kho lưu trữ của ông ta cho Nam Tư, nước yêu cầu trao trả lại. Ngay khi các tài liệu về đến Nam Tư, chúng liền được các chuyên gia tình báo Liên Xô bí mật nghiên cứu, họ đã ngay lập tức trở thành chủ sở hữu của các nghiên cứu và các đề án quan trọng nhất.

Người Soviet đặc biệt quan tâm các nghiên cứu của Tesla, và trong một thời gian họ đã tiến hành các nghiên cứu riêng của họ về tính khả thi của một loại vũ khí mới, loại vũ khí, mà không nghi ngờ gì nữa, sẽ có một tác động hủy diệt rất ghê gớm, nhưng rất khó đưa vào ứng dụng thực tế.

Khi thử nghiệm với cuộn dây cảm ứng, Tesla nghiên cứu khả năng truyền năng lượng điện qua không gian mà không sử dụng hệ thống dây dẫn điện thông thường. Ông cho rằng bản thân Trái Đất có thể được sử dụng như một vật dẫn, như thể nó là một chiếc âm thoa khổng lồ có khả năng bức xạ dao động ra một bước sóng cụ thể. Theo lý thuyết của ông, có thể thực hiện việc truyền tải ở tần số thấp (6-8 Hz) thông qua Trái Đất bằng cách sử dụng một kiểu sóng đứng được tự bản thân Trái đất bức xạ.


Nikola Tesla trong một thí nghiệm của ông tại Colorado Springs năm 1899

Năm 1899, tại Colorado Springs trên đất Mỹ, Tesla đã trình diễn cuộn dây cảm ứng kích thước rất lớn chưa bao giờ tạo ra trước đây, và với sự giúp đỡ của nó, đã đốt sáng hàng trăm ngọn đèn ở khoảng cách 40 km, truyền năng lượng điện thông qua Trái Đất mà không cần dùng dây điện.

Sau đó, ông tiếp tục phát triển một lý thuyết cho rằng, các tín hiệu gần với tần số cộng hưởng cơ bản, giá trị của nó ông tính là 8 Hz, có thể đi xuyên qua Trái đất và nhận được ở đầu bên kia. Điều này được giải thích bởi thực tế việc lan truyền tín hiệu là do sóng dọc. Một số chuyên gia Mỹ đã đi đến chỗ cho rằng một hệ thống như vậy có thể được sử dụng bởi người Liên Xô để kích thích các vụ động đất giống như các vụ động đất đã xảy ra ở Bắc Kinh vào đầu năm 1977.

Tuy nhiên, chúng ta phải nhấn mạnh rằng để kích thích động đất theo cách này sẽ đòi hỏi nguồn năng lượng khổng lồ và một ăng-ten cũng khổng lồ. Cụ thể, để gây các hoạt động địa chấn có cấp bằng cấp cường độ trận động đất năm 1977 tại Bắc Kinh, Liên Xô sẽ phải sử dụng một ăng-ten dưới dạng đĩa đồng đường kính 20 km, chắc chắn không thể qua mắt tình báo Mỹ !

Giả thuyết rằng người Nga có thể đã phát triển vũ khí tần số thấp dựa trên lý thuyết của Tesla, khá hợp lý. Vũ khí này sẽ làm việc trên tần số 8 Hz, rất gần với tần số làm việc của bộ não con người (hoạt tính điện của bộ não con người thường được đo với mục đích chẩn đoán, sử dụng điện não đồ và bao gồm các dao động hình sin với tần suất trung bình là 10 Hz và biên độ 10-50 microvolt. Các phương pháp kích thích điện não của con người được E.Hitzig và G.Frich nghiên cứu), và do đó có thể can thiệp sự làm việc của tư duy cùng một cách như ECW ngăn chặn liên lạc vô tuyến và radar. Có khả năng bức xạ xung ở tần số này có thể gây ra hiệu ứng từ buồn ngủ đến gây hấn. Có báo cáo rằng tại Riga và Gomel người Liên Xô đã xây dựng hai máy phát đặc biệt tần số thấp. Ngoài ra, hiệu ứng cộng hưởng này cũng thường xuyên được BCH Hoa Kỳ sử dụng để liên lạc với các tàu ngầm của mình.

Tuy nhiên, vũ khí này có những khả năng mà Tesla không mong đợi : nó hoạt động trên một kiểu cộng hưởng được hình thành trong không gian giữa bề mặt Trái Đất và lớp dưới của tầng điện ly. Trong một hệ thống như vậy, các tia Tesla, ngoài việc truyền qua Trái Đất, sẽ được truyền cả vòng quanh nó.

Tác động của trường điện từ lên cơ thể con người cũng được nghiên cứu ở phương Tây. Nhờ dụng cụ đo lường rất nhạy cảm hiện nay, người ta phát hiện thấy rằng bộ não con người và trái tim đều có hoạt tính từ tính. Trong lĩnh vực y tế phát hiện này dẫn đến sự xuất hiện của điện não-từ và điện tim-từ.

Gần đây, nhiều mối quan tâm lớn đã tập trung vào ảnh hưởng của trường điện từ trong dải tần số cực thấp (ELF) - 3 Hz-3 kHz. Thật thú vị khi nhận xét thấy nhiều nhiễu loạn điện từ của khí quyển là nằm trong khu vực này và bức xạ ELF đó tương tự như nhịp điệu sinh học. Một số loài động vật cũng thể hiện sự nhạy cảm nhất định với các tần số trên. Hoạt động cơ động giảm ở loài chim đã được quan sát thấy khi có sự hiện diện của các trường điện từ tần số 1,75 Hz và 5 Hz, và tăng lên ở mức 10 Hz. Nhiều loài cá rất nhạy cảm với các dải tần số 0,1-10 Hz.

Bản báo cáo của Wever và Altman (xem "Ảnh hưởng của trường điện từ", biên tập Persinger, nhà xuất bản Plenum Press, New York và London, 1974.) nói rằng các trường điện từ trong dải tần số này ảnh hưởng đến hành vi của con người. Cơ sở cho các quan sát của họ là tính tự chủ của hệ thần kinh và nội tiết. Nói ngắn gọn, vũ khí ELF có thể có khả năng được sử dụng để gây ảnh hưởng đến suy nghĩ và do đó ảnh hưởng đến tất cả nhân loại.

Tuy nhiên, giả sử loại vũ khí như vậy đến một ngày nào đó có thể được phát triển, thì khi đó cũng sẽ không khó khăn gì, kể cả tính đến bức xạ tần số thấp và công suất của nó, tìm ra một biện pháp phản-ECW để bảo vệ bộ não của chúng ta khỏi mối nguy hiểm ngấm ngầm ẩn giấu trong quang phổ điện từ này.

HẾT CHƯƠNG 19​
........
 

Duc Diep

Xe đạp
Biển số
OF-299509
Ngày cấp bằng
23/11/13
Số km
36
Động cơ
308,860 Mã lực
cụ làm bên quôc phòng thi phải
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)


Chương 20. Các cuộc xung đột nhỏ, các cuộc chiến tranh cục bộ và xâm lược

20.1. Thỏa thuận về hạn chế vũ khí chiến lược và cuộc khủng hoảng Iran



Phóng thử tên lửa đạn đạo tầm trung mang đầu đạn hạt nhân Pershing 2 trên bãi thử tại Cape Canaveral Mỹ, tháng 2 năm 1983

Chiến tranh Việt Nam - Trung Quốc nổ ra ngay vào thời điểm Mỹ và Liên Xô đang ở đêm trước việc ký kết Thỏa thuận hạn chế vũ khi chiến lược (SALT-2). Cả hai bên đã có những nỗ lực tuyệt vời để vượt qua hai chướng ngại : các tên lửa có cánh mới của Mỹ và tên lửa Pershing 2; và các máy bay ném bom Liên Xô Tu-26 Backfire (trong văn bản, có nghĩa nói đến máy bay ném bom Tu-22M. Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga). Sự khó chịu của người Nga với các tên lửa có cánh của Mỹ, được trang bị hệ thống định vị dẫn đường có tính cách mạng tại thời điểm đó TERCOM, gồm có máy tính và máy đo cao độ vô tuyến, nhờ vậy có khả năng bay với độ chính xác cao ở các độ cao rất thấp, được giải thích bởi thực tế người Nga vẫn chưa thành công trong việc tìm ra biện pháp đối kháng khả dĩ, dù đối kháng điện tử hoặc bất kỳ đối kháng nào khác. Hệ thống dẫn đường TERCOM (so sánh đường bao địa hình khu vực, Terrain Contour Matching) của tên lửa hành trình (KR - có cánh) không-đối-diện dựa trên mối tương quan giữa dữ liệu lập bản đồ địa hình nằm trong bộ nhớ với cảnh quan địa hình mà tên lửa bay trên đó, để tìm các điểm kiểm soát dọc theo tuyến đường bay đến mục tiêu. Nói cách khác, các tên lửa bay tiếp tới mục tiêu phù hợp với tuyến đường bay được lập trình. Chức năng duy nhất đặc biệt của TERCOM là bù sai hướng bằng cách so sánh các đặc điểm của đường bao khu vực, lưu trữ dưới dạng dữ liệu kỹ thuật số trong "thư viện" máy tính của hệ thống dẫn đường với các đặc điểm thực tế của cảnh quan địa hình đo bằng máy đo độ cao vô tuyến trong suốt chuyến bay. Đường bay được lập trình bằng cách sử dụng dữ liệu do các vệ tinh và máy bay trinh sát thu thập.

Sự khó chịu với tên lửa Pershing 2, dự kiến sẽ được triển khai ở Tây Âu, cũng bắt nguồn chủ yếu từ những cân nhắc về EW. Mặc dù các tên lửa này và có tầm ngắn hơn so với tên lửa tương tự của Liên Xô, người Nga sợ chúng vì những khó khăn trong việc tìm ra phương thức ECW thích hợp để đối kháng lại hệ thống dẫn đường đặc biệt hoàn hảo của chúng, trong đó, khi hệ dẫn đường quán tính kết hợp với radar, nó gần như miễn dịch với việc bị chế áp hoặc đánh lạc hướng. Phần lớn đường bay tên lửa diễn ra dưới sự điều khiển của hệ quán tính (INS), nhưng sau đó, để tự dẫn đường tới mục tiêu, nó sẽ chuyển sang được điều khiển bằng RADAG (dẫn-radar vào khu vực mục tiêu. Ngay sau khi bắt đầu bổ nhào xuống, bộ "tương quan radar khu vực" ("коррелятор радиолокационной площади" - radar area correlator) của nó bắt đầu so sánh cảnh quan thực tế với "bản đồ" được lưu trữ trong một máy tính nhỏ, và đưa vào hoạt động cơ cấu bề mặt khí động học ngoài để điều khiển đầu đạn rơi chính xác vào mục tiêu.

Đổi lại, người Mỹ bày tỏ lo ngại về sự hiện diện của các máy bay Tu-22M của Nga. Nguyên nhân chính thức của mối quan ngại này là chúng nhiều hơn loại tương đương với chúng và đã xuất xưởng một số lượng hạn chế là máy bay F-111 của Mỹ. Phiên bản EW của nó - EF-111 có tính bắt buộc khi đột phá vào không phận của đối phương.

Tại Hoa Kỳ, việc ký kết vào cuối tháng 6 năm 1979 , tại Vienna, hiệp ước SALT-2, đã trở thành nguồn gây tranh cãi nghiêm trọng, chủ yếu vì Mỹ sợ rằng bây giờ nước Mỹ không còn có thể kiểm tra xem Liên Xô trong thực tế có tuân thủ thỏa thuận đã ký kết hay không. Nhiều người còn nhớ các chuyến bay của máy bay thuộc CIA từ Iran, nơi sau cuộc cách mạng Hồi giáo và sự thay thế Vua Shah, Mỹ đã mất tất cả các trạm nghe lén vô giá của mình, sau nhiều năm hoạt động tại biên giới Iran - Liên Xô. CIA nhấn mạnh rằng bây giờ, khi thiếu các trạm nghe lén ở Iran, họ có thể không còn kiểm soát được xem người Nga có tuân thủ các hạn chế đã thỏa thuận được về việc triển khai các tên lửa đạn đạo mới hay không.


Carter và Brezhnev ký SALT II, 1979

Mỗi tên lửa mới của Nga trước khi đưa vào phục vụ, trong vòng 1 năm, cần phải trải qua một loạt các chuyến bay thử nghiệm - trung bình là hơn hai mươi vụ. Trong thời gian này, cần sử dụng radar dẫn đường và hệ thống lệnh vô tuyến điều khiển. Yêu cầu này cho phép người Mỹ theo dõi các đặc tính điện tử tên lửa của họ và do đó đánh giá được đặc tính chiến đấu của chúng. Thông tin đó về các tên lửa Nga CIA luôn luôn nhận được thông qua các trạm nghe lén ELINT của họ ở Iran.

Nhiều thượng nghị sĩ Mỹ bày tỏ mối quan ngại sâu sắc đối với khoảng "chân không tình báo" này và yêu cầu hoãn chưa phê chuẩn SALT-2, cho đến khi tìm thấy và phát triển được đề án bù đắp thiệt hại của các trạm nghe lén ở Iran và khôi phục lại đầy đủ khả năng giám sát điện tử nhờ các hệ thống khác.


20.2. Cuộc xâm lược Afghanistan

Sau đó, việc ký kết SALT-2 đã bị trì hoãn do cuộc xâm lược của Liên Xô tại Afghanistan. Cũng như trước khi nổ ra cuộc cách mạng Hồi giáo ở Iran, cuộc xâm lược Afghanistan làm lộ ra những thiếu sót hiển nhiên của hệ thống tình báo Mỹ. Nhân dịp này, một cuộc điều tra đặc biệt được tiến hành để cố gắng tìm hiểu làm thế nào một cuộc triển khai quy mô lớn như vậy của quân đội Nga lại không được các đơn vị khác nhau của CIA phát hiện.

Các nhà phân tích của CIA báo cáo rằng gần biên giới Afghanistan có triển khai một cụm quân, tổng số 15 000 người. Thực ra, số lượng quân đội tập trung ở miền Nam nước Nga, cao hơn rất nhiều, và trong thực tế, tham gia cuộc xâm lược là cụm quân quân số ít nhất 85.000 người. Phần lớn binh sĩ được triển khai qua đường không bằng 350 máy bay vận tải quân sự lớn giữa khoảng 24 đến 27 tháng 12 năm 1979 và đổ bộ xuống các sân bay Kabul và Bagram, và trong thời điểm này bốn sư đoàn xe tăng và một sư đoàn cơ giới hóa cũng vượt qua biên giới. Ngoài ra, một vài ngày trước, rất nhiều đơn vị trong số đó được triển khai đến các căn cứ ở Trung Á từ biển Baltic, và những cuộc chuyển quân này cũng thoát khỏi sự chú ý của các vệ tinh Mỹ thu thập thông tin tình báo và các cảm biến khác, vì người Liên Xô sử dụng chiến thuật đánh lạc hướng.

Ngoài ra, các trạm nghe lén Mỹ chặn thu được một số thông cáo radio phát cho nhân dân Afghanistan được ghi trước; những chương trình phát thanh này dụ kiến lên sóng buổi phát thanh cuối cùng khi bắt đầu đánh chiếm Kabul. Điều này cho thấy hoạt động tốt nhất trong tất cả các đơn vị hoạt động trong những điều kiện như vậy của cộng đồng tình báo Mỹ là cơ quan đánh chặn tin điện của các phương tiện thông tin liên lạc (COMINT). Tiếp theo, đã xác nhận được rằng khi Kabul bị chiếm đóng bị cách ly với toàn thế giới, chỉ có cơ quan đánh chặn thông tin liên lạc là thành công trong việc thu thập thông tin về những gì đang xảy ra ở Trung Á. Vì vậy, để kết luận, phải nói rằng những thiếu sót nằm trong khâu phân tích và đánh giá các thông tin nhận được - công việc mà thường được thực hiện ở cấp cao nhất của đất nước.


20.3. ECW và sự thất bại của cuộc đột kích của Mỹ ở Iran


Tổng quan vụ va chạm gây đổ vỡ tại bãi đáp căn cứ Desert One của chiến dịch giải cứu con tin Mỹ "Eagle Claw" tại Iran

Sáng ngày 25 tháng 4 năm 1980, sau khi Tổng thống Jimmy Carter đột nhiên ra tuyên bố rằng chiến dịch commando bí mật, tiến hành vào ban đêm để giải thoát các con tin Mỹ tại Tehran đã đổ vỡ, cả thế giới chìm trong lo sợ và nỗi ám ảnh bởi bóng ma của chiến tranh hạt nhân. Về sau, khi Bộ Quốc phòng Mỹ công bố các chi tiết của chiến dịch, phản ứng là một sự hỗn hợp của sợ hãi trộn lẫn với thái độ hoài nghi. Làm sao điều đó có thể xảy ra, nhiều người tự hỏi, bộ máy quân sự lớn nhất thế giới, chủ sở hữu hầu hết các mẫu công nghệ tiên tiến nhất, đã buộc phải chấm dứt chiến dịch có ý nghĩa quan trọng như vậy đối với nhân dân Mỹ đơn giản chỉ vì một vài máy bay trực thăng bị hỏng ?

Các chuyên gia quân sự của một số nước phương Tây không bị thuyết phục bởi những lời giải thích chính thức, và họ đưa ra giả thuyết rằng, lý do thực sự cho sự thất bại của Mỹ được cắt nghĩa bởi hoạt động ECW mà người Soviet sử dụng quá trình chiến dịch của người Mỹ. Nguyên nhân thực sự nào khi đó đã làm cho chiến dịch thất bại và ngành EW chịu trách nhiệm đến đâu trong vụ việc này ?

Ý tưởng một chiến dịch tấn công chớp nhoáng, tương tự cuộc đột kích Entebbe, mục đích nhằm giải các cứu con tin tại Đại sứ quán Mỹ ở Tehran, được xem xét từ đầu tháng 11 năm 1979, ngay sau khi Đại sứ quán bị chiếm giữ. Tuy nhiên, rất nhanh chóng người ta thấy rõ rằng chiến dịch tương tự như chiến dịch của Israel là không thể, vì tình hình con tin tại Tehran là khác xa so với ở Entebbe.

Các phương án khác nhau, được một nhóm nhỏ các chuyên gia Lầu Năm Góc soạn thảo trong bí mật, đã được xem xét, và cuối cùng, sự lựa chọn rơi vào một kế hoạch khá phức tạp, sử dụng máy bay trực thăng. Lựa chọn các loại máy bay trực thăng cho chiến dịch như vậy là không đơn giản. Bởi dĩ nhiên phải cất cánh từ tàu sân bay, chúng phải là loại trực thăng của hải quân, và lựa chọn tốt nhất rõ ràng sẽ Sikorsky S-65, phiên bản của nó là CH- 53A Sea Stallion và RH-53D được khai thác sử dụng trong Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Iran. Vì vậy, khi một máy bay trực thăng Mỹ đến gần Đại sứ quán để giải phóng các con tin, người Iran có thể nghĩ rằng đây là một trong những máy bay của họ.

Chiến dịch được chia thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, sáu máy bay C-130 với 90 lính commandos trên khoang và một lượng lớn nhiên liệu sẽ cất cánh từ một sân bay Ai Cập, bay trên Biển Đỏ, vòng qua bán đảo Ả Rập và hạ cánh tại đường băng cũ bị bỏ hoang nằm ở đáy một hồ muối khô cạn trong sa mạc Dasht-Kavir gần thành phố Tabas của Iran, cách Tehran khoảng 450 km. Tại nơi hạ cánh, đánh dấu "sa mạc số 1", được ấn định làm nơi tập kết tám máy bay trực thăng RH-53, bay từ tàu sân bay "Nimitz", đang hướng về phía Vịnh Oman. Mục đích của điểm hẹn là để tiếp nhiên liệu cho các máy bay trực thăng sau 800 km triển khai và đổi tàu cho lính commandos trên máy bay trực thăng.

Ở giai đoạn thứ hai của chiến dịch, mà không bao giờ được thực hiện, quân biệt kích đi trên máy bay trực thăng phải được triển khai tại một địa điểm bí mật ở vùng núi và từ đó bay đến Tehran, tại đây, với sự giúp đỡ của các điệp viên thâm nhập vào từ trước và có thể cả hơi cay, phải lọt vào Đại sứ quán để cứu và sơ tán các con tin. Giữa các biệt kích và Lầu Năm Góc luôn đảm bảo thông tin liên lạc vệ tinh không chậm trễ.

Như trong tất cả các chiến dịch loại này, tính bất ngờ và tốc độ là những yếu tố chính để đạt được thành công. Ngay từ đầu khi lập kế hoạch, khi tính đến hai yếu tố này, đã thấy rõ việc đặc biệt quan trọng là phải giải quyết hai vấn đề : thứ nhất - tránh bị radar kẻ thù và các thiết bị chiến tranh điện tử khác phát hiện, thứ hai - tránh đụng độ vũ trang với Iran.

Để đạt được mục tiêu đầu tiên, đã phát triển một kế hoạch chi tiết về tiến hành chiến tranh điện tử, phải hoạt động, cả trước và trong quá trình chiến dịch. Đầu tiên, người Mỹ bắt đầu chặn thu tất cả các tin điện vô tuyến giữa Đại sứ quán Iran ở Washington và Bộ Ngoại giao ở Tehran để đảm bảo cho Lầu Năm Góc các thông tin có thể có ích trong việc lập kế hoạch chiến dịch. Thứ hai, để không khơi dậy sự nghi ngờ của vô số tàu chiến của Liên Xô trong Vịnh Oman và Biển Ả Rập, Không quân và Hải quân Mỹ đã tiến hành 90 bài tập trận có sử dụng máy bay trực thăng, thường bay thẳng đến bờ biển Iran. Mỗi đêm, các tàu chiến Mỹ khác, ở cách xa tàu sân bay "Nimitz", bắn các hỏa tiên đặc biệt phóng mục tiêu giảdưới dạng mồi nhử PRLO để mô phỏng sự hiện diện trong không trung của các máy bay trực thăng và bằng cách đó đánh lạc hướng và gây nhầm lẫn cho các trắc thủ radar Liên Xô.

Mỗi đêm, các tàu và máy bay Mỹ trong khu vực truyền các thông điệp vô tuyến giả, để sao cho trong đêm bắt đầu chiến dịch sẽ không có bất kỳ sự thay đổi nào về lưu lượng các thông điệp vô tuyến và để không gây nghi ngờ cho các tàu gián điệp ở khắp nơi của Liên Xô, vẫn chặn thu một cách có hệ thống tất cả các luồng điện báo của Hoa Kỳ. Nói ngắn gọn, mục tiêu là bắt người Nga nghĩ rằng việc xuất kích ban đêm của tám máy bay trực thăng RH-53 để thực hiện một chiến dịch có thật, chỉ là bài huấn luyện thường xuyên vào ban đêm.

Chiến dịch có tên mã "Eagle Clough" ("Eagle Claw" - "Móng vuốt Đại bàng"). Tên này được sử dụng trong tất cả các bức điện vô tuyến đề cập đến chiến dịch. Điều rất quan trọng là phải đảm bảo an toàn tối đa cho đường liên lạc giữa Lầu Năm Góc và tàu sân bay "Nimitz", trên boong tàu đặt BCH đặc biệt của chiến dịch và lực lượng, dự định tham gia chiến dịch. Để đạt được điều này, Hoa Kỳ, vào đầu tháng Giêng, đã bí mật phóng lên không gian hai vệ tinh thông tin liên lạc, được cài đặt các máy phát mới và thực hiện phương pháp mã hóa mới, làm cho đường liên lạc của họ gần như hoàn toàn miễn dịch với sự gây nhiễu và giải mã. Đồng thời, đã đưa vào quỹ đạo địa tĩnh trên Ấn Độ Dương các vệ tinh trinh sát để đảm bảo chụp ảnh và trinh sát điện tử đầy đủ toàn khu vực này. Để đảm bảo sự cảnh báo bất kỳ máy bay nào đến gần các máy bay C-130 và các trực thăng Mỹ đang bay đến Iran, trong khu vực chiến dịch có một số máy bay Mỹ E-3A AWACS hoạt động : mỗi chiếc trong số đó được trang bị radar phát hiện tầm xa có thể phát hiện máy bay và trực thăng ở khoảng cách hàng trăm cây số.

Nhiệm vụ khó khăn nhất là vấn đề xâm nhập và hành động mà không bị phát hiện trong không phận Iran. May mắn thay, mạng lưới radar phòng không của Iran đã được người Mỹ xây dựng một vài năm trước và chúng dựa vào các thiết bị sản xuất tại Mỹ, do đó, sử dụng các vệ tinh trinh sát điện tử mới đã tìm thấy hành lang "mù" giữa các cung quét của radar Iran, khi di chuyển trong hành lang đó, máy bay và trực thăng có cơ hội tốt để bay mà không bị phát hiện.


"Desert One", căn cứ tạm thời trong sa mạc.
...........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Cả C-130 và RH-53 đều được trang bị máy phát nhiễu, nhằm sử dụng trên các đường bay để gây nhiễu và gây rối đường liên lạc kết nối giữa các máy bay chiến đấu của Iran và các các trạm mặt đất dẫn đường của họ. Để hỗ trợ cuộc tấn công vào Đại sứ quán Mỹ trong trường hợp cần thiết, hai chiếc C-130 Hercules trang bị các súng máy 7,62 mm.

Và cuối cùng, khoảng 200 máy bay tấn công của các tàu sân bay "Nimitz" và "Coral Sea", sẵn sàng can thiệp nếu quân biệt kích gặp khó khăn.

Hai tuần trước ngày dự kiến mở chiến dịch, các máy bay C-130 thực hiện một chuyến bay đêm theo hành lang "mù" và hạ cánh tại "Desert One". Nhiệm vụ của nó là kiểm tra tính khả thi của việc thâm nhập không phận Iran mà không bị phát hiện và lấy mẫu nền đất sa mạc muối để phân tích, đảm bảo rằng các máy bay vận tải và máy bay trực thăng có thể hạ cánh an toàn ở đó.


Trực thăng RH-53 Sea Stallion đã được sơn ngụy trang lại màu cát, xếp hàng trên flight deck của USS "Nimitz" ngày 24 tháng 4 năm 1980 trước khi vào chiến dịch giải cứu con tin.

Chiến dịch thực được bắt đầu vào ngày 24 tháng 4, khi sáu chiếc C-130 cất cánh từ một sân bay quân sự Ai Cập Khena. Sau đó, vào lúc 19h30, từ tàu sân bay " Nimitz " đang hướng tới eo biển Hormuz, tám máy bay trực thăng RH-53 cất cánh.

Để gây nhầm lẫn cho radar các tàu Liên Xô, từ trên các tàu khác của Mỹ không chỉ ở trong Vịnh Oman, mà còn ở phía đông Địa Trung Hải đã phóng lên rất nhiều mồi nhử. Sự hỗn loạn tiếp theo trên các màn hình radar của Liên Xô được tạo ra bởi sự hiện diện của nhiều tàu chiến Israel (có lẽ hoàn toàn ngẫu nhiên) quyết định tiến hành tập trận KQ và HQ của họ vào đúng đêm ấy !

Để tránh bị phát hiện, máy bay C- 130 đã bay rất thấp, đầu tiên trên Biển Đỏ, sau đó trên Vịnh Aden. Ở đây, họ đã phải bật các máy phát nhiễu của họ làm mù các radar Liên Xô đặt tại phía nam Yemen và trên bờ biển Eritrea. Sau khi dừng chân ngắn tại sân bay Oman Masire để tiếp nhiên liệu, họ bay tới điểm "Sa mạc số Một". Máy bay trực thăng từ tàu sân bay "Nimitz" bay thẳng đến bờ biển Iran. Để tránh bị phát hiện, chúng cũng bay ở độ cao thấp, xa các điểm dân cư.

Để tạo thuận lợi cho chuyến bay của họ trên nền các nếp gấp địa hình, tất cả các máy bay C-130 và trực thăng RH-53 được trang bị các hệ thống đạo hàng phức tạp nhất và chính xác nhất hiện có, bao gồm hệ thống INS và hệ thống đạo hàng tầm xa có độ chính xác cao Omega, cũng như các thiết bị nhìn đêm.

Tốp trực thăng chỉ vừa vượt qua tuyến đường thứ ba giữa "Nimitz" và "Desert One", thì trên bảng điều khiển của chiếc trực thăng số 6 nhấp nháy đèn tín hiệu báo động, chỉ ra nguy cơ hộp số cánh quạt chính không làm việc - một điều hãn hữu, nhưng tiềm ẩn một sự cố rất nguy hiểm.

Chiếc trực thăng lập tức hạ cánh xuống gần một hồ nước nhỏ mà nó đang bay trên đó. Tuân thủ sự im lặng vô tuyến theo quy định, chiếc trực thăng cuối cùng của nhóm - chiếc № 8, tự động tiếp theo số 6 để giúp nó. Cuộc kiểm tra nhanh chóng các cánh quạt sau khi hạ cánh đã khẳng định mức độ nghiêm trọng của tình hình. Người chỉ huy quyết định bỏ chiếc trực thăng và phi hành đoàn của nó di chuyển sang chiếc trực thăng số 8, cất cánh ngay và hướng đến "Desert One".

Sau đó, nhóm phải đối mặt với một thử thách khác, rơi vào một cơn bão cát rất mạnh vừa bất ngờ nổi lên. Tầm nhìn giảm mạnh xuống gần bằng không, phi hành đoàn các máy bay trực thăng không thể nhìn thấy nhau ngay cả với các thiết bị nhìn đêm hoàn hảo nhất của họ.

Lúc 21:30, chiếc C-130 đầu tiên cùng toán nhân viên phải tổ chức một điểm tiếp nhiên liệu, tiếp đất tại "Sa mạc số 1", nhưng chỉ qua vài phút, xảy ra một sự kiện bất ngờ. Đột nhiên, trên một con đường đất chạy dọc theo đường băng xuất hiện một chiếc xe buýt Iran chở khoảng bốn mươi thường dân. Sĩ quan Mỹ chỉ huy nhóm đầu tiên, ngay lập tức dừng xe buýt, nhưng không biết phải làm gì với các hành khách, anh ta liên lạc qua radio với "Nimitz" xin chỉ dẫn. Anh ta được lệnh phải giữ họ lại, nhưng tránh xa khu vực tiếp nhiên liệu. Một vài phút sau, đỉnh điểm của nó là sự xuất hiện một chiếc xe tiếp dầu và một chiếc xe tải, chẳng nghi ngờ gì, đang đi thảng về phía đường băng, nơi những chiếc C-130 còn lại vừa hạ cánh. Tài xế xe bồn và xe tải, vấp phải một tình huống đặc biệt như vậy, họ dừng xe, sau đó biến mất trong bóng tối.

Trong khi đó, các máy bay trực thăng vẫn đang xuyên qua cơn bão cát. Ngay trước nửa đêm, chiếc trực thăng 5 có con quay hồi chuyển không làm việc, làm cho thiết bị định vị của nó trở thành không đáng tin cậy và quan trọng hơn là hệ thống ổn định bay, sự hỏng hóc này làm cho nó cực kỳ khó khăn trong việc giữ hướng và độ cao. Nhóm đã tiếp cận dãy núi có độ cao 3.000 mét chạy cắt đường bay đến "Desert One". Do đó, người chỉ huy chiếc trực thăng số 5 phải đưa ra quyết định rất khó khăn : bay dọc theo thung lũng theo kế hoạch hoặc bay trên sườn núi. Phương án đầu tiên dường như cực kỳ nguy hiểm trong một tình huống mà con quay hồi chuyển bị hỏng, trong khi bay trên các ngọn núi sẽ phơi trực thăng ra trước mắt các radar tìm kiếm của Iran và hệ thống phòng không Liên Xô. Có lẽ vì lý do thứ hai, phi công quyết định bay trở lại - về "Nimitz".

Lúc 00:30, Lầu Năm Góc nhận được tin tức qua vệ tinh rằng số 5 đang quay về TSB. Sự kiện thực tế là do hỏng hóc, hai chiếc trực thăng không còn có thể tham gia vào chiến dịch, gây kinh ngạc lớn ở Washington. Nhưng thay đổi chúng thì đã quá muộn; và trong thực tế, đã không phát triển bất kỳ kế hoạch dự phòng và thay thế nào cho các tình huống không lường trước!

Ngay sau đó, trên bảng điều khiển máy bay trực thăng số 2 nhấp nháy đèn báo động, lần này chỉ sự giảm áp suất trong hệ thống thủy lực dự trữ, ổn định bước cánh hộp giảm tốc trục cánh quạt, và tiếp theo là tốc độ của máy bay trực thăng.

Cuối cùng, khoảng từ 0:50-01:40, sáu máy bay trực thăng còn lại hạ cánh tại "Desert One". Kiểm tra hệ thống thủy lực chiếc trực thăng số 2 cho thấy khiếm khuyết ở mức rất nghiêm trọng đối với máy bay trực thăng, cần phải tham gia chiến dịch.


Radar "Duga" (Дуга 5Н32), radar cảnh báo sớm các vụ thử ABM đặt gần Chernobyl (Ucraina) thuộc hệ thống PK Liên Xô. Làm việc ở tần số khoảng từ 3.26 và 17.54 МHz, biệt danh "Chim Gõ kiến".

Tại thời điểm này, theo phiên bản chính thức về các sự kiện đã xảy ra, ba viên chỉ huy (toán trực thăng, lính commandos và căn cứ "Desert One") hội ý, họ đi đến kết luận rằng nhiệm vụ không thể thực hiện bằng 5 chiếc trực thăng còn lại. Sau đó, họ gọi điện báo cáo chuyện đó về BCH "Nimitz", ở đó đến lượt mình người ta lại chuyển điện báo cáo của họ về Washington, trong đó đề xuất chấm dứt chiến dịch. Tổng thống Carter đã đồng ý và ra lệnh cho các máy bay cánh cố định và trực thăng trở về căn cứ.

Khi rời "Sa mạc số Một", trong cảnh tất bật chuẩn bị cho việc quay về, một máy bay trực thăng RH -53 đã va chạm với một máy bay C-130, làm bùng lên một vụ cháy, giết chết tám quân nhân Mỹ.

Đó là - phiên bản chính thức của sự kiện. Nó không được thuyết phục cho lắm, không chỉ về lý do đưa ra, mà còn vì những hình dung cụ thể hơn.

Trước hết, rất khó hiểu chuyện làm thế nào mà người Mỹ, vốn đã có hàng trăm chuyên gia-phi công trực thăng ở Iran dưới chế độ Shah, lại có thể đánh giá thấp như vậy những khó khăn kỹ thuật có thể xảy ra của một chuyến bay 800 km của các cỗ máy tinh tế trong các điều kiện vùng sa mạc, nơi bão cát đâu phải vấn đề gì mới mẻ. Cũng khó để mà hiểu, tại sao với một chiến dịch phức tạp như thế, họ vẫn không coi là cần thiết việc phải có đội trực thăng dự bị trên boong "Nimitz" hoặc một tàu chiến khác, luôn sẵn sàng thay thế bất kỳ chiếc máy bay nào hỏng hóc.

Cũng cần nhấn mạnh rằng, vì mỗi chiếc trực thăng RH -53 có thể chở tới năm mươi lăm người, năm máy bay trực thăng còn lại có lẽ cũng đủ để cứu năm mươi mốt con tin và các điệp viên. Người ta được báo cáo rằng nhiều sĩ quan biệt kích muốn tiếp tục thi hành nhiệm vụ trên năm trực thăng còn lại và đã cố gắng thuyết phục những người cho rằng quân số đó là không đủ. Vì trong số các chỉ huy không có viên sĩ quan duy nhất nào chịu trách nhiệm về toàn bộ trước BCH, tiếp theo lại xảy ra một cuộc tranh luận gay gắt, chỉ kết thúc vào lúc 2:30, khi lệnh của Carter truyền đến. Sau vụ va chạm thảm khốc lúc 3:18, tại căn cứ bắt đầu tình trạng hỗn loạn và chỉ có nó mới có thể giải thích một thực tế gần như không thể tin được, rằng các kế hoạch hoạt động và nhiều thiết bị điện tử bí mật khác nhau đã bị để nguyên trên những chiếc trực thăng bị vứt lại.

Như chúng ta đã thấy, trên lãnh thổ Iran, đặc biệt là khu vực gần biên giới với nước Nga, trong thời trị vì của chế độ Shah, vốn là khu vực "nóng" về EW : một mặt người Mỹ cố gắng đánh chặn bức xạ radar của Liên Xô trong các vụ thử tên lửa mới từ Tyuratam ở Kazakhstan, mặt khác người Nga, cố gắng ngăn chặn các hoạt động đánh chặn này bằng hệ thống ECW và phản-ECW. Sau cuộc Cách mạng Hồi giáo, các công trình giám sát của Mỹ đã bị tháo dỡ, còn hệ thống của Nga vẫn giữ nguyên, thậm chí có thể còn được tăng cường vì cuộc khủng hoảng ở Vịnh Ba Tư. Cũng cần lưu ý rằng tuyến đường bay theo của các trực thăng Mỹ nằm trong giới hạn khu vực với tới được của các radar PK Liên Xô bố trí dọc theo biên giới Xô viết - Iran.

Như vậy, từ quan điểm của EW, giả định đầu tiên, có thể rút ra - Người Liên Xô sau khi phát hiện được bằng radar hoặc các hệ thống điện tử khác, một toán trực thăng Mỹ, họ đã gây nhiễu hệ thống thông tin vô tuyến và định vị dẫn đường của người Mỹ, do đó can thiệp vào việc dẫn đường và ngăn chặn việc trao đổi các mệnh lệnh và báo cáo giữa các trực thăng, lực lượng commandos và các điệp viên, mà sự giúp đỡ của họ là cần thiết để tới được Đại sứ quán Mỹ tại Tehran.

Một giả thiết khác được đưa ra, đó là các vệ tinh gián điệp của Liên Xô đã chặn thu bức xạ radar của máy bay và trực thăng Mỹ, theo dõi di chuyển của chúng trên lãnh thổ Iran. Vì đơn vị đặc nhiệm Mỹ, để đến được "Sa mạc số 1", phải bay về phía biên giới Afghanistan, người Nga, có lẽ do sợ chúng tấn công các lực lượng vũ trang của họ tại Afghanistan và Brezhnev có thể liên hệ với Carter qua "đường dây nóng" nổi tiếng và thuyết phục ông ta từ bỏ việc thực hiện bất kỳ hành động quân sự nào ở khu vực này của châu Á.

Thứ ba, và có lẽ đây là giả định có thể xảy ra nhất, cho rằng vô số cuộc phát sóng giữa các trực thăng trong thời gian phát sinh hư hỏng máy và quân biệt kích, tiếp theo sự xuất hiện bất ngờ chiếc xe buýt Iran đã bị các trạm nghe lén của kẻ thù chặn thu, Lầu Năm Góc lo ngại chiến dịch đã mất yếu tố bất ngờ, cần thiết cho sự thành công của nó. Vì vậy, Carter, vốn sợ đối đầu trực tiếp với Iran, đã quyết định tốt hơn hết nên ra lệnh cho quân đội quay trở về trước khi quá muộn.

Tuy nhiên, theo các báo cáo khác nhau của người Mỹ, chẳng có hệ thống giám sát nào của Hải quân hoặc máy bay E-3A AWACS, bay quần vòng trong khu vực, chặn thu được các tin điện hoặc các tín hiệu chỉ ra rằng, radar Liên Xô, trong đó có các radar tại Afghanistan, phát hiện được sự hiện diện của máy bay bay thấp trên lãnh thổ Iran của những kẻ không mong đợi hoặc của các phương tiện bay không nhận dạng được. Hơn nữa, cả người Nga hay Iran cho đến ngày nay cũng không ra bất kỳ tuyên bố nào, nhận trách nhiệm của họ trong sự thất bại của cuộc đột kích của người Mỹ.

Liên quan đến việc tuân thủ sự im lặng vô tuyến điện tử, khi xét đến tính bí mật của loại chiến dịch như vậy, thì việc trao đổi tin điện với Washington và tàu sân bay nên tránh. Mặc dù có các phương pháp siêu hiện đại nhất bấy giờ trong truyền và mã hóa thông tin (độ rộng phổ tín hiệu, tín hiệu nhiễu giả, v.v) vốn không dễ dàng gì chặn thu được, trong một khu vực nhồi nhét quá nhiều các loại vật mang phương tiện SIGINT như thế - các trạm mặt đất, các vệ tinh, tàu chiến và máy bay như khu vực Trung Cận Đông, luôn luôn có một số rủi ro nhất định, là điện tín có thể bị đánh chặn và bị giải mã.
........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

20.4. Cuộc đột kích vào sân bay Entebbe


Một chiếc C-130 trước đài kiểm soát không lưu nhà ga cũ sân bay Entebbe năm 1994. Vẫn còn thấy vết đạn lỗ chỗ từ cuộc đột kích năm 1976.

Ngoài các cuộc khủng hoảng quốc tế nghiêm trọng, EW còn đóng một vai trò hữu ích, dù không phải lúc nào cũng được biết đến trong một loạt cuộc xung đột quy mô cục bộ gần đây - loại xung đột mà bây giờ được gọi là chủ nghĩa khủng bố quốc tế.

Một ví dụ điển hình cho việc sử dụng các biện pháp đối kháng điện tử tại một trong những cuộc "vi xung đột", cái được gọi như vậy là cuộc đột kích vào Entebbe, khi biệt kích Israel giải phóng 102 con tin bị bắt giữ ở sân bay Entebbe, cách thủ đô của Uganda - Kampala, 20 km. Một chuối biến cố thu hút sự quan tâm của thế giới đến sự kiện này, và có lẽ mọi người còn nhớ câu chuyện. Tuy nhiên, rất ít người nhận thức được vai trò của EW trong quyết định táo bạo này và nó đã góp phần lớn thế nào vào thành công của chiến dịch của người Do Thái.

Ngày 27 tháng 7 năm 1976, chiếc máy bay Airbus A-300 số hiệu chuyến bay 139 của hãng hàng không Air France bay từ Tel Aviv đến Paris chở 254 hành khách trên khaong máy bay, ngay sau khi cất cánh từ Athens, đã bị bốn kẻ khủng bố thuộc Mặt trận Giải phóng Palestine bắt cóc, ban đầu chúng ra lệnh cho phi công bay đến Benghazi, còn sau đó đến Entebbe.

Để giải phóng các con tin, Israel đã chuẩn bị một nhóm biệt kích được huấn luyện đặc biệt. Họ bay trên bốn máy bay vận tải C-130 được hộ tống bởi hai máy bay chiến đấu F-4 Phantom, bám sát họ ở giai đoạn đầu của chuyến bay. Sau đó, khi không còn tốp hộ tống, máy bay Hercules hạ xuống bay ở độ cao rất thấp trên hồ Victoria rồi hạ cánh tại Entebbe, trong khi đó, hai máy bay Boeing 707 quần đảo trong không trung, hoạt động như các trung tâm chỉ huy và kiểm soát chiến dịch.

Sau một cuộc đọ súng dữ dội, lính biệt kích đã giải phóng được các con tin, đưa họ lên một trong những chiếc Hercules. Nó lập tức cất cánh bay đến Nairobi, tại đó họ đưa những người bị thương xuống. Ba mươi phút sau, ba chiếc Hercules còn lại hạ cánh, đó là những chiếc tham gia chế áp dập tắt sự kháng cự, và loại khỏi vòng chiến đấu những chiếc MiG của Không quân Uganda, đóng căn cứ tại Entebbe.

Chuyến bay trở về Israel đánh dấu tám giờ bay của các máy bay vận tải quân sự Israel trong bối cảnh họ có thể gặp phải nguy cơ bị tấn công từ phía các máy bay chiến đấu Uganda và Ả Rập. Để tránh các cuộc tấn công có thể trong không trung, người Israel đã bật máy phát nhiễu trang bị trên một trong những chiếc Boeing 707 để làm mù radar trên máy bay đối phương và radar kiểm soát không lưu (РЛС УВД - РЛС управления воздушным движением) trong khu vực. Vì vậy, bất kỳ sự can thiệp khả dĩ nào của lực lượng không quân của Idi Amin đã được ngăn chặn và các máy bay Israel đã trở về Israel một cách an toàn.


20.5. Chiến tranh Việt Nam - Trung Quốc

Sau nhiều tuần đụng độ biên giới liên tục, lúc 05:30, ngày 17 tháng 2 năm 1979, 12 sư đoàn Trung Quốc, được yểm trợ bởi hàng trăm máy bay, xe tăng và pháo binh đã vượt qua biên giới dài 1.200 km với Việt Nam.

Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn tuyên bố rằng họ chỉ có ý định dạy cho người Việt Nam một bài học, sự xâm lược của Trung Quốc chống lại Việt Nam đã gây ra nguy cơ nghiêm trọng cho hòa bình trên trái đất và những bất đồng nghiêm trọng giữa các Siêu cường. Chỉ vài tháng trước, Liên Xô đã ký một hiệp ước hợp tác quân sự với Việt Nam, vì vậy lẽ tự nhiên, có nguy cơ một sự can thiệp quân sự của Liên Xô. Liên Xô, trong khi hoài nghi liệu có kích động Chiến tranh Thế giới thứ Ba hay không, vẫn thực hiện tất cả các biện pháp phòng ngừa và chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu hoàn toàn cho toàn bộ quân đội ở Siberia và gửi một hải đoàn tàu tuần dương và tàu khu trục tên lửa xuống Biển Đông. Để phòng ngừa, người Mỹ cũng phái tới khu vực bất ổn này nhiều tàu sân bay của Hạm đội 7 Thái Bình Dương. Cả hai Siêu cường chuyển lực lượng hạt nhân của họ sang trạng thái SSCĐ cao, đặc biệt trước hết là các tàu ngầm hạt nhân chiến lược mang tên lửa đạn đạo liên lục địa.


K-455 đề án 667BDR tái triển khai từ Biển Bắc sang Thái Bình Dương tháng 2 năm 1979. Thay ca trực chiến.

Trong khi đó, tin tức nhỏ giọt về các sự kiện trên biên giới Trung-Việt đến được cộng đồng quốc tế, như thường lệ, đầy mâu thuẫn. Người Trung Quốc tuyên bố họ đã tiến sâu 80 km vào Việt Nam, còn người Việt Nam hân hoan thông báo rằng biên giới rải đầy xác quân xâm lược và xe tăng của chúng bị phá hủy.

Nếu chiến sự trên mặt đất của cuộc xung đột Đông Nam Á này diễn ra theo truyền thống, thì cuộc chiến tranh điện tử trong thinh không, từ một phía khác, lại rất tiên tiến về công nghệ - cả hai bên, để thu được tất cả các thông tin có thể có về đối phương và do thám nhau, đã sử dụng các hệ thống hiện đại nhất của hai Siêu cường.

Trước tiên, cả người Nga và Mỹ ngay lập tức chụp ảnh vệ tinh bổ sung và trinh sát điện tử để giám sát không gian chiến trường. Họ chụp ảnh những gì đang xảy ra, và đánh chặn tất cả các bức xạ điện từ trong thinh không, đặc biệt là các thông báo và mệnh lệnh trao đổi của BCH các đối thủ.

Để đảm bảo giám sát tình báo một khu vực phức tạp như bán đảo Đông Dương và theo dõi sự di chuyển của các lực lượng không quân và hải quân của đối phương, người Nga gửi đến vịnh Bắc Bộ một số máy bay tuần tra bờ biển và trinh sát điện tử Tu-95 trang bị các thiết bị giám sát điện tử hiện đại nhất. Người Mỹ, đến lượt họ, gửi đến căn cứ không quân chiến lược ở Okinawa, Nhật Bản, một số máy bay Grumman E-2C Hawkeye. Được thiết kế và chế tạo đặc biệt để tiến hành trinh sát điện tử, các máy bay này đã theo dõi sát hải đoàn Nga và đánh chặn tất cả các bức xạ điện từ của các khí tài TTLL và radar của nó. Phân tích và giải mã các bức xạ trên sẽ đảm bảo cho Hoa Kỳ bức tranh thực tế các dự định hoạt động của Liên Xô. Trong lúc đó, khi mà không có một nhà báo, một "phóng viên đặc biệt", một tùy viên quân sự hoặc một điệp viên bí mật nào có thể khai thác được dù một mẩu thông tin nhỏ nhất đáng tin cậy về cuộc chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc, thì CIA và GRU, với sự giúp đỡ của các vệ tinh "đại bàng" và các máy bay trinh sát điện tử của họ, đã có tất cả các thông tin cần thiết.

Chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc đã cho người Mỹ một cơ hội cực kỳ đặc biệt để thử nghiệm trong điều kiện thực tế hệ thống chỉ huy, kiểm soát và thông tin liên lạc của họ, dựa trên đó mà sử dụng các khả năng tấn công của lực lượng hạt nhân Mỹ. Vô cùng ngạc nhiên và kinh sợ, Tổng thống Carter nhận ra rằng bây giờ toàn bộ hệ thống của Mỹ rất dễ tổn thương trước các loại vũ khí không gian mới của Liên Xô.

Một vài tháng sau, cuộc xung đột Việt-Trung kết thúc, không bên nào đạt được kết quả quyết định. Cả người Trung Quốc, người Việt Nam đều chính thức tuyên bố rằng họ đã đạt được mục tiêu của mình, nhưng nhiều khả năng cuộc xung đột được ngừng lại với tổn thất nặng nề cho cả hai bên.

Một vài tháng sau chiến tranh, Trung Quốc thông báo rằng nhiều binh sĩ của họ phải đưa vào bệnh viện tại Quảng Châu vì bị thương ở mắt và não. Trung Quốc nghi ngờ Liên Xô sử dụng cuộc xung đột để kiểm tra một loại vũ khí bí mật mới của họ, có thể là một tia laser mạnh, và binh lính Trung Quốc trở thành "chú heo thí nghiệm" của loại vũ khí đó.


20.6. Giải quyết các cuộc khủng hoảng quốc tế

Ngoài những cuộc khủng hoảng đề cập ở trên, đã có nhiều cuộc khủng hoảng quy mô khác nhau, xảy ra gần như liên tục trên Trái Đất - gần đây, ví dụ, ở Trung Mỹ, vùng Sừng châu Phi, Campuchia, Angola, Namibia, và Vịnh Ba Tư - giữa Iraq và Iran, và đó mới chỉ là điểm tên một số. Các cuộc khủng hoảng thường xảy ra ở những nơi theo các nguyên nhân chính trị, quân sự hay địa lý, việc thu thập thông tin về tình hình trong khu vực này thông qua các kênh thông thường là khó, nếu không nói là không thể.


A-4E trên USS "Intrepid" kèm chặn máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm trên không (AEW&C) Tu-126 trên Địa Trung Hải năm 1973.

Tuy nhiên, cả hai Siêu cường có các lợi ích chính đáng trong mỗi cuộc khủng hoảng quốc tế. Trực tiếp hoặc gián tiếp, mỗi cuộc khủng hoảng đều ảnh hưởng đến cân bằng lực lượng chiến lược và quân sự. Ví dụ, vì lo ngại nguồn cung dầu mỏ giữa hai khối, giữa khối NATO và khối Hiệp ước Warsaw luôn luôn có mối nguy hiểm của một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp với nguy cơ của một thảm họa hạt nhân tiếp theo. Mục đích của cả hai Siêu cường là khai thác các ưu thế tối đa của cuộc khủng hoảng mà không để quân đội của mình bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh thực sự, và cùng lúc đó, không cho phép Siêu cường khác có được ưu thế nào từ việc giải quyết cuộc khủng hoảng.

Tuy nhiên, họ cần phải không để mất kiểm soát các tình huống cực hạn và do đó có nguy cơ do sai lầm hay vô tình bị sa vào một cuộc xung đột hạt nhân. Tại đó, nơi có các thỏa thuận quốc tế về duy trì một sự cân bằng nhất định về sức mạnh chính trị và quân sự, mỗi bên phải thường xuyên cảnh giác trong trường hợp bên kia cố gắng đánh lừa họ. Vì vậy, vấn đề quan trọng sống còn đối với các cường quốc thế giới là nhanh chóng thu nhận và đánh giá chính xác tất cả các thông tin có thể về mỗi cuộc khủng hoảng quốc tế để đưa vào thực hiện các biện pháp đối phó thích hợp (chính trị, quân sự, điện tử, v.v).

Trong hoạt động này, đã có các thiếu sót nghiêm trọng, chẳng hạn như những thứ tình báo Mỹ phải đối mặt vào đêm trước cuộc khủng hoảng Iran và cuộc xâm lược Afghanistan, và những gì làm phức tạp các vấn đề đối với Hoa Kỳ. Điều này được sử dụng để nhắc nhở sự cần thiết trong các hệ thống có khả năng theo dõi hoạt động của các nước thù địch tiềm tàng trong các khu vực khủng hoảng quốc tế và phát hiện sự tập trung các xe máy tăng thiết giáp và binh sĩ dọc theo biên giới các quốc gia bị đe dọa và theo dõi sự di chuyển của chúng ngày cũng như đêm. Ngoài các vệ tinh, loại giám sát này cũng có thể được thực hiện rất hiệu quả bằng các máy bay và tàu chiến được trang bị thích hợp cho các nhiệm vụ SIGINT.


Máy bay - hệ thống cảnh báo sớm và kiểm soát trên không (AWACS), A-50 của KQ Liên Xô hiện còn được KQ Nga sử dụng.

Nhiệm vụ mới này đồng thời vừa có tính chất chiến lược và chiến thuật, bao gồm việc sử dụng các lực lượng không quân và hải quân, tương ứng được gọi là "giải quyết khủng hoảng". Các nhiệm vụ giám sát như vậy sẽ phải được thực hiện từ một khoảng cách an toàn, không bao giờ bao gồm việc bay qua các khu vực "nóng" và diễn ra dọc theo biên giới khu vực cả ngày lẫn đêm với việc sử dụng các trang bị điện tử, khí tài chụp ảnh và thiết bị hồng ngoại có khả năng hoạt động ở các cự ly lớn. Các loại máy bay như vậy của phương Tây được trang bị để theo dõi các cuộc khủng hoảng, là những máy bay trinh sát tân kỳ nhất của Mỹ : TR-1 và EF-111A, E-3A AWACS và EA-6B, E-2C Hawkeye, S-3A Viking và OV-1 Mohawk, BAE Nimrod của Anh và những loại khác. Máy bay của Liên Xô được trang bị để thực hiện các nhiệm vụ tương tự, ngoại trừ Tu- 95 có mặt ở khắp mọi nơi, còn là Tu- 16 và MiG-25R, như đã đề cập về chúng. Họ cũng có các máy bay hộ tống ECW Yak-28, Tu-22 và Tu-26 (trong nguyên bản, có nghĩa là Tu-22M. Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga.), chưa kể đến Tu-126, loại này có radar tầm hoạt động lớn rất giống loại AWACS của Mỹ (cần lưu ý rằng ưu tiên chế tạo máy bay AWACS với bầu che radar xoay dạng "nấm" thuộc về Liên Xô. Nó được rút khỏi biên chế phục vụ năm 1984 và thay thế bằng A-50, chế tạo dựa trên khung máy bay vận tải quân sự Il-76. Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga.).

Nhiều chiếc máy bay trong số này, phối hợp với các lực lượng Hải quân đầy ấn tượng được triển khai ở Vịnh Oman, đã được sử dụng trong thời gian cuộc xung đột giữa Iraq và Iran để theo dõi diễn biến tại điểm "nóng" trên của Thế giới. Đặc biệt, người Mỹ đã sử dụng bốn máy bay AWACS từ các căn cứ ở Ả Rập Saudi để kiểm soát toàn bộ vùng trời Trung Cận Đông và bằng cách đó, ngăn ngừa một cuộc tấn công bất ngờ vào lực lượng hải quân của mình ở các vùng biển trong khu vực.

HẾT CHƯƠNG 20​
.........
 

grandeurHD

Xe tải
Biển số
OF-129343
Ngày cấp bằng
3/2/12
Số km
331
Động cơ
377,570 Mã lực
- Cháu mới xem trên Youtube, bọn Mỹ nó có cái bom EMP, nó không tác dụng lên con người mấy mà nó phá hủy toàn bộ tất cả các hệ thống điện ,điện tử, vậy các cụ cho cháu hỏi, tác chiến điện tử có cách nào chống lại không ạ? Nếu nó tấn công bất ngờ thì sao ạ?
 
Biển số
OF-294759
Ngày cấp bằng
3/10/13
Số km
1,385
Động cơ
-8,704 Mã lực
- Cháu mới xem trên Youtube, bọn Mỹ nó có cái bom EMP, nó không tác dụng lên con người mấy mà nó phá hủy toàn bộ tất cả các hệ thống điện ,điện tử, vậy các cụ cho cháu hỏi, tác chiến điện tử có cách nào chống lại không ạ? Nếu nó tấn công bất ngờ thì sao ạ?
Tác chiến điện tử thì kìm chế lẩn nhau được còn bom xung điện từ ( bom E) thì chỉ có cách là cúp điện thì mới không bị nó phá hỏng.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 21. Cuộc xung đột Falklands



Quân Argentina tuần tra Port Stanley ngày 2 tháng 4 năm 1982 sau khi chiếm đảo

Vào đêm 01 sang ngày 02 Tháng 4 năm 1982, cách vài km tới Port Stanley - thủ phủ của quần đảo Falkland, chín mươi lính Thủy quân lục chiến, chuyển từ tàu khu trục Argentina "Santisima Trinidad" sang tàu đổ bộ, hướng vào bờ biển. Sau khi đổ bộ, quân biệt kích được chia thành hai nhóm: nhóm đầu tiên, số lượng ba mươi người, tiến đến dinh Thống đốc Anh tại Port Stanley và nhóm kia, quân số sáu mươi người, đồng thời với nhóm đầu tiên, tiến đến doanh trại Thủy quân lục chiến Hoàng gia. Đó là giai đoạn đầu tiên của "Chiến dịch Tom" - chiến dịch quân sự chiếm đóng quần đảo Falkland hoặc theo tiếng Argentina - Islas Malvinas (quần đảo Malvinat).

Tại dinh Thống đốc, ba mươi người của nhóm đầu tiên dưới sự chỉ huy của một Trung úy, gặp phải sự kháng cự mạnh của Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh. Chỉ huy của họ bị giết chết, nhưng người Argentina có ưu thế áp đảo về hỏa lực, và Thống đốc nhận ra rằng ông ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc ra lệnh cho Thủy quân lục chiến đầu hàng.

Trong khi đó, các lực lượng xâm lược chính của người Argentina đã đổ bộ lên đảo từ các hộ tống hạm "Granville" và "Drummond", tàu ngầm, một số tàu chiến khác và các máy bay vận tải quân sự C-130 Hercules và Fokker. Họ nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự và kéo cờ Argentina lên trên quần đảo đang tranh chấp.


Một trạm mặt đất của COMSAT ở Hortolândia, gần Campinas, trên lãnh thổ Brazil, năm 2005.

Ba ngày sau, từ Portsmouth, để đưa Quần đảo Falkland trở về với Vương quốc Anh - lực lượng viễn chinh Anh xuất quân thực hiện "Operation Corporation". Trong khi đó, những nỗ lực tuyệt vọng đã được tiến hành nhằm giải quyết vấn đề bằng các khả năng ngoại giao. Gần một tháng không có gì xảy ra, còn tại thời gian này lực lượng viễn chinh Anh đang tiến đến quần đảo Falkland. Tốc độ di chuyển của họ dường như cho thấy ý định của người Anh giải quyết xung đột bằng biện pháp ngoại giao nhiều hơn là biện pháp quân sự nghiêm túc. Cả thế giới theo dõi sự chậm chạp lỗi thời này với sự tò mò và hoài nghi lớn.

Trong khi đó, để theo dõi các sự kiện ở Nam Đại Tây Dương, Liên Xô bắt đầu đưa vào không gian các vệ tinh gián điệp. Ngoài ra, họ điều đến đấy một số máy bay Tu-95 và các tàu gián điệp thông thường cải trang thành các tàu đánh cá để theo dõi liên tục lực lượng viễn chinh Anh. Máy bay lớn nhất của Hải quân Liên Xô - Tu-95 được sản xuất dưới dạng nhiều phiên bản. Một trong số đó - Tu-95RT, sử dụng để trinh sát và giám sát trên biển. Thường để theo dõi tình hình Nam Đại Tây Dương, họ hoạt động từ các căn cứ không quân do quân đội Cuba kiểm soát ở Angola. Ngoài ra, Tu-95 có thể tiến hành cả nhiệm vụ SIGINT.

Các vệ tinh đầu tiên của Liên Xô được đưa vào không gian ngày 31 tháng 3 - hai ngày trước khi người Argentina đổ bộ. Đó là: "Kosmos-1345" và "Kosmos-1346", nhiệm vụ chính của chúng tương ứng là, đánh chặn bức xạ radar (ELINT), và nghe lén cùng ghi lại thông tin trao đổi của các phương tiện liên lạc vô tuyến (COMINT). Ngày 02 tháng 4 vệ tinh trinh sát hình ảnh "Kosmos-1347" được phóng vào không gian. Nó phải ném xuống các bao thu hồi chứa các cuộn phim đã chụp mỗi lần bay qua một địa điểm cụ thể trên lãnh thổ Liên Xô. Từ 16 đến 23 tháng 4, để thay thế các tài nguyên đã cạn kiệt và tiếp tục quan sát, các vệ tinh khác được phóng lên hàng loạt, các "Kosmos" - 1350, 1351, 1352, 1353. Và ngày 29 tháng 4 vệ tinh chuyên dụng quan sát đại dương "Kosmos-1355" được phóng lên.

Vệ tinh "Kosmos-1355" và tên lửa mang "Cyclon-2K" (Циклон-2К). "Kosmos"-1355 - thiết bị vũ trụ làm nhiệm vụ trinh sát biển loại "US-P" ("УС-П", управляемый спутник – пассивный; vệ tinh có điều khiển - thụ động). Trong những năm 60 thế kỷ 20, ngành khoa học và công nghiệp Liên Xô được giao nhiệm vụ xây dựng hệ thống giám sát từ vũ trụ trong mọi thời tiết đầu tiên trên thế giới, để giám sát các mục tiêu mặt nước trên toàn bộ các vùng mặt nước đại dương của Địa cầu, truyền trực tiếp dữ liệu về các trung tâm chỉ huy trên mặt đất hoặc trên tàu biển, được gọi là "Legenda" («Легенда» - "Huyền thoại"). Trong giai đoạn 1968-1973, hãng thiết kế OKB-52 thuộc Tổ hợp Công nghiệp Quân sự Liên Xô đã phát triển và đưa vào trang bị các vệ tinh loại "US" phục vụ cho hệ thống trinh sát và chỉ thị mục tiêu trên biển từ vũ trụ.Kiểu đầu tiên của vệ tinh US-P là một tổ hợp trinh sát điện tử được tạo ra để phát hiện và tầm phương các đối tượng có bức xạ điện từ. Thiết bị vũ trụ có hệ thống ba trục định hướng và ổn định hóa với độ chính xác cao trong không gian. Nguồn nuôi - pin năng lượng mặt trời kết hợp với pin hóa học. Trang bị tên lửa nhiên liệu lỏng đa chức năng đảm bảo thiết lập sự ổn định của thiết bị vũ trụ và điều chỉnh độ cao quỹ đạo của nó. Để đưa thiết bị vũ trụ vào quỹ đạo người ta sử dụng tên lửa-mang "Cuồng phong" (“Циклон”). Năm 1982, một cơ hội tuyệt vời đã tới, giúp kiểm tra hệ thống trinh sát và chỉ thị mục tiêu trên biển (МКРЦ - Mорской Kосмической Pазведки и Целеуказания) trong thực tế hoạt động. Trong thời gian chiến tranh Falklands, các dữ liệu từ các vệ tinh không gian đã cho phép Bộ Tư lệnh Hải quân Liên Xô theo dõi sát tình hình tác chiến chiến dịch-chiến thuật ở Nam Đại Tây Dương, tính toán chính xác các hành động của hạm đội Anh, và thậm chí dự đoán với độ chính xác đến vài giờ thời gian và địa điểm cuộc đổ bộ của quân đội Anh tại Falklands.

Sau đó, Nga đã đưa vào không gian hàng loạt các vệ tinh "Vũ trụ" khác (-1356, 1357, 1364, 1366, 1367, 1369, v,v) với mục đích duy nhất là giám sát tình hình ở quần đảo Falkland. Một số các vệ tinh này có thể xác định tọa độ của tất cả các tàu ở Nam Đại Tây Dương và chụp ảnh, các ảnh đó ngay lập tức được chuyển về các trạm mặt đất của Nga để phân tích.

Người Mỹ cũng theo dõi tiến trình các sự kiện tại các cảng Argentina nhờ vệ tinh và trên thực tế, họ đã cảnh báo người Anh nguy cơ người Argentina sắp đổ bộ lên quần đảo Falklands. Tuy nhiên, quan sát của họ không giới hạn chỉ ở Nam Đại Tây Dương. Theo các nguồn tin không chính thức, người Mỹ sử dụng một lượng lớn phương tiện của Cơ quan An ninh Quốc gia của họ (NSA). NSA có vệ tinh thông tin liên lạc riêng của nó (COMSAT), có các trạm mặt đất được trang bị rất tốt để đánh chặn và các trung tâm giải mã, trang bị các máy tính mạnh nhất, được IBM phát triển chuyên dụng riêng. NSA đã sử dụng các phương tiện này để chặn thu thông tin trao đổi của các khí tài liên lạc vô tuyến Argentina và phá mã, do đó cho phép họ cung cấp cho người Anh thông tin có giá trị liên quan đến việc triển khai quân đội Argentina trên quần đảo Falklands và sự di chuyển của các tàu Argentina.

Người ta không biết liệu người Nga có kịp thời phá mã hoạt động của Hải quân Hoàng gia Anh hay không. Tuy nhiên, thực tế là các tàu chiến Anh đã giảm số lượng các chương trình phát sóng của mình xuống mức tối thiểu, khi các vệ tinh của Nga bay qua đầu họ.


HMS "Conqueror" tại vùng biển Falklands

Chủ nhật, ngày 2 tháng 5, từ Nam Đại Tây Dương xa xôi lan đến một tin tức bất ngờ, tàu ngầm hạt nhân Anh "Conqueror" phóng ngư lôi vào tàu tuần dương Argentina "General Belgrano" ngoài khơi bờ biển Patagonia. "General Belgrano" là một tàu cũ của người Mỹ, tham gia Chiến tranh Thế giới II, có lượng rẽ nước 13.645 tấn, lớp "Brooklyn" - tuần dương hạm "Phoenix". Chiếc tàu tuần dương đi về phía quân đoàn viễn chinh, nhưng vẫn còn ở bên ngoài vùng cấm 200 dặm, mà phía Anh thông báo không được đi vào. Trên tàu không có vũ khí chống tàu ngầm (ASW - ПЛО), nhưng nó được hộ tống bởi hai tàu ASW trọng tải nhỏ hơn, tuy nhiên chúng thiếu vũ khí chống tàu ngầm hiện đại. Như các tàu Argentina khác tham gia vào cuộc đổ bộ "General Belgrano" sử dụng radar và liên lạc vô tuyến của mình khá cẩu thả, có lẽ chúng không biết rằng tất cả các bức xạ điện từ của chúng đã bị người Mỹ đánh chặn, họ cho phép đồng minh NATO của nó - Vương quốc Anh, tiếp cận tất cả các thông tin này.

Tàu ngầm hạt nhân của Anh có động cơ đẩy chạy bằng năng lượng hạt nhân, nó đi nhanh không khó khăn gì trong tư thế ngầm, tiến tới con tàu Argentina già cỗi và chiếm vị trí thuận lợi để phóng ngư lôi. Tuy nhiên, trước khi phóng ngư lôi, chỉ huy tàu ngầm trung tá hải quân Christopher Rexford Brown quyết định một cách đúng mực hỏi ý kiến London qua radio. Thủ tướng Anh, bà Margaret Thatcher, nói với ông ta rằng, các tàu chiến Argentina là mối đe dọa hiển nhiên đối với các lực lượng viễn chinh đang sắp tới, bà ra lệnh cho thuyền trưởng tàu ngầm phóng ngư lôi vào tàu đối phương.

Lúc 16:00, trái ngư lôi đầu tiên bắn trúng đuôi chiếc tàu tuần dương bên dưới đường mớn nước, nơi đặt phòng máy. Ngay lập tức nguồn cấp điện trên tàu bị mất, con tàu chìm vào bóng tối hoàn toàn. Ba giây sau, một trái ngư lôi khác trúng phần mũi tàu. Lúc 16:07, con tàu bị trọng thương nghiêng mạnh đến nỗi sau 15 phút thuyền trưởng Bonzo ra lệnh rời tàu. Biển động, hai tàu hộ tống sợ sẽ bị đánh chìm nên nhanh chóng rút lui. Các hoạt động cứu hộ rất khó khăn. Khoảng 400 thủy thủ người Argentina đã thiệt mạng trong trận đánh gây tranh cãi và chỉ trích rộng rãi này, sự cần thiết hành động của nó bị đặt dấu hỏi. Ngày 02 tháng 5, lúc 17:00, tàu tuần dương bị chìm với một lá cờ còn đang vẫy.

Xét từ quan điểm tác chiến, không có gì đáng ngạc nhiên khi tàu tuần dương "General Belgrano" bị đánh chìm. Sườn phía nam "gọng kìm" Hải quân Argentina, có mục đích bao vây lực lượng viễn chinh Anh và buộc họ phải tham chiến, đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng cho Hải quân Hoàng gia và quân đổ bộ Anh, bất kể nó có đi vào hay không đi vào khu vực cấm, mà tuyên bố vùng cấm rõ ràng đã hạn chế các hoạt động tấn công của người Anh. Điều thú vị là Tư lệnh Hải quân Argentina khu vực Nam Đại Tây Dương khẳng định (theo kênh truyền hình BBC năm 1984), rằng vụ đánh chìm tàu tuần dương "General Belgrano" bên ngoài khu cấm là hợp pháp và cần thiết xét trong điều kiện của các hoạt động quân sự, và rằng nếu là ông ta cũng sẽ làm tương tự.

Điều đáng kinh ngạc trong trường đoạn này chỉ là sự dễ dàng khi "Conqueror" đánh chìm tàu tuần dương. Vì nó không có đủ hộ tống và vũ khí chống ngầm, trên thực tế, nó không thể tránh khỏi việc sẽ bị đánh chìm. Tuy nhiên, "Conqueror" bám sát tàu tuần dương nhiều giờ, và hơn thế, đã đánh chìm nó bằng các trái ngư lôi thủy âm Mk8 thời Thế chiến II vì viên chỉ huy tàu ngầm không tin tưởng ngư lôi Mk24 Tigerfish điều khiển bằng dây dẫn. Mặc dù loại sau đã áp dụng các công nghệ hiện đại, độ tin cậy tổng thể của nó còn chưa đủ. Nếu "General Belgrano" có thể bị bắn chìm tương đối dễ dàng như bằng loại ngư lôi phát triển cách đây đã 40 năm và được phóng ở cự ly tương đối gần như thế, tự nhiên sẽ xuất hiện câu hỏi, khi đó các tàu chiến phải làm gì để chống lại mối nguy hiểm chết người của các trái ngư lôi tự dẫn hiện đại, được sử dụng trên cự ly lớn bởi các tàu ngầm hạt nhân tốc độ cao.



Thậm chí chống lại các ngư lôi hiện đại, vẫn có thể sử dụng đối kháng với một số hy vọng thành công. Tất nhiên, đó phải là đối kháng âm thanh dưới nước, vì sóng điện từ không thể truyền trong nước một cách hiệu quả như âm thanh. Phương pháp cổ điển để tránh ngư lôi âm thanh, phát minh trong quá trình Thế chiến II, dựa trên việc đánh lạc hướng âm. Máy phát tiếng ồn, mà tàu kéo theo phát ra tiếng ồn cũng giống như con tàu, nhưng mạnh hơn nhiều, và ngư lôi, như vậy, khóa vào mục tiêu giả mà không phải con tàu.

Đương nhiên, các hệ thống sử dụng ngày nay khác với các hệ thống trong Thế chiến II. Tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực này đã dẫn đến việc tạo ra các hệ thống kiểm soát bằng máy tính và hoàn toàn tự động để đánh lừa hoặc phá hủy ngư lôi, ví dụ như các ngư lôi chống thủy lôi. Vì ngư lôi hiện đại, bao gồm cả loại điều khiển bằng dây, trang bị hệ thống tự dẫn âm thanh trong phân đoạn cuối của cuộc tấn công, đã tìm ra các phương pháp âm thanh ECW và phản ECW, chúng vẫn thường xuyên được cải tiến. Cũng như trong lĩnh vực sóng điện từ, trong lĩnh vực ECW âm thanh, mỗi bên sẽ cố gắng vòng tránh địch thủ.

Các tàu Argentina không thể đem so sánh với tàu ngầm hạt nhân Anh về bất cứ cái gì và vụ đánh chìm "General Belgrano" cho thấy rõ ràng ai thống trị biển cả !

Vấn đề đấu tranh đối kháng chống các tàu ngầm hạt nhân thì các hạm đội hải quân lớn nhất trên thế giới đều đã va chạm, trong đó người Mỹ và người Nga ở mức độ lớn nhất. Những nỗ lực rất lớn đã được tiêu tốn vào việc tạo ra một chuỗi các cảm biến âm thanh dưới nước điều khiển bằng máy tính, có thể phát hiện tàu ngầm từ lâu trước khi chúng ra đến tuyến tấn công.
.........
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top