[Funland] Chiến tranh điện tử (từ eo Đối Mã đến Lebanon và quần đảo Falkland)

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Không quân Đức đến trợ giúp các thủy thủ, khi giữa đống xác máy bay Anh bị bắn hạ gần Rotterdam, họ tìm thấy một số bộ phận của radar H2S, chúng tiết lộ một công nghệ, cho đến thời điểm đó các chuyên gia Đức vẫn chưa biết. Nhờ phát hiện thành công này họ hiểu rằng Đồng minh đã phát kiến ra đèn điện tử tinh vi magnetron nổi tiếng, hoạt động ở bước sóng khoảng 10 cm. Ngành công nghiệp Đức lập tức bắt tay vào chế tạo RWR có thể tiếp nhận bức xạ trong dải tần S-band. Máy thu mới được gọi là Naxos, đòi hỏi mất nhiều thời gian để phát triển và đã không đạt yêu cầu, như là chưa đủ nhạy và cự ly phát hiện chỉ khoảng 6 - 8 km.

Trong khi đó, quân Đồng minh ngày càng đánh chìm nhiều và nhiều hơn nữa các U-boat, do đó, người Đức cố gắng tìm phương pháp khác trốn tránh sự phát hiện. Một trong những cách đó - có tên mã là Bold, sử dụng bẫy dưới dạng quả cầu cao su thả từ tàu ngầm lên độ cao khoảng 10 mét. Gắn với chúng có một hoặc hai sợi cáp kim loại để phản xạ bức xạ radar của đối phương, do vậy mà tạo ra các báo động sai. Những quả bóng bay trên không được gắn với các phao nổi, thường trôi dạt gần đó, tuy nhiên, trong thực tế, khả năng đánh lạc hướng máy bay tuần tra rất nhỏ.

Vào cuối năm 1943, có một số thành công đã đạt được khi sử dụng ống thở (snorkel) - là đường ống được trang bị một van đặc biệt cho phép tàu ngầm sạc điện ắc quy, vẫn di chuyển ở tư thế bơi ngầm. Các snorkel được bao phủ loại vật liệu hấp thụ radar đặc biệt có thể hấp thụ nhiều hơn nhiều so với phản xạ bức xạ radar của đối phương.

Khi máy thu Naxos được chờ đợi từ lâu cuối cùng đã sẵn sàng, mọi việc đã quá muộn, quá nhiều tàu ngầm bị đánh chìm và Trận chiến Đại Tây Dương đến lúc này đã thua không gỡ nổi.


U-boat bị máy bay Đồng minh tấn công

Việc đánh chặn sóng radio của U-boat đóng góp rất lớn vào chiến thắng của Đồng Minh trong Trận chiến Đại Tây Dương, đặc biệt là trong thời điểm có những tổn thất lớn nhất của các đoàn tàu công-voa. Các tàu ngầm phải nổi lên định kỳ, thường là vào ban đêm, để sạc ắc quy, định vị bản thân và phát điện báo về bộ tham mưu, trao đổi thông tin vô tuyến với tàu ngầm khác trong một khu vực nhất định. Các sóng radio truyền đi đó bị các tàu hộ tống quân Đồng minh, có trang bị đài vô tuyến tầm phương chặn bắt và khi đó phương vị, họ có thể xác định được vị trí tàu ngầm. Sau đó, những tọa độ trên được truyền đến các biên đội tàu săn-diệt, có nhiệm vụ phát hiện và đánh chìm tàu ngầm. Các nhóm này, thường bao gồm hai hoặc ba tàu khu trục hoặc frigate, được phái đến điểm chỉ định và săn đuổi tàn nhẫn đối thủ không may mắn.

Để tránh điều này, người Đức phát minh ra một hệ thống thu phát rất nhanh hoặc các phiên thu truyền kiểu "tiêm chích"; họ ghi nhận chúng một cách nhanh chóng và phát chúng đi trong vòng chưa đầy một giây.

Để lắng nghe bình thường, máy ghi âm sẽ tự động làm chậm quá trình ghi. Các máy tầm phương vô tuyến thời đó vẫn chưa đủ nhanh để chặn bắt và xác định tọa độ của máy phát trong một thời gian ngắn như thế, bởi vậy U-boat có cơ hội khá dễ dàng thu phát ban đêm, mặc dù thời gian không được lâu.

Năm 1943, quân Đồng minh đưa ra biện pháp đối kháng điện tử mới - máy tầm phương vô tuyến tự động tên gọi Huff - Duff, có thể thu chương trình phát radio ngắn và tính toán hướng trong một vài giây diễn ra chương trình phát sóng đó. Huff - Daff được cài đặt không chỉ trên tầu chiến, chúng cũng được bố trí một cách hợp lý trong các trạm ven biển để hình thành một tam giác đạc tốt thu các thông điệp cần đánh chặn. Ngay khi U-boat Đức bắt đầu phát thông điệp vô tuyến, các trạm mặt đất và tàu thuyền trên biển có thể xác định lập tức vị trí của nó và gửi thông tin đến các tàu chống tàu ngầm và máy bay chống ngầm để tấn công và đánh chìm kẻ địch.



Trận chiến Đại Tây Dương cung cấp một bài học quan trọng cho những người có trách nhiệm lập kế hoạch và tiến hành tác chiến điện tử : nó dạy rằng, biết kẻ thù đang sử dụng thiết bị gì trên chiến trường vào lúc này là chưa đủ, quan trọng hơn là biết được những gì đang được phát triển để sử dụng trong các chiến dịch trong tương lai. Tướng Martini đã có một quyết định khôn ngoan, khi vào năm 1939, ông quyết định bay dọc theo bờ biển nước Anh trên khinh khí cầu Zeppelin. Như vậy, ông ta đã bay chuyến bay đầu tiên của mình thực hiện nhiệm vụ giám sát điện tử, nhằm tìm ra những gì đối phương đang tiến hành trong lĩnh vực tác chiến điện tử. Không quân Đức cần phải duy trì công tác thực hành này trong suốt cuộc chiến tranh, và không chỉ cần phái các máy bay ném bom và máy bay tiêm kích đến nước Anh, mà còn cần phái một số máy bay được trang bị các thiết bị để chặn thu bức xạ điện từ trên bầu trời Anh.

Ngành công nghiệp điện tử của Đức đã có đủ kinh nghiệm để thực hiện trinh sát trong phổ điện từ; các máy thu tách sóng - là thiết bị lý tưởng cho nhiệm vụ này, mà người Đức cần áp dụng và phải được sử dụng để thu ghi các xung phát ra từ các radar mới của Anh trong thời gian thử nghiệm chúng.

Bỏ qua trinh sát điện tử, Bộ Tư lệnh Đức không chỉ đánh giá thấp mối đe dọa đang dần hiện ra, mà còn tự lấy đi của mình cơ hội có được thông tin về các cải tiến kỹ thuật, có thể tỏ ra cực kỳ hữu ích cho sự phát triển của một hệ thống ECM thích hợp có khả năng vô hiệu hóa các mối đe dọa sắp tới.

HẾT CHƯƠNG 6​
..........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 7. "Đột phá qua La Manche" (Operation Cerberus)




Lúc bình minh ngày 22 tháng 3 năm 1941, chiếc tàu tuần dương Đức "Scharnhorst" và "Gneisenau" được phái đến căn cứ hải quân Brest thuộc nước Pháp đang bị chiếm đóng. Cả hai tàu vừa hoàn thành một chuyến di biển dài ở Đại Tây Dương và cần sửa chữa sau khi đánh chìm hơn hai mươi tàu buôn Anh. Hai tháng sau, tại chính cảng này, một tàu chiến Đức nữa vào ẩn náu, đó là tuần dương hạm hạng nặng "Prinz Eugen". Một vài ngày trước, tàu đã chiến đấu với hạm đội Anh cùng với thiết giáp hạm "Bismarck". Tàu "Bismarck" bị đánh chìm, còn "Prinz Eugen" đã kịp trốn thoát.

Trong quá trình sửa chữa, 3 chiếc tàu lớn của Đức, mặc dù có ngụy trang kỹ lưỡng, chúng vẫn bị phát hiện bởi Không lực Hoàng gia Anh, họ ngay lập tức, ngày cũng như đêm, dội bom quân cảng. Trong thời gian các vụ ném bom, các tàu trên vài lần chịu thiệt hại, và sau một thời gian, Bộ Tư lệnh tối cao Đức quyết định đưa chúng về một cảng an toàn trong nước Đức. Trên bờ đối diện, người Anh hiểu rằng các tàu đối phương sớm hay muộn cũng phải rời Brest, để tránh các cuộc không kích hàng ngày và bắt đầu áp dụng các biện pháp ngăn chặn điều đó.

Quá trình di chuyển ba tàu chiến từ Brest về Đức là cực kỳ nguy hiểm. Hitler, giống như một con bệnh ung thư, đích thân theo dõi tình hình; không hành động có nghĩa là phải nhận cái chết, mà hành động thì cái tạo ra một số cơ hội cứu rỗi cũng rất nguy hiểm. Vậy là người ta quyết định hành động. Điều đầu tiên cần làm là quyết định các tàu chiến sẽ đi theo hải trình nào để về Đức. Có hai tuyến đường biển, một đường tồi hơn đường kia. Tuyến thứ nhất - đi về phía tây và phía bắc vòng quanh quần đảo Anh, sau đó đi qua Biển Bắc, tuy nhiên, vụ đắm tàu "Bismarck" xác nhận thực tế là các hạm đội Anh sẽ có đủ thời gian để đánh chặn và đánh chìm tàu. Một tuyến khác - đi qua eo biển Anh (eo La Manche), tuyến đường biển này có lợi thế - vì ngắn hơn nhiều, nhưng phải vượt qua ngay trước mặt người Anh, với những hậu quả không phải khó tưởng tượng. Tuy nhiên, hải trình thứ hai cũng cho một số cơ hội để tránh cuộc tấn công của các tàu chiến hạng nặng Hải quân Anh, vì người Anh, thật hài hước, họ đã chuyển hầu hết tàu của mình đến các cảng phía bắc để tránh các cuộc tấn công đường không của Không quân Đức. Mối nguy hiểm chính trong eo biển La Manche là có mặt một số lượng lớn các tàu cao tốc phóng ngư lôi và các máy bay, các cỗ đại bác tầm xa của lực lượng pháo bảo vệ bờ biển, được bố trí dọc bờ biển eo Dover, và dĩ nhiên, thủy lôi bơi. Để chiến dịch hành quân không kết thúc bằng một thảm họa hoàn toàn, điều rất quan trọng là các tàu chiến Đức phải đến được eo biển Dover mà không bị phát hiện. Nếu chúng có thể đi đến Dover mà không bị phát hiện, khi đó có thể hiểu được từ những tính toán rất đơn giản, rằng từ giờ phút đó trở đi, hạm đội Anh không thể bắt kịp và tấn công chúng.

Sau khi cân nhắc tất cả các ý kiến "đồng tình" và "phản đối", Bộ Tư lệnh Hải quân Đức chọn một tuyến đường biển ngắn hơn qua eo biển Anh. Nhưng đồng thời nó phải giải quyết vấn đề khi rời Brest - đi ngày hay đi đêm. Xuất phát ban ngày có nghĩa là các tàu chiến có thể đi qua eo biển Dover vào ban đêm, nhưng đồng thời, xuất bến khỏi Brest vào ban đêm sẽ làm cho chúng thành các bia bắn trước các cỗ pháo vào ban ngày. Cuối cùng, họ quyết định cho xuất phát rời Brest ban đêm. Quyết định này dựa trên thực tế là sự nguy hiểm gây ra bởi trinh sát trên không của người Anh lớn hơn nguy cơ rơi vào lưới lửa của các cỗ pháo bờ biển.


Bản đồ thể hiện sự di chuyển của SMS "Prinz Eugen", SMS "Bismarck" và các tàu Anh truy đuổi chúng trong chiến dịch "Operation Rheinübung" tháng 5 năm 1941, trong đó SMS "Bismarck" bị đánh chìm.

Người đứng đầu Signal Corps của Không quân Đức, tướng Martini, đích thân nghiên cứu radar của đối phương kể từ tháng Tám năm 1939, khi mà ông cố gắng chặn thu, nhưng không đạt kết quả, các bức xạ điện từ trên bầu trời nước Anh (xem Chương 5). Với sự sụp đổ của nước Pháp vào năm 1940, dọc theo bờ biển phía bắc Pháp đã thiết lập nhiều trạm thu để đánh chặn bức xạ radar Anh. Theo cách này, người Đức do thám các đặc tính chủ yếu của radar Anh (tần số, độ dài xung, v.v) và sự phân bố của chúng. Tướng Martini được giao trách nhiệm gây nhiễu các radar của Anh trong chiến dịch "Nhảy qua La Manche" để giữ cho ba tàu chiến của Đức bị phát hiện chậm đến mức tối đa có thể được.

Mặc dù radar là một phương tiện trinh sát hiệu quả và điều khiển hỏa lực pháo binh, có thể nhìn xuyên qua sương mù và bóng tối, chúng dễ bị gây nhiễu và nhạy với các biện pháp đánh lạc hướng (nhiễu mô phỏng). Chính đó là tính dễ tổn thương của radar - chiến trường cơ bản của tác chiến điện tử. Radar nhạy với nhiễu vì thường các tín hiệu phản xạ từ mục tiêu rất yếu. Khi máy thu của radar đủ nhạy đối với việc tiếp nhận tín hiệu đáp ứng yếu của mục tiêu, nó có thể dễ dàng bị chế áp bởi các tín hiệu của máy phát nhiễu công suất mạnh hơn, hoạt động trên cùng một tần số và hướng thẳng vào nó. Để gây nhiễu thành công cho các radar Anh giám sát eo biển Anh, điều quan trọng là phải biết tần số hoạt động chính xác và các tọa độ địa lý gần đúng - thông tin trên đã được tướng Martini biết rõ.

Ngành công nghiệp Đức lập tức phát triển và cho ra đời các thiết bị gây nhiễu đặc biệt, có thể "nhồi đầy" (làm bão hòa) các máy thu radar Anh và làm mù CRT của họ. Martini triển khai chúng gần Ostend, Boulogne, Dieppe, Cherbourg, Rotterdam và tại các địa điểm thích hợp khác dọc theo bờ biển phía bắc Pháp. Mỗi máy phát nhiễu được trao một mục tiêu trong số các radar Anh.


SMS Scharnhorst trong cảng, mừa đông 1939–1940.

Kế hoạch đơn giản nhưng khéo léo của tướng Martini gồm có cản trở người Anh sử dụng các radar của họ và không cho phép họ hiểu rằng các khí tài của họ đang bị đối phương chế áp có chủ định. Trong hai tháng trước khi các tàu xuất hành rời Brest, việc gây nhiễu hệ thống radar của Anh bắt đầu, với hy vọng làm người Anh tin rằng điều này là do nhiễu khí quyển. Lúc đầu, việc gây nhiễu chỉ kéo dài một vài phút, nhưng sau đó dần dần tăng lên từng ngày, vì vậy người Anh đã quen với nó, họ đi đến chỗ tin rằng điều này là do đặc tính khí quyển cụ thể của khu vực này, do đó họ không thể tránh khỏi. Sau khoảng một tháng hành động như vậy, kết quả mong muốn đã đạt được.

Người Đức, với chu đáo thường lệ của họ, tiến hành mọi biện pháp phòng ngừa để đảm bảo chuyến xuất bến của các tàu chiến sẽ gây cho đối phương bất ngờ. Trước hết, kế hoạch chỉ được thông báo cho ba thuyền trưởng tàu chiến. Thứ hai, họ chủ định đánh lừa người dân Brest, mà nhiều người trong số đó là điệp viên Anh và các thành viên của phong trào kháng chiến Pháp bằng cách sắp đặt một vũ hội phục trang, gây ấn tượng rằng họ không có ý định ra khơi trong tương lai gần. Và cuối cùng, để thêm ấn tượng rằng các nhiệm vụ chiến đấu tiếp theo mà "Scharnhorst", "Gneisenau" và "Prinz Eugen" phải đối mặt sẽ là tấn công đoàn công-voa của đối phương đang đi dọc bờ biển châu Phi ở phía Nam Đại Tây Dương, trên các tàu người ta chuyển đến các gói mũ sắt và và thùng dầu ăn, phía ngoài ghi "sử dụng trong các vùng nhiệt đới", ngoài ra, các dịch vụ bưu chính bình thường và giặt là, cung cấp thực phẩm vẫn tiếp tục - tất cả nhằm mục đích làm giảm mối nghi ngờ của kẻ thù về việc ra khơi sắp tới.


SMS Gneisenau trên biển, năm 1939.

Mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa trên, Bộ Hải quân Anh, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình, tuy nhiên vẫn đi đến kết luận ba tàu Đức đang chuẩn bị rời Brest và gần như chắc chắn chúng đã chọn con đường qua eo biển Anh. Người Anh lên kế hoạch chiến dịch "Fuller" với mục đích ngăn chặn chuyến đi của 3 tàu chiến qua eo biển trở về Đức. Các chuyến bay trinh sát của Anh vào các ngày 29 và 31 tháng Giêng, thực sự chỉ ra rằng trong cảng Brest đã kéo về một số lượng lớn các tàu cao tốc phóng ngư lôi, các khu trục hạm hạng nhẹ và các tàu quét mìn, điều đó rõ ràng nói về chuyến xuất bến sắp xảy ra. Vì vậy, ngày 03 tháng 2, Bộ Hải quân Anh đã ban hành lệnh tiến hành các biện pháp khác nhau, được phát triển mới một thời gian trước đây đối với trường hợp xảy ra các sự kiện đột biến như vậy. Dọc theo các tuyến đường biển có khả năng tàu địch đi qua, người ta rải mìn, còn radar phòng thủ bờ biển và máy bay của Bộ chỉ huy phòng thủ bờ biển thuộc Không quân Hoàng gia được đưa về mức báo động chiến đấu cấp cao nhất. Bây giờ, cả hai đối thủ đã sẵn sàng cho trận chiến, sau khi đã trù tính, trong tình trạng bí mật nghiêm ngặt, tất cả các hành động của mình cho đến từng chi tiết nhỏ nhất.

Chuyến khởi hành của các tàu Đức được lên kế hoạch vào nửa đêm ngày 11 tháng 2 năm 1942. Thời gian và ngày giờ đã được chọn sao cho tận dụng lợi thế của bóng tối một đợt trăng mới và thủy triều, làm tăng thêm 5 mét chiều sâu của luồng tàu, cũng như tốc độ dòng chảy liên quan là 3 hải lý. Ngay trước nửa đêm, cuộc không kích nghi binh đã được tổ chức; nhiều quả bom đã được thả xuống một số bãi cát hoang của cảng và cư dân Brest ẩn nấu tránh cuộc không kích trong các hầm tránh bom. Trong khi họ chờ đợi còi báo yên, ba tàu Đức cùng với tám tàu ​​khu trục và 16 tàu nhỏ phóng lôi, nhổ neo và từ từ ra khỏi cảng .

Sau khi ra biển, thủy thủ đoàn cuối cùng mới được thông báo rằng họ đang trở về Đức. Tin này gây ra một cơn bão hân hoan với ý nghĩ được trở về nhà và được tham gia vào một chiến dịch táo bạo như vậy. Đêm tối và sương mù, các tàu đi gần sát bờ biển của Pháp đến mức có thể, theo một dải nước hẹp mới quét thủy lôi xong vài giờ trước đây bởi các tàu quét mìn Đức. Giữa các tàu duy trì chế độ im lặng vô tuyến và radar hoàn toàn, còn để trao đổi giữa các tàu, người ta sử dụng đèn chiếu hồng ngoại đặc biệt, vô hình với người Anh.

Các tàu chiến Đức có hỏa lực hùng mạnh: "Scharnhorst" và "Gneisenau" mỗi chiếc có chín pháo 280 mm, mười hai pháo 152 mm, mười bốn pháo 105 mm và một số lượng lớn pháo tự động 37 mm, ba mươi sáu ống phóng ngư lôi 533 mm. "Prinz Eugen" có tám pháo 203 mm, mười hai pháo 105 mm, mười hai pháo phòng không tự động 37 mm và mười hai ống phóng ngư lôi 533 mm. Ngoài ra, thêm vào đó là hỏa lực các tàu khu trục và tàu nhỏ phóng ngư lôi. Trên không, hải đoàn được yểm trợ của 250 máy bay tiêm kích tầm xa dưới sự chỉ huy của phi công tiêm kích nổi tiếng của Không quân Đức là Adolf Galland, người có đến 94 chiến thắng về phần mình trong không chiến, còn đến cuối chiến tranh, ông sẽ được công nhận bắn rơi 103 máy bay đối phương.


SMS "Prinz Eugen" cũ, sau Thế chiến 2 với định danh USS Prinz Eugen, trước khi tham gia thử nghiệm bom hạt nhân tại đảo san hô Bikini năm 1946.

Thuộc quyền phía Anh, lần lượt, là toàn bộ hạm đội, và hàng trăm máy bay các loại, nhưng nó có lẽ mối đe dọa lớn nhất đối với người Đức đến từ mạng lưới radar của Anh trải dài dọc bờ biển phía nam nước này. Người Đức đã tiêm một liều nhiễu rất cẩn thận, để trong mọi trường hợp, không gây ra ngay cả những nghi ngờ nào dù nhỏ.
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)



Không ảnh của máy bay trinh sát Anh quãng tháng 2-6 năm 1942 cho thấy (mũi tên phần dưới và giữa hình) SMS Scharnhorst đang sửa chữa tại quân cảng Kiel nước Đức Quốc Xã, sau khi vấp thủy lôi tháng 2 năm 1942 khi qua "Channel Dash" trong chiến dịch Cerberus.

Suốt đêm, hải đoàn trải dài, không bị máy bay trinh sát Anh chú ý, mở hết tốc lực tiến đến eo biển Dover. Bình minh đang đến gần. Sự căng thẳng của các thủy thủ Đức, đang chờ đợi cuộc tấn công của hạm đội đối phương có thể đến bất kỳ thời gian nào, bắt đầu lớn dần. Trong những giờ bình minh đầu tiên, hai chiếc máy bay Heinkel He111 trang bị thiết bị gây nhiễu, bắt đầu chiến dịch gây nhiễu radar ven biển được chuẩn bị rất cẩn thận; họ bay dọc theo eo biển Anh, dọc bờ biển phía nam Vương quốc Anh, ngăn cản các radar Anh phát hiện trong không trung một nhóm lớn máy bay bay hộ tống hải đoàn tàu chiến Hải quân Đức. Mặt khác, các trạm phát nhiễu trên mặt đất không được bật trước 09:00, nhiệm vụ của chúng là che giấu sự hiện diện của tàu chiến Đức và họ phải mở máy khi hải đoàn Đức đi vào vùng phát hiện của radar Anh đang cảnh giới eo biển Dover. Vào thời điểm xác định, máy phát nhiễu được bật lên, chúng được tinh chỉnh khớp các tần số của radar Anh nên làm việc tốt đến mức một số trạm radar Anh đã phải tắt máy, trong khi những trạm khác thay đổi tần số hoạt động trong hy vọng hão huyền sẽ thoát khỏi nhiễu. Đột nhiên, một trạm radar hoàn toàn chưa biết bắt đầu phát sóng, nhưng nó cũng bị chế áp ngay lập tức. Tóm lại, các hoạt động gây nhiễu thành công đến nỗi các trắc thủ khai thác radar người Anh thậm chí không nghi ngờ có gì bất thường !

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hải quân, tác chiến điện tử được ứng dụng thực tế trong một tình huống chiến đấu. Hải đoàn Đức đi suốt gần mười giờ, nhanh chóng tiếp cận eo biển Dover. Không có dấu hiệu nhỏ nào cho thấy nó bị người Anh phát hiện, có vẻ như kế hoạch tác chiến điện tử được lập ra một cách tuyệt vời của người Đức đã mang lại thành công. Tuy nhiên, vào khoảng 10:00, một trong những radar của Anh bắt đầu phát sóng ở một tần số cao đến mức người Đức hoàn toàn không có cơ hội gây nhiễu; chính radar mới này đã báo cáo cả về các máy bay đối phương đang bay dọc bờ biển nước Pháp vào ở độ cao thấp. Khoảng 10:45, một số máy bay tuần tra của Lực lượng Không quân Hoàng gia phải đối mặt với một nhóm lớn máy bay Không quân Đức và khi cố gắng trốn tránh kẻ thù, họ hạ xuống cao độ đỉnh sóng, ở độ cao đó cuối cùng họ phát hiện ra các tàu chiến Đức. Do một số chậm trễ không giải thích được, Bộ chỉ huy Không quân và Hải quân Anh không biết gì về việc tìm thấy kẻ thù trong khoảng gần một giờ - cho đến 11:30. Lúc gần giữa trưa, khi hải đoàn Đức đang ở vị trí ngay trước Boulogne, đã vào tầm hủy diệt, bắn phá tại eo biển Dover, các khẩu đội pháo bảo vệ bờ biển của Anh mới khai hỏa từ cự ly 26 km. Tuy nhiên, không viên đạn nào trúng tàu Đức vì sương mù dày đặc không cho các pháo thủ Anh cơ hội quan sát điểm nổ xạ kích, và họ phải dựa vào radar của mình, vốn không đủ độ chính xác. Pháo bảo vệ bờ biển của Đức trên bờ biển nước Pháp ngay lập tức bắn trả và buộc đối phương phải im lặng.

Đây là nơi trận chiến thực sự bắt đầu. Thủy thủ Đức mặc dù đã một vài đêm không ngủ, nhưng đã được cảnh báo, chờ đợi cuộc tấn công của hạm đội Anh ở bất kỳ thời điểm nào. Họ chờ không lâu, khi sáu máy bay-phóng ngư lôi Fairey Swordfish thuộc phi đội 825 Hải quân Hoàng gia, hộ tống bởi 5 phi đội máy bay tiêm kích, bước vào công kích. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các phi đội là hoàn toàn không thể có vì phi cơ Cá Kiếm vốn tốc độ chậm (232 km / h), phải tấn công từ chiều cao đỉnh sóng. Do đó, họ phải tấn công mà không có bảo vệ, và chính vì vậy, tất cả bọn họ bị bắn hạ không thương tiếc từng phi cơ một mà không có quả ngư lôi nào bắn trúng mục tiêu. Cuộc tấn công tự sát này được thực hiện với lòng can đảm vô biên, và viên sĩ quan chỉ huy của họ, Thiếu tá Hải quân Eugene Esmonde được truy tặng Victoria Cross.


Trước một phi cơ Cá Kiếm, những quân nhân KQ và HQ đã góp phần tiêu diệt thiết giáp hạm Bismarck của Đức Quốc Xã, Eugene Esmonde thứ 2 từ trái sang. Ảnh chụp trên tàu sân bay Ark Royal của Hải quân Anh, tháng 10 năm 1941.

Các cuộc tấn công tiếp theo được thực hiện bởi một đội tàu phóng ngư lôi, được phái gấp từ Dover đến. Những con tàu nhỏ, phù hợp hơn cho các cuộc tấn công ban đêm, không thể cạnh tranh với tàu khu trục Đức đi hộ tống, nhưng chúng biết cách tiếp cận đủ gần để phóng đạn ngư lôi. Người Đức, với sự trợ giúp của màn khói và các chiến thuật tránh ngư lôi, cũng như sự giúp sức của hỏa lực áp đảo, đã buộc đối phương phải rút lui. Tại thời điểm này, người Đức đang đặc biệt lo lắng và tự hỏi Hải quân Anh và Không quân Anh conf những món gì khác dành tiếp họ. Chẳng mấy chốc, mười hai tàu khu trục Anh đã tới; đồng thời 240 máy bay ném bom cất cánh từ các sân bay Anh khác nhau, còn một phi đội máy thả thủy lôi bắt đầu rải mìn dọc theo tuyến đường biển có khả năng tàu Đức đi qua. Các tàu khu trục Anh can đảm tấn công các con tàu lớn của Đức, họ đến gần để phóng ngư lôi, nhưng mọi nỗ lực của họ đều vô ích và lòng dũng cảm của họ tỏ ra vô ích, trong khi đó, một trong các con tàu của họ đã bị hư hại nghiêm trọng do hỏa lực của người Đức.

Vào buổi chiều, "Scharnhorst" rung chuyển vì một vụ nổ bất ngờ. Đèn trên tàu tắt lịm, động cơ dừng làm việc. Tàu trúng mìn. Thủy thủ đoàn của tàu lặng lẽ quan sát xem "Gneisenau" và "Prinz Eugen" vượt qua; lệnh phải đi với bất cứ giá nào, và nếu một trong các con tàu bị bắn hỏng hoặc bị đánh chìm, những chiếc khác không cần phải dừng lại để giúp nó.

Trong khi thủy thủ đoàn của "Scharnhorst" cố gắng sửa chữa hư hại của tàu, trên bầu trời eo biển Anh diễn ra một trận không chiến tuyệt vọng. Ba mươi sáu máy bay-phóng ngư lôi Bristol Beaufort tấn công hải đoàn Đức, nhưng sự phối hợp hành động của họ tồi đến mức cuộc tấn công lại thất bại. Cùng lúc đó, thủy thủ đoàn của "Scharnhorst" đã nhanh chóng sửa chữa xong, con tàu tiếp tục hành trình.

Đến cuối ngày, 240 máy bay ném bom của Không quân Hoàng gia phát động một làn sóng tấn công lặp đi lặp lại xuống các tàu chiến Đức, nhưng tầm nhìn không đủ làm cản trở các đường bay rất nhiều, trên thực tế, chỉ có bốn mươi máy bay có thể phát động cuộc tấn công, trong đó mười lăm chiếc bị bắn hạ, còn hai mươi chiếc - bị hư hỏng.

Vào khoảng 19:00 giờ, "Gneisenau" vấp mìn, nhưng thiệt hại không đáng kể, nó tiếp tục di chuyển với tốc độ 25 hải lý. Thêm vào cho mọi việc tồi tệ hơn, bây giờ lại nổ ra một cơn bão dữ dội. Tàu Đức mất liên lạc với nhau và không thể phân biệt sào ngắm do các tàu quét mìn thả đánh dấu. Sau đó, "Scharnhorst" lần thứ hai vấp mìn, nhưng lần này hậu quả nghiêm trọng hơn. Hầm tàu bị nước tràn vào khoảng 1.000 tấn, rất nhiều khoang bị ngập và mất điều khiển, tàu phải dừng lại và bắt đầu trôi dạt về hướng bãi mìn và bãi cát ngầm.

Trong đêm, Không quân Hoàng gia thực hiện hơn 740 phi vụ chống lại các tàu chiến Đức. Người Đức đáp trả các vụ ném bom bằng hỏa lực pháo phòng không trên hạm của mình - thủy thủ Đức phải liên tục tưới nước cho các nòng súng bắn liên tục cháy đỏ ! Tuy nhiên, các cuộc tấn công này không mang lại bất kỳ kết quả thực sự nào.

Ngay trước bình minh, trên các tàu Đức loan truyền thông điệp về việc có các tàu lạ đang tiếp cận, tin này gây nhiều lo âu, bởi vì hải đoàn Đức không ở trong trạng thái có thể nghênh chiến hạm đội Anh, đặc biệt là vào thời điểm này. Tuy nhiên, hóa ra hai chiếc tàu không xác định được đó lại là các tàu hộ tống Đức, trong đêm tối đã mất liên lạc với các tàu khác. Mặc dù tất cả mọi thứ đã xảy ra, hải đoàn Đức vẫn thành công trong việc đạt mục tiêu của chiến dịch của mình mà không phải đối mặt với hạm đội Anh, đến buổi trưa ngày 13 tháng 2, nó đã về đến nhà.

Sự thành công của chiến dịch đầy khó khăn này được quyết định chủ yếu bởi công tác tổ chức gần như hoàn hảo của nó, và trên hết, biện pháp đối kháng điện tử.

Trường đoạn đó trong lịch sử hải quân nhấn mạnh tầm quan trọng thiết yếu của tác chiến điện tử : tính dễ bị tổn thương của radar khi bị gây nhiễu điện tử. Tính dễ bị tổn thương này dẫn đến một thực tế là tác chiến đối kháng điện tử vẫn còn nguyên hiệu quả ở ngày hôm nay.

HẾT CHƯƠNG 7​
........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 8. Tác chiến điện tử trên bầu trời nước Đức



Các tướng lĩnh KQ Anh thuộc Bộ Chỉ huy LLKQ ném bom Không lực Hoàng Gia Anh đang nghiên cứu bản đồ nước Đức trong Thế chiến 2, trái sang phải: Phó Thống chê KQ R.Graham, Thống chế KQ A.T.Harris Tư lệnh Bộ Chỉ huy KQ ném bom (cầm cây chỉ vào bản đồ), Phó Thống chế KQ R.Saundby Tham mưu trượng LLKQ ném bom.

Sau những tổn thất nghiêm trọng trong Trận chiến nước Anh, Không quân Đức được điều động khỏi Mặt trận phía Tây và triển khai đến các căn cứ không quân ở Đông Đức, để tham gia vào chiến dịch nước Nga, được đặt tên mã - "Operation Barbarossa". Do đó, Không quân Hoàng gia đã có cơ hội ra đòn trả đũa ồ ạt không trở ngại, dưới hình thức các cuộc dội bom không kích dữ dội xuống nước Đức như là một phần của chiến lược hủy diệt, cần phải có để đảm bảo chiến thắng của quân Đồng minh.

Các trận ném bom ban ngày nước Đức không thắng lợi, chủ yếu do tính dễ tổn thương của máy bay ném bom trước tiêm kích đối phương, và máy bay tiêm kích của Không quân Hoàng gia không có khả năng để đảm bảo yểm trợ xa hơn vì giới hạn tầm bay của họ, nên dần dần người Anh chuyển sang các cuộc tấn công ban đêm. Bây giờ, vai trò của kẻ thù trong "cuộc chiến chùm tia" đã thay đổi ngược lại; thời gian này, người Anh phải phát triển được các hệ thống ổn định trước các sai số để có thể dẫn đường đến mục tiêu cho máy bay ném bom của họ, và người Đức - phải tìm ra biện pháp đối kháng hiệu quả.

Trong Trận chiến nước Anh, người Anh đã nhận thấy máy bay ném bom của người Đức khó khăn thế nào để có thể đánh trúng mục tiêu, bất chấp các công cụ điện tử phức tạp mà họ có sẵn. Người Anh nay phải đối mặt với cùng một vấn đề, khi tiến hành không kích nước Đức.


Máy phát của hệ thống Gee (Gee hyperbolic navigation system).

Người Anh hy vọng đánh trúng các mục tiêu ở Đức mà không làm chủ được phương tiện dẫn đường vô tuyến chính xác hỗ trợ cuộc ném bom chăng ? Bộ Chỉ huy Không quân Hoàng gia vô cùng hoài nghi hiệu quả các vụ ném bom đầu tiên đất Đức. Thống chế Không quân Robert Saundby, Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Không quân ném bom Không lực Hoàng gia Anh, một lần có nhận xét với bộ tham mưu của mình rằng khi một phi đội máy bay ném bom báo cáo rằng bom đã thả xuống mục tiêu xác định, thì chỉ có thể chắc chắn rằng những quả bom này đã được "gửi" đến mục tiêu đó mà thôi.

May mắn thay, người Anh đã phát triển vào năm 1938 một hệ thống định vị, tuy rằng tại thời điểm đó chưa bắt đầu sản xuất hàng loạt do quyền ưu tiên đã trao cho các dự án khác. Hệ thống này, được gọi là Gee, bao gồm ba máy phát, bố trí trên bờ biển, cách nhau 160 km. Công việc của chúng là đồng bộ hóa để phát ra một chuỗi xung phức tạp tuân theo một thứ tự xác định. Các hoa tiêu máy bay ném bom có máy thu đặc biệt có thể đo lường sự khác biệt giữa sự xuất hiện của các xung phát tới từ các trạm trên. Đối chiếu với lưới bản đồ đặc biệt của châu Âu, các hoa tiêu có thể xác định vị trí của mình với sai số tối đa khoảng 10 km trên khoảng cách 650 km - 1.000 km tính từ trạm phát sóng.


Sơ đồ đơn giản hóa về nguyên tắc thời gian-sai khác (time-difference principle). Độ sai khác delta giữa thời gian nhận các tín hiệu đồng bộ từ các đài phát sóng A và B là hằng số dọc theo mỗi đường cong.

Gee không dễ chế áp như với các hệ thống dẫn đường vô tuyến đầu tiên được người Đức sử dụng. Tuy nhiên, chẳng mấy mà người Đức nhận thấy các vụ ném bom của quân Anh đã trở nên chính xác hơn, họ dồn tất cả những nỗ lực của mình để tìm hiểu hệ thống dẫn đường mới này. Trong năm 1942, họ đã thành công trong việc đó, và để đối kháng họ tạo ra các máy phát nhiễu công suất mạnh, gọi là Heinrich. Chúng được đặt tại các trạm mặt đất trong các nước bị chiếm đóng như Pháp, Bỉ và Hà Lan, và với sự giúp đỡ của chúng, người Đức gần như hoàn toàn vô hiệu hóa bức xạ Gee, làm cho nó thực tế thành vô dụng ở lục địa châu Âu.

Sau khi hệ thống Gee bị vô hiệu, người Anh cố gắng đưa ra các hệ thống định vị khác, nhưng không hệ nào trong số đó đảm bảo được cho các vụ ném bom đạt độ chính xác cần thiết. Cuối cùng, họ phát triển hệ Oboe ("Quan sát và đánh bom kẻ thù"), đó là kết quả của một quá trình nghiên cứu công phu hệ thống Knickebein của Đức. Hệ thống Oboe bao gồm một máy hỏi dành cho bức xạ tín hiệu và lắp đặt trên máy bay ném bom, hai trạm mặt đất cách nhau một khoảng cách nhất định, được trang bị các máy phát (để tiếp nhận tín hiệu). Chúng được gọi, tương ứng, là Mèo và Chuột. Trạm mặt đất có thể tự động đo khoảng cách tới máy bay đang bay. Hệ thống Oboe góp phần vào thành công đáng kể của các ném bom của quân Đồng minh xuống các nhà máy của Krupp tại Essen vào tháng Mười Hai năm 1942.


Dẫn đường và chỉ dẫn cho máy bay: hệ thống hướng dẫn ném bom chính xác nhất trong Thế chiến II được gọi là OBOE và được sử dụng chủ yếu cho các máy bay De Havilland Mosquito của Bộ chỉ huy LLKQ ném bom thuộc RAF. Hình ảnh thể hiện: sơ đồ minh họa BCH KQ ném bom sử dụng OBOE.

Sau một thời gian, hệ thống Oboe bị người Đức phát hiện, họ ngay lập tức phát triển một quy trình REP thích hợp. Vì vậy, để thay thế Oboe, hoặc ít nhất là để loại bỏ các hạn chế của nó, người Anh cải tiến hệ thống dưới tên gọi H2S. Nó có chức năng kép: chỉ dẫn chính xác đường đi và đảm bảo ném bom chính xác hơn vào ban đêm. Không giống như các hệ thống trước đó, H2S không cần các trạm mặt đất : "trái tim" của nó là một radar được phát triển gần đây, có thể lắp đặt trên máy bay. Hệ thống này sử dụng một đèn điện tử đặc biệt công suất rất mạnh gọi là magnetron, phát ra công suất 10 kW ở bước sóng 10 cm. Vì lý do này, radar mới được gọi là radar xăng-ti-mét, để phân biệt với các radar trước đó hoạt động ở bước sóng dài hơn nhiều.


Một bức ảnh màn hiển thị radar H2S chụp trong một cuộc không kích vào Cologne - các chú thích được thêm vào sau đó khi phân tích cuộc tấn công đã diễn ra. Có thể nhìn thấy sông Rhine chảy ngoằn ngoèo từ trên xuống dưới bên phải.

Mẫu thử nghiệm được lắp đặt trên máy bay phục vụ thử nghiệm và đánh giá, kiểm tra để sử dụng trên các máy bay tiêm kích bay đêm. Các chuyến bay thử nghiệm chỉ ra rằng radar mới có thể phân biệt giữa khu vực xây dựng với vùng nông thôn và bề mặt biển với mặt đất. Chuyến bay thử nghiệm được tiến hành trong năm 1941, nhưng hệ thống chỉ được lực lượng không quân tiếp thu vào biên chế trang bị rất lâu về sau, vì người Anh lo ngại nó có thể rơi vào tay của người Đức và được sao chép sử dụng trên máy bay của họ. Quyết định cuối cùng về việc sử dụng H2S là do tổn thất máy bay ném bom của Không quân Hoàng gia trong các cuộc không kích ban đêm trên đất Đức ngày càng tăng.

Bộ Tư lệnh tối cao Anh cũng lo lắng về việc người Đức có các hệ thống radar phòng không hay không. Ít nhất khi chiến tranh mới bắt đầu, nhiều người bị thuyết phục rằng họ không có thứ tương tự như người Anh, đang bố trí dọc theo bờ biển Vương quốc Anh, các ăng-ten khổng lồ nằm trên đất Đức hoặc các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Tuy nhiên, người Đức, trên thực tế, ngay từ đầu chiến tranh đã có radar phòng không, nhưng vì họ luôn luôn tiến bộ, nên xét thấy không cần thiết phải lập một mạng lưới radar phòng không, vốn đòi hỏi các ăng-ten khổng lồ tương tự như ăng-ten radar Anh của hệ Chain Home.


Chain Home Radar, năm 1939.

Và số thương vong máy bay ném bom Không quân Hoàng gia Anh ngày càng tiếp tục tăng, đã bắt buộc họ phải có thêm nhiều hơn nữa thông tin về radar phòng không Đức, để phát triển biện pháp đối kháng thích hợp có thể vô hiệu hóa hệ thống đó. Vì vậy, để đạt được điều này, trong một vài tháng, tình báo quân Đồng minh cố gắng thu thập thông tin về nó nhiều đến mức có thể. Trên bầu trời nước Đức, để tìm kiếm các ăng-ten radar, thường xuyên có các chuyến bay trinh sát, các tù binh bị thẩm vấn, và tất cả máy bay Đức bị bắn rơi ở Anh, được khám xét kỹ lưỡng từng mảnh xác.

Trong tháng Mười Một năm 1940, từ trên không trung, gần Cherbourg, tại nước Pháp bị chiếm đóng, người ta đã thực hiện chụp được một bức ảnh thú vị. Trên ảnh có một đối tượng chưa biết, không có thể là bất cứ cái gì khác, ngoài radar, nhưng do ảnh được chụp từ một độ cao rất lớn, vật thể đó không thể nhận dạng được. Chỉ trong tháng 2 năm 1941, Không quân Hoàng gia đã chụp được một loạt các hình ảnh ở độ cao đủ thấp, để xác định vật thể bí ẩn này, trên thực tế, đó là ăng-ten của một trong những radar đầu tiên của Đức tên là Freya (nữ thần tình yêu và sắc đẹp của người Scandinavia vùng Bắc Âu), được phát triển từ năm 1939. Chức năng chính của nó là phát hiện máy bay địch ở tầm xa nhất có thể - mà ngày nay chúng ta gọi là phát hiện sớm.


Sau này trong quá trình xung đột, chiến tranh radar đã vươn tới tầm cao mới của sự tinh tế. Trên hình là ăng-ten Đức của Klein Heidelberg, một hệ thống thụ động khai thác những cuộc truyền dẫn từ chuỗi Chain Home của Anh (CH), bị thu giữ ở Normandy.

Radar này hoạt động ở bước sóng 2,5 m, có tầm phát hiện khoảng 160-200 km. Đến khoảng cách tối thiểu là 36 km, radar có thể phát hiện và theo dõi máy bay với độ chính xác khoảng một km rưỡi về cự ly và 1 độ về phương vị. Anten phát của nó gồm một tập hợp lưỡng cực.

Các radar Freya đầu tiên được lắp đặt tại các trạm mặt đất cố định trải dài dọc theo bờ biển phía bắc các nước Pháp, Bỉ và Đức trên các tuyến tiếp cận của máy bay ném bom Không quân Hoàng gia Anh. Để bù đắp cho khuyết điểm của nó phải làm nhiệm vụ phái sinh chỉ huy xạ kích pháo cao xạ PK, xuất phát từ việc hạn chế tầm phát hiện tối thiểu 36 km, người ta thêm vào các radar này các đèn chiếu công suất lớn để chiếu sáng máy bay. Tuy nhiên, phương pháp này quá phụ thuộc vào thời tiết xấu vốn là đặc điểm của khu vực, đặc biệt là những đám mây, do đó ngành công nghiệp Đức đã phải chế tạo một radar khác, đảm bảo cung cấp thông tin chính xác hơn cho việc dẫn bắn pháo cao xạ và máy bay tiêm kích đánh chặn chống các máy bay ném bom của đối phương ở cự ly ngắn.


Minh họa radar Đức Freya thời Thế chiến 2 (An illustration of a German World War II Limber Freya Radar from TM E 11-219 "Directory of German Radar Equipment").

Người Anh, biết được tần số hoạt động và các đặc tính khác của radar Freya, bây giờ có cơ hội phát triển biện pháp REP thích hợp để vô hiệu hóa hoặc ít nhất làm giảm hiệu quả của các radar Đức. Ban đầu, khá dễ làm điều đó, vì tất cả các radar Freya đều làm việc trên cùng một tần số (120-130 MHz), tần số đó dễ dàng bị bao phủ bởi máy phát nhiễu Mandrel đang có của người Anh. Máy phát này phát ra tiếng ồn hỗn loạn tại các tần số hoạt động của Freya và do đó làm mù mắt nó. Thiết bị phát nhiễu Mandrel được cài đặt trên một chiếc máy bay đặc biệt đi kèm đội hình chiến đấu của các máy bay ném bom trong các cuộc tấn công của họ, giúp họ thâm nhập vào không phận của Đức. Người Đức đã cố gắng tránh chế áp bằng phương pháp thay đổi liên tục tần số hoạt động, bởi vậy người Anh không chịu thua kém, phải sản xuất một số lượng lớn các loại máy phát nhiễu các loại khác nhau để gây nhiễu các tần số khác nhau.

Trong một thời gian ngắn, tổn thất của người Anh giảm nhẹ, nhưng vào cuối năm 1942, thiệt hại bắt đầu tăng trở lại. Người Đức tạo ra một radar mới, cực kỳ hoàn hảo, gọi là Wurzburg, làm việc ở bước sóng khoảng 50 cm (565 MHz), có tầm xa khoảng 70 km và có khả năng đo lường không chỉ khoảng cách và hướng đến máy bay kẻ thù, mà còn đo cả cao độ của nó. Ngoài ra, nó cũng có một chùm tia rất hẹp, và khi sở hữu tất cả những phẩm chất này, radar có thể cung cấp với độ chính xác cao hơn hai chức năng đặc biệt quan trọng của hệ thống phòng không: hướng dẫn máy bay tiêm kích đánh chặn máy bay ném bom địch và điều khiển xạ kích pháo cao xạ PK.
.......
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)


Freya - radar cảnh báo sớm của Đức sử dungh để phát hiện các tốp máy bay ném bom quân Đồng minh (tầm hoạt động: 125 dặm). Trong ảnh là một radar Freya với 2 hệ ăng-ten, một để sử dụng trong mặt phảng đứng, một cho mặt phẳng ngang.

Bước tiến bộ hơn nữa trong lĩnh vực radar đã được thực hiện, khi người Đức tạo ra một radar mới, gọi là Liechtenstein BC để lắp đặt nó trên các máy bay tiêm kích đánh đêm. Mặc dù nó chỉ có tầm 12 km, nhưng đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ thống phòng không tích hợp. Hệ thống mô-đun này bao gồm một số lượng lớn các trạm, mỗi một trong số đó có nhiệm vụ bao quát một khu vực-ô vuông nhất định, mà toàn bộ lãnh thổ của đế chế Đức được phân chia thành các ô vuông như thế. Các trạm này tên gọi Himmelbett (giường giăng màn bốn cọc). Mỗi một trạm trong số đó có một radar Freya, hai radar Wurzburg, một trạm quản lý chỉ huy, một trạm liên lạc. Việc phát hiện ban đầu nhóm máy bay Anh thường do Freya đảm nhiệm, sau đó nó lập tức báo cáo phát hiện của mình về trạm điều hành chỉ huy. Máy bay tiêm kích bay đêm, trang bị radar Liechtenstein BC ngay lập tức được phái lên đánh chặn kẻ thù dưới sự chỉ huy của một trong những radar Wurzburg. Một radar Wurzburg khác bám sát máy bay địch và dẫn bắn cho hỏa lực pháo cao xạ, ngay sau khi máy bay tiến vào cự ly tiêu diệt. Tất cả dữ liệu về các tọa độ và độ cao của máy bay ném bom đối phương và tiêm kích bay đêm đánh chặn được đưa lên một bản đồ đặc biệt, được gọi là "bàn chiến thuật". Các điều hành viên, sử dụng thông tin của nó có thể làm các tính toán cần thiết để thực hiện cuộc chặn kích. Thông tin về tuyến đường bay, tốc độ và độ cao truyền qua trạm liên lạc thích hợp đến phi công máy bay tiêm kích bay đêm, bằng cách đó được dẫn đến bán cầu sau (задния полусфера - ЗПС) của mục tiêu từ bất kỳ vị trí có thể nào của máy bay anh ta. Khi máy bay tiêm kích Đức ở trong phạm vi một km rười đến hai km cách máy bay địch, trắc thủ trên máy bay bật radar Liechtenstein BC, nó sẽ khóa mục tiêu, đưa đường cho tiêm kích xông đến máy bay địch. Khi máy bay tiêm kích ở trong phạm vi tầm xạ kích, Liechtenstein BC được sử dụng để điều khiển bắn pháo. Từ thời điểm này, cơ hội thoát thân của máy bay ném bom đối phương trở nên rất mờ nhạt.

Hệ thống này làm việc rất tốt và có thể được coi là tiền thân của hệ thống phòng không hiện đại, mặc dù khả năng giới hạn của nó trong việc bám sát chỉ được một mục tiêu duy nhất. Bằng cách triển khai các hệ thống dọc theo bờ biển phía bắc, bắt đầu từ Pháp và tiếp tục về phía đông, một mạng lưới phòng không đã được thiết lập. Ngoài nước Đức, các hệ thống được bố trí ở cự ly cách nhau 32 km, còn trong nước Đức - ở khoảng cách 80 km.


Hệ thống ăng-ten cho radar trên máy bay FuG 202 "Lichtenstein B/C" trên một chiếc Junkers Ju 88 chuyên đánh đêm, ảnh chụp ngày 22 tháng 12 năm 1943.

Đến cuối năm 1942, khi tổn thất máy bay của quân Đồng minh do các máy bay tiêm kích bay đêm Không quân Đức và các khẩu đội pháo phòng không trở nên quá cao, người Anh bắt đầu thường xuyên phái các máy bay trang bị máy gây nhiễu Mandrel đến bờ biển của Đức, để phát nhiễu và gây khó dễ cho việc phát hiện tầm xa của radar Freya. Tuy nhiên, bất chấp tất cả các biện pháp trên, khi tổn thất của họ không hề giảm, họ mới rõ rằng sự thành công của phòng không Đức phụ thuộc không chỉ vào Freya radar, hay radar phối hợp Wurzburg, về điều này thì người Anh không có thông tin đầy đủ, nên không có khả năng chế áp.

Đồng thời, người Đức quyết định cố gắng tìm cách bảo vệ radar Wurzburg chống lại sự gây nhiễu của đối phương. Họ quyết định liên tục thay đổi tần số hoạt động, nhưng nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều so với dự kiến, vì để làm điều đó cần giải quyết những vấn đề kỹ thuật đáng kể. Tuy nhiên, họ đã phát triển thành công một hệ thống luân phiên thay đổi ba tần số hoạt động cho radar Wuirzburg .

Trong khi đó, tình báo Anh phát hiện gần Le Havre, trên đất Pháp bị chiếm đóng, một tổ hợp radar, một radar được xác định chắc chắn là Freya, trong khi hai radar khác được coi chính là loại mà máy bay ném bom Anh phải đối mặt - radar Wurzburg. Vì người Anh hoàn toàn không biết các đặc tính của radar (tần số, độ rộng xung, v.v), do đó họ không thể tìm được REP thích hợp, họ không có sự lựa chọn nào ngoài việc đánh chiếm nó.

Vào đêm ngày 27 sang ngày 28 tháng 2 năm 1943, tại trạm radar Bruneval, gần Le Havre, một nhóm lính nhảy dù được thả xuống, nhiệm vụ của họ là đưa về Vương quốc Anh những thành phần chính của radar Wurzburg. Lính nhảy dù, vận đồ đen, mặt dính đầy bụi than, đã thành công trong việc đột nhập vào trạm radar, và sau khi giết chết đội bảo vệ, họ tháo dỡ radar Wurzburg. Ngay sau khi chiến dịch hoàn thành, nhóm tiến ra bờ biển, nơi câch bờ một vài dặm, tàu ngầm đã chờ đợi họ. Tàu ngầm cần phải đưa người và số hàng hóa kỳ lạ của họ về Vương quốc Anh. Ngay sau khi các chuyên gia Anh nhận được trong tay mình các bộ phận này, họ lập tức bắt tay phát triển biện pháp đối kháng để vô hiệu hóa Wurzburg.

Một đêm tháng 5 năm 1943, một chiếc Junkers Đức Ju88R-1, có phi hành đoàn quyết định đào ngũ, máy bay của họ hạ cánh xuống một sân bay Anh. Đó là một thành công bất ngờ với người Anh, họ lập tức bắt đầu nghiên cứu radar của Ju88. Thậm chí họ còn tổ chức một chuyến bay thử nghiệm - tấn công trên không máy bay ném bom Anh Handley - Page Halifax. Theo cách này, họ nhận được rất nhiều thông tin hữu ích, quan trọng nhất trong số đó là radar có ăng-ten khẩu độ mở bị hạn chế - chỉ 25 độ. Trận chiến mô phỏng với máy bay ném bom Halifax cho thấy việc chuyển sang bổ nhào thoải sẽ ngắt được việc radar Đức bám sát máy bay ném bom.


Radar Wurzburg trên bãi biển Normandy

Người Đức, đến lượt mình, không ngủ yên trên vinh quang của họ, cũng tìm cách vô hiệu hóa radar của Anh bằng cách sử dụng nhiễu điện tử. Họ tạo ra thiết bị gây nhiễu đối với từng loại radar Anh, bao gồm cả radar dẫn bắn.

Chẳng bao lâu, quân Đồng minh nghĩ ra một máy gây nhiễu mới được gọi là Carpet (Tấm thảm), loại máy này cuối cùng đã có thể chế áp được radar Wurzburg của Đức. Đầu tiên, nó được lắp trên các máy bay ném bom Mỹ Boeing B-17, và nhờ có hệ thống chiến tranh điện tử mới, tổn thất của máy bay ném bom quân Đồng Minh bắt đầu giảm ngay và giảm dần liên tục : trong vụ ném bom Bremen của Tập đoàn quân Không quân Mỹ số 8, tổn thất của Đồng Minh giảm 50 %.

Tuy nhiên , điều tồi tệ nhất đối với Luftwaffe vẫn còn chưa tới. Chiều tối ngày 24 tháng 7 năm 1943, các trạm radar của Đức tại Ostend phát hiện một nhóm máy bay Anh tiếp cận từ hướng Biển Bắc. Radar Wurzburg ở Hamburg, cũng phát hiện một nhóm địch và báo về ban tham mưu Bộ chỉ huy tương ứng : "máy bay đối phương đang tiếp cận ở độ cao 3300 mét". Đó là sự quan sát mục tiêu cuối cùng của họ, vì đột ngột số lượng các tín hiệu phản hồi của các mục tiêu trên màn hình toàn bộ các radar Wurzburg tăng lên mà không tỉ lệ tương xứng với nhau trước sự sửng sốt của các khai thác viên, họ không thể hiểu có thực hàng ngàn máy bay đang tham gia cuộc không kích này hay không. Cuối cùng, họ báo cáo rằng radar của họ không hoạt động đúng và yêu cầu được hướng dẫn.

Trong khi đó, một nhóm máy bay quân Đồng minh đã bay gần đến vùng ngoại ô Hamburg, vì các khẩu đội PPK và các phi đội tiêm kích không thể đối phó với mối đe dọa do thiếu lệnh hướng dẫn của radar Wurzburg. Như thể bị bịt mắt một phần, người Đức không thể hiểu rằng một nhóm lớn gồm 718 máy bay ném bom hai động cơ và 73 máy bay ném bom bốn động cơ, không cần bất kỳ sự hộ tống nào, đã bay đến trung tâm thành phố. Bộ chỉ huy Phòng không Hamburg, bối rối vì thiếu thông tin, cần để cho phép họ có ra lệnh khai hỏa hệ thống PK của mình hay không, và để không đưa ra xác nhận tính hiệu quả của biện pháp đối kháng điện tử của đối thủ của mình, họ dã ra lệnh bắn mù vào các máy bay ném bom. Tuy nhiên, đối phương sau khi đến được mục tiêu của họ, đã hoàn thành thành công một trong những cuộc không kích khủng khiếp nhất trong lịch sử.

Đó là một phương tiện đơn giản nhưng hiệu quả của đối kháng điện tử, lần đầu tiên được sử dụng chống lại radar Wurzburg - Window. Phương tiện đối kháng điện tử này nằm ở chỗ ném khỏi máy bay những lá kim loại mỏng có chiều dài nhất định. Để chế áp có hiệu quả radar đối phương, chiều dài của dải lá phải phù hợp với nửa bước sóng hoạt động của radar. Các bó giấy kim loại sau đó mở tung, dải lá kim loại tạo ra tín hiệu đáp ứng của các mục tiêu trên các màn hình radar và che dấu các tín hiệu phản xạ của các máy bay thật hay mô phỏng sự hiện diện của một số lượng lớn kẻ địch. Các trắc thủ radar hoàn toàn bối rối bởi vô số chấm sáng nhấp nháy xuất hiện trên màn hình radar và không thể xác định số lượng và vị trí của số máy bay đối phương đang tới gần.

Người Anh suy nghĩ về phương tiện đối kháng này cả năm trước đây, ngay sau cuộc đột kích commando của họ vào Le Havre, trong đó một số thành phần radar Wurzburg đã bị thu giữ. Tuy nhiên, một thời gian họ ngần ngại áp dụng vì sợ rằng nó sẽ rơi vào tay kẻ thù, và có thể được sử dụng chống lại chính họ. Cuối cùng, Winston Churchill phải đích thân ra lệnh sử dụng trong cuộc không kích vào Hamburg dự kiến vào tháng 7 năm 1943. Mệnh lệnh của Không quân Hoàng gia về việc sử dụng phương tiện đối kháng điện tử này là đưa ra một câu điều kiện : "Hãy mở cửa sổ (window)" và vì vậy sau này, dải lá kim loại được gọi là cửa sổ, nhưng người Mỹ gọi chúng là “chaff” ("trấu") (trong thuật ngữ tiếng Nga chúng ta gọi nó là lưỡng cực hay phần tử phản xạ chống radar (PRLO - противо-радиолокационными отражателями - ПРЛО). Từ đây về sau sẽ viết tắt là PRLO. Ghi chú của bản dịch tiếng Nga) - một thuật ngữ mà bây giờ được dùng để chỉ những phương tiện REP thụ động.


Bầu che radar H2S trên một chiếc máy bay Handley Page Halifax của Anh.

Phương pháp đối kháng điện tử này đảm bảo thành công lớn cho cuộc không kích Hamburg. Bị hoảng loạn bởi quá nhiều tín hiệu giả trên màn hình radar của họ, các khẩu đội PPK Đức không thể khai hỏa, còn các máy bay tiêm kích không còn nhận được lệnh từ mặt đất. Các yếu tố khác góp phần vào thắng lợi của quân Đồng minh là điều kiện thời tiết tuyệt vời trong ngày hôm đó, sự rõ ràng của hình ảnh trên màn hình radar H2S của họ, do có sự tương phản rõ rệt giữa các tín hiệu phản xạ từ mặt đất và từ mặt nước cửa sông Elbe.

Mức độ tàn phá và thiệt hại về người do các cuộc không kích của Anh xuống Hamburg rất lớn. Chỉ trong hai tiếng rưỡi đồng hồ, 2.300 tấn bom đã trút xuống cảng và trung tâm thành phố. Đám cháy bùng lên rất mạnh biến thành một quả cầu lửa hút rất nhiều oxy, gây ra những trận gió rất mạnh kéo bật rễ cây, quét các vật và người xuống biển.

Trong số 791 máy bay ném bom tham gia cuộc không kích, chỉ có mười hai chiếc không trở về, một tỷ lệ tổn thất máy bay ít hơn một phần ba so với tổn thất trung bình trong các cuộc không kích ban đêm gần đây nhất vào nước Đức. Ngoài ra, sự hỗn loạn phát sinh trong hệ thống phòng không của Đức, cho phép người Anh đánh bom thành phố với độ chính xác lớn hơn bao giờ hết. Cuộc ném bom Hamburg, chắc chắn là cuộc không kích thành công nhất từng thực hiện của các máy bay ném bom Không quân Hoàng gia và thành công của nó trên một mức độ đáng kể thuộc về việc sử dụng biện pháp đối kháng điện tử đơn giản nhưng hiệu quả, đó là việc áp dụng các dải lá kim loại thông thường!

Đáng ngạc nhiên, nhưng lần đầu tiên ý tưởng áp dụng các lá kim loại cho mục đích này được chính người Đức đưa ra. Họ đã phát triển nó trong quá trình nghiên cứu radar nhiều năm trước khi chiến tranh bắt đầu. Khi Hitler đã được thông báo về khả năng sử dụng dải lá kim loại, mà người Đức gọi là Duppel, ông ta liền ra lệnh chấm dứt nghiên cứu và tiêu hủy tất cả các tài liệu kỹ thuật. Cũng như người Anh, ông ta sợ rằng các công cụ mới để đối kháng điện tử lại rơi vào tay kẻ thù và chúng có thể bị sao chép. Do đó, hệ thống cứ điểm phòng thủ đường không của Hamburg bị bất ngờ khi phương tiện này được sử dụng. Kể từ cái đêm khủng khiếp, giết chết hàng chục ngàn người, không ai có ý tưởng dù là nhỏ nhất về những gì thực sự đã xảy ra, và thậm chí cả các sĩ quan cấp cao của Bộ Tư lệnh Phòng không Đức, được báo cáo về điều đó, đã ra lệnh: "Đừng chạm vào những dải kim loại đó, nó có thể tẩm chất độc đấy".

Phải mất một thời gian dài trước khi người Đức nhận ra rằng vật thể lạ rơi xuống như mưa từ trên trời, là một công cụ đơn giản để đánh lừa radar và hệ thống dẫn đường. Ít nhất là hai mươi lăm dải là đủ để tạo ra một tín hiệu đáp ứng tương đương tín hiệu phản xạ của máy bay trên màn hình radar; một cách ngẫu nhiên là phần lớn radar Đức hoạt động ở các tần số từ 550 MHz đến 570 MHz là những radar dễ bị nhiễu nhất, do đó để tạo nhiễu cho chúng chỉ cần số lượng tối thiểu dải lá kim loại. Trong thời gian cuộc không kích Hamburg, mỗi chiếc máy bay được giao vai trò đó, đã thả xuống hai tấn PRLO - tổng cộng 2.000 lá PRLO trong một phút!

Sau hai đêm cuộc không kích Hamburg được lặp lại, sau đó tiếp đến các cuộc không kích các thành phố lớn khác của Đức, và trong tất cả các cuộc ném bom đó đều sử dụng biện pháp đối kháng điện tử mới. Trong sáu cuộc không kích đầu tiên đã có 4.000 phi vụ được thực hiện, tổn thất chỉ là 124 máy bay ném bom (3 % tổng số), thấp hơn nhiều so với tổn thất phải chịu trong các cuộc không kích trước đó. Sau vài tháng, tướng Wolfgang Martini, người lãnh đạo ngành TTLL Không quân Đức, thừa nhận rằng thành công về mặt chiến thuật của kẻ thù là tuyệt đối.
.......
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)


Hamburg qua các cuộc ném bom của KQ Đồng minh 1942-1945

Tuy nhiên, như luôn luôn xảy ra trong TCĐT, điêu đó sẽ sớm chấm dứt. Một thời gian ngắn sau khi cú sốc ban đầu đã trôi qua, người Đức tìm ra cách giải quyết vấn đề mới. Sau một thời gian, các trắc thủ khai thác radar có kinh nghiệm nhận thấy có thể phân biệt các tín hiệu phản hồi từ máy bay ném bom với các tín hiệu cửa sổ, vì máy bay bay với tốc độ không đổi theo một hướng nhất định, còn dải nhiễu dường như cố định trên màn hình radar. Người Anh trả đũa bằng cách ném một số lượng lớn dải nhiễu lá kim, điều đó hoàn toàn phủ kín màn hình radar của đối phương.

Tại thời điểm này, người Đức quyết định tự mình sản xuất những dải lá kim vô giá ấy, và sáu tuần sau khi cuộc ném bom Hamburg, họ sử dụng chúng với kết quả cực tốt trong một cuộc không kích của các máy bay ném bom của mình xuống một căn cứ không quân Anh.

Ngoài ra, khi cố gắng nâng cao hiệu quả hệ thống phòng không, người Đức đã đưa ra một loạt phương tiện khác để thực hành phản-đối kháng điện tử (phản-REP). Một số trong đó sử dụng phương pháp phân biệt tín hiệu phản hồi từ máy bay với tín hiệu phản xạ từ các vật kim loại khác. Mặt khác họ sử dụng rộng rãi thiết bị cho phép radar thay đổi tần số hoạt động, ngay khi nó vừa dính nhiễu của đối phương. Và trong cùng một hệ thống còn sử dụng hiệu ứng Doppler : sự thay đổi tần số của tín hiệu, xảy ra do sự chuyển động tương đối của máy thu với nguồn tín hiệu, do đó cho phép tính toán vận tốc xuyên tâm của mục tiêu. Trong trường hợp này, người Đức chuyển từ chế độ "video" sang chế độ "âm thanh", thay thế màn hình radar sang tai nghe, thông qua đó các phi công máy bay tiêm kích đánh đêm có thể nghe thấy âm thanh cụ thể phát ra từ radar đối phương. Hệ thống này phản ánh sự biến đổi tốc độ của máy bay đối phương qua sự thay đổi tín hiệu âm thanh, và các trắc thủ khai thác có thể phân biệt ngay cả việc máy bay địch đang làm gì - bổ nhào hay kéo cao.

Những thiết bị này được thiết kế để vô hiệu hoặc làm giảm hiệu quả của REP, được gọi là phương tiện phản REP. Hiện nay, trong mỗi radar quân sự về mặt cấu trúc đều có một số biện pháp phản REP có sẵn; điều này thường được thực hiện bằng chuyển mạch mục tiêu-góc của radar, hoặc thay đổi các tham số của nó (tần số, các tham số xung, v.v.). Ngày nay, rất nhiều phương pháp phản-đối kháng điện tử đang được sử dụng, và số lượng của chúng là vô hạn, vì đối với mỗi biện pháp đối kháng điện tử đều có một biện pháp phản đối kháng, còn đối với mỗi biện pháp phản đối kháng điện tử lại có một biện pháp phản-phản-đối kháng khác, và cứ như vậy.


Hình một Avro Lancaster KQ Anh ném bom đêm trên bầu trời Hamburg tháng 1 năm 1943.

Tuy nhiên, mặc cho tất cả các biện pháp được người Đức thực hiện để khắc phục tình hình, đêm này qua đêm khác, các thành phố của họ liên tục bị Bộ chỉ huy Không quân ném bom Không lực Hoàng gia phá hủy. Trong suốt mùa hè năm 1943, việc các máy bay ném bom Đồng minh sử dụng Window với cường độ cao trên thực tế đã làm tê liệt hệ thống phòng không của Đức vào ban đêm, và trong điều kiện tầm nhìn kém, khi nó chủ yếu dựa vào radar Wurzburg. Do đó, các trí tuệ siêu việt nhất của nước Đức trong lĩnh vực điện tử đã được huy động làm công việc phát triển các phương pháp khôi phục tính hiệu quả của hệ thống phòng không của họ.

Cần phải phát triển một radar mới hoạt động ở tần số khác nhiều so với các tần số hoạt động của các radar Wurzburg và Liechtensrein BC ở trong các băng tần liền kề để tránh sự chế áp của các phương tiện REP của quân Đồng minh như các thiết bị chủ động (máy phát nhiễu Carpet), và thụ động (Window). Các nghiên cứu được tiến hành với một tốc độ khủng khiếp, vì mỗi ngày và đêm mất đi có nghĩa là lại có thêm sự hủy diệt của một thành phố nước Đức.

Trong tháng 10 năm 1943, một mẫu thiết bị mới đã sẵn sàng và trong những ngày đầu năm 1944 một radar mới, gọi là Liechtenstein SN2, đã được cài đặt trong gần như tất cả các máy bay tiêm kích đánh đêm của Đức. Nó làm việc ở bước sóng 3,3 m, tương ứng với tần số khoảng 90 MHz, thấp hơn so với tần số hoạt động của cả radar Liechtenstein BC và radar Wurzburg một cách đáng kể. Và mặc dù nó có kích thước ăng ten lớn hơn nhiều, khá cồng kềnh, song nó có một lợi thế rõ rệt – góc quét quan sát là 120 độ theo hướn; chiều rộng như vậy của chùm tia radar đảm bảo gia tăng sức mạnh của radar, làm cho nó không cần thiết bức xạ định hướng. Bây giờ, các máy bay ném bom của Anh gần như không thể thoát sau khi bị radar phát hiện, nhưng lợi thế lớn nhất của chùm tia rộng của radar nằm ở chỗ các máy bay tiêm kích Đức bây giờ đã có thể theo dõi máy bay ném bom của đối phương mà không cần dẫn đường, ngay lập tức sau khi nhận thông tin về thành phần các nhóm địch và tuyến đường bay gần đúng của nó.

Việc phát hiện các máy bay ném bom đối phương dễ dàng hơn nhờ hai yếu tố : tầm xa đặc biệt của radar mới là 64 km và thực tế là các máy bay ném bom Anh gần đây đã chuyển sang một chiến thuật mới để tiếp cận mục tiêu, cách tiếp cận này quả thật đã làm cho việc phát hiện ra chúng bởi hệ thống mới của Đức đơn giản hơn nhiều. Biết rằng hệ thống phòng không của quân Đức chỉ có thể đồng thời theo dõi một máy bay, họ đã quyết định bay liền sau nhau thay vì sử dụng đội hình bậc thang như họ đã làm trước đây. Nhưng các nhóm lớn như vậy có thể bị phát hiện từ mặt đất thậm chí khi không có radar.

Nhờ radar mới, chiến thuật phòng không của quân Đức đã được sửa đổi và cập nhật hoàn toàn, vì việc phòng thủ khu vực, phụ thuộc cứng nhắc vào dẫn đường của radar mặt đất, đã có thể bỏ qua. Bây giờ, các trạm kiểm soát chỉ huy mặt đất chỉ cần dẫn hướng các máy bay tiêm kích tới nhóm địch, sau đó tiêm kích có thể tự thân hoạt động. Họ từ phía sau tiếp cận với nhóm máy bay ném bom của đối phương và bắt đầu "cuộc tàn sát" các máy bay ném bom xấu số của quân Đồng minh. Trước đó, sau khi vượt qua bức tường radar phòng không, các máy bay ném bom phải tranh đua chỉ với pháo cao xạ phòng không bảo vệ khu vực mục tiêu; nhưng giờ đây chúng liên tục bị đe dọa tấn công trong suốt quá trình bay đến mục tiêu, bắt đầu từ Bỉ và Hà Lan và ngược lại – cho đến Biển Bắc, sau khi hoàn thành nhiệm vụ.


Messerschmitt Me 110G-4 với ăng-ten radar đánh đêm phiên bản đầu FuG 220 + FuG 202 (antenna nhỏ)

Sự tiến bộ của người Đức trong lĩnh vực điện tử chưa kết thúc. Máy bay tiêm kích được trang bị radar Liechtenstein SN2, và cả các RWR mới. RWR – là thiết bị có chức năng phát hiện bức xạ radar; nó thu nhận tín hiệu radar, nhưng bản thân không phát xạ. Công việc của RWR trên máy bay có thể so sánh với công việc của RWR Metox, hồi đầu chiến tranh được lắp đặt trên các tàu mặt nước và tàu ngầm Đức. Như đã đề cập ở trên, nó có hai lợi thế quan trọng đối với radar : đầu tiên nó là hệ thống hoàn toàn thụ động không phát ra năng lượng điện từ, không có khả năng phát lộ sự hiện diện của nó cho đối phương; và thứ hai, nó có tầm hoạt động lớn hơn so với radar. vì thế nó sẽ thu được bức xạ radar của đối phương sớm hơn là đối phương có thể thu nhận các tín hiệu phản hồi từ vật mang, mà trên đó lắp đặt RWR. Trên thực tế, điều này có nghĩa là các máy bay tiêm kích Đức có thể thu được bức xạ radar máy bay ném bom quân Đồng minh ở khoảng cách gần gấp hai lần so với cự ly radar trên máy bay ném bom có thể phát hiện máy bay tiêm kích Đức. Do đó, các máy bay tiêm kích có thời gian dự trữ lớn hơn để lên kế hoạch tấn công của mình. RWR cũng có thể dẫn đường máy bay tiêm kích tới nhóm máy bay địch, vì mặc dù nó không có khả năng đo khoảng cách tới radar của đối phương, nhưng vẫn đưa ra được khá chính xác hướng mà từ đó thu được bức xạ. Ngoài ra, do hoàn toàn thụ động, RWR không nhạy cảm với nhiễu tạo ra bởi các dải lá kim loại, vốn gây rất nhiều rắc rối trong các trường hợp khác !

Đến đầu năm 1944, Đức đã có hai loại RWR trên các máy bay-tiêm kích của họ. Đầu tiên, radar Naxos, có thể thu được bức xạ radar Anh H2S. Vì radar H2S, tại thời điểm đó chỉ được cài đặt trên các máy bay chuyên dụng của lực lượng Dò đường Pathfinder (PFF- Pathfinder Force) ( lực lượng tìm kiếm đường tiếp cận mục tiêu) thuộc Không quân Hoàng gia, có nhiệm vụ đánh dấu mục tiêu cho các máy bay ném bom bằng pháo sáng, bom phốt pho (lân tinh), Naxos dẫn đường cho máy bay tiêm kích Đức đến thẳng chặn các máy bay trên, loại đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược của người Anh.

RWR Đức thứ hai - Flensburg, được điều chỉnh để thu nhận bức xạ của một loại radar máy bay Anh khác - radar Monica, được cài đặt trong phần đuôi máy bay ném bom Không quân Hoàng gia và cung cấp cảnh báo về sự tiếp cận của máy bay tiêm kích đối phương ở bán cầu sau, điều đó cho họ thời gian để thực hiện động tác cơ động phòng thủ thích hợp. Người Đức tìm thấy một trong những hệ thống radar này trong đống xác của máy bay ném bom Anh bị họ bắn rơi, và đi đến ý tưởng tuyệt vời sử dụng bức xạ của nó để tạo ra không nhiều hơn cũng không ít hơn một cách bám vào đuôi máy bay ném bom của người Anh!
........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

RWR Flensburg đúng ra là một hệ thống tự dẫn đường, có thể dẫn máy bay tiêm kích xộc thẳng vào đuôi đối thủ, nơi đặt radar của họ. Flensburg bao gồm bộ máy thu-so sánh và hai ăng-ten giống hệt nhau được lắp đặt trong đuôi máy bay tiêm kích cách nhau góc 60 độ. Khi ăng-ten trái nhận được tín hiệu và RWR hiển thị nó trên mà chỉ thị của mình, đó chính là nó cho biết rằng máy bay ném bom đang ở bên trái máy bay tiêm kích (khu trục), và nếu ăng-ten bên phải nhận được tín hiệu, có nghĩa là máy bay ném bom ở bên phải. Khi hai ăng-ten đều thu nhận được tín hiệu có cường độ bằng nhau, điều này có nghĩa rằng máy bay ném bom kẻ thù ở ngay trước mặt. Với một thiết bị vô tuyến điện tử đặc biệt như vậy, Không quân Đức, lần đầu tiên, đạt được những kết quả to lớn.

Năm 1944, sự phá hủy hoàn toàn Berlin được ngăn chặn, điều đó trên một mức độ lớn chính là nhờ sự tiến bộ của người Đức trong lĩnh vực điện tử. Hiệu quả của các máy bay tiêm kích đánh đêm của Đức được hỗ trợ bởi LLPPK được tổ chức tốt, không cho phép Không quân Hoàng Gia Anh gây ra sự tàn phá lớn ở quy mô khủng khiếp như sự tàn phá thành phố cảng Hamburg.


Pháo cao xạ 105mm Đức tại Zoo Flak Tower Berlin năm 1942

Trong thời gian này, tổn thất của Không quân Hoàng gia tăng đáng kể, còn tinh thần chiến đấu giảm đáng kể. Nhiều người trong số các phi công tốt nhất của Anh đã kiệt sức nghiêm trọng và thường xuyên, với những nguy hiểm không đáng kể hoặc khi phải đối mặt với khó khăn, thả bom trên biển hoặc trên đồng trống. Nghe tiếng ồn không thể lay chuyển của máy bay tiêm kích đang tiếp cận, các xạ thủ trên không hoảng sợ bắt đầu thiêu đốt tất cả những gì tưởng tượng ra, và đôi khi do nhầm lẫn, họ bắn hạ máy bay của quân mình.

Tình trạng hỗn loạn như thế đạt đến đỉnh cao trong các đêm từ ngày 30 sang ngày 31 tháng 3 năm 1944 khi các máy bay tiêm kích Đức, được các RWR của mình dẫn đường, tấn công một nhóm máy bay ném bom của Không quân Hoàng gia trên bâif trời Brussels và buộc họ phải bước vào một cuộc không chiến, kéo dài suốt đoạn đường đến Nuremburg - mục tiêu không kích, và trên toàn bộ đoạn đường trở lại. Quân Đồng minh bị mất 95 trong tổng số 795 máy bay ném bom tham gia cuộc không kích, còn 71 máy bay khác quay trở lại sân bay của mình với nhiều vết thương nặng, 12 chiếc khác gặp nạn khi hạ cánh. Kết quả cuối cùng - tổn thất 115 máy bay ném bom và 800 thành viên phi hành đoàn giàu kinh nghiệm. Đó là một thắng lợi lớn cho người Đức; một trong các phi công bắn rơi bảy máy bay ném bom, nhiều người khác - bắn hạ từ hai đến ba đối thủ. Chiến thắng này phần lớn có thể được giải thích nhờ tính ưu việt của nước Đức trong giai đoạn này của cuộc chiến tranh trong lĩnh vực tác chiến điện tử (REB).

Hoàn cảnh đối với Không quân Hoàng gia trở nên ngày càng tồi tệ và tồi tệ hơn cho đến khi thành công không bất ngờ đổ xuống đầu họ và họ không có được cơ hội sửa chữa tình hình bằng sự trả đũa điện tử tương ứng. Vào rạng sáng ngày 13 tháng 7 năm 1944, một trong những máy bay tiêm kích đánh đêm của Đức hiện đại nhất - Junkers Ju 88G-1, do lỗi hệ thống định vị dẫn đường đã bay lạc và hạ cánh xuống đất Anh. Nó được trang bị các thiết bị điện tử mới nhất (radar SN2, radar cảnh báo sớm Flensburg và một số đài liên lạc vô tuyến điện mới rất hiệu quả), ngoại trừ radar cảnh báo sớm RWR Naxos, mà may mắn thay cho người Đức, vẫn chưa được cài đặt trên máy bay này. Các chuyên gia người Anh ngay lập tức bắt tay kiểm tra kỹ lưỡng tất cả các thiết bị trên máy bay và rất lo lắng khi họ nhận ra nhiệm vụ của Flensburg. Thay vì bảo vệ các máy bay ném bom chống lại máy bay khu trục của đối phương, các radar được lắp đặt ở đuôi máy bay lại thu hút chúng như một miếng thịt thu hút lũ ruồi và tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho chúng tấn công họ.


Pháo đài bay B-17 Không lực Mỹ ném bom Berlin năm 1944

Để xua tan sự hoài nghi của Bộ Chỉ huy Không quân Hoàng gia, các chuyến bay thử nghiệm đã được tổ chức, trong đó bảy mươi máy bay ném bom cùng loại Lancaster, mỗi chiếc trong số đó được trang bị một radar đuôi, được lệnh mô phỏng một cuộc không kích vào đất Đức tương tự như nhiệm vụ quân sự thực. Khi một máy bay chiến đấu Ju88, điều khiển bởi phi hành đoàn Anh, cất cánh, tất cả các máy bay ném bom được lệnh phải bật thiết bị điện tử của mình. RWR Flensburg có thể phát hiện bức xạ radar Anh ở cự ly gần 80 km và không bật radar riêng của mình, Ju88 đã có cơ hội tiến vào đuôi các máy bay ném bom Lancaster và chiếm vị trí thuận lợi nhất để nổ súng. Nghi ngờ về hiệu quả của Flensburg đã tan biến và toàn bộ thiết bị radar nhanh chóng được gỡ bỏ khỏi các máy bay ném bom Không quân Hoàng gia.

Trong khi đó, một số lượng lớn dải lá kim loại đã được sản xuất, chúng được cắt sao cho phù hợp với bước sóng của radar Liechtenstein SN2 và từ cuối tháng 7 năm 1944 đã được áp dụng. Việc sử dụng Window mới và gỡ bỏ các radar đuôi máy bay, đã làm cho tổn thất của người Anh trong các cuộc không kích đêm trên đất Đức bắt đầu giảm đáng kể.

Khi đó, người Đức cố gắng tìm giải pháp kỹ thuật khác để làm giảm nhiễu tạo ra bởi Window, chẳng hạn như sửa đổi ăng-ten radar của họ. Khi người Anh biết điều này, họ bắt đầu sử dụng các dải kim loại rất dài (đến 120 mét) gắn liền với một chiếc dù nhỏ, mỗi dải kim loại có thể mô phỏng tín hiệu phản hồi của một chiếc máy bay lớn. Người Đức đã buộc phải sửa đổi radar của họ một lần nữa, cố gắng để thoát khỏi tác động của các phương tiện đối kháng điện tử mới của Vương quốc Anh.

Đồng thời, chiến tranh tiếp diễn, người Đức bắt đầu trải nghiệm một loạt các vấn đề khác nhau : tổn thất ngày càng tăng của các phi công dũng cảm và giàu kinh nghiệm của họ, những khó khăn của việc đào tạo người mới bù cho những người đã mất và sự thiếu hụt nhiên liệu ngày càng tăng.

Trong lúc đó, người Anh đang ngày càng bị thuyết phục rằng cần dồn mọi nỗ lực để vô hiệu hóa các thành phần điện tử của hệ thống PK Đức. Để làm điều này, họ xây dựng một phi đội máy bay đặc biệt, chủ yếu là Short Stirling với thiết bị gây nhiễu Mandrel trên máy bay, có khả năng gây nhiễu radar cảnh báo sớm Freya. Máy bay Short Stirling cũng mang một số lượng lớn các PRLO Window, cho phép chúng, đơn độc hoặc theo từng cặp, tạo ra trên màn hình radar của kẻ thù các tín hiệu phản xạ giả sự hiện diện của một nhóm lớn máy bay ném bom. Điều đó sẽ đánh lạc hướng sự chú ý của hệ thống PK Đức khỏi các máy bay ném thực, đã tiến hành một cuộc ném bom trên một đối tượng khác.

Tuy nhiên, cho đến khi kết thúc chiến tranh, ngành công nghiệp Đức đã có thể bắt kịp với người Anh, khi tạo ra hai hệ thống radar mới, mà các phương tiện đối kháng điện tử của phe Đồng minh chống lại nó không hiệu quả. Hệ đầu tiên gọi là Neptun và có thể được cấu trúc lại để làm việc trên một trong sáu tần số từ 158-187 MHz - ở các bước sóng dài tương ứng từ 1,9 đến 1,6 m, mà không thể gây nhiễu nhờ PRLO Window. Radar thứ hai, được gọi là Berlin, vào thời của mình, là một phát minh mang tính cách mạng và làm việc trong dải bước sóng cm. Ăng-ten của nó không còn là một hệ thống phức tạp các lưỡng cực được lắp đặt ở một khoảng cách nhỏ với vỏ máy bay, còn có một ăng-ten parabol được lắp đặt trong phần mũi máy bay. Tuy nhiên, cho đến khi chiến tranh kết thúc mới chỉ có một vài mẫu của radar này được ra đời.

Các máy bay Đức Junkers 88G-7b được trang bị radar Neptun, cũng như thiết bị có thể phân biệt máy bay địch-ta, là tiền thân của hệ thống nhận dạng quốc tịch, hiện đang được cài đặt trên tất cả các máy bay chiến đấu hiện đại, và có thể phân biệt máy bay địch với máy bay mình. Chúng cũng được trang bị radar vô tuyến đo cao, la bàn vô tuyến, máy thu dẫn đường an toàn, máy in mã Morse đơn giản tọa độ máy bay truyền về cho trạm mặt đất, thiết bị cho máy bay hạ cánh và hai đài vô tuyến mới băng sóng ngắn KV và cực ngắn UKV. Vì radar Neptun được xây dựng trên cơ sở bức xạ định hướng và công suất lớn, còn các tín hiệu của máy thu-teletype "thông qua" rất tốt nhờ sử dụng mã Morse, các hệ thống này rất bền vững trước sự chế áp. Máy bay kiểu Junkers Ju88G-7b cũng được trang bị RWR Naxos, còn RWR Flensburg được thay thế bằng máy tầm phương nhiệt Kiel, loại này phản ứng với bức xạ hồng ngoại của các "điểm nhiệt" - ống xả động cơ các máy bay địch.

Trong những tháng cuối của cuộc chiến tranh, hai bên bắt đầu sử dụng các thủ đoạn dưới dạng các mục tiêu giả. Radar không thể xác định hình thức và đặc tính của đối tượng phát hiện, do đó chỉ có thể sử dụng các vật kim loại khác nhau để tạo ra các tín hiệu giả, mà trong một số trường hợp nhất định sẽ được coi là các máy bay thực, tàu biển thực v.v.

Người Đức sử dụng nhiều mục tiêu giả ở khu vực Berlin để ngăn chặn sự phá hủy hoàn toàn thủ đô của họ. Trong các hồ ở gần đó họ bố trí một số lượng lớn các mục tiêu bằng kim loại, hy vọng đánh lừa các máy bay ném bom của quân Đồng Minh, những người sử dụng radar H2S để ném bom mù.

Những phương tiện khác tinh vi hơn đã được cả hai bên sử dụng trong giai đoạn cuối chiến tranh. Trên bầu trời nước Đức diễn ra một cuộc đấu tranh liên tục giữa radar, đối kháng điện tử, và phản đối kháng điện tử. Chắc chắn, nó là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai và xét từ quan điểm khoa học, khi cả hai đối thủ không vượt được nhau trong sự hoàn thiện về kỹ thuật, và xét từ quan điểm ứng dụng tác chiến, trong đó hai bên đã chiến đấu với longg quyết tâm tuyệt vọng, lòng can đảm và những kinh nghiệm tuyệt vời.

Sau khi Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh Thế giới II, số lượng máy bay tham gia vào mỗi chiến dịch quân sự đã tăng lên đáng kể. Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, nước Đức đã bị ném bom dữ dội hàng ngày với không ít hơn 1.000 máy bay ném bom được hộ tống bởi 600-700 máy bay tiêm kích, còn ban đêm - gần như cùng một số lượng như vậy các máy bay ném bom của Không quân Hoàng gia.


Phế tích Thế chiến 2 - Nhà thờ Kaiser Wilhelm Memorial Church tại Berlin-Charlottenburg, bị quân Đồng minh dội bom, được giữ lại làm đài tưởng niệm.

Cuộc đối đầu giữa bản thân các máy bay tiêm kích, chiến thuật đánh đêm và đánh ngày, tổ chức và hiệu quả của hệ thống phòng không, những cải tiến liên tục trong lĩnh vực phát hiện, công tác dẫn đường và chỉ huy mặt đất là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả của cuộc chiến tranh, mà kết quả không rõ ràng cho đến tận ngày cuối cùng của nó. Thiệt hại máy bay trên đất Đức của quân Đồng minh đặc biệt lớn; người ta tính rằng tổn thất nằm trong khoảng 12-15.000 máy bay.

Cũng như trong Trận chiến nước Anh, cuộc đấu tranh giữa radar và đối kháng điện tử đóng vai trò vô cùng quan trọng trong các chiến dịch đường không trên bầu trời nước Đức, lần đầu tiên có lợi cho một bên, sau đó lại là bên khác, nếu đánh giá theo hiệu quả của việc áp dụng các thiết bị điện tử mới và sử dụng các yếu tố bất ngờ để bắt kẻ thù trở thành không vũ khí.

HẾT CHƯƠNG 8​
........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 9. Nghi binh điện tử trong chiến dịch "Overlord"



Trong cuộc đổ bộ Normandy có tên mã "Overlord", đối kháng điện tử lần đầu tiên trong lịch sử, đã trở thành một phần hữu cơ của các kế hoạch chiến lược. REP, quả thật, đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của toàn bộ kế hoạch chiến dịch, được các nước Đồng minh lập ra đối với một trong những chiến dịch quân sự khó khăn nhất trong lịch sử.

Việc đổ bộ có tầm quan trọng sống còn, nhưng thành công của nó không có nghĩa đã được xác định trước. Người ta biết rõ rằng giai đoạn quan trọng nhất của chiến dịch là khoảng thời gian binh sĩ từ tàu đổ bộ được đổ lên bờ. Giai đoạn này có thể kéo dài trong vài giờ, và nếu đối phương tập trung một cách cần thiết để tấn công các binh sĩ đang đổ bộ, kết quả có thể là một vụ thảm sát, vì binh sĩ cực kỳ dễ tổn thương khi phải "bám vào bờ".

Vì vậy, Bộ Chỉ huy Liên quân Đồng minh coi cực kỳ quan trọng việc đánh lừa người Đức và che dấu địa điểm đổ quân đích thực, do đó, giữ chậm sự di chuyển lực lượng dự trữ chiến lược của họ đến khu vực có thể đổ bộ. Đã quyết định cố gắng thuyết phục người Đức rằng cuộc đổ bộ sẽ được thực hiện gần Calais, trong khi trên thực tế nó diễn ra trên bờ biển Normandy. Kế hoạch hoạt động điện tử đặc biệt phức tạp, tất nhiên, nó hoàn toàn bí mật. Nó được đưa vào vận hành chỉ trong một vài ngày trước Ngày X và bao gồm một sự kết hợp các hoạt động thực và giả.

Bờ biển Normandy, nơi quân Đồng Minh lựa chọn để tiến hành cuộc đổ bộ của mình, đã được tăng cường phòng thủ đáng kể cũng như toàn bộ bờ biển phía bắc châu Âu. Thống chế Von Rundstedt chỉ huy sáu mươi sư đoàn, là thành phần cơ hữu của cái gọi là Bức tường Đại Tây Dương - một hệ thống công sự trải dài từ Hà Lan đến Vịnh Biscay. Một thống chế nổi tiếng là Rommel chỉ huy các khu vực phòng thủ từ Hà Lan đến sông Loire.

Người Đức tất nhiên biết rằng các nước Đồng Minh đang lên kế hoạch xâm nhập châu Âu, và chắc chắn họ sẽ đổ bộ ở đâu đó trong miền Bắc Pháp. Von Rundstedt đã bị thuyết phục rằng họ sẽ đổ bộ ở Calais; còn Rommel, tuy nhiên, cho rằng cuộc đổ bộ sẽ diễn ra trên các bờ biển Normandy.

Ý kiến các nhà lãnh đạo Đức về địa điểm đổ bộ cũng phân tán. Sự khác biệt về quan điểm như trên gây ra bởi một số hành động có chủ ý của Đồng Minh để bắt người Đức tin rằng họ sẽ đổ bộ tại Calais.

Người Đức tất nhiên đã làm tất cả mọi thứ để gây khó khăn cho kế hoạch của quân Đồng minh, họ tiến hành một chiến dịch tuyên truyền ca ngợi khả năng bất khả xâm phạm của bức tường Đại Tây Dương. Trong một chương trình radio tháng 3 năm 1944, khoảng hai tháng trước Ngày X , họ cho rằng chuỗi radar của họ, trải dài dọc theo toàn bộ lãnh thổ cả nước Đức, hiệu quả đến mức bất kỳ máy bay hoặc tàu chiến nào của đối phương đều sẽ chịu sự giám sát liên tục. Và, khi có các phương tiện ấy, công cuộc phòng thủ nước Đức có thể vận hành với tốc độ vượt trội và đầy hiệu quả.

Đồng minh biết rằng người Đức đã lắp đặt dọc theo bờ biển phía bắc Pháp ít nhất 120 Radar để phát hiện các đoàn công-voa của Anh trong eo biển La Manche và chỉ huy xạ kích cho các khẩu đội pháo binh phòng thủ bờ biển. Với sự trợ giúp của trinh sát ảnh và điện tử, họ biết tất cả về toàn bộ chuỗi trạm radar của Đức, bao gồm các trạm radar cách nhau ở cự ly 16 km. Còn trên một số đoạn bờ biển chúng bố trí cách nhau 800 mét.

Các chuyên gia Anh về thiết bị điện tử từ trước đã bắt đầu phát triển các biện pháp đối kháng cụ thể. Họ chọn đoạn dài nhất của bờ biển Scotland, giống bờ biển Normandy, dựng tại đó 3 trạm radar Đức chiến lợi phẩm, thuộc ba loại chính của hệ thống radar bảo vệ bờ biển Normandy. Mỗi ngày, máy bay, tàu chiến và tàu đổ bộ được trang bị các thiết bị chiến tranh điện tử đã thực hiện đổ bộ tập dượt trên bờ biển Scotland. Các sĩ quan-chuyên gia tác chiến điện tử với tư cách quan sát viên, xác định xem các "chiến lợi phẩm" phát nhiễu radar của đối phương ra sao. Kết quả của những bài diễn tập được biên soạn một danh sách chi tiết các yêu cầu đối với các thiết bị lắp trên tàu chiến và máy bay phải tham gia vào cuộc xâm nhập. Mỗi phi công và hoa tiêu được hướng dẫn rõ ràng về những gì anh ta nên làm vào Ngày X.

Kế hoạch này dựa trên hai hoạt động chính. Đầu tiên là chế áp các trạm radar Đức ở khu vực Normandy, để ngăn chặn sự phát hiện các lực lượng hải quân đang đến gần. Hoạt động thứ hai bao gồm việc đánh lạc hướng các trạm radar Đức ở khu vực Calais bằng việc mô phỏng sự hiện diện của một lực lượng hải quân lớn đang đến gần Calais. Các biện pháp hỗ trợ khác được lên kế hoạch phối hợp chặt chẽ với hai hoạt động lớn này. Với mục đích phao tin đồn nhảm, trong khu vực Dover bắt đầu chương trình phát sóng giả công suất lớn để tạo ấn tượng trong khu vực này đang tập trung quân đội, sẵn sàng xâm nhập vào khu vực Calais. Các điệp viên lan truyền tin đồn và các thông điệp giả để tiếp tục gây nhầm lẫn về vấn đề này. Quân đội đã được tập trung ở một khu vực khác, và cuối cùng, liên lạc vô tuyến của đối phương bắt đầu bị gây nhiễu liên tục.

Việc đổ bộ được dự kiến bắt đầu vào 06:30 ngày 06 tháng 6. Trong đêm từ ngày 05 sang ngày 06 Tháng Sáu, một hạm đội khổng lồ khoảng 2.700 tàu thuyền các loại với hàng trăm ngàn người trên tàu, nhổ neo tại các cảng khác nhau ở phía tây nam nước Anh và từ từ di chuyển đến bờ biển Normandy. Đồng thời, hai mươi máy bay được trang bị thiết bị làm nhiễu Mandrel công suất lớn, bay dọc theo bờ biển phía nam nước Anh, trên độ cao khoảng 6.000 mét , ngụy trang che dấu sự hiện diện của các tàu đang tiếp cận trước các trạm radar của Đức trên bờ biển Normandy.

Gần như đồng thời, một số phân hạm tàu cỡ nhỏ có các tấm kim loại đặc biệt, kéo theo các phao và bóng thám không tráng kim, rời các cảng khác nhau gần Dover, nhằm mô phỏng các tín hiệu phản xạ tương đương với các tín hiệu của các tàu chiến lớn. Ngay sau đó, một số máy bay bay qua đầu chúng, thả một lượng lớn PRLO Window để tạo ấn tượng về việc một đoàn công-voa tàu biển đang tiếp cận bờ biển nước Pháp gần Calais.

Ngay sau khi đến giờ đổ bộ, cùng một lúc, tất cả các thiết bị chiến tranh điện tử trên các tàu đều được bật lên, tạo ra nhiễu đủ để vô hiệu hóa hiệu quả của radar kiểm soát hỏa lực pháo binh Đức.

Tất cả mọi thứ diễn ra theo đúng kế hoạch, và cuộc đổ bộ Normandy được Đồng minh kết thúc hoàn toàn thắng lợi. Kế hoạch tác chiến điện tử được lập nên một cách hiệu quả đã đảm bảo ngăn ngừa việc đưa vào hoạt động các đơn vị dự trữ chiến lược của người Đức cho đến khi quân Đồng minh đã chiếm xong bàn đạp một cách thuận lợi. Quân Đồng minh không bị thiệt hại, vì va chạm với các lực lượng chính của quân Đức đã không xảy ra trong suốt thời gian đổ bộ. Sự nhầm lẫn gây ra bởi các chiến dịch điện tử của quân Đồng minh tiếp tục cả vào ngày hôm sau khi đổ bộ, buộc chính phủ Đức, bao gồm cả Hitler, đi đến các sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá tình hình và đưa ra quyết định không chính xác.

Sự thành công của các ứng dụng đối kháng điện tử trong cuộc xâm nhập Normandy được thể hiện tốt nhất trong những lời của Winston Churchill :

"Những nỗ lực của chúng tôi để đánh lạc hướng, trước và sau Ngày X, được lập kế hoạch để gây nhầm lẫn trong việc ra quyết định, thành công của các biện pháp đó là tuyệt vời và hệ quả của nó ảnh hưởng đến quá trình cuộc chiến trong suốt một thời gian dài".

HẾT CHƯƠNG 9​
..........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 10. Tác chiến điện tử trên không gian chiến trường Địa Trung Hải



Loạt bắn của pháo hạm 320mm trên thiết giáp hạm Ý Giulio Cesare trong trận Punta Stilo năm 1940

Nói chung, tác chiến điện tử trên không gian chiến trường Địa Trung Hải chưa bao giờ đạt đến tầm mức của Trận chiến Anh quốc hoặc các trận chiến trên Đại Tây Dương. Tuy nhiên, tại một số giai đoạn của chiến tranh, radar đóng một vai trò rất quan trọng. Ví dụ, trong trận chiến giữa các lực lượng hải quân Anh và Ý, sau khi Ý tuyên bố chiến tranh ngày 10 Tháng Sáu năm 1940.

Nhiệm vụ chính của hạm đội Anh ở Địa Trung Hải, đóng căn cứ chủ yếu trong cảng Alexandria Ai Cập, là giữ tuyến đường biển công khai với Man-ta - một căn cứ hải quân và không quân trọng yếu. Hải quân Ý, đến lượt họ, phải duy trì tuyến hàng hải công khai với Libya, Albania và Eritrea để cung cấp cho quân đội của họ mọi thứ cần thiết.

Đương nhiên, cả hai hạm đội đều có nhiệm vụ ngăn chặn việc kẻ thù đạt được các mục tiêu của mình. Để làm điều này, mỗi bên dành cả ngày lẫn đêm mở một số lượng lớn các chiến dịch hải quân, cố gắng bảo vệ đoàn công-voa của mình và tấn công đoàn công-voa của đối phương.


Tuần dương hạm hải quân Ý "Fiume" năm 1933

Như chúng ta đã biết từ các chương trước, ngay trước khi bùng nổ Thế chiến 2, các nghiên cứu và phát triển bí mật về radar đang được tiến hành ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Anh và Ý. Tuy nhiên, trong khi ở Ý radar vẫn còn ở giai đoạn mô hình thử nghiệm (vì những lý do đã nói ở trên), thì ở Anh người ta đã bắt đầu sản xuất hàng loạt, và đã được tiếp nhận vào biên chế trang bị, chủ yếu là do yêu cầu cấp bách của công tác phòng không.

Vào tháng Chín năm 1939, khi cuộc chiến tranh bắt đầu, ở Anh đã có cuộc vận động công nghệ và công nghiệp lớn, dẫn đến việc áp dụng các trạm radar đầu tiên. Chúng tỏ ra rất hữu ích. Trong Trận chiến nước Anh chúng đã phát hiện ra các máy bay Đức vào ban đêm và trong điều kiện tầm nhìn kém trên một cự ly lớn hơn nhiều so với mắt thường không thiết bị có thể cho phép.

Tuy nhiên, trong thời gian những cuộc giao tranh đầu tiên giữa 2 hạm đội trong suốt mùa hè năm 1940 (trận Punta Stilo ngày 09 tháng 7 năm 1940 và Cape Spada ngày 19 tháng 7 năm 1940), người Ý đã có những ý kiến mạnh mẽ rằng người Anh không có radar trên tàu của họ. Quan sát này, tuy nhiên không dẫn đến hành động nào và không khiến nhà chức trách Ý tăng tốc độ thử nghiệm mẫu radar tại Viện nghiên cứu của Học viện Hải quân Livorno. Thay vào đó, họ quyết định sử dụng một số ít các chuyên gia họ hiện có về ngành điện tử vào các công việc khác nhau mà họ coi là cấp bách hơn.


Ju-87-Stukas của quân đoàn không quân 10 Đức Quốc xã (X. Fliegerkorps Luftwaffe) xuất phát từ căn cứ trên đảo Sicily ném bom đánh bị thương tàu sân bay HMS Illustrious tại vị trí cách đảo Malta 160 km trong chến dịch "Excess" tháng 1 năm 1941

Vào tháng Giêng năm 1941, quân đoàn không quân Đức X CAT (quân đoàn không quân X) đang hoạt động cực kỳ hiệu quả, bước vào tham chiến trên Địa Trung Hải, để hỗ trợ cho lực lượng quân đội phe Trục. X CAT đến Sicily vào giữa đợt hoạt động của một chiến dịch quan trọng bằng hải quân và không quân của người Anh là "Excess", nhằm cung cấp hậu cần cho Malta. Vào đêm trước chiến dịch quan trọng này của hạm đội Ý, các điện đài viên Đức đã được phái đến chiếc kỳ hạm Ý để đảm bảo thông tin liên lạc vô tuyến với X CAT. Như chúng ta sẽ thấy về sau, điều này dẫn đến những hậu quả không mong muốn cho Hạm đội Ý.

Một đoàn công-voa Anh từ Gibraltar ra khơi, trong sự hộ tống của 16 tàu chiến, ít nhất 5 trong số đó có radar trên tàu. Trong eo biển Messina một hải đoàn tàu chiến tiến từ Alexandria ra nhập đội hình với họ, hải đoàn quân sự này gồm 1 thiết giáp hạm, các tuần dương hạm và khu trục hạm, hai tuần dương hạm đến từ biển Aegean, cũng như các chiến hạm "Southampton" và "Gloucester", không tàu nào trong số đó có trang bị radar.

Đoàn công-voa Anh và đoàn chiến hạm hộ tống bị tấn công liên tục bởi lực lượng không quân và hải quân Ý cùng máy bay Đức thuộc X CAT. Điều tồi tệ hơn cả đã xảy đến với các tàu chiến Anh "Southampton" và "Gloucester". Không có radar trên tàu, họ đột nhiên bị hàng chục chiếc máy bay mà họ không thể phát hiện tiếp cận và ném bom. "Southampton" bị hư hỏng nặng đến mức người ta phải đánh đắm, còn "Gloucester" mặc dù bị thương, vẫn đến được Malta.


Bom PC 500 thả từ máy bay ném bom bổ nhào Stukas Ju87 trúng HMS Southampton, tháng 1 năm 1941, chiến dịch "Excess".

Sau những sự kiện trên, nhu cầu về radar đã được coi là hết sức quan trọng như một phương tiện để phát hiện máy bay địch đang đến gần. Ngày càng có nhiều tàu chiến Anh được trang bị radar và hạm đội Ý đã sớm bắt đầu cảm thấy tác động của chúng. Trong thời gian bắn phá Genoa của một đơn vị hải quân Anh, đóng căn cứ tại Gibraltar, diễn ra vào tháng 2 năm 1941, các tàu chiến Anh đã có thể phát hiện các máy bay trinh sát Ý trước khi máy bay phát hiện trực quan được tàu chiến. Vì vậy, các tàu chiến có thời gian để thay đổi hướng cho đến khi tiêm kích cất cánh lên đánh chặn.

Trong trận Cape Matapan, xảy ra vào đêm ngày 28 Tháng Ba năm 1941, người Anh đã có thể nhờ sự trợ giúp của radar mà chặn đánh được một đơn vị hải quân Ý gồm ba tàu tuần dương độ choán nước 10.000 tấn, bốn tàu khu trục ở cự ly lớn hơn tầm tối đa phát hiện trực quan vào ban đêm.

Tối 27 tháng 3, Đô đốc Cunningham, Tư lệnh Hạm đội Địa Trung Hải Anh quốc, được thông báo về cuộc tấn công sắp xảy ra của hạm đội Ý vào đoàn công-voa tàu buôn đang đi về hướng Hy Lạp, và ông ra lệnh cho một đơn vị hải quân, bao gồm một tàu sân bay, ba thiết giáp hạm, bốn tuần dương hạm và chín khu trục hạm đến trợ giúp. Chỉ có ba trong số các tàu trên - tàu sân bay "Formiddable", thiết giáp hạm "Valiant" và tuần dương hạm "Ajax" có radar trên tàu. Đó là loại radar 279 , nhiệm vụ chủ yếu để theo dõi trên khoảng cách lớn các mục tiêu trên không và hướng dẫn tiêm kích đến chặn chúng.

Buổi tối ngày 26 tháng 3, cùng với các điện đài viên người Đức trên tàu, đơn vị hải quân Ý rời cảng. Nhiệm vụ của các điện đài viên là đảm bảo tiếp xúc vô tuyến điện cần thiết với X CAT Đức, vì Bộ chỉ huy quân đội Ý yêu cầu. Cả hải đoàn Anh và Ý đều hướng tới đảo Crete và họ đến đó vào ngày 28 cùng tháng.


Tuần dương hạm hải quân Ý "Zara" trong trận Punta Stilo 1940

Nhiều cuộc cơ động của các hạm đội thực hiện ngày hôm đó, vượt quá phạm vi của cuốn sách này, được giới hạn trong câu chuyện về các thực tế và sự kiện liên quan đến trận chiến ban đêm ngoài khơi Cape Matapan, trong đó radar đóng vai trò chi phối.

Lúc 20:15 ngày 28 tháng 3, radar trên tàu tuần dương Anh "Ajax" - một trong các tàu của hải đoàn, bao gồm các thiết giáp hạm "Warspite", " Valiant" và " Barnham" và tàu sân bay "Formiddable", nhận thấy trên màn hình radar của mình về bên trái hướng tàu có một vật gì ở cự ly khoảng 10 km. Đô đốc Pridham-Vippell, chỉ huy đơn vị tàu tuần dương, chỉ báo cáo về tiếp xúc radar với Tư lệnh của ông và tiếp tục đi theo hướng cũ. Đô đốc Cunningham, đang ở trên tàu "Warspite" quyết định đi bằng cả hải đoàn, và tìm hiểu tiếp xúc radar đó là gì.

Khoảng một giờ sau, "Valiant" thiết lập được tiếp xúc radar với một tàu lạ dường như đang thả trôi ở khoảng cách 10 km. Nó duy trì tiếp xúc radar cho đến khi chưa đến gần tàu lạ ở khoảng cách khoảng 7000 mét và chưa nhìn thấy con tàu trôi. Đồng thời, "Warspite" - tàu kỳ hạm, đi bên trái của "Valiant", đột nhiên nhìn thấy hai tuần dương hạm lớn của kẻ thù, đang thả trôi trên gần như đúng hướng các thiết giáp hạm Anh. Radar "Valiant" ngay lập tức hướng đến những mục tiêu mới và xác định cự ly - 8500 mét. Theo các dữ liệu này, ba thiết giáp hạm chĩa đại bác vào chúng. Các thiết giáp hạm Anh đều đặn tới gần, cho đến khi họ cách các mục tiêu khoảng 2.500 mét. Tại thời điểm này khu trục hạm hạng nhẹ "Greyhound" đang đi hộ tống thiết giáp hạm, chĩa sang hai tàu những chiếc đèn chiếu công suất lớn của nó. Chúng là các tàu "Zara" và "Fiume". Chúng đến trợ giúp tàu "Pola" đang trôi, nó trúng một quả ngư lôi thả từ máy bay-phóng ngư lôi. Các thiết giáp hạm Anh khai hỏa pháo chính. Sau hai hoặc ba phút từ "Zara", "Fiume" và các tàu khu trục "Alfieri" và "Carducci" bay ra các mảnh kim loại nóng cháy. Tuy nhiên, bất chấp cuộc tấn công chớp nhoáng, "Alfieri" bằng cách nào đó đã có thể tiếp cận gần lại đối phương và dưới vỏ bọc của màn khói nó khai hỏa, buộc các thiết giáp hạm Anh rút lui. Trong đêm, 4 tàu Ý bị chìm, còn "Pola" biến mất khỏi tầm nhìn của hải đoàn vào lúc bình minh, nó được tiễn đưa xuống tận đáy biển bằng các trái ngư lôi phóng từ các tàu khu trục Anh "Jervis" và "Nubia".

Đêm đó chết trận có đô đốc Cattaneo - Tư lệnh hạm đội Ý, thuyền trưởng của một số tàu và phần lớn các thủy thủ đoàn.


Bản đồ trận Mũi Matapan tháng 3 năm 1941

Tiếp theo trận Cape Matapan là các sự kiện bi thảm khác, chúng là kết quả sự yếu kém của ngành công nghiệp Ý. Mặc dù mệnh lệnh khẩn trương sản xuất năm mươi radar Gufo cho tàu chiến Hạm đội Hải quân Ý, ngành công nghiệp Ý không nắm được bí quyết sản xuất các linh kiện điện tử quan trọng, chẳng hạn như ống tia điện tử, mà người Mỹ đã cung cấp ở dạng mẫu thử nghiệm. Vì vậy, việc sản xuất các hệ thống radar trên đã bị đình chỉ.

Trong vòng vài tháng, người Anh, mà vào thời gian này đã có được những kinh nghiệm to lớn về xạ kích đêm dưới sự điều khiển của radar, trên thực tế, không mấy khó khăn trong việc tấn công các đoàn công-voa Ý đi đến các cảng Bắc Phi.

Một trong những thảm kịch ban đêm như vậy xảy ra đêm 26 tháng 7 năm 1941, khi các tàu phóng lôi Ý có một nỗ lực táo bạo vượt qua tuyến phòng thủ cảng Valletta ở Malta. Một radar nhỏ , lắp đặt trên hòn đảo này, phát hiện ra các tàu phóng lôi Ý đang tiến tới ở cự ly khoảng 32 km. Các tàu Ý đi thẳng đến trước đại đội pháo bảo vệ bờ biển sẵn sàng chiến đấu, đang chĩa nòng đại bác chính xác vào chúng và khai hỏa.

Trong khi Hải quân Ý chờ đợi việc sản xuất radar Gufo, nước Đức cho họ mượn RWR Metox, đã được chứng minh là rất có giá trị ở Đại Tây Dương. Người ta lắp chúng trên các tàu chiến lớn của Ý, trên các tàu khu trục hộ tống đoàn công-voa và các tàu ngầm. Ngoài ra, trên các tàu vận tải khác nhau cũng trang bị các radar khác, chẳng hạn như radar De Te mẫu Fu.Mo.24/40G, có tầm phát hiện khoảng 20-25 km. Máy thu Metox ngay lập tức chứng tỏ giá trị của nó. Nhờ khả năng phát hiện bức xạ điện từ của radar kẻ thù, người Ý có được khả năng kịp thời làm công tác chuẩn bị cần thiết để đẩy lùi các cuộc tấn công bất ngờ.
........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Nếu như người Ý kích thích sự phát triển của hệ thống TCĐT, khi đó các chiến dịch ở Địa Trung Hải, không nghi ngờ gì nữa, sẽ có kết quả hoàn toàn khác. Việc lắp đặt trên quy mô lớn RWR, như đã đề cập trong các chương trước, có tầm phát hiện lớn hơn so với radar thông thường, sẽ cho phép họ phát hiện kẻ thù trước khi người Anh tìm ra họ và sau đó chế áp radar của họ. Việc bị tiêu diệt hoàn toàn trong biển Aegean, ngoài khơi Cape Matapan, hy sinh 2.300 thủy thủ, chính là cái giá mà người Ý phải trả cho việc thiếu các thiết bị chiến tranh điện tử cho phép họ tránh trận chiến chết người này.

Khi những radar Gufo đầu tiên rốt cuộc cũng được lắp đặt trên các tàu chiến Ý, chuyện đã quá muộn; Ý đã thua trong chiến tranh. Bài học rút ra từ những sự kiện này cho thấy hệ thống mẫu radar thử nghiệm và các trang thiết bị tác chiến điện tử khác vẫn sẽ như vậy, nếu các nghiên cứu không được hỗ trợ bằng sự phát triển cần thiết của ngành công nghiệp điện tử làm chủ được các công nghệ mới nhất và khả năng sản xuất hàng loạt các linh kiện thành tố. (Ngày hôm nay, dĩ nhiên, ngành công nghiệp Ý đã là một trong những ngành tiên tiến nhất trên thế giới trong lĩnh vực tác chiến điện tử.)


HMS Illustrious dưới cuộc tấn công của Ju 87 tại Cảng Lớn, Malta. Tàu sân bay nắm bên phải chiếc cần cẩu lớn.

Trong các chiến dịch đường không ở Địa Trung Hải, radar và tác chiến điện tử đóng vai trò khá khiêm tốn trong những năm đầu chiến tranh. Không quân Ý (Regia Aeronautica) khác với Luftwaffe trong Trận chiến Anh quốc, không cảm thấy bất kỳ nhu cầu cấp thiết nào về các thiết bị dẫn đường vô tuyến để hướng dẫn cho các máy bay ném bom của họ. Ngoài ra, đảo Man-ta, trên đó vỏn vẹn chỉ có một số máy bay lỗi thời của Anh, không được họ coi là mục tiêu ưu tiên.

Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi vào năm 1942, khi đảo Malta trở thành trở ngại cho vận tải đường biển của phe Trục, vốn phải đảm bảo cung cấp hàng đến các cảng Bắc Phi. Thiếu radar và thiết bị điện tử là sự việc có tác động lớn đến thành công của các vụ ném bom hòn đảo này của các quốc gia phe Trục.

Việc loại bỏ các radar cảnh báo sớm của Anh trên đảo Malta được coi là ưu tiên cao nhất của Bộ Tư lệnh tối cao Ý, đặc biệt là dưới dạng một cuộc xâm nhập được lập kế hoạch lên hòn đảo. Thiết bị được thiết kế và phát triển bởi Viện nghiên cứu công nghệ vô tuyến điện Không lực Ý tại Guidoni, gần Rome, với sự phối hợp của Lục quân và Hải quân, dưới sự lãnh đạo của Giáo sư Latmirala, là rất độc đáo, rất mới và là sự hợp nhất cùng nhau của máy thu và máy phát nhiễu. Nó được xây dựng, theo một sơ đồ siêu phản ứng được phổ biến rộng rãi thời đó, mà bây giờ không còn được sử dụng nữa do những khó khăn của việc điều khiển nó chính xác và xu hướng gây nhiễu rất mạnh cho binh sĩ quân mình ở bên cạnh thiết bị. Chính khả năng tiêu cực đó của sơ đồ đã được giáo sư Latmirala sử dụng để tạo ra tiếng ồn ở tần số hoạt động của radar đối phương, nhưng với tần số lặp lại xung khác nhau để chế áp máy thu. Những thiết bị gây nhiễu đầu tiên làm việc tại tần số 170-220 MHz và bức xạ công suất từ 10-20 watt.

Máy thu-phát nhiễu của giáo sư Latmirala được sử dụng trong các chiến dịch quân sự trong một giai đoạn ngắn, vì ngày 08 tháng 9 năm 1943 Ý đã ký thỏa thuận ngừng bắn. Do đó, nó ít có tác động đến kết quả của cuộc chiến tranh ở Địa Trung Hải, nơi máy bay Ý phải hoạt động mà không có radar và thiết bị bảo vệ họ khỏi radar Anh. Để giúp đồng minh Ý của mình, người Đức phái đến Bắc Phi quân đội và xe tăng của họ. Đồng thời, họ bắt đầu đặt radar của họ lên chính lãnh thổ nước Ý, cũng như các hải đảo của nó, nhưng giữ bí mật với bản thân người Ý; số lượng các hệ thống radar được lắp đặt ở Ý, chủ yếu là mẫu Freya và Wurzburg, đã dần dần tăng lên.

Khi thảo luận về vấn đề cuộc xâm nhập của Đồng minh lên Sicily, đã quyết định rằng đầu tiên cần biết nhiều hơn về các radar Đức được bố trí ở phía nam Ý. Để thực hiện nhiệm vụ trinh sát điện tử đã sử dụng máy bay ném bom Wellington của Không quân Hoàng gia, được trang bị máy thu RWR. Bay ở độ cao thấp, họ cố gắng để thu một tín hiệu radar mạnh, và khi họ bắt được một trong số tín hiệu đó, họ bay về phía nguồn phát của nó, để tìm hiểu xem cường độ của tín hiệu có tăng lên không. Như thế, họ đã có khả năng xác định các tọa độ hoặc ít nhất là hướng của radar. Các chuyến bay như vậy rất nguy hiểm, vì thường xuyên máy bay ném bom Wellington phải bay rất gần với radar và chịu một mối nguy hiểm chết người là bị bắn hạ bởi lưới lửa của các khẩu đội pháo PK. Tuy nhiên, các máy bay ném bom Wellington đã phát hiện được gần như tất cả các trạm radar của Đức ở Sicily và miền Nam nước Ý, thậm chí bất chấp thực tế là trên máy bay không có máy vô tuyến tầm phương.


Bom không đối hạm có điều khiển của Đức Quốc xã - Fritz X (Air-to-Ship Wireless Guided Gliding Bomb)

Vào cuối năm 1942, để thay thế các máy bay ném bom chậm chạp và lỗi thời Wellington, các máy bay hiện đại hơn và được trang bị tốt hơn đã được triển khai đến từ Mỹ. Đó là máy bay ném bom bốn động cơ B-24 Liberator. Trong thành phần phi hành đoàn của nó có các chuyên gia dân sự về trinh sát điện tử để bảo dường thiết bị thu nhận trên máy bay. Để tránh bị phát hiện từ mặt đất trong thời gian các chuyến bay đêm, các máy bay được sơn màu đen, còn các ống xả của động cơ được che bằng các bầu dập lửa. Tại phần đuôi của chúng có gắn ăng-ten RWR, được điều chỉnh trước theo tần số radar máy bay tiêm kích đánh đêm của Đức. Khi phát hiện bức xạ radar máy bay tiêm kích Đức, trên bảng điều khiển của máy bay, đèn cảnh báo màu đỏ sẽ cháy sáng. Để xác định hướng đến của các tín hiệu trạm mặt đất, trên mỗi đầu cánh phi cơ B -24 người ta lắp hai ăng-ten của máy thu radar; chúng được điều chỉnh theo tần số của radar Freya và Wurzburg. Khi chặn tín hiệu radar, trắc thủ vận hành có thể nghe thấy trong tai nghe tần số lặp của xung radar đối phương. Sau đó, anh ta ra lệnh cho phi công cơ động B-24 cho đến khi nào âm lượng các xung từ hai máy thu còn chưa như nhau. Điều này có nghĩa là bây giờ B-24 sẽ bay thẳng tới radar và bằng cách đó các trắc thủ vận hành có thể xác định với độ chính xác vừa đủ phương vị của nó. Tuy nhiên, phương pháp này không phải là không có nhược điểm. Nó không cho độ chính xác đủ để định vị radar, cũng có nghĩa là máy bay phải bay quá gần với radar với việc tiếp theo là phạm vào khu vực diệt mục tiêu của các khẩu đội pháo cao xạ của hệ thống phòng không.

Những vấn đề trên đã được giải quyết sau khi lắp đặt trên máy bay ném bom B- 24 những bộ tầm phương vô tuyến đầu tiên. Các thiết bị này có thể xác định hướng tới của bức xạ điện từ của radar. Sau việc đó, B -24 không còn cần phải bay vào hướng các trạm radar của Đức để lấy phương vị của chúng; chỉ cần bay song song với bờ biển, và qua những khoảng thời gian xác định đều đặn lấy phương vị radar. Tiếp sau đó, vị trí của radar được xác định bằng phương pháp tam giác.

Với sự trợ giúp của phương pháp này, quân Đồng minh đã có thể xác định không chỉ tọa độ của tất cả các trạm radar của Đức tại Ý, mà còn cả các trạm thiết lập dọc bờ biển phía nam nước Pháp. Tầm quan trọng của phát hiện này được đánh giá cao trong cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Sicily - vào Salerno và Provence. Trước mỗi chiến dịch họ ném bom hệ thống radar ven biển, mà nếu không sẽ cảnh báo người Đức về việc họ đang đến gần.

Tuy nhiên, vào tháng Chín năm 1943, mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa, các nước Đồng minh phải đối mặt với một thách thức mới không lường trước trong lĩnh vực EW. Người Đức đã phát minh ra một vũ khí chống hạm mới khủng khiếp - bom công phá cao có động cơ tên lửa, dẫn đường bằng cô tuyến đến mục tiêu từ máy bay-vật mang. Bom được gọi là Henschel Hs293, được dẫn với trợ giúp của hệ thống điều khiển vô tuyến bốn tần số từ trên máy bay ném bom Junkers Ju88 và Heinkel He177; khi gửi tín hiệu vô tuyến điều khiển các bánh lái lệch gắn trên thân bom, trắc thủ vận hành trên máy bay có thể điều khiển đường bay của nó.


Tháp pháo số 2 của thiết giáp hạm hải quân Ý Roma, pháo cỡ 15-inch (381-mm), nổ tung ngày 9 tháng 9 năm 1943, sau khi trúng bom lượn điều khiển bằng vô tuyến Fritz-X.

Bằng chứng về độ chính xác và sức mạnh hủy diệt rất lớn của quả bom mới mang tính cách mạng là một sự kiện đã diễn ra ở Địa Trung Hải. Ngày 09 tháng 9 năm 1943, một ngày sau khi giữa Ý và các nước Đồng minh ký kết thỏa thuận ngừng bắn, hạm đội hải quân Ý bao gồm ba thiết giáp hạm có độ choán nước 35.000 tấn mỗi tàu: "Roma", "Vittorio Veneto" và "Italia", sáu tàu tuần dương và hai nhóm tàu khu trục, phóng hết tốc lực về cảng La Maddalena ở Sardinia. Ngay sau khi nhìn thấy đảo Asinara, các tàu đổi hướng 45 độ vào cảng ở cửa sông La Maddalena. Nhưng khi họ vừa mới vượt qua eo biển Bonifacio, từ Supermarine - Bộ Chỉ huy tối cao Hải quân ở Rome, nhận được điện vô tuyến, thông báo cảng La Maddalena đã bị người Đức chiếm đóng. Do đó, họ được lệnh đổi hướng và đi về cảng Beaune của Tunisia.

Trong khi các tàu Ý quay hướng và một lần nữa ra khơi, người Đức, không nghi ngờ gì nữa, đã chặn và giải mã thông điệp của người Ý, họ ngay lập tức cho máy bay của họ cất cánh lên không trung để ném bom tàu chiến Ý. Trên tất cả các tàu chiến người ta nhận ra rằng máy bay ném bom Junkers đã thả những quả bom với động cơ tên lửa được điều khiển bằng radio, vì điều này được thực hiện ở tốc độ cao hơn so với bom thông thường và chúng rơi thẳng vào mục tiêu. Hai quả bom trúng chiếc thiết giáp hạm "Roma" - kỳ hạm của hạm đội, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nó đến mức con tàu vỡ làm đôi và chìm với gần như toàn bộ thủy thủ đoàn.

Một vài ngày sau đó, ngày 14 (11?) tháng 9 năm 1943, trong cuộc đổ bộ của Đồng Minh tại Salerno, bom mới tái áp dụng đã tàn phá thiết giáp hạm Anh "Warspite" và tàu tuần dương Mỹ "Savannah". Các thủy thủ đoàn của cả hai tàu báo cáo rằng các quả bom thả từ máy bay ném bom Đức, xét theo hành vi của chúng, được điều khiển bằng sóng radio.


USS Savannah (CL-42) trúng một bom Đức điều khiển bằng sóng vô tuyến khi yểm trợ Liên quân ngoài bờ trong chiến dịch Salerno, 11 tháng 9 năm 1943. Bom trúng nóc tháp pháo số 3 cỡ 6"/47 và chui sâu vào thân tàu rồi mới nổ. Ảnh cho thấy vụ nổ tuôn khói ra qua nóc tháp pháo cũng như qua thân tàu phía dưới đường mớn nước. Trên nền trước là một thuyền máy phóng lôi đang chạy ngang qua. Ảnh của Naval Historical Center.

Bộ Tư lệnh tối cao Hải quân Anh và Mỹ cực kỳ lo lắng về độ chính xác của bom mới, họ ngay lập tức triệu tập các chuyên gia kỹ thuật từ các quốc gia của họ lại để cố gắng tìm cách đối phó với mối đe dọa mới.

Ý tưởng đầu tiên đến với họ là trên các tàu của Đồng minh hoạt động ở Địa Trung Hải sẽ lắp các máy thu đặc biệt; chúng sẽ thu, ghi và phân tích các tín hiệu sóng điện từ phát ra từ máy bay đang ném bom và tiếp theo đó là lái bom. Điều đó sẽ phải làm vào thời điểm tàu đang bị tấn công, và các quả bom đang được lái thẳng vào họ - đây không phải là chuyện đùa !

Sau một thời gian, quân Đồng minh may mắn chiếm được một trong những trái bom Hs-293, thả rơi vào vùng nước ven biển Libya mà không phát nổ. Nghiên cứu kỹ lưỡng trái bom và phân tích các bức xạ chặn được cho thấy hai trong số bốn tần số dẫn đường tên lửa là cao hơn dải tần số có thể nghe được và cao hơn tần số có thể ghi lại được bằng thiết bị khi đó đang sử dụng. Trong khi các máy thu-ghi mới có khả năng phát hiện các tần số cao như vậy được vội vã chế tạo, hiểu biết về nhiệm vụ của hai tần số khác đã đủ để thiết bị điện tử gây nhiễu ngẫu nhiên "làm mù" hệ thống này của đối phương. Các mẫu đầu tiên của thiết bị đã được lắp đặt trên các tàu khu trục Mỹ "Davis" và "Jones" và đã gây nhiễu thành công cho các hệ thống dẫn đường vô tuyến của bom Đức.

Sau đó, các chuyên gia phát hiện ra rằng hai tần số không nghe được chỉ đơn giản là các tần số siêu âm và bốn tần số chỉ đơn giản là các lệnh cơ động "lên cao”, "xuống thấp", "sang phải" và "sang trái". Sau phát hiện này, các nước Đồng minh đã có thể can thiệp vào việc điều khiển, thông qua việc truyền các lệnh giả, đánh lệch quả bom nguy hiểm chết người ra khỏi hướng bay của nó. Một khi quân Đồng minh đã tạo ra được máy gây nhiễu có khả năng làm việc này, không tàu nào trong số các tàu của họ còn bị trúng các trái bom điều khiển bằng radio, và loại bom trên cũng không được đối phương sử dụng nữa, sụ hữu dụng của nó cũng trôi qua rất nhanh !

HẾT CHƯƠNG 10​
...........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 11. Không gian chiến trường Thái Bình Dương


Một chiếc PB4Y-2 "Privateer" thuộc phi đoàn VPB-119, Hải quân Hoa Kỳ, đang bay phi vụ đối phó radar gần đảo Luzon, Philippine trong Thế chiến 2.

Đối kháng điện tử trên không gian chiến trường Thái Bình Dương đóng một vai trò ít quan trọng hơn và có phần khác xét theo tính chất so với ứng dụng của nó trên các không gian chiến trường Bắc-Tây Âu và Địa Trung Hải. Điều này có thể lý giải bởi trình độ còn thấp của công nghệ Nhật Bản và hoàn cảnh địa lý của khu vực.

Các radar Nhật chắc chắn ít hoàn hảo hơn nếu xét về các đặc tính và kém hơn nhiều về số lượng so với Đức và Đồng Minh, và chưa bao giờ là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với quân đội Mỹ. Tuy nhiên, sự rộng lớn của Thái Bình Dương đòi hỏi cần có một số lượng lớn các thiết bị phù hợp để thực hiện các hoạt động do thám điện tử, do đó nó giải thích số lượng và kiểu loại radar được người Nhật lắp đặt. Đó là một nhiệm vụ khó khăn, vì hầu hết các radar của họ ở rất xa các căn cứ Mỹ.

Trường hợp đầu tiên người Mỹ tiến hành hoạt động do thám điện tử xảy ra ở Thái Bình Dương tháng 3 năm 1943, tại quần đảo Aleutian - chuỗi đảo đá trải dài từ Alaska đến vùng biển Nhật Bản, một số trong đó nằm trong tay người Nhật. Kể từ khi xảy ra thảm họa tại Trân Châu Cảng ngày 07 Tháng 12 năm 1941, người Mỹ đã tiến hành trinh sát không ảnh thường xuyên trên các đảo do Nhật Bản chiếm đóng, để ngăn chặn các cuộc tấn công bất ngờ. Tại một trong các chuyến bay như vậy họ đã chụp ảnh đảo Kiska, trên đó có ghi được hai công trình mới được người Nhật xây dựng, trông giống như những tấm bảng thông báo lớn trên đỉnh ngọn núi cao nhất. Kiểm tra kỹ tấm ảnh này các chuyên gia EW cho rằng, trên thực tế, đó là các ăng-ten radar giám sát tầm xa không phận.

Trong các chuyến bay tiếp theo thực hiện nhiệm vụ trinh sát điện tử, trong đó sử dụng các máy thu đặc biệt, dữ liệu thu thập được về tần số, độ rộng xung, và các tham số khác là cơ sở để người ta có thể xác định không chỉ kiểu loại radar, mà còn là khu vực nó giám sát, và đồ thị hướng của ăng-ten.

Khi người Mỹ bắt đầu ném bom đảo, thông tin này là cực kỳ quan trọng, bởi vì việc phân tích cho thấy radar có một vùng "mù" tại nơi chùm tia quét của nó "bị che bóng" bởi một trong những đỉnh núi. Do đó, các phi công Mỹ có thể bay tiếp cận đảo mà không sợ bị phát hiện bởi radar đang bố trí ở đây.

Trường đoạn này mở ra một chương quan trọng trong lịch sử tác chiến điện tử. Nó chứng minh giá trị của nhiệm vụ phân vùng đối với ứng dụng quân sự. Những chiếc máy bay đã được sử dụng để thực hiện nhiệm vụ trên được gọi là máy bay-"con chồn" (ferret), vì chúng tương tự con thú này, rất ráo riết săn tìm chiến lợi phẩm, mà trong trường hợp này là radar.

Tuy nhiên, loại nhiệm vụ này không giới hạn ở việc chỉ sử dụng máy bay. Nhiều tàu chiến được trang bị các công cụ thích hợp đã đến thực hiện nhiệm vụ tại Thái Bình Dương. Khoảng cách từ đó các tàu có thể thu nhận được bức xạ của kẻ thù là nhỏ hơn so với máy bay, vốn có lợi thế cao hơn nhiều. Mặt khác, các tàu biển có thể ở dài ngày trong khu vực quan sát để các chuyên gia trên tàu có nhiều thời gian hơn thu nhận, ghi lại và phân tích các bức xạ radar.


Ảnh một nhân viên kỹ thuật vô tuyến hàng không Mỹ trên máy bay trinh sát diện tử "Privateer" trong Thế chiến 2.

Ngoài ra, để giải quyết các vấn đề như vậy, Hải quân Mỹ được trang bị các máy thu và máy tầm phương vô tuyến, cùng một số lượng lớn các máy bay hạng nặng. Được trang bị tốt nhất để thực hiện nhiệm vụ "trinh sát điện tử" như vậy là máy bay bốn động cơ Consolidated-Vultee PB4Y2 Privateer - phiên bản hải quân của máy bay ném bom nổi tiếng B-24 Liberator . Thành phần phi hành đoàn của mỗi chiếc Privateer, ngoài các thành viên chính thức của phi hành đoàn, còn có một tá các khai thác viên và có thể là một trung tâm đánh chặn bức xạ radar thực sự. Chiếc máy bay này có thể dễ dàng nhận ra theo đường bao đặc trưng thân máy bay có các bầu che rải rác làm từ một loại vật liệu tổng hợp đặc biệt che phủ một số lượng lớn các ăng-ten thu các tín hiệu radar của đối phương. Vì vẻ bề ngoài xấu xí của nó, mỗi máy bay được gọi theo tên của các loài động vật kỳ lạ nhất và khủng khiếp nhất.

Máy bay Privateer, trong cuộc chiến tranh ở Thái Bình Dương, đã đóng một vai trò vô giá. Ta sẽ phải kể riêng về hai trong số chúng. Chúng tuần tra toàn bộ phần phía nam của Thái Bình Dương, từ Úc đến đảo Borneo, "đánh hơi" các vị trí radar cho vụ ném bom hủy diệt tiếp theo, và hỗ trợ các chiến dịch của LLHQ chống giao thương hàng hải của Nhật Bản.

Các tàu ngầm cũng được trang bị để thực hành kiểu nhiệm vụ như thế. Chúng là vật mang lý tưởng trang thiết bị do thám, còn khả năng thả trôi một thời gian dài của chúng, chỉ thò lên khỏ mặt nước phần tháp lái, cho phép nghe và ghi bức xạ radar và phương tiện thông tin liên lạc của kẻ thù. Sau đó, kết quả chặn thu được dùng chuẩn bị cho biện pháp đối kháng điện tử tương ứng, và thường là cho phép tránh được các cuộc tấn công bất ngờ của kẻ thù.

Một trong những trường hợp "phát hiện sớm" như thế xảy ra, khi một tàu ngầm Mỹ bị thương nặng trong chiến đấu được hai tàu ngầm khác hộ tống trở về căn cứ của họ. Trong thời điểm đó khi hải đội nhỏ đang đi trong sương mù, một trong những tàu ngầm hộ tống chặn được bức xạ radar của một máy bay Nhật bay gần đó. Rủi ro tạo nên bởi tình thế đặt người Mỹ phải đối mặt với một tình thế rất khó xử lý : lặn xuống hay ở trên mặt nước. Nếu họ lặn, họ sẽ mất chiếc tàu ngầm bị thương, nếu ở lại trên mặt nước, cả ba có thể bị đánh chìm.

Thuyền trưởng tàu ngầm có trang bị phương tiện EW quyết định sử dụng các máy thu trên tàu lắng nghe tất cả các dải tần số hoạt động của radar trên máy bay Mỹ, với hy vọng tìm thấy ít nhất một trong những máy bay Mỹ đang bay gần đó. Tìm kiếm đã thành công , và các điện đài viên của tàu ngầm đã thông báo được cho viên phi công Mỹ về chiếc máy bay Nhật Bản. Thông tin này cho phép anh ta tìm và tấn công kẻ thù. Đồng thời cả hai máy bay đã bay tới chỗ chiếc tàu ngầm không may mắn, phi công Nhật Bản nhận thấy rằng ai đó đang theo dõi anh ta, anh ta vội thả bom trước thời hạn mà không trúng mục tiêu. Sau đó viên phi công Mỹ đã bắn hạ được chiếc máy bay Nhật Bản ngay trước măt các phi hành doàn tàu ngầm đang sửng sốt !

Ăng-ten một loại radar kiểm soát không trung trên tàu chiến hải quân Nhật thời Thế chiến 2.

Khi cuộc chiến ở Thái Bình Dương đạt đến điểm ngoặt có lợi cho người Mỹ, và họ đã có thể bắt đầu các cuộc không kích chiến lược, chiến thuật và đổ bộ từ biển lên các lãnh thổ bị Nhật Bản chiếm đóng, EW bắt đầu được áp dụng tích cực, nhưng khá đa dạng trong các chiến dịch khác nhau. Ví dụ, trong các cuộc không kích xuống các đảo được người Nhật cố thủ kiên cường, các máy bay ném bom Mỹ thường được trang bị các hệ thống điện tử để vô hiệu hóa các radar Nhật Bản - các máy phát nhiễu hoặc PRLO, giống như họ thực hiện trong các vụ ném bom nước Đức.

Sau này, mỗi trung đoàn không quân Mỹ được bổ sung các máy bay ném bom trang bị lại, chúng mang thêm nhiên liệu và thay vì bom mang thiết bị gây nhiễu. Vì ăng-ten được gắn tại thân trên máy bay, các máy bay đó có biệt danh là "con nhím" ("porcupine"). Khi bay đến mục tiêu, trong làn sóng thứ nhất của các máy bay ném bom, chúng gây nhiễu hoặc vô hiệu hóa radar dẫn bắn của pháo PK Nhật Bản và ở lại trong khu vực này cho đến khi cho đến khi nào chiếc máy bay ném bom cuối cùng chưa thả xong bom của nó.

Trước tiên, việc chế áp radar Nhật Bản có một số khó khăn kỹ thuật do không biết các đặc tính khí tài của họ. Ngược lại với các hệ thống radar Đức, các hệ thống Nhật Bản làm việc ở tần số thấp đến mức gần như không thể bị đánh lạc hướng nhờ sử dụng PRLO, vốn được sử dụng một cách hiệu quả ở châu Âu. Lý do cho điều này nằm ở chỗ các dải lá kim loại không phù hợp với khoảng nửa bước sóng của radar bị chế áp và do đó không mang lại hiệu quả mong muốn. Để giải quyết vấn đề, người ta đã chế tạo các dải nhiễu mới. Chúng làm bằng nhôm, có chiều dài lớn hơn nhiều (30 m x 3 cm) và vì hình dạng nên chúng được gọi là "dây thừng". Sử dụng phương tiện đối kháng điện tử cải tiến này đã làm giảm đáng kể tổn thất của người Mỹ trong thời gian các cuộc không kích vào các căn cứ không quân khác nhau của Nhật Bản trên các đảo chiếm đóng, được bảo vệ bởi các khẩu đội pháo PK, có radar điều khiển xạ kích.

Khi Nhật Bản có trong tay họ một số dải nhiễu mới do máy bay Mỹ thả xuống, họ ngay lập tức có những bước để lắp đặt trong các căn cứ không quân của họ các loại radar làm việc ở những bước sóng thậm chí dài hơn. Ngoài ra, bên cạnh các khẩu đội PPK họ còn thiết lập một số lượng lớn các radar kiểm soát các cụm đèn chiếu PK công suất lớn do radar kiểm soát. Các máy bay ném bom của Mỹ, mới gần đây bắt đầu tấn công các căn cứ không quân chỉ vào ban đêm để gây khó khăn cho hoạt động của phòng không Nhật Bản, bây giờ tự nhiên thấy mình ở trong một mạng nhện các chìm đèn chiếu mà liên tục rội sáng họ, bất chấp mọi nỗ lực chế áp radar kiểm soát các cụm đèn. Khi trên màn hình radar của Nhật Bản vừa mới xuất hiện các chấm nhiễu, các trắc thủ vận hành tự động chuyển sang điều khiển đèn chiếu từ radar làm việc trên một tần số khác, nhằm đảm bảo rằng việc xạ kích sẽ được tiến hành tập trung vào các mục tiêu máy bay ném bom đang được chiếu sáng. Sử dụng hệ thống này, người Nhật đã thành công khi gây những thiệt hại đáng kể cho không lực Lục quân Mỹ (United States Army Air Forces - USAAF or AAF) trên Thái Bình Dương : Hơn 80 phần trăm máy bay ném bom B-29 Superfortress bị bắn rơi bởi hỏa lực phòng không Nhật Bản, và điều này có thể liệt kê vào thành công của hệ thống "radar-đèn chiếu PK-pháo cao xạ PK" ("Radar - Searchlight - AA Artillery").

Tuy nhiên, REP chỉ ảnh hưởng ở một mức độ đến kết quả các sự kiện ở Thái Bình Dương. Chung cuộc, việc giảm tổn thất máy bay Mỹ nên được quy cho việc sử dụng một số lượng lớn các thiết bị làm nhiễu, được trang bị trên máy bay của họ (một số chiếc B-29 mang đến mười sáu máy phát nhiễu như vậy), cũng như việc sử dụng đồng thời các "dây thừng" được thả tự động có độ dài khác nhau. Ngoài ra, REB (EW) đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tấn công các đoàn công-voa tàu biển và trong các chiến dịch đổ bộ.


Kíp bay PBY đã phát hiện hạm đội Nhật trong trận Midway

Như chúng ta đã thấy, một trong những vấn đề lớn nhất Nhật Bản phải đối mặt, là việc duy trì tuyến đường biển mở giữa Nhật Bản với tất cả các đảo bị chiếm đóng, bây giờ đã trở thành lãnh thổ của họ. Ngày 7 Tháng Mười Hai năm 1941, khi Nhật Bản tham chiến, họ có một hạm đội tàu buôn tổng lượng rẽ nước khoảng sáu triệu tấn, nhưng đến giữa năm 1943, nó mất đi hai triệu tấn, mà không thể lấp đầy bởi năng lực hạn chế của các nhà máy đóng tàu của nó. Và do các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng được mở rộng, ngày càng trở nên rõ ràng rằng đội tàu buôn của họ không có khả năng đáp ứng nhu cầu cung ứng ngày càng tăng cho các đảo ngoại biên.

Biết được điều này, người Mỹ đương nhiên đã bắt đầu sử dụng một cách có hệ thống việc đánh chìm càng nhiều tàu buôn càng tốt với sự trợ giúp của các tàu ngầm. Cố gắng tránh điều này, các tàu buôn Nhật Bản được trang bị radar của họ, đảm bảo phát hiện sớm sự hiện diện của tàu ngầm đối phương. Nhưng người Mỹ đối phó bằng cách trang bị cho tàu ngầm các bộ RWR, để có thể phát hiện ra kẻ thù trước khi người Nhật Bản phát hiện ra họ. Kết quả tỷ lệ nghịch với mong đợi của Nhật Bản, tàu ngầm Mỹ giờ đây khi đánh chặn được bức xạ radar tàu buôn địch, đã có cơ hội phát hiện và đánh chìm nó.

Đương nhiên, các bộ RWR của tàu ngầm có hiệu quả như nhau khi chống lại tàu chiến và đặc biệt là tàu ngầm Nhật. Trong trận chiến nổi tiếng vịnh Leyte, một tàu ngầm Mỹ đã có thể phát hiện bằng phương tiện EW ba tàu ngầm Nhật Bản và đánh chìm chúng.
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Hai trường đoạn khác có những hậu quả quan trọng lên tiến trình cuộc chiến ở Thái Bình Dương. Một trong số đó là trận Midway, bước ngoặt trong cuộc chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Cuộc tấn công Trân Châu Cảng của Nhật Bản, mà kết quả bi thảm của nó có thể nói trên mức độ lớn là do những thiếu sót nghiêm trọng trong việc tổ chức khí tài trang thiết bị điện tử của Mỹ, đặt Hải quân Hoa Kỳ vào thế phải quỳ gối. Vì vậy, trước trận chiến đường không lớn gần đảo san hô vòng Midway, Đô đốc Nimitz, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hải quân Mỹ (CINCPAC), chỉ có ba tàu sân bay và hoàn toàn không có thiết giáp hạm. Mặt khác, Đô đốc Yamamoto, Tư lệnh Hải quân Nhật Bản có năm tàu sân bay và 11 thiết giáp hạm. Tuy nhiên Nimitz vẫn có cái mà Yamamoto không có, và điều đó dường như đã đóng một vai trò cực kỳ quan trọng.


Trận Midway: Tàu sân bay Nhật Hiryu bốc cháy trước khi chìm, ảnh chụp bởi một máy bay từ tàu sân bay Hosho Nhật ngay sau bình minh ngày 5 tháng 6 năm 1942. Hiryu chìm vài tiếng sau. Ảnh cho thấy sàn cất hạ cánh phía trên hangar trước đã bị máy bay Mỹ đánh sập.

Kết quả trực tiếp của thảm kịch tại Trân Châu Cảng là tổ chức mạng lưới giám sát điện tử của người Mỹ là vô tiền khoáng hậu trên thế giới. Tất cả các bức xạ vô tuyến của kẻ thù, mang nội dung (các phiên truyền tin vô tuyến) và không mang nội dung (bức xạ radar) ngày và đêm đều được máy bay, tàu chiến và các trạm mặt đất thu thập. Toàn bộ các tín hiệu chặn thu, đều được gửi đến một bunker trên đảo Oahu, tại đó chúng được các chuyên gia điện tử và chuyên gia giải mã phân tích.

Việc giải mã hệ thống mã mật của Nhật Bản và phát hiện sự thay đổi định kỳ của tất cả các bộ mã của kẻ thù đã trở thành một trong một trong nhiều thành tựu lớn của trung tâm EW này.

Ngày 20 Tháng Năm năm 1942, một vài tuần trước trận Midway, Yamamoto truyền đến các chỉ huy các hạm đội hải quân của mình 1 bức điện được mã hóa, trong đó thông báo cho họ về các kế hoạch của mình đối với các chiến dịch hải quân tiếp theo - Kế hoạch "MO". Theo một hoàn cảnh trùng hợp ngẫu nhiên, cũng thường hay xảy ra, nhưng đóng một vai trò quan trọng, do nhầm lẫn thông báo được truyền đi theo bộ mã cũ, đã bị người Mỹ bẻ khóa, mà không phải là theo bộ mã mới, sẽ khó giải mã hơn nhiều.


USS Yorktown (CV-5) trúng ngư lôi Type 91 thả từ máy bay Nhật trong trận Midway, ngày 4 tháng 6 năm 1942.

Sau một tuần làm việc, các chuyên viên giải mã người Mỹ của trung tâm Oahu đã có thể hiểu được nội dung bức điện siêu mật của Nhật. Đô đốc Nimitz kịp thời được báo cáo về ý đồ của Yamamoto quyết định tấn công "A.F", có thể là vào ngày 03 tháng 6, và mong muốn của ông ta đánh lạc hướng sự chú ý khỏi nơi sẽ ra đòn tấn công chủ yếu bằng cách tổ chức cuộc tấn công vào quần đảo Aleutian. Vấn đề bây giờ là tìm hiểu địa điểm được chỉ ra bởi các chữ cái "A.F" ! Làm thế nào thực hiện được nó - đây là một kiệt tác của ngành do thám điện tử Mỹ.

Phân tích kỹ lưỡng các buổi phát sóng của Nhật Bản, người Mỹ đi đến kết luận rằng nơi ra đòn tấn công phải là Midway Atoll. Để xác nhận luận lý này người ta đã phát minh ra một sơ đồ độc đáo. Quân đội Mỹ từ đảo san hô vòng Midway chuyển tới bộ tham mưu của họ một bức điện dễ giải mã, trong đó báo cáo rằng thiết bị khử mặn lấy nước ngọt của họ bị hỏng. Nhật Bản cắn câu, và Đô đốc Yamamoto sau vài ngày đã truyền đi một thông báo nói rằng "AF" thiếu nước sạch do thiết bị khử mặn bị hư hỏng!

Đô đốc Nimitz giờ đã biết phải đi đâu và chờ đợi kẻ thù ở đâu. Ông ta ra lệnh chuẩn bị ngay lập tức cả ba tàu sân bay của mình : "Hornet", "Yorktown" và "Enterprise" và ấn định hướng đến - Midway. Theo mức độ hai hạm đội tiếp cận đảo san hô, máy bay trên tàu sân bay Mỹ thực hiện một loạt các cuộc tấn công hủy diệt, đánh chìm tất cả các tàu sân bay Nhật Bản từng chiếc một và buộc người Nhật hủy bỏ cuộc đổ bộ. Chiến thắng này của Mỹ có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến kết quả cuộc chiến tranh.

Một trường đoạn khác có ảnh hưởng đến quá trình chiến tranh, diễn ra nhờ công tác tổ chức xuất sắc của ngành tác chiến điện tử Mỹ và nằm ở chỗ bây giờ chính Đô đốc Yamamoto trở thành mục tiêu trực tiếp.

Vào tháng Tư năm 1943, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp Hải quân Nhật Bản quyết định đến thăm các căn cứ phía tiền phương của họ và kiểm tra tiến trình chiến dịch hoạt tại Guadalcanal cũng như các công trình phòng thủ. Ngày 13 tháng 4, tư lệnh hạm đội 8 Hải quân Nhật Bản truyền cho các bộ tư lệnh khác, liên quan đến tuyến hành trình theo kế hoạch của đô đốc một bức điện. Điện nói rằng đô đốc Yamamoto sẽ bay từ Rabula đi lúc 06:00 ngày 18 tháng 4 trên một máy bay ném bom hạng nhẹ với sự hộ tống của sáu tiêm kích và bay về hướng đảo Bugainville trên mũi phía đông nam quần đảo Solomon để kiểm tra các căn cứ ở Balalae và Shortland. Máy bay đến Balalae theo kế hoạch dự kiến lúc 08:00 cùng ngày.


USS Hammann và USS Yorktown trúng ngư lôi của tàu ngầm Nhật I-168 ngày 6 tháng 6 năm 1942

Bức điện trên bị chặn thu bởi các trạm vô tuyến làm việc cả ngày lẫn đêm của người Mỹ, chúng lắng nghe và ghi lại tất cả các bức xạ điện từ của đối thủ. Sau đó, điện nhanh chóng được chuyển giao cho bộ phận mật mã, tại đó nó cũng nhanh chóng bị giải mã.

Sáng ngày 18 tháng 4, tám máy bay tiêm kích Lockheed P- 38 Lightning Không quân Mỹ cất cánh từ sân bay Henderson tại Guadalcanal và chờ sẵn máy bay đô đốc Nhật Bản tại không vực 35 dặm bắc Balalae. Khi máy bay của Yamamoto xuất hiện, nó bị bắn rơi. Đô đốc Yamamoto đã chết như vậy.

Nhờ EW, các phi công Mỹ đã có thể loại bỏ khỏi không gian chiến trường Thái Bình Dương Đô đốc Yamamoto một đô đốc rất thông minh và rất đáng kính trọng - người nghĩ ra cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng. Cái chết của ông là một đòn giáng mạnh vào toàn bộ hạm đội Nhật Bản và ảnh hưởng lớn đến khả năng chiến đấu của nó.

Tuy nhiên, đóng góp to lớn nhất của EW vao không gian chiến trường Thái Bình Dương, là các chiến dịch đổ bộ đã đưa người Mỹ từ Guadalcanal đến tận trung tâm nước Nhật. Đó là một đóng góp liên tục, mặc dù gần như không được công nhận, cả trước và trong mỗi chiến dịch.

Ngay sau khi Nhật Bản chiếm giữ các hòn đảo, họ lập tức thiết lập trên đó tất cả các loại radar phát hiện sớm và radar dẫn bắn. Các phân đội tác chiến điện tử Mỹ phải xác định tọa độ của tất cả các trạm radar được bố trí, từ quần đảo Solomon kéo dài đến bờ biển Trung Quốc, và sau đó, để giảm bớt thiệt hại cho các binh sĩ của họ trong những giờ phút quan trọng của các chiến dịch, vô hiệu hóa các radar điều khiển hỏa lực trong khu vực các chiến dịch đổ bộ.

Trong quá trình cuộc đổ bộ lên quần đảo Marshall ở trung tâm Thái Bình Dương, các tàu trang bị khí tài EW đã đánh chặn bức xạ radar cảnh báo sớm mà người Nhật bố trí trên một trong những hòn đảo của mình để cảnh báo quân đội của họ về sự xuất hiện của tàu chiến hoặc máy bay Mỹ. Sau khi nghiên cứu các tham số kỹ thuật của radar, chiến thuật thích hợp đã được phát triển. Sau vài tháng, thông tin thu được về các radar trên quần đảo Marshall trở thành cực kỳ quan trọng đối với Hải quân Mỹ, khi họ tấn công đảo Palau. Người Mỹ có được khả năng lắp đặt trên các tàu của họ thiết bị gây nhiễu, tinh chỉnh theo các tần số của các radar Nhật Bản trên đảo.


Đô đốc Yamamoto vài giờ trước khi gặp nạn. Ông đang chào các phi công hải quân Nhật tại căn cứ Rabaul, ngày 18 tháng 4 năm 1943.

Thậm chí EW còn được sử dụng với cường độ mạnh hơn trong quá trình quân Mỹ đổ bộ lên quần đảo Mariana. Trước khi đổ bộ, người Mỹ đã tiến hành trinh sát điện tử kỹ lưỡng tất cả các radar trong khu vực. Những nỗ lực này xứng đáng với thời gian bỏ ra, vì nó cho phép phát hiện "lỗ hổng" trong trường radar của người Nhật và cho phép các lực lượng xâm nhập tiến hành đổ bộ mà không bị radar của họ phát hiện.

Một lần nữa, tầm quan trọng của ECM (РЭП - REP) đã được chứng minh trong quá trình chiến dịch trên quần đảo Philippines. Trước chiến dịch trong vịnh Leyte, người Mỹ phát hiện 2 radar; một được lắp đặt ngay ở Vịnh Leyte, còn radar kia - trên đảo Mindanao. Chúng bao phủ lối tiếp cận một số khu vực bờ biển và có thể gây ra mối đe dọa cho sự thành công của quá trình đổ bộ. Để tạo thuận lợi cho chiến dịch xâm nhập, chúng đã bị tấn công và phá hủy.

Một sự kiện quan trọng nữa xảy ra khi áp dụng tác chiến điện tử trong quá trình cuộc đổ bộ đáng nhớ và đầy kịch tính lên đảo Iwo Jima. Trong thời gian chuẩn bị của hải đoàn tàu tuần dương Mỹ cho việc bắn phá hòn đảo, các trắc thủ vận hành hệ thống EW phát hiện ra người Nhật đặt trên đảo một radar kiểm soát hỏa lực. Và một lần nữa, xuất hiện khả năng phân tích các thông số của khí tài trên và chuyển thông tin tới các tàu hộ tống. Sau đó, các tàu này bật máy gây nhiễu của họ và không cho phép người Nhật sử dụng radar kiểm soát hỏa lực của các khẩu đội pháo bờ biển khai hỏa vào quân Mỹ đang đổ bộ.

HẾT CHƯƠNG 11​
........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 12. Thông tin liên lạc và tác chiến điện tử

Trong suốt Thế chiến II, các quốc gia-đối thủ thường xuyên chế áp liên lạc vô tuyến của nhau khi cố gắng ngăn chặn sự phổ biến thông tin tuyên truyền của họ qua các phương tiện vô tuyến. Điều chỉnh máy thu radio của mình, nhiều người nhận thấy nhiễu rất mạnh, và đôi khi sóng radio truyền đi hoàn toàn chìm trong các âm thanh của kim loại va vào nhau, tiếng chuông rung, và đại loại như thế.

Ngoài ra, mặc dù ở mức độ thấp hơn, việc chế áp liên lạc vô tuyến quân sự cũng diễn ra như vậy. Điều này được thực hiện để không cho phép đối phương sử dụng hiệu quả các phương tiện thông tin vô tuyến riêng của họ. Một trong những trường hợp đầu tiên gây nhiễu là những sự kiện diễn ra trong tháng 11 năm 1941, khi tập đoàn quân số VIII của Anh chuẩn bị một cuộc tấn công quy mô lớn chống lại quân đội các nước phe Trục trên mặt trận Libya, nhằm lấy lại các vị trí đã bị chiếm mất.

Người Anh nhận thấy rằng sự thành công của các chiến dịch táo bạo trước đó của các binh đoàn thiết giáp của tướng Rommel phần nào được giải thích bởi liên lạc vô tuyến có tổ chức giữa bộ chỉ huy và các xe tăng. Họ cho rằng, sau khi phá hủy đường thông tin liên lạc này, họ có thể làm tê liệt hoạt động của các xe thiết giáp của đối phương. Để làm điều này, các máy bay ném bom Wellington được trang bị rất nhiều các máy phát radio đơn giản 50 watt-điều tần. Chúng phát xạ tiếng ồn của động cơ máy bay, tạo ra ở tần số được người Đức sử dụng tiếng ồn hỗn loạn điếc tai. Ban đầu, việc gây nhiễu này tạo ra sự hỗn loạn lớn giữa các đơn vị xe tăng Đức, nhưng ngay sau khi nhận ra nguồn gốc nhiễu, người Đức bắt đầu sử dụng máy bay chiến đấu Bf 109 để săn diệt máy bay ném bom Wellington. Đó không phải là điều khó khăn, vì Wellington di chuyển chậm và không được đảm bảo sự hộ tống đầy đủ.


Một chiếc Vickers Wellington DWI (Directional Wireless Installation) trên mặt đất tại Ismailia, Ai Cập, cho thấy vòng diện từ được dùng để kích nổ các bãi mìn từ tính. Ảnh chụp quãng 1940-1943.

Như chúng ta đã thấy, khi xem xét các chiến dịch ở Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, một trong những ứng dụng hiệu quả nhất của EW ảnh hưởng đến quá trình Thế chiến II là đánh chặn sóng vô tuyến của đối phương. Các chiến dịch này được tiến hành bởi các nước tham chiến, không chỉ để có được thông tin hữu ích từ việc giải mã chương trình phát sóng, mà còn để phát hiện các mạng lưới điệp viên bí mật trong lãnh thổ của mình.

Trường hợp thú vị liên quan đến hoạt động này là một chiến dịch được người Đức thực hiện để xác định vị trí nơi phát sóng của điện đài Nga bí mật hoạt động tại các vùng lãnh thổ bị Đức chiếm đóng.

Trong năm 1941, cơ quan tình báo quân đội Đức Abwehr chặn thu được ít nhất 500 phiên truyền tin vô tuyến được mã hóa mà không thể giải mã. Abwehr nhận ra đây là mạng lưới điệp viên Liên Xô đang hoạt động ở Tây Âu. Các nhà lãnh đạo Đức Quốc xã ở Berlin đã rất giận dữ trước sự bất lực của nước Đức trong việc chấm dứt công việc của lưới điệp viên được trang bị các điện đài sóng ngắn tốt cùng với các trang thiết bị điện tử thích hợp, được gọi là "The Red Chapel" ("Dàn Nhạc Đỏ"). Họ vô cùng tức tối trước thực tế là trong những bức điện vô tuyến kia chứa các thông tin quân sự được truyền cho bộ tư lệnh quân đội Nga trực tiếp từ lãnh thổ Đức, nhưng tất cả những nỗ lực của họ để tìm ra hang ổ của những nhân viên tình báo Nga đã không có kết quả.

Trong thời đó, các máy định vị vô tuyến tầm phương hiện có vẫn chưa đủ tinh vi để ngay lập tức cung cấp các tọa độ chính xác của điện đài bí mật, mà hơn nữa, liên tục thay đổi vị trí của mình. Đó giống như một cuộc săn cáo, tiến hành giữa các máy phát vô tuyến bất hợp pháp và các máy tầm phương vô tuyến Peilung không ngừng được hoàn thiện của người Đức.


Phán quyết chống lại các thành viên của Dàn nhạc Đỏ

Hằng đêm các đài phát bí ẩn phát sóng bốn đến năm giờ. Người Đức đánh chặn có hệ thống các buổi phát sóng và sử dụng công cụ tầm phương vô tuyến của họ, tính toán ra phương vị của nó. Nhưng mỗi khi họ xác lập được, các đài phát lại biến mất trước khi người Đức có thể tìm thấy. Tuy nhiên, họ đã có thể xác lập được đài phát chính của "Red Chapel" tọa lạc tại một trong những thành phố của Bỉ. Các hiệu thính viên khai thác máy tầm phương vô tuyến điêu luyện nhất của Đức được cử đến thành phố này để cố gắng để phát hiện vị trí chính xác của nó.

Điệp viên Nga nán lại quá lâu, lỗi lầm này gây tử vong cho họ. Đêm ngày 13 tháng 12 năm 1941, tòa nhà từ đó tiến hành các phiên phát sóng bí mật bị phát hiện bởi các hiệu thính viên Đức. Lính Đức, đi ngoài ủng nhưng chiếc vớ dày để bóp nghẹt tiếng động do bước chân của họ, lặng lẽ thâm nhập tòa nhà và bắt sống tại chỗ các điệp viên.

Người ta được biết, người Anh tham gia đánh chặn có hệ thống sóng vô tuyến của đối phương nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác và họ đã có kinh nghiệm đáng kể trong hoạt động này. Ngay sau Thế chiến thứ Nhất, họ xây dựng các đài phát vô tuyến bí mật trên toàn thế giới để chặn thu sóng điện đài của các đối thủ tiềm năng. Tất cả các sóng điện đài chặn thu được họ đều phân tích kỹ, và nếu có khả năng, sẽ được giải mã để thu nhận những thông tin có thể hữu ích cho các mục tiêu chính trị và quân sự của họ.

Thời đó, việc giải mã các điện vô tuyến vẫn còn là công việc mà sự thành công phụ thuộc hoàn toàn vào kỹ năng và trí thông minh của các chuyên gia trong lĩnh vực này. Ngoài ra, việc giải mã các điện vô tuyến có sự tham gia của nhiều người và codebooks có chứa mã được lưu trữ trong các két sắt và bảo vệ ngày đêm.

Các báo cáo mã hóa là một công việc lâu dài và nằm ở chỗ "dịch" văn bản thông thường thành một chuỗi các con số và chữ cái, thường được mã hóa hai lần để làm cho nhiệm vụ giải mã của đối phương khó khăn hơn. Rõ ràng, càng sử dụng nhiều hơn tổ hợp các con số và chữ cái, càng khó để "chẻ" mật mã.
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)


Heinz Guderian trong Chiến dịch nước Pháp, với một chiếc máy Enigma.

Ngay trước khi bùng nổ Thế chiến thứ 2, người Đức chế tạo ra máy mật mã Enigma đặc biệt, có thể phối hợp một số lượng lớn hơn nữa các tổ hợp so với các phương pháp mã hóa thủ công thông thường. Nó là một máy điện với một bàn phím và các khai thác viên có thể cung cấp hơn bốn triệu tổ hợp. Bộ chỉ huy tối cao Đức bị thuyết phục rằng cỗ máy này sẽ hoàn toàn giải quyết vấn đề mã hóa, bởi vì nó sẽ làm cho nhiệm vụ giải mã gần như không thể.

Tuy nhiên, theo kết quả của một loạt sự kiện, được khởi xướng bởi một người Do Thái Ba Lan Richard Levinsky, người làm việc như một kỹ sư và nhà toán học tại nhà máy Berlin, nơi thiết kế Enigma, điều này đã không xảy ra. Một ngày của năm 1938, Levinsky bước vào tòa nhà trụ sở cơ quan tình báo ở Warsaw và chào bán thông tin về Enigma lấy 10 000 sterling Anh và tấm hộ chiếu cho phép ông và gia đình di cư sang Anh, khi đó là đồng minh của Ba Lan.

Tình báo Ba Lan và Anh không thể tin được một thành công như vậy, đặc biệt là khi đã thấy khá rõ ràng rằng họ sẽ sớm phải bước vào một cuộc chiến tranh với Đức. Tuy nhiên, việc sở hữu chỉ một côc máy không phải là phương tiện đủ để giải mã điện tín nhanh chóng, vì người Đức thay đổi bộ mã hàng ngày. Để giải quyết vấn đề này, người Anh quyết định thiết kế một cỗ máy có thể thực hiện tất cả các công việc cần thiết để nhanh chóng tìm thấy "khóa mã" hiện hành. Điều này sẽ dẫn đến việc xây dựng máy giải mã, cỗ máy dịch các tin điện của kẻ thù sang văn bản thông thường. Một nhóm gần ba mươi nhà toán học bắt đầu tính toán tất cả các tổ hợp số và chữ cái của máy mật mã Enigma mà đến thời điểm này người Anh đã có thể tái sử dụng nhờ Levinsky. Khi thực hiện xong, các tổ hợp tính toán bằng phương pháp điện tử được đưa vào chiếc máy giải mã có kích thước rất lớn, chiếc máy mà có thể tìm ra, với sự giúp đỡ của các thiết bị cơ điện, chìa khóa chính xác để giải mã các thông điệp của Enigma.


Ví dụ tiêu biểu : một bức điện chặn thu được tại Bletchley Park trước khi giải mã

Hệ thống này được gọi là Ultra (xem thêm về Enigma và Ultra trong "Ultrasecret" của Vinterbotham và "Il vero traditore" của A.Santoni, được nhà Mursia xuất bản) là một loại máy tính điện tử cơ bản, mặc dù nó sử dụng công nghệ điện tử lạc hậu xa so với công nghệ máy tính hiện đại ngày nay. Khi bùng nổ Thế chiến II, người Anh thấy mình ở một vị trí tốt hơn nhờ có Ultra vào mạng lưới các trạm chặn thu vô tuyến điện rải rác trên toàn thế giới. Chúng có khả năng đánh chặn mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Lục quân, Không quân và Hải quân Đức gửi cho bộ đội của mình, các thông điệp trong nội bộ quân đội và thậm chí lệnh của chính Hitler truyền trực tiếp cho họ trước khi mở đầu mỗi chiến dịch quan trọng.

"Của hiếm" không thể tin được này của các cơ quan mật vụ Anh đã có những hệ quả vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong những năm đầu của cuộc chiến tranh. Được Ultra cung cấp thông tin, sự hiểu biết thấu đáo của người Anh về các chiến dịch của đối phương, kế hoạch chiến lược của chúng, bố trí các cụm quân đội và sự di chuyển của nó có ảnh hưởng lớn đến kết quả của nhiều trận đánh.

Lấy ví dụ, chiến thắng của người Anh trong trận Cape Matapan ngày 28 Tháng Ba năm 1941. Chiến thắng này, gần như không nghi ngờ gi nữa, có thể quy cho năng lực của người Anh đã giải mã được điện vô tuyến giữa Bộ Chỉ huy tối cao Đức và quân đoàn không quân (X- CAT) tại Ý, một vài ngày trước khi hạm đội Ý, vốn cần phải được X-CAT bảo vệ, rời cảng Taranto.

Như chúng ta đã thấy trước đây, hạm đội Ý đã lên kế hoạch bất ngờ tấn công đoàn công-voa Anh tại Đông Địa Trung Hải bằng lực lượng một thiết giáp hạm, bốn tuần dương hạm hạng nặng và sáu khu trục hạm. Thành công của chiến dịch này phụ thuộc vào yếu tố bất ngờ, và người Ý đã làm mọi thứ có thể để giữ bí mật kế hoạch của họ. Tuy nhiên, họ yêu cầu các đồng minh của họ - người Đức, giúp họ bằng cách gửi máy bay tiêm kích của X-CAT tới, bảo vệ hạm đội của họ. Bức điện liên quan đến vấn đề này được mã hóa bằng máy Enigma và chuyển giao cho người Đức, nhưng cũng bị chặn thu và giải mã bởi máy Ultra của Anh. Do đó, người Anh biết tất cả về các giai đoạn cơ bản của các chiến dịch của hạm đội hải quân Ý : ngày tháng, thời gian, thành phần tàu, yểm trợ đường không và v.v.


Cũng bức điện trên sau khi giải mã

Biết thông tin này, Đô đốc Cunningham ra lệnh cho một phân hạm hải quân Anh, lúc đó đang đậu tại cảng Aleksandria Ai Cập, sẵn sàng ra khơi ngay lập tức. Để đánh lừa các điệp viên Ý ở Aleksandria, đô đốc Anh lên bờ trong trang phục dân sự và đi đến câu lạc bộ golf của mình. Khi màn đêm che phủ, ông ta bí mật quay trở về tàu, hạm đội ra khơi.

Ngoài ra, Ultra cũng góp phần vào việc tiêu diệt một số lượng lớn các đoàn công-voa Ý đi đến các cảng Bắc Phi. Người Anh giải mã các điện tín của Bộ Tư lệnh tối cao Đức, giao nhiệm vụ cho tướng Rommel và X-CAT tại Ý về thời hạn ra khơi và đến nơi, chuyển giao hàng hậu cần bằng đường biển cho Afrika Korps, cung cấp thông tin về thời điểm khởi hành và xuất hiện của đoàn công-voa, các cảng đi và mục đích cũng như hành trình của các con tàu. Do đó, người Anh biết các đoàn công-voa đối phương xuất bến thế nào khi nào từ trước và có thể nhanh chóng phái các binh đoàn đi tấn công đối thủ. Ngoài ra, việc trinh sát không ảnh thường xuyên một cách có hệ thống các cảng của Ý đã trở thành một lợi thế tuyệt vời, mặc dù ít được biết đến của người Anh, vì nó cung cấp cho họ thông tin về thành phần hộ tống đoàn công-voa và v.v. Một yếu tố khác trong sự thành công của hạm đội Anh ở Địa Trung Hải là họ có radar, cho phép dẫn bắn ban đêm.

Trong trường hợp đảo Crete bị lính dù Đức chiếm đóng vào năm 1941, các thông tin chứa trong những điện tín bị chặn và giải mã đã thực sự giúp người Anh rất nhiều, những bức điện đó được Bộ chỉ huy Không quân Đức chuyển cho các đơn vị của họ. Mặc dù người Đức thành công trong việc chiếm đảo, thiệt hại của họ rất cao, vì quân đội Anh đã triển khai chính xác tại vị trí đổ bộ của lính dù Đức.


Một phiên bản chiếc máy Bombe do người Mỹ chế tạo, chiếc máy (Bombe) được phát triển tại Anh để giải mã các thông điệp do máy mã hóa Enigma của người Đức gửi đi trong thời gian Thế chiến II.

Nhiều thành công trong số những thành công khác của liên quân Anh-Mỹ trong Thế chiến II là kết quả của việc áp dụng cỗ máy kỳ diệu Ultra, và chúng ta chỉ cần nhắc đến Trận chiến nước Anh, trận El Alamein ở Bắc Phi và cuộc đổ bộ lên Normandy là cũng đã đủ. Thật khó để đánh giá chính xác, đóng góp lớn dường nào mà Ultra đã mang lại trong thành công của các chiến dịch này, không nghi ngờ gì nữa, nó đảm bảo cho người Anh những thông tin vô cùng quý giá làm thay đổi tiến trình của nhiều trận đánh. Chắc chắn các thủy thủ tàu buôn, thủy thủ quân sự Ý đã phải trả cái giá cao nhất do sự ứng dụng máy giải mã Ultra, đã cung cấp cho người Anh những thông tin quý giá như vậy về các hành động của họ.

Sự hiểu biết hành động của kẻ thù và ý định của nó, thu được bằng cách chặn và giải mã điện vô tuyến, cùng với sự bảo vệ đầy đủ các phương tiện thông tin liên lạc của bản thân, là yếu tố quan trọng nhât trong sự thành công của các hoạt động tác chiến. Tính đến sự tiến bộ lớn lao trong lĩnh vực điện tử ứng dụng vào quân sự và các yêu cầu ngày càng tăng, đặt ra cho công tác chỉ huy và kiểm soát các lực lượng vũ trang, việc bảo vệ thông tin liên lạc đã trở thành vô cùng cần thiết, không chỉ vì để giải mã, mà còn vì các biện pháp đối kháng điên tử (chặn thu, gây nhiễu và nghi binh đánh lạc hướng). Ngày nay, việc bảo vệ các phương tiện thông tin liên lạc, trên thực tế, đã trở thành ưu tiên hàng đầu của công tác quốc phòng trong tất cả các nước, và được cho là cũng quan trọng như việc mua sắm vũ khí, huấn luyện quân đội và tất cả các thành tố quan trọng khác của một cuộc chiến tranh hiện đại.

HẾT CHƯƠNG 12​
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 13. Chiến tranh Lạnh, Triều Tiên và tái trang bị vũ khí điện tử



Ba hành lang hàng không, được phép sử dụng bay tới Berlin.

Thế chiến II kết thúc. Người Mỹ và người Anh nhanh chóng giải tán các máy móc quân sự của mình và ngừng sử dụng thiết bị EW (tác chiến điện tử). Một phần chúng bị hỏng do thiếu bảo trì, một số thậm chí được bán đi cho các đại lý vì dư thừa trang thiết bị quân sự. ECW (đối kháng điện tử) bị lãng quên và hầu hết những người có kinh nghiệm và kiến thức trong lĩnh vực này trong những năm chiến tranh đã rời quân đội hoặc chuyển sang các vị trí làm việc được trả lương tốt hơn trong ngành công nghiệp điện tử. Mặt khác, các radar liên tục được cải tiến, vì chúng đã trở thành công cụ vô giá dẫn đường cho tàu biển và máy bay, đặc biệt là vào ban đêm và trong điều kiện tầm nhìn kém.

Không giống như Anh và Mỹ, Nga - một cường quốc vĩ đại khác, người chiến thắng khác, không vội vã giải ngũ quân đội, và lực lượng vũ trang Liên Xô tiếp tục thống trị ở châu Âu và châu Á. Sử dụng kinh nghiệm và kiến thức của hàng trăm nhà khoa học Đức bị bắt làm tù binh trong các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, người Nga đã tiến hành các nghiên cứu sâu rộng trong lĩnh vực thiết bị điện tử quân sự và bắt đầu sản xuất hàng loạt tên lửa có dẫn đường điện tử.

Trong suốt Thế chiến II, người Nga, cũng như người Đức, sử dụng lực lượng không quân của họ hầu như chỉ để hỗ trợ chiến thuật lực lượng mặt đất và do đó, không cho ra lò được các máy bay ném bom 4 động cơ giống như Anh và Mỹ để tiến hành các cuộc ném bom chiến lược. Sau chiến tranh, người Nga quyết định lấp chỗ trống này và sản xuất hàng trăm máy bay ném bom kiểu như B-29, sao chép từ chiếc máy bay ném bom chiến lược Boeing B-29 Superfortress Mỹ, rơi vào tay người Nga sau khi phải hạ cánh khẩn cấp ở Siberia (ở đây nói đến Tu-4. Hơn nữa, các máy bay B-29 Mỹ, theo một thỏa thuận liên chính phủ Mỹ-Liên Xô, đóng căn cứ tại Ukraina, trên các sân bay Poltava, và Piryatin và Myrgorod năm 1944 khi thực hiện các vụ ném bom con thoi xuống nước Đức và nước Ý. Chú thích của người dịch bản tiếng Nga).

Trong khi đó, do kết quả các vấn đề còn mơ hồ và gây tranh cãi của các hiệp ước hòa bình, giữa các cường quốc phương Tây và Liên Xô bắt đầu có sự bất đồng.

Trong thời kỳ đầu tiên sau chiến tranh, bom nguyên tử khi đó chỉ mình Hoa Kỳ sở hữu, đã ngăn chặn được sự khởi đầu của một cuộc chiến tranh mới; mối đe dọa trả đũa hạt nhân là phương tiện răn đe đủ mạnh để răn đe và ngăn chặn các hành động quân sự tiếp tục của người Nga. Ví dụ, răn đe hạt nhân, như hồi đó người ta gọi, đã ngăn chặn sự bùng nổ một cuộc chiến tranh vào năm 1948 khi Nga bắt đầu cuộc phong tỏa Tây Berlin. Cựu thủ đô của nước Đức bị bao vây bởi Đông Đức do Nga chiếm đóng và phân chia thành các khu Anh, Mỹ, Pháp và Nga. Hai triệu người dân sống trong các khu vực Tây Berlin đã phải quỳ gối khi người Nga từ chối cho phép khả năng sử dụng mạch máu giao thông đi qua lãnh thổ của Đông Đức để cung cấp hàng hóa. Sau khi người Mỹ, Anh và Pháp tổ chức cầu không vận Berlin nổi tiếng giữa Tây Đức và Berlin, người Nga có thể dễ dàng đánh chiếm phần phía tây của Berlin. Quyết định của họ không làm như vậy là do sợ bị trả thù hạt nhân từ phía Mỹ mà hồi đó họ chưa được bảo vệ.


C-54 Không lực Mỹ (United States Air Force) hạ cánh xuống sân bay Tempelhof (1948) trong cuộc phong tỏa Berlin

Cuộc phong tỏa Berlin kết thúc tháng 5 năm 1949, đó là một chiến thắng tinh thần cho thế giới phương Tây, nhưng cũng đánh dấu sự khởi đầu của những gì sau này được gọi là Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô và các cường quốc phương Tây. Chiến tranh Lạnh diễn ra một thời gian, dài đặc trưng bởi các thời kỳ ngắn thù địch công khai và bầu không khí nghi ngờ lẫn nhau, cuối cùng dẫn đến việc tạo ra hai liên minh lớn : Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Tổ chức Hiệp ước Warsaw.

Việc gây nhiễu liên lạc vô tuyến đã trở thành một thành tố chiến lược cực kỳ quan trọng trong Chiến tranh Lạnh. Hành động đầu tiên của tác chiến điện tử, trong ý nghĩa này, là việc người Nga chế áp các chương trình phát thanh của đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" ( VOA ) và British Broadcasting Corporation (BBC), phát bằng tiếng Nga và nhằm vào các nước Đông Âu đang ở trong sau cái gọi là "Bức màn sắt".

Khi các nhà ngoại giao Mỹ và Anh bắt đầu thể hiện sự phản đối của họ đối với Moscow và Liên Hợp Quốc về sự vô căn cứ của các hành động như vậy trong thời bình, người Nga đáp rằng, các chương trình phát sóng của "Tiếng nói Hoa Kỳ" và Bi- Bi -Si là một hành động chiến tranh tâm lý, Liên Xô có quyền chống lại nó để tự bảo vệ khi làm tê liệt các đài phát thanh của kẻ thù.

Việc người Nga chế áp các chương trình phát thanh phương Tây diễn ra một thời gian rất lâu dài, bất chấp các chi phí khổng lồ mà các hoạt động như vậy kéo theo. Chỉ riêng "Tiếng Nói Hoa Kỳ" đã phát sóng thông qua tám mươi lăm đài phát thanh ở châu Âu và Bắc Phi và sử dụng mười sáu tần số khác nhau trong băng sóng trung và sóng ngắn. Theo ước tính trong những năm đó, người Nga đã có tại nhiều nơi khoảng 1.500 thiết bị gây nhiễu, 800 trong số đó nằm ở Nga và 700 tại các nước đồng minh.

Thiết bị phát nhiễu được thiết kế đặc biệt và sản xuất cho mục đích này và điều khiển mạng lưới chặn thu cực kỳ hiệu quả. Ngay sau khi "Tiếng nói Hoa Kỳ" thay đổi tần số phát sóng để thoát khỏi nhiễu, các máy thu Liên Xô lập tức xác định chính xác tần số hoạt động mới và tiếp tục chế áp. Người Nga có hệ thống chế áp được tổ chức tốt đến mức thời gian gây nhiễu của họ trùng hợp gần như chính xác với thời gian phát sóng của "Voice of America" và BBC. Mặc dù người Mỹ thường thành công trong việc tránh sự chế áp của Liên Xô, người Xô Viết vẫn tiếp tục các hoạt động này cho đến tháng Chín năm 1959, khi lãnh tụ Liên Xô Nikita Khrushchev chính thức viếng thăm Hoa Kỳ.


Tổng Bí thư, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô N.Khrutsev tại Mỹ năm 1959, bên cạnh là Tổng thống Mỹ Eisenhower.

Việc áp dụng loại chiến tranh điện tử này không chỉ giới hạn ở châu Âu. Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, sớm làm chủ được nghệ thuật "can thiệp" điện tử.

Theo các điều khoản quy định của các hiệp ước hòa bình, người Mỹ có quyền tới các cảng biển Trung Quốc. Trong thời gian cuộc "Trường chinh" (ý nói Hồng quân nam hạ, tiêu diệt Tưởng Giới Thạch và Quốc dân **** Trung Hoa năm 1949) nổi tiếng tới các vùng phía đông và phía nam Trung Quốc, do chính Mao lãnh đạo, Hạm đội 7 Mỹ đang triển khai tại Thái Bình Dương, đã làm mọi thứ có thể để bảo vệ quyền đó. Chỉ trong một vài tháng trước khi bắt đầu cuộc Trường chinh, tại cảng Trung Quốc Thanh Đảo đã có mặt một con tàu trang bị đặc biệt để đảm bảo thông tin liên lạc vô tuyến giữa các tàu chiến Mỹ và Bộ Tư lệnh Hải quân trên đảo Guam và các đảo Thái Bình Dương khác.

Vào một ngày, tuy nhiên, các phương tiện liên lạc vô tuyến của người Mỹ đột nhiên ngừng làm việc, còn trong thinh không đã bắt đầu thường xuyên có những nhiễu lạ. Nghi ngờ rằng họ đang bị gây nhiễu, người Mỹ, với sự giúp đỡ của một tàu nhỏ được trang bị thiết bị tầm phương vô tuyến để định vị nguồn nhiễu, đã tiến hành chiến dịch trinh sát điện tử. Điều này được thực hiện một cách nhanh chóng và máy phát gây nhiễu của Trung Quốc cũng nhanh chóng mất khả năng làm việc bởi những người lính Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.

Chính trong bầu không khí quân sự-chính trị phức tạp đó, năm 1950, chiến tranh nổ ra giữa Bắc và Nam Triều Tiên.

Khi Roosevelt, Churchill và Tưởng Giới Thạch gặp nhau tại Cairo vào năm 1943 để quyết định tương lai của các vùng lãnh thổ bị Nhật chiếm đóng ở vùng Viễn Đông, họ đã quyết định rằng, sau chiến tranh, bán đảo Triều Tiên sẽ là một quốc gia độc lập và tự do. Tuy nhiên, ngay sau sự thất bại của Nhật Bản, người Nga đã chiếm phần phía bắc bán đảo và người Mỹ là phía nam. Như vậy là đã sinh ra hai nhà nước Triều Tiên khác nhau. Ranh giới lý thuyết giữa các quốc gia, được tổ chức dọc theo vĩ tuyến 38, chẳng mấy chốc trở thành "trái táo bất hòa" chủ yếu của cuộc đấu tranh ngày càng phát triển mạnh giữa người Nga và người Mỹ trên toàn thế giới.

Mối quan hệ giữa hai nước - Bắc Triều Tiên cộng sản và Nam Triều Tiên không cộng sản, ngày càng trở nên căng thẳng hơn, cuối cùng, ngày 25 tháng 6 năm 1950, quân đội Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38 xâm chiếm lãnh thổ Nam Triều Tiên. Liên Hiệp Quốc đã yêu cầu phía xâm lược rút quân và kêu gọi tất cả các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc can thiệp. Một lực lượng viễn chinh nhanh chóng hình thành, bao gồm chủ yếu là quân đội Mỹ. Trong khi đó, Bắc Triều Tiên, với sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Quốc, di chuyển rất nhanh về phía nam và đã chiếm hầu hết Nam Triều Tiên, bao gồm cả thủ đô của nó - Seoul.

Năm ngày sau cuộc xâm nhập máy bay Mỹ đóng căn cứ tại Nhật Bản, đến trợ giúp quân đội NTT, cung cấp cho họ với sự yểm trợ đường không. Ngay sau đó, quân đội Mỹ và các nước không cộng sản khác tham chiến bên phía NTT. Đây là khởi đầu của cuộc chiến tranh Triều Tiên kéo dài, đầy khó khăn và đẫm máu, trong suốt ba năm, 1950-1953.


Ba nhà lãnh đạo các quốc gia Đồng minh tại Hội nghị Cairo, ngày 25 tháng 11 năm 1943. Liên Xô không tham gia vì không có chiến tranh với Nhật Bản vào thời điểm đó, đồng thời giữa Liên Xô và Nhật còn hiệp ước trung lập ký năm 1941 có thời hạn 5 năm.

Trong vài tháng đầu chiến tranh, máy bay ném bom Mỹ B-29 Superfortress ném bom các mục tiêu gần như không bị cản trở kể cả các mục tiêu chiến thuật và chiến lược, tuy nhiên tình hình đã thay đổi nhiều kể từ khi trên chiến trường xuất hiện máy bay tiêm kích phản lực MiG- 15 do Nga cung cấp. Máy bay tiêm kích Nga sử dụng được ưu thế về các căn cứ không quân và radar tầm xa, bố trí ở Trung Quốc phía sông Áp Lục tạo thành ranh giới giữa Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Vì vậy, đối với các máy bay ném bom cỡ lớn của Mỹ, việc thực hiện các chuyến bay ban ngày trên không phận Bắc Triều Tiên là cực kỳ nguy hiểm. Đã có quyết định chúng chỉ được hoạt động vào ban đêm, trong thời gian tình hình đã được cải thiện đáng kể, vì người Bắc Triều Tiên không có các hệ thống nhìn đêm thích hợp.

Phương tiện duy nhất người Bắc Triều Tiên có các là radar cũ thời Thế chiến II, được người Trung Quốc và Nga chuyển giao cho họ, nhưng có tầm hoạt động nhỏ. Hai loại radar chính của họ là loại do người Nga phát triển trong thời gian Thế chiến II : Rus 1 (Dumbo) và Rus 2. Cả hai đều làm việc trong dải tần số thấp và được đặt trên xe ô tô có mooc, vận chuyển bằng đầu kéo, và đôi khi bằng sức ngựa. Chúng chỉ có thể đo cự ly tới máy bay và cung cấp thông tin về hướng bay gần đúng của chuyến bay.

Tuy nhiên, người Bắc Triều Tiên cũng đã nhận được từ người Nga rất nhiều radar điều khiển hỏa lực Mark II, mà bản thân người Nga nhận được từ người Anh trong Thế chiến II theo hiệp định Lend-Lease. Người Nga cũng cung cấp cho họ một số hệ thống radar giám sát SJ, trước đây được Hoa Kỳ giao cho họ và người Nga sau đó sao chép sản xuất với số lượng lớn.


Radar Rus-2, nằm trong biên chế trang bị của Hồng quân từ năm 1940.

Mặc dù người Mỹ cũng được chuẩn bị tồi cho EW, may mắn thay cho họ, trên máy bay của họ đã có RWR. Trong thời gian các cuộc không kích vào Bắc Triều Tiên, phi công Mỹ nhận thấy rằng ngay trước khi họ sa vào lưới lửa pháo phòng không, đèn chỉ thỉ tín hiệu của hệ thống hạ cánh có thiết bị chỉ dẫn của họ bắt đầu nhấp nháy, như vậy nó cảnh báo về mối nguy hiểm sắp xảy ra. Lý do cho điều này là việc người Bắc Triều Tiên áp dụng radar giám sát Rus 2 hoạt động ở tần số 72 MHz, rất gần với tần số hoạt động của hệ thống hạ cánh có thiết bị chỉ dẫn Mỹ - 75 MHz. Theo sự trùng hợp ngẫu nhiên may mắn, các đèn tín hiệu chỉ thị trên bảng đồng hồ của các máy bay Mỹ, ngoài mục đích chính - thông báo cho phi công đã đến thời gian bắt đầu giảm độ cao bước vào quá trình hạ cánh, cũng cảnh báo họ rằng, họ đã bị radar đối phương phát hiện trên bầu trời Bắc Triều Tiên. Cảnh báo này đã cho phi công đủ thời gian cho các cơ động chống phòng không thích hợp.

Tuy nhiên, điều này không kéo dài lâu, vì người Bắc Triều Tiên nhanh chóng nhận được radar mới của người Trung Quốc, làm việc ở tần số cao hơn nhiều trong X-band, tức là từ 8 đến 12 GHz. Ngay khi các bộ RWR ngẫu hứng ngừng làm việc, tổn thất của Mỹ tăng lên đáng kể, bởi bây giờ họ không có cách nào biết họ đã nằm trong khu vực diệt mục tiêu của PPK Triều Tiên hay chưa, hệ thống này thời điểm đó đã được tăng cường đáng kể.

Người Mỹ cũng nhận thấy hỏa lực của hệ thống phòng không đối phương đang trở nên chính xác hơn, ngay cả trong điều kiện tầm nhìn kém. Họ kết luận rằng Bắc Triều Tiên có thể có một loại radar mới. Do vậy họ vội vàng phục hồi lại các thiết bị mà họ có vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Họ thậm chí đã phải mua lại các thiết bị tại các đại lý của quân đội! Sau khi thiết bị đã được khôi phục và nâng cấp đạt điều kiện làm việc, nó ngay lập tức được điều đến Viễn Đông, lắp đặt trên các máy bay bay trên không phận Bắc Triều Tiên. Các máy thu cũ không thể phát hiện bức xạ radar mới của kẻ thù và do đó xác nhận những nghi ngờ của người Mỹ rằng radar mới hoạt động ở tần số cao hơn nhiều.

Một khi người Mỹ lắp đặt xong máy thu mới và có được thông tin chi tiết về các đặc tính của loại radar mới (tần số, độ rộng xung, tần số xung lặp lại, v.v), họ nâng cấp thiết bị gây nhiễu trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai và đặt chúng trên máy bay ném bom North American B -25 Mitchell, loại mà sau đó được giao nhiệm vụ bảo vệ các máy bay ném bom chiến lược B-29 trong các cuộc không kích của họ xuống Triều Tiên. Người ta cũng hồi sinh hệ thống gây nhiễu cũ cho radar đối phương bằng cách sử dụng dải lá kim loại, mà người Mỹ gọi là lưỡng cực phản xạ hoặc PRLO.

Phải đối mặt với các phương tiện này, radar Triều Tiên không còn có thể phát hiện máy bay ném bom Mỹ và hướng các đèn chiếu vào chúng : thương vong của Mỹ bắt đầu giảm trở lại.

Trong khi đó, trên mặt đất, cán cân chiến tranh dao động, đầu tiên nghiêng về một bên và nay thì bên khác. Năm 1950, sau vài tháng hậu chiến tranh, nhờ cuộc đổ bộ tại Inchon - nằm trên bờ biển phía tây bán đảo Triều Tiên, vào trong hậu phương đối thủ, các lực lượng của Liên Hợp Quốc đã có thể lấy lại toàn bộ lãnh thổ của nước Cộng hòa Triều Tiên. Trong các chiến dịch đổ bộ có sự tham gia của các máy bay tiêm kích-ném bom với bốn tàu sân bay và Tập đoàn quân không quân 5, 250 tàu và 70.000 binh sĩ, gồm cả các sư đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Chiến dịch rất khó khăn vì đặc điểm địa lý của khu vực : vách đá dựng đứng, thủy triều lên hay xuống đều rất mạnh và có bão thường xuyên.

Ngay từ đầu đã thấy rõ sự thành công của chiến dịch phụ thuộc vào sự lựa chọn ngày giờ đổ bộ và phối hợp giữa quân đổ bộ và lực lượng không quân và hải quân hỗ trợ cho họ. Ngày đổ bộ được lên kế hoạch là 15 tháng Chín.
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)


Radar P-3 Dumbo

Một vài ngày trước khi đổ bộ, công tác trinh sát không ảnh và tình báo điện tử được thực hiện trên quy mô lớn để phát hiện các radar cần đánh sập. Tuy nhiên, ba mươi sáu giờ trước giờ đổ bộ ấn định, có một cơn bão mạnh ập đến Nhật Bản và Triều Tiên, gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho các tàu nhỏ và phương tiện đổ bộ, cũng như cho các hoạt động đường không. Tuy nhiên, việc đổ bộ, sau đợt oanh kích đường không và pháo kích đường biển dữ dội đã diễn ra theo đúng kế hoạch. Nhờ vào việc lập kế hoạch tuyệt vời và sự hỗ trợ của hàng trăm chiếc F -4U Corsair và AD- 1 Skyraider, cuộc đột kích đổ bộ đã đạt thành công hoàn toàn, và sau bảy giờ chiến đấu, tất cả các mục tiêu của chiến dịch đều đã đạt được.

Khi quân đội Liên Hiệp Quốc băng qua vĩ tuyến 38 nổi tiếng tiến tới biên giới Trung Hoa Đỏ, nước này liền gửi chí nguyện quân sang trợ giúp người Bắc Triều Tiên với số quân còn lớn hơn. Mỹ và các đồng minh của họ đã buộc phải rút lui về phía nam. Có nhiều trận chiến đẫm máu, nhưng kết quả đáng thất vọng. Mặc dù sử dụng hàng ngàn máy bay trên tàu sân bay của Hải quân Mỹ, máy bay của quân đoàn Thủy quân lục chiến viễn chinh Mỹ và Hải quân Hoàng gia Anh, yểm trợ đường không đã không mang lại kết quả hữu hình do thiếu các mục tiêu quân sự quan trọng trên lãnh thổ Triều Tiên.

Thiệt hại của quân đội Liên Hợp Quốc lên đến hơn 1.300 máy bay, và, theo thống kê của các chuyên gia Mỹ, con số này sẽ tăng gấp ba lần nếu quân đội LHQ đã không thực hiện các chiến dịch điện tử, như đã đề cập ở trên. Chiến tranh kết thúc ngày 22 Tháng Bảy 1953, để tình hình trở về giống như trước chiến tranh. Vĩ tuyến 38 một lần nữa trở thành ranh giới lý thuyết giữa 2 nước cộng hòa của Triều Tiên, ở mỗi miền chính quyền không thay đổi, nhưng bây giờ trở nên nghèo hơn. Sức tàn phá quét qua bán đảo, đưa đến con số gần hai triệu người chết, bị thương và mất tích, trong đó có cả người Triều Tiên, Trung Quốc, Mỹ và binh sĩ Liên Hiệp Quốc.


Một phòng tác chiến phòng không Anh thời Chiến tranh Lạnh, còn hoạt động đến năm 1993, nay trở thành bảo tàng radar PK Chiến tranh Lạnh.

Chiến tranh Triều Tiên một lần nữa chứng minh EW có thể giúp giảm tổn thất như thế nào, đặc biệt là trong không trung. Vì vậy, ngay sau chiến tranh, bắt đầu một làn sóng "tái trang bị vũ khí điện tử" khổng lồ. Tất cả các cường quốc lớn nhất thế giới đã hướng những nỗ lực của họ vào việc chế tạo các loại thiết bị mới, cho phép các máy bay ném bom của họ xuyên thủng không phận đối phương, mà không bị phát hiện bởi radar của địch, và áp dụng các loại đạn có dẫn đường điện tử.

Một thời gian ngắn sau khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên, Nga đã cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên và hai cường quốc lớn trên thế giới - Hoa Kỳ và Nga, bắt đầu hiểu những hậu quả tai hại gì có thể xảy ra nếu một trong số họ sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công nước kia. Sở hữu các phương tiện có thể gây nạn hủy diệt lớn như vậy, buộc cả hai nước trở nên vô cùng nghi kỵ nhau.


Radar Type 80 (Air Search radar) của KQ Anh thời Chiến tranh Lạnh tại Bard Hill, Norkfolk. Có tầm phát hiện 200-250 dặm, băng tần S, công suất 2,5Mw.

Sự xuất hiện của bom nguyên tử, sau đó đến bom hydro, đã đưa ra một khuynh hướng mới cho chiến tranh và một chiến lược mới mà NATO đã công bố, đó là lý thuyết "trả đũa ồ ạt" - đòn trả đũa hạt nhân hủy diệt ồ ạt chống lại bất kỳ kẻ xâm lược nào.

Hoa Kỳ bắt đầu việc chế tạo các máy bay ném bom lớn được gọi là máy bay ném bom "chiến lược", chỉ trong một phi vụ, sau khi thả các trái bom nguyên tử của mình, có thể gây ra sự hủy diệt không thể tưởng tượng. Các trái bom nguyên tử đầu tiên, sau khi hủy diệt Hiroshima và Nagasaki vào cuối Thế chiến II, đã được áp dụng cho các máy bay ném bom Boeing B-29 Superfortress , và trong những năm đầu của Chiến tranh Lạnh, chính B-29 của Bộ chỉ huy Không quân chiến lược Hoa Kỳ được coi là vật mang thứ vũ khí chết người đó.


Một trạm radar thuộc Chuối Cảnh báo Sớm từ xa (Distant Early Warning Line) tại Point Lay, Alaska. Chụp 1987.

Năm 1950, B-29 được thay thế bởi các máy bay ném bom mới - B-50 và gần đây hơn, là máy bay ném bom khổng lồ Convair B-36. Thêm vào sáu động cơ piston, chúng có bốn động cơ phản lực, cho nó trần bay gần 15.000 mét, tầm bay - 16 000 km và tốc độ - khoảng 688 km/giờ. Cuối những năm 50 biên chế trang bị vũ khí của Mỹ có thêm loại máy bay ném bom phản lực đầu tiên Boeing B-47. Lần lượt, nó được thay thế bởi Boeing B-52 Stratofortress nổi tiếng, có thể mang một tải trọng bom khổng lồ, bay ở độ cao gần 16.500 mét với tốc độ hơn 1 000 km/h và có tầm hoạt động 20.000 km. Người Nga, đến lượt họ, vào cuối những năm 50, giao nhiệm vụ ném bom chiến lược cho các máy bay ném bom Tupolev Tu-16 và Tu-20.

Trong khi đó, Anh và Pháp cũng thử bom nguyên tử và bắt đầu chế tạo máy bay có khả năng mang loại vũ khí mới này. Vì cự ly chuyến bay của chúng giới hạn trong khuôn khổ châu Âu, những chiếc máy bay này không ấn tượng như các máy bay ném bom của Mỹ. Người Anh đã chế tạo một loạt các máy bay ném bom tầm trung Vickers Valiant, Vulcan Avro và Handley- Page Victor, còn Không quân Pháp vào năm 1964, tiếp nhận loại máy bay Dassault Mirage IV-A.

Đồng thời lúc đó bắt đầu công cuộc xây dựng một mạng lưới radar rộng lớn, phức tạp của hệ thống radar phòng không. Nhiệm vụ của chúng là đảm bảo phát hiện sớm trong trường hợp kẻ thù không kích. Để bảo vệ lãnh thổ của mình Hoa Kỳ thiết lập ba mạng radar như vậy. Một trong số đó chạy dọc theo biên giới phía bắc của Hoa Kỳ, mạng thứ hai - cắt ngang trung tâm Canada và mạng thứ ba - mạng tiên tiến nhất, đi từ bang Alaska đến đảo Greenland. Tất cả các hệ thống radar khác nhau này được liên kết bằng một hệ thống cáp phức tạp và một hệ thống liên lạc vô tuyến, hoạt động hai mươi bốn giờ mỗi ngày.


Bản đồ DEW Line-mạng radar cảnh báo sớm từ xa của Hoa Kỳ và NATO thời Chiến tranh Lạnh, chụp năm 1987.

Cũng như vậy, để bảo vệ Bắc Cực, Mỹ đã triển khai một mạng lưới radar dọc theo bờ biển Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Một số hệ thống radar như thế, trên một nền móng đặc biệt, đã được thiết lập trên đại dương cách bờ biển một vài km. Và cuối cùng, để đảm bảo phát hiện máy bay địch, bay từ phía đông hoặc phía tây tới, đã đưa vào hoạt động một hệ thống giám sát trên không rất hoàn hảo, sử dụng các máy bay bốn động cơ Lockheed C-121 Constellation, trang bị radar phát hiện tầm xa và các phương tiện phát hiện tầm xa đặc biệt khác.

Tại châu Âu, các nước NATO cũng bắt đầu xây dựng một chuỗi radar khổng lồ kéo dài từ Na Uy đến Thổ Nhĩ Kỳ.

Trước chiến tranh Triều Tiên, trong các năm 1947 - 1949, người Nga cũng xây dựng hệ thống chuỗi radar phòng không, điều khiển tên lửa và máy bay ném bom hạng nặng. Nhưng tất cả công việc này được thực hiện trong bí mật nghiêm ngặt và rất ít thông tin về nó lọt qua các kênh thông thường.

Đương nhiên, để bay qua chuỗi radar này mà không bị phát hiện, các máy bay ném bom cần có trong trang bị các thiết bị điện tử có thể vô hiệu hóa radar. Các cường quốc phương Tây, những người theo kinh nghiệm của mình đã hiểu việc nắm rõ các đặc tính của hệ thống radar đối phương có tầm quan trọng như thế nào, họ biết trên thực tế mình không biết gì về radar của người Nga, và do đó, không có khả năng tạo ra các phương tiện đối kháng điện tử thích hợp với nó. Tình hình quốc tế vô cùng mong manh và sự căng thẳng thường trực giữa Đông và Tây, dẫn đến cuộc khủng hoảng Berlin có thể chuyển cuộc Chiến tranh Lạnh thành cuộc Chiến tranh Nóng !

Biết khả năng này, các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, bắt đầu thu thập thông tin về các radar của Nga, đã thực hiện các chuyến bay liên tục làm nhiệm vụ tình báo điện tử (ELINT); người Nga đương nhiên áp dụng các biện pháp trả đũa và đã đáp trả cũng như vậy.


Một loại tàu ngầm tuần tra mang radar thời đầu Chiến tranh Lạnh: USS Salmon.

Từ năm 1949 trở đi và tiếp theo, các máy bay và tàu chiến được trang bị đặc biệt, các trạm thu nhận mặt đất được ngụy trang, đã tham gia các hoạt động liên quan đến việc thu thập các thông số điện tử của thiết bị thuộc kẻ thù tiềm năng, một nhiệm vụ mà nay đã trở thành mối ưu tiên hàng đầu. Dọc theo biên giới, lãnh hải và không phận kẻ thù tiềm năng, các quốc gia thù địch bắt đầu tiến hành các hoạt động do thám điện tử thực sự.

Các phương tiện được sử dụng cho các nhiệm vụ ELINT trên chủ yếu như sau:
• các máy thu và máy thu đánh chặn các loại khác nhau - để phát hiện bức xạ điện từ radar các nước đối thủ tiềm năng;
• các bộ phân tích để nghiên cứu bức xạ chặn thu được và xác định các thông số cơ bản của nó ;
• các máy tầm phương vô tuyến để xác định hướng đến của bức xạ và xác định vị trí chính xác của các trạm phát ;
• một loạt các loại máy ghi âm khác nhau để ghi lại và lưu trữ thông tin, rồi tiếp theo, phân tích chi tiết hơn.

Mục đích của việc này là để tìm ra "đội hình chiến đâu vô tuyến điện tử" của kẻ thù (trong thuật ngữ tiếng Nga, khái niệm này tương ứng với thuật ngữ "trường vô tuyến điện tử". Chú thích của người dịch bản tiếng Nga.) Hay nói cách khác, vị trí radar kẻ thù trong tất cả các khu vực giám sát nhằm mục đích phát triển các biện pháp đối kháng điện tử thích hợp, và sử dụng nó nếu cần thiết hoặc khi có yêu cầu.

Sự hiểu biết môi trường điện từ trường của kẻ thù tiềm năng và sự thay đổi của nó có rất nhiều giá trị ở tầm thứ hai. Một trong số đó cho phép theo dõi các vụ phóng thử ICBM mới của kẻ thù tiềm năng. Thực tế là các thử nghiệm bay của các ICBM mới đòi hỏi kiểm tra hệ thống radar dẫn đường của chúng, radar bám sát (radar có khả năng đo liên tục tầm, hướng, phương vị và độ cao của mục tiêu để xác định tọa độ tiếp theo của nó nhằm đảm bảo vụ phóng tên lửa thành công hoặc việc xạ kích PPK vào điểm dự báo), thiết bị liên lạc vô tuyến và các hệ thống đo đạc từ xa của chính bản thân các tên lửa. Việc đánh chặn và phân tích các bức xạ điện từ này có thể cho biết thực sự có xảy ra vụ phóng thử tên lửa mới hay không, và thông tin điện tử thu thập được - cho biết các tên lửa đó có được triển khai trong những khu vực nhất định nào đó hay không, cải tiến kỹ thuật nào mà đối phương đã đưa vào trong nhiệm vụ và cấu trúc các hệ thống điện tử. Ngoài ra, việc trinh sát điện tử này cho phép tái tạo tương đối chính xác hình ảnh hệ phòng thủ của đối phương, và đôi khi thậm chí cho biết cả hướng phát triển chính trị-quân sự của nó. Nói ngắn gọn, có thể hiểu những gì thường được gọi là "mối đe dọa ", đó là tổng số các khả năng và ý định của đối thủ trong bán kính 360 độ xung quanh biên giới của đất nước mình. Từ quan điểm của điện tử học, các mối đe dọa nằm trong các phương pháp thực tại và tiềm năng sử dụng năng lượng điện từ của kẻ thù để điều khiển vũ khí, chỉ huy, kiểm soát quân đội và giám sát không gian chiến trường.
..............
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)


Một chiếc U.S. Air Force Boeing RB-29A Superfortress (s/n 44-61727) thuộc phi đoàn trinh sát chiến lược 91 (the 91st Strategic Reconnaissance Squadron) trên bầu trời Triều Tiên. Chiếc máy bay này bị bắn rơi bởi một chiếc MiG-15, có thể trên không phận Trung quốc hoặc miền cực bắc Triều Tiên vào ngày 4 tháng 7 năm 1952. Phi hành đoàn có 11/13 người bị bắt làm tù binh, 2 người chết.

Thường những nhiệm vụ trinh sát điện tử như vậy, gọi là nhiệm vụ "đánh hơi" (ferret), rất nguy hiểm, vì máy bay hay tàu chiến để thực hiện nhiệm vụ này phải thâm nhập không phận của kẻ thù tiềm năng hoặc lãnh hải của nó. Trên thực tế, nhiệm vụ đó không đơn giản chỉ là thu thập số liệu về radar và các phương tiện liên lạc vô tuyến, mà còn thường là sự “khiêu khích” ("вызовом"), nằm trong việc kiểm tra phản ứng của đối phương trên phương diện thời gian và tính hiệu quả.

Trong nhiệm vụ "đánh hơi" tiêu biểu, máy bay trinh sát điện tử giả làm máy bay ném bom, xuyên vào không phận đối thủ. Nó bay thẳng tới biến giới quốc gia "thù địch" và thường cắt qua đất nước đó. Trường hợp này, nó thường bị phát hiện và bám sát bởi hệ thống radar tầm xa của đất nước trên. Máy bay không hề muốn tránh sự phát hiện dưới bất kỳ hình thức nào, vì các chuyên gia EW cần ghi tần số làm việc và tần số lặp xung của các radar giám sát tầm xa của đối phương và đánh dấu vị trí của chúng trên bản đồ. Ngay sau khi mục tiêu bị phát hiện bởi các radar quan sát hoặc tự động bám sát, các máy bay-chặn kích của đối phương sẽ cất cánh đánh chặn chiếc máy bay xâm nhập. Trong thời điểm đó, kíp lái máy bay-do thám cần phải đo đạc các tham số bức xạ của các radar quan sát, và xác định thời gian trôi qua giữa lúc khóa mục tiêu và khi máy bay đánh chặn cất cánh xuất kích. Nếu các khẩu đội pháo cao xạ của hệ thống PK bật máy tham gia, thì các trắc thủ ELINT của máy bay-do thám cần đo cả các tham số bức xạ của các radar điều khiển xạ kích của chúng. Đôi khi, họ phải quan tâm đến thời gian mà các khẩu đội cần để có thể bắn được loạt đạn đầu, và nếu có thể, đánh giá độ chính xác xạ kích của chúng.

Các thành viên chuyên ngành hẹp của phi hành đoàn, tham gia vào các phi vụ như thế này, là những người rất nhiều kinh nghiệm và kỹ năng, và trên hết, rất can đảm ; trong mỗi chuyến bay của mình, họ đã liều mạng sống của bản thân mình cũng như mạo hiểm khiêu khích những va chạm ngoại giao đặc biệt nghiêm trọng.

Nhưng , bất chấp chuyện đó, các nhiệm vụ trên vẫn được thực thi hàng ngày và không có chính phủ nào thậm chí phản đối. Nguyên tắc bao trùm thời kỳ đó là các hành động đáp trả tương tự ; ăn miếng trả miếng, như thường xảy ra trong quan hệ quốc tế thời bình. Luật duy nhất, không phụ thuộc Bạn làm gì, mà phải làm tốt và không bị thất bại.


Một chiếc Tu-16 trinh sát trên Biển Bắc năm 1968. Máy bay bị tai nạn ngày 28 tháng 5 năm 1968 khi bay trên đầu một biên đội tàu chiến Mỹ do USS Essex dẫn đầu tại vùng biển phía bắc Na Uy.

Máy bay sử dụng cho các chiến dịch như vậy cần phải có tầm bay rất lớn, có thể bay ở độ cao rất cao ngoài vùng diệt mục tiêu của kẻ thù và có tốc độ gây khó dễ cho việc can thiệp của các máy bay-đánh chặn chúng.

Trong những ngày đầu tiên, người Mỹ sử dụng những máy bay ném bom thời Thế chiến II được hoán cải và tái trang bị đặc biệt để thực hiện các hoạt động do thám điện tử. Trong số đó có các B- 24 Liberator và biến thể hải quân của nó - PB4Y2 Privateer. Máy bay ném bom B-29 Superfortress và B-50, được đổi tên, tương ứng, là RB-29 và RB-50 (R - có nghĩa là trinh sát), cũng đôi khi được sử dụng. Ngoài kíp lái chính thức theo biên chế, trên máy bay thường xuyên có một số trắc thủ-khai thác viên thiết bị điện tử, mỗi người trong số đó quan sát một vùng nhất định của phổ điện từ. Sau này, để phục vụ nhiệm vụ "đánh hơi" còn sử dụng máy bay tuần tra hai động cơ của Hải quân Mỹ Lockheed P2V Neptune. Trong thời của mình, Neptune nổi tiếng với chuyến bay có thời gian kỷ lục của nó. Thời gian bay là một đặc tính cơ bản cần được xem xét khi lựa chọn máy bay cho nhiệm vụ này. Thường máy bay do thám phải tuần tra trong khu vực quan sát một thời gian rất dài để phát hiện và ghi nhận các xung bức xạ radar. Với cùng lý do trên, người ta sử dụng cho những nhiệm vụ này các máy bay vận tải C -47 và C-18. Kế thừa Neptune của người Mỹ là P-3C Orion Lockheed - phiên bản quân sự của máy bay vận tải phản lực cánh quạt Electra.

Khi nguy cơ bị tấn công từ máy bay tiêm kích của đối phương là không thể tránh khỏi, Hải quân Mỹ bắt đầu sử dụng máy bay Martin P4M1Q Mercator, được thiết kế đặc biệt cho các chiến dịch cụ thể này. Nó có tầm bay xa tuyệt vời và bốn động cơ, hai trong số đó là phản lực, cho phép tăng tốc độ nhanh và né tránh đòn tấn công khi xuất hiện đột ngột các máy bay tiêm kích của đối phương.

Người Nga, về phần mình, giao nhiệm vụ "đánh hơi" cho những chiếc Tu- 16 (NATO - Badger), lần đầu tiên trình làng năm 1953, và là máy bay ném bom tầm xa, mỗi chiếc mang hai tên lửa không đối đất theo phân loại của NATO là Kennel hoặc AS -1, về sau này được thay thế bằng lớp tương tự Kelt (AS- 5) và Kipper (AS- 2). Biến thể Tu- 16D được sử dụng riêng cho ELINT và dễ dàng nhận ra bởi các bầu che ăng-ten trên thân máy bay. Lúc đầu, máy bay được sử dụng ở Thái Bình Dương để tiến hành giám sát điện tử Hạm đội 7 Mỹ và các căn cứ của nó ở Thái Bình Dương. Căn cứ không quân chính của Tu-16D là ở Petropavlovsk trên bán đảo Kamchatka. Trên khoang mỗi chiếc Tu- 16D, trừ phi hành đoàn ra thì thường xuyên có bảy khai thác viên và sĩ quan radar, tất cả được huấn luyện đặc biệt để tiến hành giám sát điện tử. Về sau, khu vực hoạt động của chúng được mở rộng bao trùm Địa Trung Hải và Biển Bắc.


Máy ghi và phân tích tín hiệu điện báo "Mastab-" R-348 thường dùng trên các tàu trinh sát Liên Xô của Lữ đoàn tàu trinh sát 38 Hạm đội Thái Bình Dương, thời Chiến tranh Lạnh.

Các nhiệm vụ "đánh hơi" của Liên Xô, tất nhiên, cũng tương tự như những nhiệm vụ mà người Mỹ thực hiện. Mỗi điện đài viên có một máy thu để đánh chặn các tín hiệu điện từ trong một dải phổ nhất định, một bộ phân tích xung, một bộ tầm phương vô tuyến để xác định hướng đến của bức xạ, và cuối cùng, rất nhiều máy ghi để ghi chúng. Mỗi điện đài viên khai thác phải quan sát kỹ các phần quang phổ gắn với mình, ghi chú trong nhật ký của mình tất cả các tín hiệu chặn thu được và đánh dấu những thứ đặc biệt đáng quan tâm. Đồng thời các dải tần số được sử dụng phổ biến nhất là L (1-2 GHz) và X (8-12 GHz).

Trong quá trình một nhiệm vụ "đánh hơi" điển hình của Liên Xô ở Thái Bình Dương, máy bay cất cánh từ Petropavlovsk bay về hướng khu vực quy định. Sau đó, các điện đài viên chịu trách nhiệm băng tần số L, bắt đầu phát hiện tín hiệu yếu của radar do thám Mỹ tại quần đảo Aleutian, có nhiệm vụ phát hiện máy bay của kẻ địch tiềm năng ở tầm xa. Tín hiệu âm thanh phát ra trong băng tần L, nghe rất rõ trong các tai nghe của điện đài viên theo âm đặc trưng của xung lặp.

Theo mức độ tiếp tục chuyến bay theo hướng chỉ định, điện đài viên trêm máy bay, có trách nhiệm giám sát dải tần số X, bắt đầu nghe thấy trong tai nghe của mình tín hiệu âm thường xuyên của radar dẫn bắn, thường làm việc trong băng tần này. Điều này có nghĩa là máy bay của Liên Xô đã bị radar Mỹ phát hiện và bám sát như một mục tiêu nguy hiểm tiềm tàng. Nếu tại thời điểm này máy bay không đổi hướng và không ngoặt khỏi căn cứ tên lửa, nó có thể sẽ là một mục tiêu dễ dàng cho tên lửa PK Hawk-Hercules, khi đó là phương tiện chủ yếu của hệ thống phòng không các nước NATO. Do đó, Tu- 16D lượn vòng quay trở lại, mang theo trên khoang máy bay các cuộn băng từ quý giá ghi lại các tín hiệu radar của Mỹ và các thông điệp điện tín vô tuyến giữa các sở chỉ huy của Mỹ, các trung tâm kiểm soát và các căn cứ không quân ở Viễn Đông và trên Thái Bình Dương. Ngay sau khi hạ cánh, các tài liệu này được gửi đến Trung tâm trinh sát tín hiệu Nga, nằm trong một bunker bê tông ẩn trong một khu rừng gần Moscow. Tại đây, các chuyên gia EW phân tích cẩn thận các tín hiệu thu thập được, cố gắng xác định các đặc tính của các radar Mỹ trong khu vực và phát hiện bất kỳ điểm mới nào được thể hiện trong các radar đó.

Các máy bay Liên Xô cũng thực hiện các nhiệm vụ loại này trên các vùng nước bang Alaska, nơi mà khả năng đánh chặn tín hiệu radar của Mỹ cao hơn nhiều do sự hiện diện trong khu vực chuỗi radar giám sát tầm xa, nhiều căn cứ quân sự và một lực lượng lớn không quân, hải quân và lục quân. Đôi khi, trong khu vực này, các máy bay Nga xâm nhập không phận Mỹ trên chiều sâu đến 80 km. Vài năm trước, tại một trong các chuyến bay như thế, hai máy bay Nga bay ở độ cao 11.000 feet với tốc độ hơn 1.040 km/h ở trong vùng trời bang Alaska trong khoảng nửa giờ, nhưng bay ngoài vùng diệt mục tiêu của TLPK Nike. Để ngăn chặn kẻ xâm phạm, người Mỹ cho cất cánh lên không trung bốn chiếc tiêm kích đánh chặn F-102, nhưng khi chỉ vừa nhìn thấy những chiếc F-102, người Nga liền quay lại.

Do thám điện tử, trong đó người Nga vượt trội tất cả, nằm ở sự hiện diện "dai như đỉa" của các con tàu được trang bị đặc biệt và các máy bay trong tất cả các khu vực nơi các đơn vị hải quân lớn NATO tiến hành định kỳ tập trận hải quân, để giám sát hoạt động điện tử của họ. Thông thường, các máy bay Nga bay trực tiếp trên đầu các binh đoàn hải quân NATO, đặc biệt là các tàu sân bay, và các lực lượng NATO không có lựa chọn nào khác là đuổi họ đi với sự trợ giúp của các máy bay tiêm kích.

Người Nga cũng sử dụng một số tàu đánh cá lớn để tiến hành trinh sát điện tử. Thường chúng được triển khai dọc bờ biển Hoa Kỳ. Ngoài sự hiện diện của các lưới đánh cá, các con tàu này có một số lượng lớn máy thu và các ăng-ten đặc biệt, chức năng của nó chẳng để lại bất cứ nghi ngờ nào. Thông thường, các tàu đó triển khai gần các căn cứ tên lửa của NATO, chờ đợi vụ phóng bất kỳ một mẫu tên lửa mới nào. Mục tiêu chính của chúng là gì, điều đó có thể dễ dàng hiểu được căn cứ vào một số lượng lớn các ăng-ten xoắn ốc - loại thích hợp nhất cho chặn thu bức xạ điện từ của các hệ thống dẫn đường tên lửa và radar dẫn bắn.

Vào tháng Tư năm 1960, tàu đánh cá do thám Nga "Vega" tiến hành một cuộc trinh sát điện tử dài ngày ở các vùng nước Long Island, nơi người Mỹ tiến hành các thử nghiệm bay đầu tiên của tên lửa Polaris phóng từ tàu ngầm hạt nhân "George Washington".


Tàu trinh sát cỡ trung "Vega" đang theo dõi tàu sân bay Mỹ trong Chiến tranh Lạnh trên Thái Bình Dương.

Để tiến hành trinh sát điện tử, người Nga cũng sử dụng những tàu hải dương học lớn, được hoán cải đặc biệt. Ngoài các bộ sưu tập dữ liệu hải dương học trong các chuyến đi dài, họ thu thập thông tin liên quan về tác chiến điện tử. Người Mỹ và người Nga sử dụng cho mục đích này cả tàu ngầm, mặc dù nó hoàn toàn không phù hợp cho công việc, đặc biệt vì tàu cần nổi lên để thu thập tín hiệu radar, do đó có nguy cơ bị phát hiện bởi chính các radar trên. Tuy nhiên, hoạt động do thám điện tử của tàu ngầm Nga và Mỹ chắc chắn phải được thực hiện khá mạnh mẽ, vì năm 1961, cả hai bên đều bày tỏ với nhau sự phản đối về mặt ngoại giao do các hoạt động như vậy.

Tuy vậy, không bao giờ, không một máy bay nào của Nga bị bắn rơi trong khi thực hiện nhiệm vụ ELINT, cũng như không có sự cố nghiêm trọng nào xảy ra với các loại phương tiện mang, được người Nga sử dụng để thực hiện các nhiệm vụ đó. Mặt khác, khoảng hai mươi sáu máy bay Mỹ đã bị bắn rơi hoặc buộc phải hạ cánh ở Liên Xô hoặc trong các khu vực khác sau Bức Màn Sắt.

Có hai lý do chính cho sự khác biệt này. Đầu tiên, máy bay Nga hiếm khi thâm nhập đủ sâu vào không phận của đối phương, để không rơi vào khu vực diệt mục tiêu của SAM NATO, trong khi máy bay Mỹ, lại thường xuyên thâm nhập không phận của khối cộng sản và thậm chí bay xuyên qua chúng. Thứ hai, các nước NATO từ chối sử dụng SAM đối với các máy bay chưa xác định được, đặc biệt vì trong thời gian ấy, nhiều phi công các nước cộng sản Đông Âu đã chạy sang phương Tây trên máy bay, do đó rất khó để hiểu viên phi công của một quốc gia Cộng sản thực hiện chuyến bay gián điệp hay đào ngũ để xin tị nạn chính trị.

Ngoài ra, không giống như người Mỹ, người Nga tuân thủ nghiêm ngặt sự im lặng điện đài/radar. Trong khi đó các radar của Mỹ, trên thực tế, làm việc liên tục, còn người Nga, hầu như luôn luôn tắt radar của họ khi phát hiện máy bay do thám Mỹ, vì vậy mà không cho người Mỹ cơ hội đánh chặn bức xạ và tiếp theo là xác định vị trí radar của họ. Chỉ khi một máy bay nước ngoài bị nghi ngờ xâm nhập không phận đất nước cộng sản, nghĩa là phát sinh nguy cơ một cuộc tấn công, người Nga mới bật radar. Chính vì lý do này, các phi công Mỹ, đang thực hiện nhiệm vụ ELINT, bao gồm cả việc thâm nhập không phận quốc gia cộng sản, được lệnh mô phỏng một cuộc tấn công thực sự để buộc các trắc thủ radar mở máy. Chỉ bằng cách sử dụng thủ thuật này, máy bay Mỹ có thể đánh chặn và ghi lại các đặc điểm của radar và phương tiện liên lạc vô tuyến của quốc gia cộng sản. Thật không may, việc sử dụng chiến thuật như vậy rất nguy hiểm và khiêu khích hệ thống phòng không bước vào thực sự tác chiến.
..........
 

zonet

Xe tăng
Biển số
OF-586
Ngày cấp bằng
1/7/06
Số km
1,266
Động cơ
589,859 Mã lực
Em bắt đầu nghe về cái này từ phim 007 golden eye.

Đang đợi cụ nói về các kỹ thuật hiện đại chứ toàn thế chiến 1, 2 nghe cũ quá
 
Biển số
OF-294759
Ngày cấp bằng
3/10/13
Số km
1,385
Động cơ
-8,704 Mã lực
Em bắt đầu nghe về cái này từ phim 007 golden eye.

Đang đợi cụ nói về các kỹ thuật hiện đại chứ toàn thế chiến 1, 2 nghe cũ quá
Muốn lên được ngọn cây bác phải leo lên từ gốc chứ.
 

Tuan Can

Xe container
Biển số
OF-162235
Ngày cấp bằng
23/10/12
Số km
7,966
Động cơ
423,611 Mã lực
Nơi ở
Linh Đàm, Hà Nội
Em đánh dấu. Tối đọc.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top